Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với các DNNQD tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.41 KB, 69 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời cảm ơn
Bước ra một môi trường hoàn toàn khác xa với môi trường đại học để
đến với kì thực tập, được tiếp xúc với môi trường thực tế, bước đầu đã tạo cho
em nhiều bỡ ngỡ nhưng với sự giúp đỡ tận tình của cô giáo- Ths Nguyễn Thị
Thuỳ Dương về mặt nhận thức lí luận cũng như sự giúp đỡ của các cô chú,
anh chị cán bộ Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành về mặt
hiểu biết nghiệp vụ ngân hàng, đã tạo cho em nhiều nhận thức, sự hiểu biết
quan trọng, tự tin bước vào tương lai phía trước của mình. Em xin chân thành
cảm ơn cô giáo cũng như các cô chú, anh chị đã chỉ bảo, đóng góp cho em
hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời mở đầu:
Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới, chuyển từ mô hình kinh tế tập
trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, thực hiện công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.Do vậy, sự ra đời của các Doanh nghiệp ngoài
quốc doanh (DNNQD) như một tất yếu. Từ khi ra đời đến nay, DNNQD đã
đóng góp những thành tựu cho nền kinh tế nước nhà và đang ngày càng khẳng
định vai trò của mình trong việc khai thác hợp lí và có hiệu quả các nguồn lực
trong nước. Tuy vậy, nền kinh tế nước ta còn ở mức kém phát triển, chất
lượng đội ngũ lao động thấp, thị trường tiêu thu và thị trường vốn chưa lớn đã
gây khó khăn lớn cho các DNNQD trong quá trình huy động vốn, cũng như
sử dụng hiệu quả vốn vay, khả năng tiếp cận với nguồn vốn Ngân hàng của
các DNNQD còn gặp nhiều hạn chế. Do vậy, việc nâng cao chất lượng cho
vay các DNNQD là vấn đề được Đảng, Nhà nước cũng như Ngành Ngân hàng
hết sức quan tâm. Qua thực trạng đó và tìm hiểu thực tế hoạt động cho vay tại
Chi nhánh Hà Thành, em đã chọn đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng
cho vay đối với các DNNQD tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Hà Thành” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề có kết cấu gồm 3 phần:


Chương 1:Lí luận chung về hoạt động cho vay đối với DNNQD của Ngân
hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng cho vay đối với DNNQD tại Chi nhánh Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Hà Thành.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với DNNQD tại Chi
nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành.
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI
VỚI CÁC DNNQD CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát về doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
1.1.1 Khái niệm về DNNQD:
Đối với bất kì một quốc gia nào, nền kinh tế cũng không thể thiếu các doanh
nghiệp. Đây là lực lượng tạo ra khối lượng sản phẩm và của cải lớn cho xã
hội. Vậy thế nào là một Doanh nghiệp?
Có thể hiểu Doanh nghiệp là thuật ngữ chỉ các tổ chức kinh tế, được thừa
nhận về mặt pháp lí trên một số tiêu chuẩn nào đó. mỗi doanh nghiệp hoạt
động ở một nghành nghề nhất định nhằm mục đích thu lợi nhuận (gọi là các
doanh nghiệp vị lợi nhuận) hoặc để thu được lợi ích xã hội nào đó (gọi là các
Doanh nghiệp phi lợi nhuận).
Hiện nay, có nhiều loại Doanh nghiệp cùng tồn tại trong một nền kinh
tế. Theo cách phân loại dựa vào hình thức sở hữu của luật Doanh nghiệp số
13/1999/QH10 vào ngày 12-6-1999, các doanh nghiệp gồm có: Doanh nghiệp
Quốc Doanh và Doanh nghiệp ngoài Quốc Doanh.
Trong đó DNNQD là những cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập đã được
đăng kí kinh doanh theo pháp luật hiện hành trong đó vốn góp của nhà nước
không được vượt quá 49% tổng số vốn góp của doanh nghiệp. Tức DNNQD
là những doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của một cá nhân hoặc của một
nhóm người có vốn và tài sản đầu tư vào doanh nghiệp, tự tổ chức hoạt động,
tự chịu trách nhiệm kết quả kinh doanh và chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Theo quy định trên, nền kinh tế nước ta gồm các loại hình DNNQD
như sau:
1.1.1.1 Công ty trách nhiệm hữu hạn: Gồm có hai loại công ty trách nhiệm
hữu hạn như sau:
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: Là doanh nghiệp mà chủ sở
hữu là một tổ chức có tư cách pháp nhân. Tổ chức này phải tự chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong
phạm vi số vốn điều lệ đã được quy định. Các công ty này không được phép
phát hành cổ phiếu để huy động vốn
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên: Là các doanh nghiệp có ít
nhất 2 thành viên, nhiều nhất là 50 thành viên tham gia góp vốn. Các thành
viên phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi vốn góp của mình. Các thành viên khi được chia
lợi nhuận cũng dựa vào tỉ lê vốn góp. Cũng giống công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên, các công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên không
được phép phát hành cổ phiếu để huy động vốn.
1.1.1.2. Doanh nghiệp tư nhân:
Là Doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình về hoạt động của DN cũng như chịu trách nhiệm trước
pháp luật.
1.1.1.3. Công ty hợp danh:
Là những doanh nghiệp được thành lập dựa trên vốn góp của ít nhất
hai thành viên có trình độ chuyên môn và uy tín. Các thành viên hợp danh
này phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với mọi hoạt
động của công ty.
1.1.1.4. Hợp tác xã:
Là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình pháp nhân có
nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra để phát huy sức

mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã.
1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nền kinh tế nước ta trải qua thời kì bao cấp kéo dài, các doanh nghiệp
quốc doanh chỉ mới được ra đời và phát triển hơn 20 năm nay nhưng với
sự đa dạng, linh hoạt trong kinh doanh, tham gia vào nhiều ngành nghề
kinh tế đã khẳng định vai trò của DNNQD đối với sự phát triển của nền
kinh tế:
- DNNQD với việc mở rộng, đa dạng ngành nghề kinh doanh đã tạo ra
lượng công ăn việc làm lớn trong xã hội, khai thác mọi nguồn lực của đất
nước nhất là nguồn lực con người để cùng nhà nước giảm gánh nặng thất
nghiệp cũng như để phân bố lại lực lượng lao động ngày càng hợp lí hơn.
- Trước đây, với sự độc chiếm của DNQD thuộc sở hữu nhà nước đã gây
ra sự trì trệ, kém phát triển của nền kinh tế nước ta. Sự ra đời của các
doanh nghiệp ngoài quốc là giải pháp để bù đắp những thiếu hụt, hạn chế
của các DNNN để lại. DNNQD ra đời sẽ tạo ra lượng hàng hoá, dịch vụ
dồi dào cho xã hội, cung sẽ vượt cầu từ đó người tiêu dùng sẽ lựa chọn sản
phẩm theo nhu cầu của mình, tạo ra sự cạnh tranh lớn giữa DNNQD với
DNNN, cũng như trong nội bộ các DNNQD từ đó chất lượng sản phẩm sẽ
tăng lên,sức cạnh tranh với hàng hoá nước ngoài cũng tăng lên, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế. Mặt khác, các DN sẽ cố gắng huy động hết mọi
nguồn lực của đất nước để tạo nên lợi thế của riêng mình, tăng sức cạnh
tranh để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Thuế TNDN chính là một nguồn thu rất lớn cho ngân sách nhà nước và
các DNNQD hàng năm tạo ra lợi nhuận rất lớn là đối tượng đánh thuế
TNDN quan trọng của nhà nước. Mỗi năm DNNQD đóng khoảng 45%
NSNN, nhà nước sử dụng nguồn thu này để phục vụ cho hoạt động của các
DNNQD nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung: Thông qua việc
nâng cao cơ sở hạ tầng, xây dựng các công trình công cộng, các công trình

5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trọng điểm. Từ đó tạo điều kiện cho mọi ngành, mọi thành phần kinh tế
cùng phát triển.
- Với sự ra đời của các DNNQD thì sự canh tranh giữa các DN ngày càng
lớn bắt buộc các DN phải không ngừng đổi mới công nghệ, ứng dụng
nhanh các thành tựu khoa học kĩ thuật vào sản xuất. Do vậy các DNNQD
là lực lượng đi đầu trong công cuộc dịch chuyển nền kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.1.3. Đặc điểm của DNNQD:
- Tốc độ gia tăng của DNNQD ngày càng nhanh: kể từ sau hội nghị TW
Đảng khoá VI (1986), đất nước ta chuyển từ mô hình kinh tế nhà nước tập
trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì các DNNQD cũng phát triển
ngày càng rầm rộ. Điều này được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Số lượng các DNNQD ở một số năm.:
n
ăm
199
1
1999 2000 2002 2004 2006
Số
lượng
414
30.50
0
44.94
3
54.64
2
82.00

0
105.000
Tốc độ
tăng
trưởng
(%/năm)
21 30 21.8 22 25.5
25.5
( Nguồn: Niên giám thống kê năm 2006)
Rõ ràng các DNNQD ngày càng được tăng lên về số lượng đặc biệt là giai
đoạn sau năm 2000, khi nhà nước đã ban hành luật DN để thay thế cho luật
công ty đã bị lỗi thời. Không chỉ tăng về số lượng mà chất lượng các
DNNQD cũng ngày càng được nâng cao lên. Ban đầu DNNQD chỉ được
thành lập một cách tự phát, chủ yếu là các DN nhỏ lẻ, ít lao động, máy
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
móc thiết bị hết sức thô sơ nhưng hiện nay trước yêu cầu phát triển mới
của đất nước thì chất lượng của DN cũng không ngừng được cải thiện. Các
DN có quy mô ngày càng lớn, làm ăn có chiều sâu, tạo ra nhiều công ăn
việc làm hơn. Chính sự làm ăn có hiệu quả của các DNNQD đã làm thay
đổi tư duy của những con người chèo lái con thuyền kinh tế nước ta, giúp
họ nhận thức nhiệm vụ cấp bách để phát triển nền kinh tế nói riêng và toàn
bộ đất nước nói chung là phải tiến hành cổ phần hoá (CPH) các DNNN, trở
thành các DN, các công ty cổ phần làm ăn có hiệu quả hơn. Hiện nay,
chúng ta đã CPH được 4000 DNNN. Số lượng DNNN được CPH chưa
nhiều song là tiền đề để chúng ta hoàn thành tốt công cuộc CPH.
- Các DNNQD tuy đã được nhà nước khuyến khích thành lập và phát triển
nhưng trong quá trình phát triển của mình vẫn chịu nhiều khó khăn, thiệt
thòi. Nhà nước đặc bịêt ưu ái đối với các DNNN, các ngành nghề kinh tế
quan trọng đều bị các DNNN độc quyền, các DNNQD không thể chen

chân với những ngành nghề nhiều lợi nhuận như ngành điện, ngành dầu
khí, ngành viễn thông... Mặt khác, các chính sách của nhà nước cũng thiếu
đồng bộ, chưa đầy đủ để các DNNQD yên tâm đầu tư phát triển, giảm
thiểu rủi ro. Đặc biệt tệ quan liêu, hạch sách của các cơ quan quản lí kinh
tế đã gây ra nhiều khó khăn trong việc đăng kí thành lập, trong hoạt động
kinh tế làm cho các DNNQD bỏ lỡ rất nhiều cơ hội đầu tư.Chính những
điều đó đã làm tăng chi phí sản xuất dẫn đến tăng giá bán sản phẩm, khả
năng cạnh tranh của các DNNQD giảm xuống. Thực tế đã có nhiều
DNNQD chỉ vì những văn bản pháp lí rắc rối, thiếu hợp lí làm quá trình
kinh doanh trì trệ, làm ăn kém hiệu quả và dẫn đến phá sản.
- Các DNNQD có điểm khác biệt đối với các DNNN đó là có số lượng lao
động ít hơn nhiều. Do các DNNQD chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực
thương mại và dịch vụ. Nên các DNNQD có số lượng lao động là không
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhiều. Theo thống kê chỉ có khoảng 1020 DN có số lượng lao động trên
100 người, số lao động bình quân của DNNQD năm 2005 chỉ là 28 lao
động. Đây là vấn đề mà nhà nước cần quan tâm vì các DNNQD là bộ phận
quan trọng để giảm bớt gánh nặng về thất nghiệp cho nhà nước. Do đó cần
thiết phải mở rộng quy mô cho các DNNQD để thu hút được nhiều lao
động hơn nữa. Một điểm cần chú ý nữa là chất lượng lao động của các
DNNQD. Thực tế cho thấy đa số sinh viên có trình độ ra trường muốn vào
các DNNN để có một việc làm ổn định, được hưởng các chế độ bảo hiểm...
Do vậy chất lượng lao động tại các DNNQD vẫn còn thấp, đòi hỏi phải có
các giải pháp cho vấn đề thu hút nguồn nhân lực có chất lượng vào các DN
này.
- Các DNNQD ngày càng tăng lên cả về số lượng và chất lượng, nhưng
quy mô tài chính của các DN còn rất nhỏ. Cụ thể chỉ có khoảng 30% DN
có số vốn trên 10 tỷ đồng, còn lại là DN có số vốn dưới 10 tỷ đồng, bình
quân một DNNQD có số vốn 7 tỷ/ DN, chiếm 26% về vốn và hơn 20%

TSCĐ trong các DN. Điều này cho thấy DNNQD ở nước ta chủ yếu là các
DN vừa và nhỏ, lượng vốn tự có của các DN chỉ đáp ứng được khoảng
35% yêu cầu đặt ra. Với quy mô tài chính nhỏ bé sẽ giúp các DNNQD dễ
dàng thích nghi với sự biến động của thị trường, giúp dễ dàng thay đổi
ngành nghề kinh doanh để đáp ứng thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng,
tăng được khả năng cạnh tranh trong mọi diễn biến của nền kinh tế trong
nước và trên thế giới. Song quy mô nhỏ đã làm cho DNNQD gặp rất nhiều
khó khăn. Thứ nhất là, khả năng đổi mới công nghệ, đào tạo nhân công,
mở rộng sản xuất là rất khó do công nghệ chủ yếu là công nghệ cũ, lạc hậu,
máy sử dụng có tuổi đời cao (trên 20 năm). Theo thống kê của viện quản lí
kinh doanh trung ương năm 2003 chỉ có 25% DN sử dụng công nghệ
tương đối hiện đại, 36.5% DN sử dụng kết hợp công nghệ cổ truyền và
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hiện đại, còn lại sử dụng công nghệ cổ truyền. Qua đây cho thấy năng suất
lao động và chất lượng sản phẩm của các DNNQD là chưa cao, đòi hỏi
trong tương lai gần phải cải tổ lại một cách toàn diện, sâu sắc. Thứ hai là,
khả năng huy động được nguồn vốn tín dụng từ các NHTM là rất nhỏ, chỉ
nhận được khoảng 32% tổng mức tín dụng của các NHTM. Từ đó sẽ khó
cạnh tranh được với DNNN có quy mô tài chính lớn hơn nhiều.
- Một khó khăn của DNNQD đó là thị trường tiêu thụ còn hết sức nhỏ bé,
một mặt là do chất lượng sản phẩm sản xuất ra còn thấp trong khi giá bán
lại cao để bù đắp chi phí cao, mặt khác là do hàng nhập lậu, hàng ngoại
nhập tràn lan với giá rẻ và DNNQD chưa có điều kiện để mở rộng thị
trường trong nước và quốc tế do vậy khả năng hiểu luật kinh doanh và luật
kinh doanh quốc tế còn nhiều hạn chế, dễ bị nuốt chửng và bị thâu tóm bởi
các DN mạnh, DN nước ngoài. Thực tế cho thấy, các DNNQD khó bán sản
phẩm của mình, hàng tồn kho, hàng ế là rất nhiều làm khả năng quay vòng
vốn sản xuất là rất chậm, thu không đủ bù chi dẫn đến khả năng phá sản là
rất lớn đặc biệt là các DNNQD mới được thành lập, DN kinh doanh trong

những lĩnh vực không được coi là truyền thống.
1.2. Khái quát về hoạt động cho vay của NHTM đối với các DNNQD:
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm hoạt động cho vay của NHTM:
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới nhu cầu về các dịch vụ
thanh toán, nhu cầu về vốn càng lớn cần thiết phải có một trung gian tài
chính vừa làm nhiệm vụ nhận tiền của khách hàng này cho khách hàng
khác vay và cung cấp các dịch vụ tiện ích cho hoạt động thanh toán. Ngân
hàng thương mại đã được ra đời để đáp ững những nhu cầu đó.
Như vậy, NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ và hoạt động chủ yếu
thường xuyên là huy động tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sau đó sử dụng số tiền huy động được để cho vay, thanh toán ... nhằm mục
đích sinh lời.
Qua đây ta thấy hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận
cho các NHTM. Trong đó theo hình thức tín dụng thì tín dụng được chia
thành các loại như: cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính... mà hoạt động
cho vay là chủ yếu.
1.2.1.1. Khái niệm hoạt động cho vay của NHTM:
Cho vay là giao dịch bằng tiền giữa NHTM với bên đi vay (cá nhân ,
doanh nghiệp...) thông qua một bản hợp đồng cho vay. Theo đó, NHTM
phải chuyển số tiền nhất định trong một khoảng thời gian nhất định cho
bên đi vay. Bên đi vay khi đã đến hạn kí kết thì phải trả cả gốc và lãi cho
NHTM.
1.2.1.2. Đặc điểm hoạt động cho vay của NHTM:
- Cho vay dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau: Bên đi vay tin tưởng NHTM sẽ
cho vay đúng thời hạn, kịp thời để dễ dàng tìm kiếm cơ hội đầu tư. Bên
NH hy vọng bên đi vay sẽ trả đầy đủ cả gốc và lãi khi đến hạn để dảm bảo
việc quay vòng vốn, trả các nguồn huy động đến hạn.
- Cho vay dựa trên ngyên tắc hoàn trả: NH và khách hàng kí cam kết đến

thời hạn nhất định nào đó sẽ thanh toán đầy đủ cho nhau. Có nguyên tắc
này vì vốn để cho vay của NH chủ yếu là vốn huy động từ các nguồn khác
nhau ( tiền gửi của những người thừa vốn, đi vay...) nên trong một thời
gian nhất định NH sẽ phải trả các nguồn huy động này. NH phải xem xét
rất kĩ kì hạn huy động vốn vá kì hạn cho vay thì mới đảm bảo an toàn cho
hoạt động cho vay của mình.
- Hoạt động cho vay tạo ra lợi nhuận lớn nhất cho NH nhưng cũng gặp
nhiều rủi ro nhất. Khi tiến hành cho vay thì bao giờ NH cũng xác định một
chế độ lãi suất cho vay phù hợp, đảm bảo lãi suất cho vay bao giờ cũng
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phải lớn hơn lãi suất huy động vốn từ đó mới tạo ra lợi nhuận cho NH. Đây
chính là nguồn thu quan trọng nhất để NH bù đắp chi phí các hoạt động
như: khấu hao TSCĐ, trả lương cho công nhân viên, trả lãi tiền huy động
vốn... Mặt khác do hoạt động cho vay dựa vào cơ sở lòng tin nên gặp nhiều
rủi ro khi khách hàng không có khả năng trả nợ hoặc không muốn trả nợ
hoặc rủi ro kì hạn, rủi ro lãi suất. Khi tổn thất xảy ra thì làm giảm thu nhập
dự tính, có thể gây thua lỗ hoặc dẫn đến phá sản NH. Nên trước khi cho
vay, NH luôn tiến hành thẩm định, đánh giá khách hàng để hạn chế tối đa
rủi ro xảy ra. Qua đây ta thấy, NH phải có sự đánh đổi giữa lợi nhuận và
rủi ro: kì hạn ngắn. món vay nhỏ thì ít rủi ro song lợi nhuận lại không cao
và ngược lại.
1.2.2. Các phương thức cho vay của NHTM đối với các DNNQD:
NH dựa vào nhiều tiêu chí để phân loại ra các phương thức cho vay. Cụ
thể có một số cách phân loại sau:
1.2.2.1. Căn cứ vào thời hạn cho vay:
Có ý nghĩa quan trọng với NH vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an
toàn và sinh lời của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng.
- Cho vay ngắn hạn: Là hoạt động tài trợ có thời hạn dưới 12 tháng nhằm
để tài trợ, bù đắp sự thiếu hụt về vốn lưu động và để đáp ứng nhu cầu sử

dụng vốn ngắn hạn của nhà nước, DN, hộ gia đình... Áp dụng cho vay theo
hạn mức, món hoặc cho vay trực tiếp, gián tiếp...
- Cho vay trung hạn: Là hoạt động cho vay từ trên 1 năm đến 5 năm, tài trợ
cho các TSCĐ như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang
thiết bị nhanh hao mòn.
- Cho vay dài hạn: Là hoạt động cho vay trên 5 năm, dùng để tài trợ cho
các công trình xây dựng lớn như: nhà xưởng, sân bay, cầu đường,máy móc
thiét bị có giá trị lớn thường có thời gian sử dụng lâu dài...
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2.2.2. Theo mức độ tín nhiệm:
Là dựa vào uy tín, năng lực của khách hàng đi vay mà NH chia làm 2
loại :
- Cho vay có TSĐB: Là phương thức cho vay chủ yếu của NH. khi cá nhân
hay DN muốn vay vốn thì phai bảo đảm sẽ có nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản,
vật chất. TSBĐ gồm 2 loại:
+ Loại 1 là các TS thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của khách hàng,
hoặc bảo lãnh của bên thứ ba cho khách hàng của NH. Những đảm bảo
loại này không được hình thành từ khoản tín dụng của chính NH. Đảm bảo
loại 1 có thể có giá trị lớn, nhỏ hơn hoặc bằng giá trị của khoản tín dụng
tuỳ thuộc vào đánh giá dự đoán của NH về rủi ro. Các khoản tín dụng dựa
trên TSĐB loại 1 thường đảm bảo an toàn cho NH, song gây khó khăn cho
cả NH lẫn khách hàng trong việc định giá, bảo quản, làm cho thời gian
phân tích tín dụng thường bị kéo dài.
+ Loại 2 Là những tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của NH. Đây là
biện pháp cuối cùng để NH có thể hạn chế được người vay bán tài sản
được hình thành từ vốn vay. Tuy nhiên khi người vay không có khả năng
trả nợ thì phần lớn các tài sản này cũng đều bị giảm giá, khó bán. Do đó tài
sản loại 2 không đảm bảo cho NH thu đủ gốc và lãi. Tài sản loại 2 thường
áp dụng cho khách hàng mà tài sản loại 1 có ít, hoặc không thể trở thành

tài sản đảm bảo cho NH.
- Cho vay không cần TSĐB: áp dụng cho các khách hàng truyền thống, có
uy tín. NH phải phân tích kĩ tình hình làm ăn, khả năng phát triển của
người đi vay để đặt quan hệ làm ăn lâu dài. Khi khách hàng cần vốn thì
NH sẽ chắc chắn sẽ thu đủ cả gốc và lãi khi đến hạn mà không cần phải
đảm bảo bằng tài sản, vật chất gì. Lượng khách hàng được ưu tiên này của
các NHTM là rất ít.
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2.2.3. Theo mục đích vay vốn:
Căn cứ theo mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng NH chia thành 2
loại:
- Cho vay để kinh doanh: là hoạt động NH tài trợ cho các chủ thể kinh tế
để đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Theo hình thức phân chia này thì cho vay để kinh doanh là hoạt động tạo
ra lợi nhuận lớn nhất cho NH. Khách hàng thuộc loại này chủ yếu là các
DN.
- Cho vay để tiêu dùng: là hoạt động cho vay đối với các cá nhân để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng như: mua sắm, nhà cửa, phương tiện đi lại, hàng
hoá tiêu dùng ... Cho vay tiêu dùng được cấp phát dưới hình thức cho vay
bằng tiền hoặc bán chịu hàng hoá.
1.2.2.4. Theo nghiệp vụ cho vay: NH chia thành các nghiệp vụ chính sau:
- Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó NH cho phép người vay được chi
trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và
trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn đó gọi là hạn mức thấu chi.
Đây là hình thức cho vay ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là
không có TSĐB... nên NH chỉ áp dụng đối với khách hàng có độ tin cậy
cao, thu nhập đều đặn, kì thu nhập ngắn...
- Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay phổ biến của NH đối với
các khách hàng không có nhu cầu thường xuyên, không đủ điều kiện để

cấp hạn mức thấu chi. Nghiệp vụ này chỉ xuất hiện khi có nhu cầu thời vụ
hay mở rộng sản xuất đặc biệt, tức vốn NH chỉ tham gia vào một giai đoạn
nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh.
- Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ cho vay theo đó NH thoả thuận cấp
cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng này được cấp trên cơ
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vay vốn chủa khách hàng đầu kì
hay cuối kì kinh doanh.
- Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của
hàng hoá. NH sẽ cho DN đang thiếu vốn vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi
DN bán hàng. NH và khách hàng sẽ thoả thuận với nhau về hình thức vay,
hạn mức tín dụng, nguồn cung cấp hàng hoá cũng như khả năng tiêu thụ.
trong đó hạn mức tín dụng có thể thoả thuận trong một hoặc vài năm. Đây
không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn NH xem xét mối quan hệ
với khách hàngvà quyết định cho vay nữa không tuỳ mối quan hệ giữa NH
và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng.
- Cho vay trả góp: Là hình thức cho vay trong đó NH cho phép khách hàng
trả gốc làm nhiều lần, trong thời hạn tín dụng thoả thuận. Cho vay trả góp
áp dụng cho vay trung và dài hạn, tài trợ cho TSCĐ, hàng hoá lâu bền và
cũng có thể cho vay trả góp đối với người tiêu dùng. Đây là loại hình cho
vay rủi ro cao vì khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp,
khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của khách hàng. Do vậy
nếu người vay mất việc làm, thu nhập giảm thì khả năng thu nợ của NH bị
ảnh hưởng nghiêm trọng. Đây là nghiệp vụ đòi hỏi NH phải đánh giá
khách hàng kĩ lưỡng. Một đặc điểm khác là khách hàng khi vay trả góp
không mấy nhạy cảm với lãi suất mà thường chỉ quan tâm đến khoản tiền
phải trả mỗi lần và tài sản sinh ra từ khoản vay. Vì vậy lãi suất cho vay trả
góp là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của NH.
- Cho vay gián tiếp: Ít được áp dụng: Là hình thức cho vay thông qua các

tổ chức trung gian. NH cho vay qua các tổ, hội, đội, nhóm như nhóm sản
xuất, hội nông dân... để đưa vốn vay đến tận các thành viên của các tổ
chức này.
1.2.2.5. Phân loại khác:
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Theo rủi ro tín dụng: gồm tín dụng lành mạnh, tín dụng có vấn đề.
- Theo ngành kinh tế: cho vay ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ.
- Theo đối tượng tín dụng: TSCĐ, TSLĐ.
Qua đây ta thấy có rất nhiều hình thức cho vay, đảm bảo được sự đa dạng
trong việc cung cấp vốn cho các ngành, khu vực kinh tế.
1.2.3. Vai trò của vốn vay NH đối với các DNNQD:
Bất kì một DN nào muốn tồn tại và phát triển cũng phải vay vốn để
tiến hành sản xuất, tiêu thụ hàng hoá. Đặc biệt đối với DNNQD là những
DN vừa và nhỏ có quy mô tài chính nhỏ bé thì vốn vay là một yếu tố có tác
động sống còn của các DN này. Ở nước ta có rất nhiều hình thức để DN
vay song chung quy lại có 2 hình thức cơ bản sau:
+ Tín dụng thương mại: Là hợp đồng vay vốn từ bạn hàng tức là vay của
nhà cung cấp hàng hoá. Nguồn vốn này được khai thác tự nhiên trong quan
hệ mua bán chịu hay mua bán trả góp. Đây là một hình thức cho vay rất
tiện lợi và linh hoạt trong kinh doanh, tạo khả năng mở rộng quan hệ hợp
tác kinh doanh lâu dài. Hình thức này phát sinh chủ yếu dựa vào mối quan
hệ tin cậy giữa các bạn hàng. Tuy nhiên hình thức này cũng gặp nhiều rủi
ro khi mối quan hệ bị rạn nứt, khả năng xù nợ là rất cao, lãi suất cho vay
có thể biến động dẫn đến những lãi suất cắt cổ và bị giới hạn về số lượng
tín dụng cũng như giới hạn về số bạn hàng, khả năng mở rộng ngành nghề
là không cao, ít tự chủ về tài chính.
- Loại hình thứ 2 là tín dụng NH: Là hoạt động cho vay khắc phục được
những hạn chế của tín dụng thương mại. Các chủ thể kinh tế khi cho vay
vốn NH sẽ giúp họ san sẻ rủi ro được với NH mà không bị chia sẻ quyền

lực. Mặt khác, NH xây dựng chính sách lãi suất hợp lí, ổn định đảm bảo
cho các chủ thể kinh tế yên tâm kinh doanh, mở rộng sản suất kinh doanh,
đầu tư vào các lĩnh vực có nhiều lợi nhuận đòi hỏi vốn bỏ ra phải lớn. Do
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vậy tín dụng NH mà trong đó hoạt động cho vay là chủ yếu có vai trò quan
trọng đối với các DNNQD cụ thể như sau:
1.2.3.1. Giải quyết nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
DNNQD:
- DNNQD chủ yếu là các DN vừa và nhỏ do vậy có chu kì sản suất và
quay vong vốn nhanh, đòi hỏi phải thường xuyên bổ sung vốn lưư động
vượt khả năng vốn tự có của DN. Vì vậy hoạt động cho vay ngắn hạn của
NHTM là nguồn vốn bổ sung vốn lưu động rất cần thiết đối với các
DNNQD. Từ khâu sản xuất đến lúc tiêu thụ, thu được lợi nhuận thì DN
phải bỏ ra rất nhiều chi phí, lượng vốn tự có không thể đáp ứng được do đó
sử dụng vốn vay của NH cho phù hợp với từng giai đoạn, chu kì kinh
doanh là hết sức quan trọng. Vốn vay NHTM đảm bảo ổn định sản xuất,
lưu thông hàng hoá, đảm bảo tính đầy đủ, kịp thời cho từng giai đoạn, chu
kì sản xuất kinh doanh của DN.Giúp các DN thu được lợi nhuận ngày càng
cao nghĩa là khả năng thu cả gốc và lãi khoản cho vay của NH càng lớn.
1.2.3.2. Giúp các DN có tình hình tài chính lành mạnh, sổ sách kế toán chính
xác theo quy định, đánh giá đúng thực lực các DNNQD:
- Hoạt động cho vay của NHTM là hoạt động tạo ra lợi nhuận lớn nhất cho
NH song NH cũng gặp rất nhiều rủi ro từ hoạt động này. Bởi vậy trước khi
cho vay thì NH phải thực hiện việc xếp loại, đánh giá tình hình hoạt động,
tình hình tài chính... của các DN. Nhiều DN gặp khó khăn trong hạch toán
kế toán đã dựa vào các bản báo cáo thẩm định để thấy rõ hoạt đông của
mình, tìm ra những ưu thế cũng như những khó khăn mà mình gặp phải từ
đó có kế hoạch phát triển thế mạnh về sản phẩm, có khả năng cạnh tranh
hơn. Đồng thời qua đó giúp họ có khả năng tự hạch toán được sổ sách kế

toán của DN mình, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước. Qua
đây, ta thấy có sự gắn chặt giữa hoạt động của DN và của NH, thấy được
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sự giám sát chặt chẽ của NH đối với DN, buộc các DN phải hoạt động theo
những điều đã cam kết trong hợp đồng vay vốn với NH.
1.2.3.3. Tăng sức cạnh tranh của các DN thông qua đẩy mạnh cải tiến công
nghệ, mua sắm trang thiết bị, thu hút nhân lực có trình độ:
- Trước đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng, các DN muốn tồn tại
được thì phải tạo ra được những sản phẩm mới, chất lượng cao và giá
thành thấp nhất, muốn vậy các DN phải không ngừng đổi mới công nghệ,
mua sắm trang thiết bị tiên tiến, hiện đại. Đặc biệt các DNNQD ở Việt
Nam chủ yếu phục vụ trong các ngành sản xuất và dịch vụ, không có tính
độc quyền thì sự thay đổi này càng phải lớn mới có khả năng cạnh tranh
với nhau được. Và vốn vay các NHTM chính là điều kiện tiên quyết quá
trình đổi mới kể cả chiều rộng (mở rộng quy mô) mà cả chiều sâu ( mua
sắm máy móc hiện đại, năng cấp máy móc cũ) cho các DN để các DN đủ
sức cạnh tranh trong nước và có thể cạnh tranh với cả DN nước ngoài. Mặt
khác, khi có vốn thì các DN mới đảm bảo được các phúc lợi cho người lao
động từ đó có thể thu hút được các nhân công có trình độ cũng như đào tạo
được đội ngũ lao động có chất lượng, tận tụy với sự phát triển của DN.
1.2.3.4. Giảm chi phí cho các DNNQD:
Các DNNQD không được nhà nước tài trợ về vốn do vậy họ đi vay là chủ
yếu. Khi vay của các tổ chức tài chính, DN khác thì họ gặp rất nhiều khó
khăn, chịu sự chèn ép về lãi suất và thời hạn.
Do vậy NHTM chính là giải pháp để họ giảm chi phí cho các DNNQD tạo
thuận lớn và làm ăn có hiệu quả hơn.
1.2.4. Chất lượng cho vay của các NHTM đối với các DNNQD:
1.2.4.1. Khái niệm về chất lượng cho vay:
17

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Cho vay là hoạt động quan trọng bậc nhất của NH do vậy hoạt động này
phải đạt chất lượng cao thì mới thúc đẩy sự phát triển của NH. Vậy như thế
nào là cho vay có hiệu quả ?
Trước đây, các NH dựa vào tiêu chí an toàn cho vay để đánh giá chất
lượng hoạt động cho vay đạt chất lượng cao chỉ khi các khoản vay không
có hoặc ít tổn thất và ngược lại. Theo đó nâng cao chất lượng đồng nghĩa
với giảm tổn thất. Song với đòi hỏi ngày càng cao của xã hội, đòi hỏi của
sự cạnh tranh và nhu cầu của người tiêu dùng thì chất lượng cho vay không
chỉ dừng lại ở việc đảm bảo an toàn cho NH mà với mỗi chủ thể khác nhau
trong nền kinh tế đều đạt một ích lợi riêng. Cụ thể như sau:
- Xét dưới góc độ NH: Chất lượng cho vay được thể hiện ở mức độ, phạm
vi và sự phù hợp của tín dụng với quy định, khả năng của mỗi khách hàng,
đảm bảo sức cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo được tính an toàn trong
hoạt động cho vay đồng thời phải tạo ra lợi nhuận lớn nhất cho NH. Như
vậy chất lượng cho vay đối với NH đó là tổng dư nợ ngày càng cao để lợi
nhuận đạt được ngày càng lớn hơn, trong đó tỉ lệ nợ quá hạn phải đảm bảo
đúng quy định, hợp lí. Mặt khác, cũng phải đảm bảo sự hợp lí cơ cấu của
các khoản vay như các khoản trung, dài, ngắn hạn. Tuy vậy, chất lượng tín
dụng theo quan niệm của mỗi NH là khác nhau, có NH đặt tiêu chí tăng dư
nợ lên hàng đầu còn các NH nhỏ để đảm bảo tính an toàn thì chỉ nên cho
vay trong mức độ và phạm vi nhất định.
- Xét dưới góc độ khách hàng (là DNNQD):
Chất lượng cho vay xét dưới giác độ khách hàng được thể hiện ở sự thoả
mãn nhu cầu vay vốn của khách hàng đối với hoạt động cho vay của NH.
Sự thoả mãn ấy được thể hiện ở khối lượng cho vay được NH cung cấp,
tính kịp thời, hợp lí của khoản vay về cả thời gian và chi phí để có được
nguồn vốn NH. Như vậy, đối với khách hàng, chất lượng cho vay cao khi
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

thời hạn vay là đơn giản, nhanh gọn nhất trong khi hiệu quả sử dụng vốn
vay là cao nhất, tạo cho họ nhiều lợi ích nhất. Qua đấy ta thấy, có sự xung
đột về lợi ích về quan niệm chất lượng cho vay giữa NH và khách hàng, đòi
hỏi phải có sự hợp lí để dung hoà cả lợi ích của NH và khách hàng. Đặc
biệt DNNQD có nguồn vốn chủ yếu là đi vay các NHTM nên chất lượng
cho vay của NHTM có tính chất quan trọng quyết định đến sự “thành - bại”
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.
- Xét dưới góc độ nền kinh tế:
Chất lượng cho vay xét dưới giác độ của nền kinh tế thể hiện ở sự đóng
góp của hoạt động cho vay đối với sự phát triển kinh tế xã hội mà biểu hiện
của nó là đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Ở nước ta, nguồn ngân
sách nhà nước còn hết sức hạn hẹp do đó NHTM chính là trung gian tài
chính cung cấp hầu hết vốn cho mọi hoạt động kinh tế, có tính chất quyết
định đến sự phát triển kinh tế. Nền kinh tế coi hoạt động cho vay của
NHTM đạt chất lượng cao khi cung cấp được nhiều vốn nhất phục vụ mọi
hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế để từ đó tạo được nhiều
việc làm cho người lao động, tạo khối lượng sản phẩm ngày càng tăng cho
xã hội, khai thác hết mọi nguồn lực của đất nước. Muốn vậy, NHTM không
ngừng thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước, mở rộng hợp tác với
nước ngoài để tranh thủ vay vốn nước ngoài làm lợi cho đất nước.
Như vậy chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể vừa trừu tượng.
Có thể được cụ thể bằng chỉ tiêu định lượng vừa trừu tượng bằng các chỉ
tiêu định tính. Song tóm lại chất lượng cho vay đạt cao nhất khi thoả mãn,
điều hoà được tất cả các lợi ích xã hội, thúc đẩy được mọi ngành nghề,
vùng kinh tế cùng phát triển.
1.2.4.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay đối với DNNQD:
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Hoạt động cho vay của NHTM gặp rất nhiều rủi ro đặc biệt khi khách hàng
là các DNNQD có quy mô vừa và nhỏ, đang gặp nhiều khó khăn trong hoạt

động thì khả năng mất vốn của NHTM là rất lớn. Do vậy muốn xây dựng
được hệ thống chỉ tiêu định lượng đánh giá chất lượng cho vay thì cần dựa
vào các chỉ tiêu định tính sau đây.
- Dựa vào cơ sở pháp lí: Hoạt động cho vay của NH đạt được chất lượng
khi chấp hành đúng các quy định của pháp luật, cụ thể là quy chế cho vay,
các văn bản chỉ đạo của chính phủ cũng như các quyết định của NHNN.
Chẳng hạn như quyết định 493 ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập
và sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro tín dụng trong hoạt động NH của thống
đốc NHNN.
- Dựa vào quy chế cho vay của NHTM: Hoạt động cho vay của các NHTM
đều phải tuân thủ theo quy chế, quy trình nghiệp vụ này được áp dụng cho
từng trường hợp xin vay ở mỗi NHTM là nhằm thực hiện cho vay có chất
lượng. Vì vậy việc tuân thủ các quy chế, trình độ nghiệp vụ cho vay là tiền
đề để đánh giá chất lượng tín dụng. Muốn tất cả các NHTM thực hiện tốt
quy chế cho vay thì các NHTMNN phải là lực lượng đi đầu thực hiện
nghiêm túc các quy chế này.
- Dựa vào hợp đồng cho vay: Khi tiến hành hoạt động cho vay giữa NH và
khách hàng phải thoả thuận và cam kết bằng văn bản các nghĩa vụ mà mỗi
bên phải thực hiện gọi là hợp đồng cho vay. Hoạt động cho vay có chất
lượng nếu nó thực hiện theo đúng cam kết đã thoả thuận trong hợp đồng.
Các cam kkết này bao gồm: mục đích sử dụng vốn vay, cam kết thời hạn
giải ngân và trả nợ của NH, khách hàng, phương thức trả nợ, trả lãi và các
điều khoản ràng buộc về lợi ích, nghĩa vụ khác. Đây là một căn cứ rất quan
trọng để NH xem xét việc cho vay của mình có hiệu quả hay không, đánh
giá rõ nhất về tình hình các khách hàng của mình.
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trên đây là các chỉ tiêu tiền đề để đánh giá chất lượng cho vay của các
NHTM, tuy vậy nó còn mang tính khái quát, chung chung. Cần có các hệ
thống các chỉ tiêu khác đánh giá hiệu quả hơn chất lượng cho vay. Chúng

ta cùng xem xét nhóm chỉ tiêu định lượng sau:
a. Nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô tín dụng đối với DNNQD:
- Doanh số cho vay đối với các DNNQD: Phản ánh lượng vốn mà NH đã
giải ngân cho các DNNQD, giúp các DN đầu tư cải tiến máy móc thiết bị,
ứng dụng công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh. Tuỳ thuộc vào năng lực
tài chính, khả năng huy động vốn và doanh số cho vay của NHTM có sự
tăng giảm. Tuy vậy để chất lượng cho vay có hiệu quả là khối lượng và tốc
độ của doanh số cho vay phải ngày càng tăng, có như vậy mới tạo ra được
nhiều lợi nhuận cho khách hàng, thoả mãn nhu cầu về vốn ngày càng lớn
của các DNNQD...
- Tình hình thu nợ và dư nợ đối với DNNQD:
+Chi tiêu doanh số thu nợ: phản ánh lượng vốn mà NH thu hồi được trong
một thời kì thu nợ, thời kì này được xác định theo thời hạn của các khoản
cho vay là ngắn hạn hay trung, dài hạn. Doanh số thu nợ càng lớn chứng tỏ
chất lượng các khoản vay là tốt đối với NH, các khách hàng đã thực hiện
đúng với thời hạn, nghĩa vụ hoàn trả cho khách hàng. Tạo điều kiện cho
NH có thể xoay vòng vốn nhanh hơn, cho vay được nhiều đối tượng hơn,
lợi nhuận cao hơn.
+ Chỉ tiêu dư nợ: phản ánh khối lượng vốn mà NH còn chưa thu hồi được
tại thời kì thu nợ. Chỉ tiêu này không phản ánh được chất lượng hoạt động
cho vay tại một thời điểm theo quy mô vì tại thời điểm nhất định thì có
những khoản vay đến hạn cũng như chưa đến hạn. Nếu dư nợ đến hạn mà
lớn thì gây ảnh hưởng không tốt tới hoạt động của NH, phản ánh khả năng
thu nợ của NH là kém, NH làm ăn thiếu hiệu quả.
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Hệ số sử dụng nợ vay = Tổng dư nợ / Tổng vốn huy động
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn huy động được thì sẽ sử dụng bao
nhiêu đồng vốn để cho vay. Hệ số này càng lớn chứng tỏ chất lượng cho
vay lớn bởi vì NH phải cho vay được nhiều, tạo được nhiều lợi nhuận thì

mới bù đắp được chi phí trả lãi vay huy động cho các chủ thể kinh tế khác.
NH luôn mong muốn tỉ lệ này gần bằng 1 nhất.
b. Nhóm chỉ tiêu về nợ quá hạn của các DNNQD:
+ Tỉ lệ nợ quá hạn = Tổng nợ quá hạn x 100 / Tổng dư nợ
Trong đó:
Nợ quá hạn là khoản mà khách hàng chưa trả được khi đến hạn thoả thuận
phải trả NH. Nợ quá hạn gồm 2 loại:
• Nợ quá hạn có khả năng thu hồi là những khoản vay mà khách hàng có
thể trả được NH trong tương lai.
• Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi là những khoản nợ đến hạn trả
và khả năng không thu hồi được vốn là cao. Tỉ lệ này phản ánh chất
lượng cho vay là kém hiệu quả. Khả năng mất vốn, giảm thu nhập là rất
lớn.
+ Tỉ lệ nợ khó đòi = Nợ khó đòi x 100/ Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh trong 100% vốn chưa thu hồi được có bao nhiêu % là
nợ khó đòi. Theo quyết định 493 ngày 22 tháng 4 năm 2005 của thống đốc
NHNN thì chia nợ thành 5 loại:
• Loại 1: Nợ đủ tiêu chuẩn.
• Loại 2: Nợ cần chú ý.
• Loại 3: Nợ dưới tiêu chuẩn.
• Loại 4: Nợ nghi ngờ.
• Loại 5: Nợ có khả năng mất vốn.
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong đó nợ khó đòi được xác định dựa vào các tiêu chí an toàn của ngân
hàng nhưng thường bao gồm nợ loại 3,4,5. Trong đó chủ yếu là loại 5 là
loại khó có khả năng thu hồi nhất của Ngân hàng, chiếm tỉ lệ cao nhất trong
nợ khó đòi.
c. Chỉ tiêu về lợi nhuận từ hoạt động cho vay các DNNQD:
Tỉ lệ lãi thu được = Thu lãi từ hoạt động tín dụng x 100/ Dư nợ bình quân

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng thu lãi của hoạt động cho vay so với số vốn
mà Ngân hàng đã bỏ ra, Ngân hàng luôn muốn nâng cao tỉ lệ này. Chất
lượng cho vay của Ngân hàng được đảm bảo khi hoạt động này tạo ra nhiều
lợi nhuận bù đắp được chi phí đã bỏ ra của ngân hàng
d. Chỉ tiêu vòng quay vốn:
Vòng quay vốn = Doanh số thu nợ/ Dư nợ bình quân
Phản ánh khi đến kì báo cáo tài chính thì tỉ lệ giữa lượng vốn thu được và
số vốn chưa thu là bao nhiêu, nói chung ngân hàng mong muốn tỷ lệ này
lớn vì nó phản ánh khả năng đáp ứng vốn của Ngân hàng, khả năng xoay
vồng vốn để cho vay của ngân hàng. Vòng quay càng lớn càng tạo điều
kiện cho Ngân hàng có quan hệ làm ăn với nhiều khách hàng mới, có nhiều
cơ hội đầu tư hơn
Như vậy, chất lượng cho vay của Ngân hàng không chỉ là đảm bảo an toàn
vốn vay mà phải đảm bảo doanh số cho vay ngày càng tăng, lợi nhuận tạo
ra được nhiều, dư nợ xấu có khả năng mất vốn là nhỏ.
1.2.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cho vay đối với doanh doanh:
a. Các nhân tố thuộc về nghiệp ngoài quốc DNNQD:
- Năng lực tài chính, kết quả kinh doanh và uy tín của DN trên thị trường:
DN có kinh doanh hiệu quả hay không và có khả năng trả nợ được cho NH
hay không cũng tuỳ thuộc vào tình hình tài chính hiện có của DN. Năng
lực tài chính được thể hiện ở một mức độ nhất định qua quy mô của tài sản
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
(ngân quỹ, chứng khoán có giá, dự trữ và tài sản cố định...), quy mô và cơ
cấu nợ (các khoản nợ đến hạn trong năm và phải trả trong các năm sau, nợ
quá hạn...); luồng tiền, các tỉ lệ tài chính (nhóm tỉ lệ thanh khoản, tỉ lệ sinh
lời, tỉ lệ rủi ro...). Chỉ khi tình hình làm ăn có hiệu quả thì DN mới sẵn sàng
bỏ tiền để trả nợ cả gốc và lãi cho NH. Đồng thời uy tín của DN cũng ảnh
hưởng tới chất lượng cho vay.Trong đó uy tín của DN vay vốn được thể
hiện bằng sự sẵn lòng trả nợ, có mong muốn được thực hiện tất cả các cam

kết trong hợp đồng tín dụng. Tuy vậy khi vay được vốn nhưng làm ăn
“túng bấn” thì rủi ro đạo đức xảy ra: hoặc sẽ tìm cách trốn nợ hoặc thay đổi
mục đích kinh doanh.
- Nhu cầu về vốn cho các dự án đầu tư phát triển của DN: hiệu quả của dự
án xin vay là điều kiện trực tiếp quyết định đến chất lượng cho vay. Chỉ khi
dự án có phương án kinh doanh khả thi tạo lợi nhuận cao thì ta mới coi là
sử dụng vốn vay có hiệu quả, khi đó DN sẽ có nhiều lợi nhuận không chỉ
để trang trải chi phí vốn vay NH mà còn tạo lượng vốn lớn để tái đầu tư.
- Trình độ và uy tín của chủ DNNQD: chủ DN có trình độ, kinh nghiệm
quản lí thì ngay từ khâu lập dự án để xin vay đã thể hiện khả năng kinh
doanh có hiệu quả, việc sử dụng vốn vay có thể thực sự mang lại hiệu quả,
đảm bảo mục tiêu cho vay. Ngược lại, nếu năng lực của chủ DN yếu kém
thì khoản vay đó không thể phát huy được mục đích của nó, do đó không
đảm bảo được chất lượng cho vay. Uy tín của một cá nhân của chủ Dn
cũng tác động đến chất lượng cho vay, uy tín cao sẽ tạo ra mối quan hệ làm
ăn lâu dài, mật thiết giữa NH và DNNQD.
b. Các nhân tố thuộc về bản thân NH:
- Quy mô vón và chính sách cho vay của NH: điều này thể hiện ở khả năng
huy động vốn của NH. Với đặc trưng của NH là trung gian tài chính, tức
“đi vay để cho vay” nên việc cho vay có mối quan hệ mật thiết với việc đi
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vay: nguồn huy động càng lớn và đa dạng thì tạo điều kiện hoạt động cho
vay phát triển; chi phí đi vay ảnh hưởng trực tiếp tới khung lãi suất cho vay
của NH; kì hạn của vốn huy động phải phù hợp với kì hạn của vốn vay...
Do vậy chất lượng hoạt động của cho vay cũng phụ thuộc vào chất lượng
huy động vốn. Nếu để đọng vốn huy động được thì không những không tạo
thêm thu nhập cho NH mà còn làm tăng chi phí đi vay. Mặc dù vậy tuỳ
từng thời kì mà NH có chính sách cho vay là khác nhau. Có thời kì cho vay
ít để tăng dự trữ, đảm bảo an toàn và ngược lại tăng lợi nhuận cho NH. Từ

đó ảnh hưởng tới chất lượng cho vay.
- Sự phát triển của công nghệ, trang thiết bị NH nhất là sự đa dạng các dịch
vụ cho vay và hệ thống thông tin tín dụng: điều này quyết định đến việc mở
rộng thị trường cho vay đồng thời có thể nắm bắt thông tin tín dụng kịp
thời, chính xác. Các thông tin này gồm: thông tin tài chính, uy tín, trình độ
quản lí, năng lực pháp lí, thông tin kinh tế xã hội... để kịp thời đối phó với
những biến động của thị trường, tìm kiếm những khách hàng có lợi, loại bỏ
những khách hàng xấu. Đây là việc làm rất cần thiết cho các NHTM Việt
Nam do hiện nay lượng thông tin của DN cung cấp cho NH là rất ít, tạo ra
hiện tượng khai man để lừa NH, tạo rủi ro rất lớn cho các NHTM.
- Công tác giám sát, thẩm định đối với các DNNQD của NH:
Công tác thẩm định là một khâu quan trọng trong quá trình cho vay của
NH. Thẩm định là việc đánh giá, thẩm tra, dự đoán chính xác hiệu qủa của
hợp đồng cho vay. Công việc này đòi hỏi tính chắt chẽ, chính xác nhưng
cũng cần linh hoạt, nhạy cảm nghề nghiệp để trách bỏ qua những cơ hội
cho vay có lợi. Thẩm định là việc cân nhắc giữa tính an toàn và tính sinh
lời để có cơ sở cho vay hay không. Đây là bước đầu tiên của hoạt động cho
vay. Chất lượng cho vay chỉ có hiệu quả khi tiến hành công tác thẩm định
tốt. Mặc dù vậy sau khi giải ngân thì NH cũng không ngừng đôn đốc kiểm
25

×