Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng đối với các DNVVN tại chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.38 KB, 45 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368

Lời nói đầu
Với nền kinh tế Việt Nam cũng như nền kinh tế các nước trên thế
giới, doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) đang ngày càng khẳng định
vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế - xã hội. Theo thống kê,
đội ngũ này chiếm tới 96% tổng số doanh nghiệp trong cả nước, đóng
góp 30% GDP và thu hút được một lực lượng lao động đáng kể, tạo
nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác những
tiềm năng trong dân chúng. Tuy nhiên, các DNVVN vẫn phải đối mặt
với nhiều khó khăn, vướng mắc cần giải quyết. Một trong những khó
khăn lớn nhất đó là vốn.
Để thành lập và đi vào sản xuất kinh doanh các DN nói chung,
DNVVN nói riêng cần có một lượng vốn nhất định. Nguồn vốn này có
thể được hình thành bằng nhiều cách, như: huy động nguồn vốn nhàn
rỗi của bạn bè, của gia đình. Nhưng có một nguồn vốn mà bất cứ một
DN nào cũng muốn tiếp cận, đó là vốn vay của các NHTM. Các
NHTM có thể cung cấp cho các DN một lượng vốn lớn, rẻ và quan
trọng là họ có thể đáp ứng ngay khi các DN có nhu cầu và có đủ điều
kiện cho vay Các NHTM có vai trò hêt sức quan trọng trong việc đáp
ứng nhu cầu về vốn của các DNVVN. Nhưng bên cạnh việc ngân hàng
cho các DN vay ngày càng tăng là việc nâng cao chất lượng của các
khoản vay để công tác tín dụng tại ngân hàng ngày một hiệu quả.
Nhận thức được vai trò quan trọng của tín dụng đối với các
DNVVN và sau một thời gian thực tập, khảo sát thực tế tình hình cho
vay của ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội,
em đã mạnh dạn chọn đề tài cho chuyên đề của mình là “Nâng cao
chất lượng tín dụng đối với các DNVVN tại chi nhánh ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội ”.

1


Website: Email : Tel : 0918.775.368

* Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Tìm hiểu “Thế nào là chất lượng tín dụng và những nhân tố ảnh
hưởng đến chất lượng tín dụng của NHTM” và đặc biệt là “Chất lượng
tín dụng khi cho vay đối với DNVVN”.
- Tìm hiểu thực trạng chất lượng tín dụng của DNVVN tại ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội.
- Đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội.
* Phương pháp nghiên cứu:
- Đề tài sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh và đặc biệt
sử dụng nhiều lý luận và chính sách Marketing, quản trị trong Ngân
hàng để rút ra kết luận và những đề xuất chủ yếu.
* Nội dung nghiên cứu:
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ của NHTM
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với các DNVVN
tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các
DNVVN tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà
Nội.

2
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Chương I: Chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ của Ngân hàng thương mại
1.1- Doanh nghiệp vừa và nhỏ - Một loại hình doanh nghiệp quan

trọng
1.1.1- Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc gần đây đã khẳng định: Phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) là một nhiệm vụ quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nước. Nhà nước ta khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho
DNVVN phát huy tính chủ động sáng tạo vốn có, nâng cao năng lực
quản lý, phát triển khoa học công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các
mối liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh
doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường, tạo việc làm và nâng cao
đời sống cho người lao động.
Trên thế giới có rất nhiều quan điểm cũng như tiêu thức khác nhau dể
định nghĩa và phân biệt DNVVN với các loại hình doanh nghiệp khác. Trong
đó có hai tiêu thức được sử dụng phổ biến nhất là: tổng số vốn sản xuất kinh
doanh và số lượng lao động của doanh nghiệp (DN).
Đối với Việt Nam, văn bản đầu tiên đưa ra tiêu chí xác định DNVVN là
công văn số 681/CP-KTN ban hành ngày 20/06/1998. Theo đó, DNVVN được
tạm thời quy định là “Những DN có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao
động trung bình hàng năm dưới 200 người”. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển
chung của nền kinh tế đất nước, các DN mới ra đời ngày một nhiều, có không
ít DN có số vốn vượt quá 5 tỷ đồng nhưng vẫn chưa đủ mạnh để được coi là

3
Website: Email : Tel : 0918.775.368

một DN lớn. Để đáp ứng được đòi hỏi của thực tế, ngày 23/11/2003, Chính
phủ đã ban hành Nghị định 90/NĐ-CP đưa ra tiêu chí mới để xác định
DNVVN của Việt Nam. Theo Nghị đinh:
“Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã
đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không

quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300
người”.
Vì tình hình kinh tế của mỗi địa phương là khác nhau nên trong
khi phân loại các DN có thể áp dụng cả hai chỉ tiêu hoặc chỉ sử dụng
một trong hai chỉ tiêu vốn và số lượng lao động để xếp loại và có
những định hướng cũng như các chính sách hỗ trợ.
1.1.2- Đặc điểm của DNVVN ở Việt Nam
Theo số liệu của Chi cục Thống kê TP Hà Nội, đến hết năm
2001, về mặt số lượng các DNVVN trên địa bàn chiếm tuyệt đại đa số
trong tổng số DN của thủ đô (Số DN có dưới 500 lao động chiếm
96%, số DN có vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm 85%). Phần lớn các
DNVVN nằm trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và hoạt động
chủ yếu trong lĩnh vực thương mại (khoảng 50%) và công nghiệp
(khoảng 22-24%) tiếp theo là xây dựng, kinh doanh khách sạn nhà
hàng…Với số lượng đông đảo như trên, các DNVVN có một số đặc
điểm nổi bật như sau:
a, Chủ doanh nghiệp có trình độ chưa cao nên khả năng quản lý, điều
hành hoạt động sản xuất, kinh doanh thấp.
Theo số liệu thống kê, chủ các DNVVN thường chỉ có trình độ
học vấn dưới đại học, rất hiếm người học đại học hoặc trên đại học vì
vậy những kiến thức về thị trường cũng như hiểu biết về các quy luật
kinh tế, các quy định của pháp luật còn nhiều hạn chế. Do những hạn

4
Website: Email : Tel : 0918.775.368

chế về kiến thức nói trên mà các ông chủ này gặp rất nhiều khó khăn
trong việc lập kế hoạch sản xuất, phân phối, tiêu thụ hàng hoá cũng
như nắm bắt các công nghệ hiện đại và có kế hoạch lâu dài nhằm mang
lại lợi nhuận cho DN cũng như sự phát triển ổn định cho nền kinh tế.

b, DNVVN có quy mô hoạt động nhỏ bé
Do nguồn vốn tự có ban đầu nhỏ bé lại thêm khó khăn trong việc
tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng
nên quy mô hoạt động của các DN này ngay từ đầu đã rất nhỏ bé, mang
tính tự phát. Hơn nữa, trong quá trình hoạt động, các DNVVN ít khi
tiếp cận được những khách hàng lớn và những nguồn vốn rẻ nên cơ hội
để mở rộng quy mô sản xuất là rất hiếm hoi. Vì vậy, muốn mở rộng
quy mô cho các DNVVN nhà nước và đặc biệt là các NHTM có những
chính sách ưu đãi đối với họ.
c, Sức cạnh tranh của các DNVVN thấp, chịu nhiều ảnh hưởng của môi
trường kinh doanh bên ngoài.
Do nguồn vốn có hạn, quy mô sản xuất nhỏ bé, công nghệ lạc
hậu nên các sản phẩm làm ra có sức cạnh tranh thấp hơn so với sản
phẩm của các DN lớn, doanh nghiệp quốc doanh và đặc biệt là các
doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Thêm nữa, do sức cạnh tranh
thấp nên các DNVVN ít có khả năng chống lại những biến động lớn
của thị trường, và thường thì các DN này hay gặp rủi ro khi có những
biến động bất lợi của thị trường.
1.1.3- Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế
1.1.3.1- Tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động
Mục đích chính của các nhà doanh nghiệp là lợi ích kinh tế mà họ
thu được. Nhưng vô hình chung, sự ra đời của các DN lại giải quyết
vấn đề việc làm cho không ít người lao động. ở Việt Nam hàng năm có

5
Website: Email : Tel : 0918.775.368

khoảng 16 triệu người đến độ tuổi lao động, ngoài ra còn một số lượng
lớn những người bán thất nghiệp ở nông thôn và thành thị. Với nhu cầu
về việc làm lớn như vậy, chỉ các DN lớn hay các DNNN không thể đáp

ứng nổi. Các DNVVN ra đời đã phần nào giảm bớt gánh nặng thất
nghiệp cho xã hội. Vì hoạt động trong nhiều lĩnh vực nên các DN này
có thể sử dụng người lao động ở mọi trình độ, vì vậy những người có
trình độ chuyên môn không cao vẫn có thể tìm được việc làm thích hợp
với khả năng của mình. Theo số liệu của bộ lao động thương binh và xã
hội, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị đã giảm từ 13% năm 1989
xuống còn 6,2% năm 1994 và hàng năm có khoảng gần 1 triệu lao
động tìm được việc làm trong các DNVVN.
1.1.3.2- Góp phần to lớn vào tốc độ tăng trưởng kinh tế
Từ khi ra đời các DNVVN đã khai thác và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực kinh tế tiềm ẩn trong dân cư, hoạt động của các DNVVN thực sự đã
góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Theo số liệu thống kê của Bộ kế hoạch và đầu tư, mỗi năm các DNVVN Việt
Nam tạo ra khoảng 25-26% GDP của cả nước, 31% giá trị tổng sản lượng
công nghiệp, 64% tổng khối lượng luân chuyển hàng hoá. Bên cạnh đó, các
DNVVN còn giữ một vai trò quan trọng trong việc giữ gìn và phát triển những
làng nghề truyền thống nhằm giữ được những nét văn hoá Việt Nam trong tiến
trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
1.1.3.3- Sự có mặt của các DNVVN làm tăng tính năng động, đa dạng
cho nền kinh tế
Với đặc trưng về nguồn vốn và quy mô hoạt động, các DNVVN có khả
năng nhanh chóng chuyển đổi mặt hàng kinh doanh, chuyển hướng sản xuất
và đổi mới công nghệ…cho phù hợp với sự biến động của môi trường kinh
doanh. Như vậy, vô hình chung các DNVVN đã làm cho nền kinh tế trở nên

6
Website: Email : Tel : 0918.775.368

năng động hơn. Thực tế cho thấy, tốc độ gia tăng các DNVVN lớn hơn rất
nhiều so với các DN lớn và đương nhiên khi có càng nhiều doanh nghiệp ra

đời thì tính cạnh tranh của thị trường càng được tăng lên. Một thị trường có
tính cạnh tranh cao sẽ thúc đẩy các DN tự hoàn thiện và nâng cao vị thế của
mình. Và với vai trò là các đơn vị vệ tinh cho các DN lớn, DN quốc doanh các
DNVVN cũng góp phần không nhỏ vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho
phù hợp với định hướng phát triển của từng giai đoạn.
1.1.3.4- DNVVN phát triển góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà
nước
Đóng thuế là trách nhiệm của mọi công dân, mọi tổ chức, và như
chúng ta đã biết thuế là nguồn thu chính của ngân sách nhà nước. Đây
chính là nguồn chi trả cho lợi ích chung của xã hội. Do đó, sản xuất
kinh doanh phát triển tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Trong
những năm vừa qua, do có sự quan tâm tạo diều kiện của nhà nước và
với khả năng sáng tạo của mình các DNVVN đã từng bước khẳng định
vị trí của mình. Hàng năm khu vực này đã đóng góp trên 30% ngân
sách nhà nước, góp phần giảm sự mất cân đối của cán cân ngân sách,
phát huy vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước.
1.1.4- Nhu cầu về vốn của các DNVVN
Vốn có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh
doanh. Ngay từ khi mới thành lập một doanh nghiệp, một công ty hay
bất kỳ một loại hình kinh tế nào khác cũng cần phải có một số vốn nhất
định. Trong mọi DN, vốn đều bao gồm hai bộ phận: Vốn chủ sở hữu và
nợ.Vốn chủ sở hữu của DN bao gồm vốn góp ban đầu, nguồn vốn từ
lợi nhuận không chia và phát hành cổ phiếu. Nguồn vốn còn lại được
hình thành từ các khoản vay ngân hàng, phát hành trái phiếu công ty.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh thì tình trạng thừa thiếu vốn

7
Website: Email : Tel : 0918.775.368

luôn là điều không thể tránh khỏi đối với một doanh nghiệp. Để giải

quyết sự thiếu hụt vốn, trước hết, bản thân doanh nghiệp huy động vốn
trên thị trường thông qua con đường phát hành cổ phiếu, trái phiếu đòi
hỏi doanh nghiệp phải có qui mô lớn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả
và có uy tín trên thị trường, hơn nữa phải có một thị trường vốn hoàn
chỉnh với một hệ thống tổ chức tài chính trung gian đủ mạnh có khả
năng đảm đương việc bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu của công
ty và nó còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí thói quen kinh
doanh và sự sôi động của thị trường thứ cấp.
ở nước ta hiện nay, phát hành cổ phiếu, trái phiếu công ty ra ngoài
thị trường vẫn là một cái gì đó chưa được nhiều người biết đến, việc
phát hành cổ phiếu mới chỉ dừng lại trong nội bộ một số công ty cổ
phần. Mặc dù thị trường chứng khoán Việt Nam đã hình thành nhưng
hoạt động còn mang tính hình thức, chưa thu hút được đông đảo các
công ty tham gia, và quan trọng hơn nhất là hệ thống văn bản pháp luật
về vấn đề này còn chưa hoàn chỉnh, gây khó khăn cho các đơn vị muốn
tham gia niêm yết. Vì những lý do nói trên mà việc huy động vốn qua
phát hành cổ phiếu là rất khó đối với các DN Việt Nam nói chung,
DNVVN nói riêng.
Chính vì lẽ đó, đối với các DNVVN tín dụng Ngân hàng luôn được coi
là một điểm tựa vững chắc về vốn.
1.2- Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1- Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Trong cuộc sống có nhiều hình thức quan hệ tín dụng, như: Tín
dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng tiêu
dùng, tín dụng quốc tế…Trong đó, tín dụng ngân hàng là hình thức tín

8
Website: Email : Tel : 0918.775.368

dụng phổ biến và có vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế. Đồng

thời, nó cũng giữ vị trí chủ chốt trong hoạt động của mỗi ngân hàng.
Chúng ta có thể nói: “Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng
bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng - một tổ chức chuyên kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ - với một bên là các tổ chức, cá nhân trong
xã hội, trong đó ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho
vay”
Nói đến tín dụng ngân hàng ta vẫn cho rằng nó bao gồm cả hoạt
động “đi vay” và hoạt động “cho vay” của ngân hàng .Tuy nhiên, trên
thực tế, do tính chất phức tạp của hoạt động ngân hàng mà các nhà
quản lý đã tách riêng hoạt động nhận tiền gửi và hoạt động cho vay, do
hai bộ phận chuyên môn độc lập nhau đảm nhận: bộ phận Nguồn vốn
và bộ phận Tín dụng. Hoạt động nhận tiền gửi không được gọi là hoạt
động tín dụng mà là hoạt động “huy động vốn” do bộ phận Nguồn vốn
thực hiện. Bộ phận tín dụng chuyên làm nhiệm vụ cho vay. Như vậy
định nghĩa: "Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn bằng tiền tệ,
trong đó ngân hàng là người cho vay, còn người đi vay là các tổ chức,
cá nhân trong xã hội, trên nguyên tắc người đi vay sẽ hoàn trả cả vốn
lẫn lãi vào một thời điểm xác định trong tương lai như hai bên đã
thoả thuận" sẽ phù hợp với hoạt động thực tế của các ngân hàng .
1.2.2- Bản chất của tín dụng ngân hàng
“Bản chất của tín dụng ngân hàng là sự vận động của vốn tiền tệ
thông qua các ngân hàng”. Ngân hàng bằng các nghiệp vụ và các hình
thức huy động vốn khác nhau huy động lượng tiền nhàn rỗi trong lưu
thông, tạo thành nguồn vốn lớn. Đồng thời, ngân hàng sử dụng chính
nguồn vốn này để đem cho vay với lãi suất lớn hơn lãi suất tiền gửi. Là
trung gian nên ngân hàng là cầu nối giữa người có vốn và người cần

9
Website: Email : Tel : 0918.775.368


vốn hay nói cách khác việc sử dụng nguồn vốn trong các doanh nghiệp
nói riêng và trong nền kinh tế nói chung được ngân hàng điều hoà sao
cho phù hợp và đạt hiệu quả cao. Như vậy, ngân hàng bằng hoạt động
của mình đã góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong xã
hội, thông qua chức năng tạo tiền ngân hàng có thể nhận nguồn tiền gửi
tăng trưởng theo bội số tạo tiền. Qua đó, ngân hàng sẽ được hưởng
phần chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động.
1.2.3- Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNVVN
1.2.3.1- Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn hợp lý
cho DNVVN
Nguồn vốn của một DN luôn bao gồm hai phần: Vốn tự có và vốn
vay. Sự kết hợp nhất định giữa hai nguồn này chỉ ra chi phí vốn tối ưu
cho doanh nghiệp. Cơ cấu vốn tối ưu là sự kết hợp hợp lý nhất các
nguồn tài trợ cho kinh doanh của một doanh nghiệp nhằm mục đích tối
đa hoá giá trị thị trường của doanh nghiệp tại mức giá vốn bình quân rẻ
nhất. Cơ cấu vốn tối ưu cần đạt được sự cân bằng giữa rủi ro và lợi
nhuận. Nếu tỷ lệ vốn của chủ lớn thì mức độ rủi ro của DN thấp nhưng
kéo theo mức lợi nhuận thu được cũng thấp do vốn chủ sở hữu thường
là nhỏ bé trong khi nhu cầu vốn của DN là rất lớn, vì vậy để đáp ứng
được nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như mong muốn
tăng nguồn lợi thu được, các DN phải tiếp cận với nguồn vốn vay.
Nhưng nếu vốn vay quá lớn thì chi phí vốn sẽ tăng, kéo theo giá
thành tăng và đương nhiên lợi nhuận thu được sẽ giảm, đồng thời khả
năng thanh toán của DN giảm, rủi ro dẫn tới nguy cơ phá sản tăng. Do
đó, tỷ lệ vốn vay càng lớn, doanh nghiệp càng phải chịu sự kiểm soát
sát sao và các điều kiện vay vốn chặt chẽ của ngân hàng. Vì thế các
ngân hàng và các DN phải cân nhắc trong việc quyết định tỷ trọng

10
Website: Email : Tel : 0918.775.368


giữa vốn vay và vốn chủ trong cơ cấu vốn sao cho hợp lý để vừa đáp
ứng được nhu cầu về vốn, vừa đảm bảo được nguồn thu và mang lại sự
an toàn cho hoạt động kinh doanh.
1.2.3.2- Tín dụng ngân hàng tác động vào xu thế chuyển dịch cơ cấu
sản xuất của DNVVN
Nhà nước ta đang có chủ trương chuyển dịch cơ cấu các ngành
kinh tế theo hướng nâng cao tỉ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ
trong tổng thu nhập quốc nội. Như vậy các DN hoạt động trong các
lĩnh vực nãy sẽ được hưởng sự ưu đãi khi muốn quan hệ với các
NHTM. Cụ thể như khi muốn lập hồ sơ vay vốn, các DN này được sự
ủng hộ của chính quyền địa phương nên thủ tục giấy tờ được giải quyết
nhanh chóng, về phía ngân hàng sẽ có những chính sách ưu đãi về lãi
suất, về xét duyệt hạn mức tín dụng, điều kiện cho vay cũng dễ dàng
hơn các DN khác…
1.2.3.3- Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho DNVVN mở rộng sản
xuất
Ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động của mình thông qua việc
huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong toàn bộ nền kinh tế để tài trợ cho
các thành phần kinh tế nói chung và DNVVN nói riêng. Để đảm bảo
cho các DNVVN không chỉ duy trì sản xuất mà còn mở rộng tái sản
xuất, tín dụng ngân hàng tài trợ vốn cho DN không chỉ với các khoản
vay ngắn hạn mà còn có trung và dài hạn. Muốn mở rộng sản xuất kinh
doanh, ngoài thị trường tiềm năng trong nước các DN còn phải chú
trọng tới thị trường nước ngoài. Tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp
vụ bảo lãnh, tài trợ cho nghiệp vụ xuất nhập khẩu giúp cho DN đạt
được mục đích này. Nói chung với các nghiệp vụ của mình ngân hàng

11
Website: Email : Tel : 0918.775.368


đã giúp các DN nói chung và DNVVN nói riêng mở rộng được thị
phần của mình, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.2.3.4- Tín dụng ngân hàng giúp các DNVVN sử dụng đồng vốn tiết
kiệm và có hiệu quả
Nhằm giảm thiểu rủi ro cho hoạt động của mình, các ngân hàng
không chỉ tiến hành thẩm đinh, phân tích rồi giải ngân mà còn có nhiều
biện pháp kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của DN và tình hình
sử dụng vốn vay của họ. Do đó, không chỉ thu hồi vốn là đủ mà các
DN còn phải tìm kiếm các biện pháp sử dụng vốn có hiệu quả, tiết
kiệm, tăng nhanh vòng quay của vốn đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn
lãi suất của ngân hàng thì DN mới trả được nợ và kinh doanh có lãi.
Hơn nữa, bằng việc kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, giám
sát chặt chẽ tiến độ và mục đích sử dụng vốn của DN ngân hàng không
chỉ kiểm soát được đồng vốn của mình mà còn đưa ra những tư vấn,
giúp đỡ trong phạm vi cho phép giúp DN tháo gỡ khó khăn trước mắt
và gây dựng được mối quan hệ lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng.
1.2.4- Các hình thức tín dụng ngân hàng
Có nhiều tiêu thức để có thể phân loại các hình thức tín dụng ngân
hàng, tuy nhiên dưới đây chúng ta chỉ đề cập đến mấy tiêu thức chính
như sau:
1.2.4.1- Phân loại theo mục đích vay vốn
Dựa vào căn cứ này cho vay thường được chia ra làm các loại:
- Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm
và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh
vực công nghiệp, thương mại và dich vụ.

12
Website: Email : Tel : 0918.775.368


- Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để
bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công
nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản
xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia
súc…
- Cho vay các định chế tài chính: bao gồm cấp tín dụng cho các
ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty
bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài chính khác.
- Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng
như mua sắm các vât dụng đắt tiền, và các khoản cho vay để
trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát
hành thẻ tín dụng.
1.2.4.2- Phân loại theo thời hạn cho vay
Theo căn cứ này cho vay được chia làm 3 loại sau:
- Cho vay ngắn hạn : Loại cho vay này có thời hạn đến 12 tháng và
được sủ dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh
nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các cá nhân
- Cho vay trung hạn : theo quy định hiện nay của ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn trên 12 tháng đến
5 năm.Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua
sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở
rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô
nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Ngoài ra nguồn vốn trung
hạn này còn được các doanh nghiệp dùng để đổi mới sản phẩm
- Cho vay dài hạn : Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời
gian tối đa có thể lên đến 20-30 năm, một số trường hợp cá biệt

13
Website: Email : Tel : 0918.775.368


có thể lên tới 40 năm. Tín dụng dài hạn được cung cấp để đáp
ứng các nhu cầu về xây dựng cơ bản.
1.2.4.3- Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Theo căn cứ này, cho vay được chia làm hai loại chính, đó là:
- Cho vay không bảo đảm : Là loại cho vay không có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay
chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách
hàng tốt, có khả năng tài chính mạnh ngân hàng có thể cung cấp
tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần
một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
- Cho vay có bảo đảm : Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm
như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phảI có sự bảo lãnh của người
thứ ba.
Đối với các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng
khi vay vốn đồi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ
pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho
nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
Trong những năm 90 các ngân hàng chỉ được phép cho vay có
bảo đảm trừ các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có hiệu qủ và
cho vay hộ nông dân, từ 5 triệu đồng trở xuống. Ngày 29/12/1999
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 178/1999/ NĐ-CP về bảo
đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng; theo đó mà việc cho vay
không bảo đảm được mở rộng hơn so với trước đây, cho phép các
tổ chức tín dụng được lựa chọn khách hàng để cho vay không có
bảo đảm, tuy nhiên khách hàng vay không bảo đảm phải hội tụ
đầy đủ những diều kiện sau đây:
+ Có tín nhiệm đối với tổ chức cho vay trong việc sử dụng vốn
vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi


14
Website: Email : Tel : 0918.775.368

+ Có dự án đầu tư, hoặ phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
khả thi có khả năng hoàn trả nợ; hoặc có dự án phương án phục
vụ đới sống khả thi phù hợp với quy định của pháp luật
+ Có khả năng tài chính để thực hịên nghĩa vụ trả nợ
+ Cam kết thực hiện biện pháp đảm bảo bằng tài chính theo yêu
cầu của tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam
kết trong trường hợp đồng tín dụng; cam kết trả nợ trước hạn nếu
không thục hiện được các biện phấp bảo đảm bằng tài sản
Mức vay tối đa không bảo đảm của mỗi loại hình tổ chức tín
dụng do Ngân hàng Nhà nước quy định trong mỗi thời kỳ.
1.2.4.4- Phân loại theo phương pháp hoàn trả
Cho vay của ngân hàng được chia làm hai loại:
- Cho vay có thời hạn: là loại cho vay có thoả thuận thời hạn trả
nợ cụ thể theo hợp đồng. Cho vay có thời hạn bao gồm các loại sau:
 Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể hay còn gọi là cho vay trả
góp: Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãI
theo định kỳ. Loại cho vay này chủ yếu được áp dụng trong cho vay
bất động sản nhà ở thương mại, cho vay tiêu dùng, cho vay đối với
những người kinh doanh nhỏ (cho vay chợ), cho vay để mua sắm
thiềt bị.
 Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ (hay còn gọi là phi trả góp) là
loại cho vay thanh toán một lần theo thời hạn đã thoả thuận.
 Cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể,
mà việc trả nợ phụ thuộc vào khả năng tài chính của người đi vay.
Hoặc cho vay này được áp dụng theo kỹ thuật thấu chi.

15

Website: Email : Tel : 0918.775.368

Đối với loại cho vay có thời hạn khách hàng có thể trả nợ trước
hạn nhưng ngân hàng vẫn có quyền thu lãi toàn bộ kỳ hạn trả nợ
theo hợp đồng, trừ trường hợp có những thoả thuận khác.
- Cho vay không có thời hạn: Đối với loại cho vay không có thời
hạn thì ngân hàng có thể yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ
bất kỳ lúc nào, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, thời gian
này có thể được thoả thuận trong hợp đồng.
1.2.4.5- Phân loại theo xuất xứ tín dụng
Dựa vào căn cứ này, cho vay được chia làm hai loại:
- Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu,
đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc
mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phat sinh và còn trong thời
hạn thanh toán. Các NHTM cho vay gián tiếp theo các loại sau:
 Chiết khấu thương mại (discount): Người hưởng thụ hối phiếu hoặc
lệnh phiếu còn trong thời hạn thanh toán có thể nhượng lại cho ngân
hàng. Trong trường hợp này ngân hàng cấp cho khách hàng một khoản
tiền bằng mệnh giá trừ đi lãi suất chiết khấu và hoa hồng phí. Khi các
chứng từ này đến hạn thanh toán người thụ lệnh hối phiếu hoặc người
phát hành lệnh phiếu có trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng. Cần
lưu ý, trong nghiệp vụ chiết khấu thương mại người được cấp tín dụng
và người chịu trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng là hai người khác
nhau.
 Mua các phiếu bán hàng (dealer paper) tiêu dùng và máy móc nông
nghiệp trả góp.
Do sự tác động của phương thức tiêu thụ hàng hoá gắn phương pháp
tiếp thị mới đã thúc đẩy các NHTM đưa vào áp dụng loại cho vay gián
tiếp. Trong điều kiện hiện nay các DN thương mại đang tìm mọi biện


16
Website: Email : Tel : 0918.775.368

pháp đã cạnh tranh trong việc tiêu thụ hàng hoá, trong đó bán chịu hàn
hoá được coi là biện pháp để mở rộng tiêu thụ hàng hoá có hiệu quả
nhất. Tuy nhiên nguồn vốn của các DN có hạn, vì vậy cần phải có
nguồn tài trợ của ngân hàng thông qua nhượng lại các phiếu bán hàng
trả góp.
Một số điểm cần lưu ý trong việc thực hiện cho vay gián tiếp:
 Trước khi thực hiện hợp đồng mua lại các phiếu bán hàng trả góp,
ngân hàng phải thoả thuận với người bán các điều kiện bắt buộc khi
thực hiện việc bán hàn trả góp và ngân hàng chỉ mua những hồ sơ bán
hàng theo đúng các điều kiện đã thoả thuận.
 Ngân hàng phải giữ lại từ 10% - 30% so với số tiền phải thanh toán
cho người bán và sẽ hoàn lại cho người bán khi người mua thanh toán
hết nợ. Quy định này là cần thiết để nâng cao trách nhiệm của người
bán trong việc giám định các hồ sơ bán chịu.
 Hợp đồng mua lại các phiếu bán hàng trả góp là các hợp đồng được
phép truy đòi, có nghĩa là khi người mua không thanh toán được nợ thì
người bán có trách nhiệm phải thanh toán cho ngân hàng.
 Phần lớn lãi thu được từ khoản tín dụng này ngân hàng được hưởng
và chỉ dành cho người bán một mức hoa hồng nhất định.
 Nghiệp vụ thanh tín (nghiệp vụ factoring): là nghiệp vụ mua các
khoản nợ thương mại (các khoản phải thu), trong đó bên mua (factor)
nhận việc thu nợ và chấp nhận rủi ro tín dụng. Factoring, thực chất là
hình thức tài trợ vốn lưu động cho các DN
1.3- Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với các DNVVN
1.3.1- Khái niệm chất lượng tín dụng ngân hàng đối với DNVVN
Tín dụng là hoạt động truyền thống và là tiền thân của hoạt động ngân

hàng. Đó là hoạt động mang lại những nguồn thu chính cho các NHTM, tuy

17
Website: Email : Tel : 0918.775.368

nhiên theo những số liệu thống kê đây là lĩnh vực ẩn chứa nhiều rủi ro nhất
trng hoạt động của các NHTM. Vậy để đánh giá được hoạt động tín dụng của
một ngân hàng có hiệu quả hay không chúng ta phải tìm hiểu thế nào là chất
lượng của hoạt động tín dụng đó. Chất lượng tín dụng được hiểu theo đúng
nghĩa: Đồng vốn của ngân hàng cho các doanh nghiệp vay phù hợp với khả
năng của ngân hàng, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của địa phương,
và quan trọng là với đồng vốn đó các DN sẽ tiến hành hoạt động kinh doanh
có hiệu quả, thu được lợi nhuận và hoàn trả vốn vay cho ngân hàng cả gốc và
lãi đung thời hạn đã ký trong hợp đồng.
Như vậy, "Chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng yêu
cầu của khách hàng (ở đây là các DNvvN) về vốn vay phù hợp với
định hướng phát triển kinh tế của địa phương cũng như của nhà
nước, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, và thoả mãn
được nhu cầu về vốn của DN cũng như tạo tâm lý thoải mái cho họ
trong và sau khi giao dịch với ngân hàng ".
Theo khái niệm nói trên, chúng ta có thể thấy một khoản vay được
coi là có chất lượng cao khi thoả mãn cả ba đối tượng: ngân hàng,
khách hàng và nền kinh tế.
* Chất lượng tín dụng xét trên giác độ NHTM
Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, giới hạn tín dụng. Lượng
tín dụng mà ngân hàng cung cấp phải phù hợp với khả năng, thực lực
của bản thân ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị
trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng
hoạt động tín dụng thể hiện qua các chỉ tiêu: lợi nhuận hợp lý và gia
tăng, dư nợ, doanh số cho vay, doanh số thu nợ ngày càng tăng trưởng,

tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng quy định và hợp lý, đảm bảo cơ cấu
nguồn vốn giữa ngắn, trung và dài hạn trong nền kinh tếngân hàng

18

×