Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Dạy học chương Dao động cơ - Vật lí 12 theo hướng rèn luyện kỹ năng sử dụng sách giáo khoa cho học sinh THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.64 MB, 139 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2




NGUYỄN THỊ BẮC






DẠY HỌC CHƯƠNG
“DAO ĐỘNG CƠ” – VẬT LÍ 12 THEO HƯỚNG RÈN
LUYỆN KĨ NĂNG SỬ DỤNG SÁCH GIÁO KHOA
CHO HỌC SINH THPT






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC





HÀ NỘI, NĂM 2013



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2



NGUYỄN THỊ BẮC


DẠY HỌC CHƯƠNG
“DAO ĐỘNG CƠ” - VẬT LÍ 12 THEO HƯỚNG RÈN LUYỆN
KĨ NĂNG SỬ DỤNG SÁCH GIÁO KHOA
CHO HỌC SINH THPT



Chuyên ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học bộ môn Vật lý
Mã số: 60 14 01 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thị Hồng Việt








HÀ NỘI, NĂM 2013
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo sau Đại học, Ban
chủ nhiệm, quý Thầy, Cô giáo Khoa Vật lí trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 trực
tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Tôi xin chân thành cảm ơn Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, Ban giám hiệu,
Tổ Vật lí trường THPT Trung Giã đã tạo mọi điều kiện thuận lợi trong suốt thời
gian học tập và thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự hướng dẫn tận tình của cô
hướng dẫn: PGS. TS. Nguyễn Thị Hồng Việt trong suốt thời gian nghiên cứu và
hoàn thành luận văn này.
Đồng cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp, các bạn cùng lớp cao học, các thầy
giáo, cô giáo và các em học sinh ở các trường mà tác giả đã thực nghiệm đề tài.
Cuối cùng xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, người thân đã động viên tác
giả hoàn thành luận văn này.


Hà Nội, tháng 12 năm 2013
Tác giả



Nguyễn Thị Bắc




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi

sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích
dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, tháng 12 năm 2013
Tác giả



Nguyễn Thị Bắc
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
4. Giả thuyết khoa học 4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
6. Phương pháp nghiên cứu 4
7. Dự kiến đóng góp của đề tài 5
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SỬ DỤNG
KÊNH HÌNH, KÊNH CHỮ TRONG SGK ĐÁP ỨNG MỤC TIÊU DẠY HỌC
MÔN VẬT LÍ, NHẰM GÓP PHẦN PHÁT HUY TÍNH TỰ LỰC VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG KIẾN THỨC CHO HS THPT 7
1.1. Sách giáo khoa 7
1.1.1. Quan niệm về SGK 7
1.1.2. Vai trò, chức năng của SGK Vật lí 9
1.2. Rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK cho HS trong dạy
học 11
1.2.1. Khái niệm kĩ năng 11
1.2.2. Rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK trong các

hình thức lên lớp 12
1.2.3. Các mức độ sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK 16
1.3. Mục tiêu dạy học Vật lí ở trường phổ thông 18
1.3.1. Về kiến thức 18
1.3.2. Về kĩ năng 18
1.3.3. Về thái độ 18
1.4. Tính tự lực học tập 19
1.4.1. Khái niệm tính tự lực 19
1.4.2. Những biểu hiện của tính tự lực của HS THPT 19
1.4.3. Những biện pháp phát huy tính tự lực trong hoạt động nhận thức của HS
21
1.5. Chất lượng kiến thức 23
1.5.1. Định nghĩa kiến thức vật lí 23
1.5.2. Những dấu hiệu của chất lượng kiến thức 23
1.6. Kết luận chương 1 25
Chương 2. XÂY DỰNG TIẾN TRÌNH DẠY HỌC MỘT SỐ KIẾN THỨC
CHƯƠNG “DAO ĐỘNG CƠ” VẬT LÍ 12 THEO HƯỚNG RÈN LUYỆN KĨ
NĂNG SỬ DỤNG KÊNH HÌNH, KÊNH CHỮ TRONG SGK, NHẰM GÓP
PHẦN PHÁT HUY TÍNH TỰ LỰC VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIẾN
THỨC CHO HS THPT 26
2.1. Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của việc rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình,
kênh chữ trong SGK cho HS ở một số trường THPT tại Sóc Sơn – Hà Nội 26
2.1.1. Mục đích điều tra 26
2.1.2. Phương pháp điều tra 26
2.1.3. Đối tượng điều tra 26
2.1.4. Kết quả điều tra 26
2.1.5. Nguyên nhân và phương hướng khắc phục 33
2.2. Nghiên cứu nội dung chương trình và xây dựng cấu trúc logic nội dung
chương “Dao động cơ” Vật lí 12 34
2.2.1. Kiến thức 34

2.2.2. Kỹ năng 35
2.2.3. Thái độ 35
2.3. Đề xuất các kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK cho HS 37
2.3.1. Kĩ năng sử dụng kênh chữ trong SGK 37
2.3.2. Kĩ năng sử dụng kênh hình trong SGK 37
2.4. Một số biện pháp tổ chức rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ
trong SGK cho HS 38
2.4.1. Biện pháp tổ chức rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh chữ trong SGK cho
HS 38
2.4.2. Biện pháp tổ chức rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình trong SGK 41
2.5. Xây dựng tiến trình dạy học theo hướng rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh
hình, kênh chữ trong SGK cho HS trong dạy học Vật lí, nhằm góp phần phát huy
tính tự lực và nâng cao chất lượng kiến thức 43
2.5.1. Nguyên tắc xây dựng tiến trình 43
2.5.2. Xây dựng tiến trình tổng quát 44
2.6. Xây dựng tiến trình dạy học một số kiến thức chương “Dao động cơ” Vật lí
12 theo hướng rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK cho HS
trong dạy học Vật lí, nhằm góp phần phát huy tính tự lực và nâng cao chất lượng
kiến thức 49
2.7. Kết luận chương 2 63
Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 64
3.1. Mục đích thực nghiệm sư phạm. 64
3.2. Nhiệm vụ của thực nghiệm sư phạm 64
3.3. Đối tượng thực nghiệm sư phạm 64
3.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm 65
3.4.1. Chọn mẫu thực nghiệm 65
3.4.2. Quan sát giờ học 65
3.4.3. Kiểm tra đánh giá 66
3.5. Diễn biến và kết quả thực nghiệm sư phạm 66
3.5.1. Diễn biến của quá trình thực nghiệm sư phạm 66

3.5.2. Đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm 80
3.6. Kết luận chương 3 88
KẾT LUẬN CHUNG 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO 91

DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

Hình 2.1: Sơ đồ cấu trúc logic nội dung kiến thức của chương “Dao động cơ” Vật lí 12:
36
Bảng 2.1: Bảng thống kê các kênh thông tin hỗ trợ trong chương “Dao động cơ” Vật lí
142 37
Bảng 2.2. Các bước rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình 42
Hình 2.3. Sơ đồ tiến trình rèn luyện kĩ năng SD kênh hình, kênh chữ trong SGK cho HS.
45
Bảng 3.1. Bảng số liệu HS được chọn làm mẫu thực nghiệm 65
Bảng 3.2. Bảng thống kê các điểm số (X
i
) của bài kiểm tra 83
Bảng 3.3. Bảng phân phối tần suất (W
i
) 83
Đồ thị 3.3. Đồ thị phân phối tần suất của hai nhóm 84
Biểu đồ 3.3. Biểu đồ phân phối tần suất của hai nhóm 84
Bảng 3.4: Bảng phân phối tần suất lũy tích 84
Đồ thị 3.4. Đồ thị phân phối tần suất lũy tích hội tụ lùi 85
Biểu đồ 3.4. Biểu đồ phân phối tần suất lũy tích hội tụ lùi 85
Bảng 3.5. Bảng phân loại theo học lực 85
Biểu đồ 3.5. Biểu đồ phân loại theo học lực của hai nhóm 86
Bảng 3.6. Bảng tổng hợp các tham số 86
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


Viết tắt Viết đầy đủ
ĐC Đối chứng
DĐĐH Dao động điều hòa
ĐH Đại học
ĐHSP Đại học sư phạm
GV Giáo viên
HS Học sinh
KC Kênh chữ
KH Kênh hình
NXB Nhà xuất bản
SGK Sách giáo khoa
THPT Trung học phổ thông
TN Thực nghiệm
VTCB Vị trí cân bằng







1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong mấy thập kỷ trở lại đây, cùng với sự tiến bộ của các ngành khoa học
cơ bản, khoa học giáo dục cũng có những bước tiến đáng kể. Sự nghiệp công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước gắn liền với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri
thức đang đòi hỏi mỗi người lao động trong xã hội phải biết cách vận dụng tích cực
và linh hoạt tri thức nhân loại vào thực tiễn cuộc sống nhằm đáp ứng được nhu cầu

cạnh tranh ngày càng cao của xã hội hiện đại. Vì vậy nhiệm vụ quan trọng đặt ra
cho ngành Giáo dục - Đào tạo nước ta là làm thế nào đào tạo và cung ứng cho xã
hội những con người năng động, sáng tạo và tự lực. Trong hoàn cảnh như vậy, giáo
dục ý thức tự học, tự học một cách thường xuyên, có kế hoạch, phương pháp học
tập đúng đắn, khoa học cho HS là một nhiệm vụ bắt buộc và trách nhiệm của GV.
Chỉ có tự học, tự sáng tạo, học đi đôi với hành mới đáp ứng yêu cầu của sự phát
triển xã hội đang đòi hỏi một nguồn nhân lực chất lượng cao.
Trong thời đại công nghệ, nguồn thông tin khoa học đến với con người là rất
đa dạng, phong phú, mọi nơi, mọi lúc; tuy nhiên do điều kiện kinh tế của nhiều gia
đình nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, việc mua sắm các phương tiện dạy
học hiện đại là rất khó khăn nên thông tin từ tài liệu, ấn phẩm đối với HS phổ thông
vẫn là nguồn quan trọng nhất, trong đó phải kể đến là SGK. SGK là tài liệu có nội
dung cơ bản, hiện đại, khoa học, là tài liệu chính thống được biên soạn theo chương
trình quy định của Bộ Giáo dục- Đào tạo để HS học tập. Do đó trước hết cần phải
rèn luyện cho HS kĩ năng sử dụng SGK một cách có hiệu quả. Đó sẽ là cơ sở để
phát huy năng lực tự học sau này cho các em.
Vật lí là một trong những môn học tự nhiên ở trường phổ thông, có vai trò
quan trọng trong nhiều lĩnh vực khoa học. Do đó việc giảng dạy môn Vật lí có
nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những kiến thức Vật lí cơ bản, hình thành những kĩ
năng và thói quen làm việc khoa học. So với sách giáo khoa cũ thì sách giáo khoa
mới có nội dung phong phú hơn, đảm bảo cung cấp cho học sinh được những kiến
thức cơ bản nhất, nội dung được nâng cao thêm. Tuy trong quá trình dạy học, các
2
em HS đều sử dụng sách giáo khoa, nhưng vấn đề đáng quan tâm hiện nay là HS sử
dụng SGK một cách tùy tiện, thiếu khoa học, chưa đem lại hiệu quả mà SGK có thể
mang lại. Đặc biệt, trong quá trình dạy học, GV chưa chú ý đến việc rèn luyện cho
HS kĩ năng sử dụng SGK. Do đó, vai trò và chức năng của SGK chưa được phát
huy tối đa trong quá trình dạy học, HS chưa thật sự chủ động, sáng tạo trong việc
học tập từ SGK. SGK Vật lí thông qua kênh hình và kênh chữ không những cung
cấp kiến thức cơ bản mà còn cung cấp các thông tin nhằm hỗ trợ cho người học tiếp

thu các kiến thức một cách hiệu quả và đầy đủ nhất. Do vậy, việc rèn luyện kĩ năng
sử dụng SGK cho HS trong dạy học nói chung và dạy học môn Vật lí nói riêng là
rất cần thiết.
Chương “Dao động cơ” Vật lí 12 trình bày nội dung về các mô hình cơ học
của dao động điều hoà; các đặc trưng của dao động điều hoà; dao động tắt dần, dao
động cưỡng bức. Cộng hưởng; vectơ quay. Phương pháp giản đồ Fre-nen. Song hầu
hết kiến thức của chương này khá trừu tượng với HS. Do đó, trong chương này
SGK trình bày những kiến thức cơ bản nhiều thông tin hỗ trợ thông qua kênh hình
và kênh chữ. Tuy nhiên, HS lớp 12 nhìn chung thói quen tự học và kĩ năng tự học
chưa được hình thành rõ nét, đặc biệt là kĩ năng sử dụng SGK. Vì thế, vai trò trách
nhiệm của người GV trong việc đưa ra các biện pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng
SGK cho HS là rất cần thiết.
Vấn đề rèn luyện kĩ năng học tập cho HS đã có các công trình nghiên cứu như:
- Đề tài luận văn thạc sĩ “Tổ chức rèn luyện kĩ năng học tập cho HS trong
dạy học chương “Dòng điện trong các môi trường” Vật lí 11 trung học phổ thông”
của tác giả Châu Vân Anh, Trường Đại học Sư phạm Huế, Huế (2010) [1].
- Đề tài luận văn thạc sĩ “Tổ chức dạy học theo góc các nội dung kiến thức
“Chương dao động cơ” Vật lí 12 nâng cao” của tác giả Đàm Thị Thu Hiền, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội (2011) [17].
Vấn đề SGK có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
3
- Đề tài luận văn thạc sĩ “Hình thành năng lực làm việc với SGK cho HS
trong dạy học chương “Điện tích. Điện trường” Vật lí 11 nâng cao của tác giả Đỗ
Văn Năng, Trường Đại học Sư phạm Huế, Huế (2011) [20].
- Đề tài luận văn thạc sĩ “Rèn luyện kĩ năng khai thác sử dụng SGK cho HS
trong dạy học một số kiến thức chương “Chất rắn và chất lỏng. Sự chuyển thể” Vật
lí 10 của tác giả Nguyễn Thị Tuyết, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội
(2013) [31].
Như vậy, các công trình nghiên cứu liên quan đến SGK và rèn luyện kĩ năng
học tập đã phần nào đó chú trọng đến việc rèn luyện kĩ năng khai thác sử dụng kênh

hình, kênh chữ trong SGK cho HS trong dạy học Vật lí nhưng chủ yếu ở lớp 10 và
lớp 11 và chưa có đề tài nào nghiên cứu về rèn luyện kĩ năng sử dụng SGK chương
“Dao động cơ” Vật lí 12.
Với những lí do đã trình bày ở trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu:
“Dạy học chương “Dao động cơ”- Vật lí 12 theo hướng rèn luyện kĩ năng sử
dụng SGK cho học sinh THPT”.
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng tiến trình dạy học theo hướng rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh
hình, kênh chữ trong sách giáo khoa đáp ứng mục tiêu dạy học môn Vật lí khi dạy
học một số kiến thức chương “Dao động cơ” Vật lí 12, nhằm góp phần phát huy
tính tự lực và nâng cao chất lượng kiến thức cho HS THPT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động dạy học theo hướng rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh
chữ trong sách giáo khoa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về chương trình: Chương “Dao động cơ” Vật lí 12
- Địa bàn nghiên cứu: Một số Trường THPT thuộc huyện Sóc Sơn – Hà Nội.
4
4. Giả thuyết khoa học
Nếu tổ chức dạy học một số kiến thức chương “Dao động cơ” Vật lí 12 theo
hướng rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK cho HS đáp ứng
mục tiêu dạy học môn Vật lí, thì có thể góp phần phát huy tính tự lực và nâng cao
chất lượng kiến thức cho HS THPT.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về
5.1.1. SGK
5.1.2. Rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK cho HS trong
dạy học
5.1.3. Mục tiêu dạy học.

5.1.4.Tính tự lực học tập
5.1.5. Chất lượng kiến thức
5.2. Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của việc rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh
chữ trong SGK cho HS ở một số Trường THPT thuộc huyện Sóc Sơn - Hà Nội
5.3. Nghiên cứu nội dung chương trình SGK và xây dựng cấu trúc logic nội dung
kiến thức chương “Dao động cơ” Vật lí 12. chương 2
5.4. Một số biện pháp tổ chức rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong
SGK cho HS
5.5. Đề xuất tiến trình dạy học theo hướng rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình,
kênh chữ trong SGK cho HS trong dạy học Vật lí, nhằm góp phần phát huy tính tự
lực và nâng cao chất lượng kiến thức
5.6. Xây dựng tiến trình dạy học một số kiến thức chương “Dao động cơ” Vật lí 12
theo hướng rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK cho HS trong
dạy học Vật lí, nhằm góp phần phát huy tính tự lực và nâng cao chất lượng kiến thức
5.7. Thực nghiệm sư phạm
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
5
- Nghiên cứu các tài liệu về lí luận dạy học, giáo dục học và lí luận dạy học
theo hướng rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong dạy học Vật lí, các
luận văn liên quan đến vấn đề khai thác sử dụng SGK trong dạy học và trong dạy
học Vật lí.
- Nghiên cứu các quy định về chương trình và SGK Vật lí 12.
- Nghiên cứu SGK, sách giáo viên, tài liệu bồi dưỡng GV, luận văn, những
kết quả của các đề tài đã có có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Thực hiện các điều tra thăm dò ý kiến thực tế của GV đang giảng dạy bằng
phiếu thăm dò ý kiến để có thông tin về rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh
chữ trong SGK.
- Thực hiện các điều tra thăm dò ý kiến và thu thập thông tin thực tế từ cảm

nhận thực của HS về rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, chữ trong SGK cho HS
của GV thông qua phiếu điều tra.
6.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở một số lớp học cùng chương trình, cùng
điều kiện về học lực, cơ sở vật chất, nhằm kiểm chứng giả thuyết khoa học mà đề
tài đã đặt ra.
6.4. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lí các số liệu thu được từ kết
quả thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra tính hợp lí của tiến trình, tính hiệu quả của
đề tài.
7. Dự kiến đóng góp của đề tài
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về việc rèn luyện kĩ năng sử dụng
kênh hình, kênh chữ trong SGK cho HS THPT, nhằm góp phầm phát huy tính tự lực
và nâng cao chất lượng kiến thức
- Xây dựng tiến trình dạy học một số kiến thức chương “Dao động cơ” Vật
lí 12 theo hướng rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK đáp ứng
6
mục tiêu dạy học môn Vật lí, thì có thể góp phần phát huy tính tự lực và nâng cao
chất lượng kiến thức cho HS THPT
- Có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho GV Vật lí dạy ở trường phổ thông,
các trường THPT và sinh viên các trường sư phạm.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, cấu trúc luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận của việc rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh
chữ trong SGK đáp ứng mục tiêu dạy học môn Vật lí, nhằm góp phần phát huy tính
tự lực và nâng cao chất lượng kiến thức cho HS THPT
Chương 2: Xây dựng tiến trình dạy học một số kiến thức chương “Dao động
cơ” vật lí 12 theo hướng rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK,
nhằm góp phần phát huy tính tự lực và nâng cao chất lượng kiến thức cho HS THPT

Chương 3: Thực nghiệm sư phạm















7
NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SỬ DỤNG
KÊNH HÌNH, KÊNH CHỮ TRONG SGK ĐÁP ỨNG MỤC TIÊU DẠY HỌC
MÔN VẬT LÍ, NHẰM GÓP PHẦN PHÁT HUY TÍNH TỰ LỰC VÀ NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG KIẾN THỨC CHO HS THPT
1.1. Sách giáo khoa
1.1.1. Quan niệm về SGK
Đã có nhiều quan niệm khác nhau về SGK, dưới đây chúng tôi sẽ hệ thống
và trình bày quan niệm chung về SGK và quan niệm về SGK Vật lí.
1.1.1.1. Quan niệm chung về SGK
Theo “Sách hướng dẫn của UNESCO về nghiên cứu và đánh giá sách giáo
khoa, UNESCO, 1999”, “SGK là một trong những đầu vào quan trọng nhất của giáo
dục, nội dung của SGK phản ánh các tư tưởng cơ bản về văn hoá của các dân tộc và

thường là điểm khởi đầu cho các cuộc tranh luận và bàn cãi về văn hoá; SGK là một
trong ba yếu tố quyết định nhất đến chất lượng giáo dục của một quốc gia bên cạnh
yếu tố giáo viên và hệ thống tổ chức giáo dục, hệ thống chương trình” [30].
Khoản 2, điều 29 của Luật Giáo dục Việt Nam 2005 quy định: “Sách giáo
khoa cụ thể hoá các yêu cầu về nội dung kiến thức và kĩ năng quy định trong
chương trình giáo dục của các môn học ở mỗi lớp của giáo dục phổ thông, đáp ứng
yêu cầu về phương pháp giáo dục phổ thông”[25]. Như thế, SGK là cụ thể hoá
chương trình. Tức là cụ thể hoá chuẩn về mục tiêu, phạm vi, số lượng và mức độ
của kiến thức, kĩ năng, thái độ.
Cũng theo Luật Giáo dục Việt Nam 2005, “SGK trước hết là sách do Bộ
Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn và được ban hành trên cơ sở thẩm định của
Hội đồng quốc gia thẩm định SGK để sử dụng chính thức, thống nhất, ổn định trong
giảng dạy, học tập và đánh giá HS ở Nhà trường và các cơ sở giáo dục phổ thông
khác”[25].
8
Chương trình giáo dục phổ thông hiện nay được xây dựng theo hướng coi
trọng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tế, tích hợp giáo dục nhiều mặt. Theo
đó SGK cụ thể hoá chương trình giáo dục phổ thông, thể hiện đặc trưng bộ môn,
nhằm đáp ứng yêu cầu về đổi mới phương pháp giáo dục phổ thông.
Trong quá trình dạy học cả giáo viên và học sinh đều tương tác trực tiếp đến
SGK. Căn cứ vào tác dụng của các công cụ giúp HS nhận thức trực tiếp thế giới
hiện thực thì theo GS. TSKH. Thái Duy Tuyên “ SGK là phương tiện dạy học quan
trọng nhất. SGK cung cấp cho HS hệ thống tri thức và những tình cảm lành mạnh,
những phong cách và phương pháp làm việc hiện đại [30].
Nội dung kiến thức trong SGK trình bày một cách có hệ thống, phù hợp với
chương trình quốc gia về bộ môn, phù hợp với yêu cầu chung đối với SGK như:
tính khoa học của nội dung, tính trực quan, tính dễ hiểu, tính logic của việc trình
bày và phải có mối liên hệ hữu cơ với các môn học khác.
Tuy mỗi cách phát biểu khác nhau nhưng theo chúng tôi các cách phát biểu
đều có ý chung rằng SGK là cuốn sách trình bày hệ thống kiến thức cơ sở của một

khoa học; phản ánh các tư tưởng văn hoá của mỗi dân tộc; cụ thể hoá các yêu cầu
về nội dung kiến thức và kĩ năng quy định trong chương trình giáo dục của quốc
gia. SGK là một trong ba yếu tố quyết định nhất đến chất lượng dạy học, là tài liệu
sử dụng chính thức trong giảng dạy và học tập. SGK là phương tiện rất cần thiết
cho quá trình tổ chức nhận thức cho HS của GV, giúp định hướng quá trình tự học,
tự phát hiện, tự chiếm lĩnh tri thức mới và thực hành theo năng lực của người học,
góp phần giáo dục nhân cách và bồi dưỡng tâm hồn cho HS.
1.1.1.2.Quan niệm về SGK Vật lí
Vật lí là môn học có đặc thù khá riêng, vừa phải nêu bật hiện tượng tự nhiên,
vừa phải thực hiện các thí nghiệm để kiểm chứng, khảo sát, vừa phải áp dụng công cụ
toán học để biện luận và thống kê. Do đó, SGK Vật lí vừa phải cung cấp nội dung
kiến thức, vừa phải bổ xung các thông tin cần thiết hỗ trợ mô tả, thiết kế cách thực
hiện thí nghiệm, định hướng các hoạt động dạy học. Ngoài ra, SGK có sử dụng các
9
công cụ toán học giúp HS hiểu và lĩnh hội kiến thức một cách đầy đủ nhất. Đồng
thời, SGK Vật lí nêu ra các ứng dụng điển hình của Vật lí vào đời sống và kĩ thuật.
Theo GS.TS Nguyễn Đức Thâm “SGK Vật lí là một phương tiện dạy học Vật
lí quan trọng ở trường phổ thông. SGK Vật lí cung cấp hệ thống kiến thức Vật lí
phù hợp với chuẩn kiến thức, chuẩn kĩ năng theo quy định của chương trình. Việc
trình bày ở SGK Vật lí đảm bảo tính khoa học, tính hiện đại, tính cập nhật, tính trực
quan, dễ hiểu, logic và liên hệ chặt chẽ với các hiện tượng, các quy luật thực tế và
với các môn học khác. SGK Vật lí thực hiện đồng thời hai chức năng: vừa là
phương tiện học tập của HS, vừa hỗ trợ GV hiểu và thực hiện chương trình dạy học
Vật lí theo đúng quy định[ 26].
Như vậy, SGK Vật lí là cuốn sách trình bày hệ thống kiến thức cơ sở của bộ
môn Vật lí, cụ thể hoá các yêu cầu về nội dung kiến thức và kĩ năng quy định trong
chương trình Vật lí. SGK Vật lí là phương tiện rất cần thiết cho quá trình tổ chức
các hoạt động nhận thức cho HS của GV trong dạy học Vật lí. SGK Vật lí giúp định
hướng quá trình tự học, tự phát hiện, tự chiếm lĩnh tri thức mới và thực hành theo
năng lực của người học, góp phần bồi dưỡng các phương pháp nhận thức khoa học

cho HS.
1.1.2. Vai trò, chức năng của SGK Vật lí
1.1.2.1.Vai trò, chức năng của SGK Vật lí đối với HS
SGK Vật lí cung cấp cho HS những kiến thức, kĩ năng cơ bản, hiện đại, thiết
thực và có hệ thống theo những quy định trong chương trình của môn học. Cung
cấp thông tin, bao gồm những sự kiện, hiện tượng cụ thể, những khái niệm, những
định luật, những quy tắc, những luận thuyết khoa học về tự nhiên và xã hội của môn
học và khoa học tương ứng.
SGK Vật lí góp phần hình thành cho HS phương pháp học tập tích cực, khả
năng tự học, tự nghiên cứu môn học. Theo GS.TS Nguyễn Đức Thâm “ SGK Vật lí
là tài liệu quan trọng nhất có tác dụng hỗ trợ, tạo điều kiện cho HS tự học, tự tiếp
thu tri thức Vật lí cần thiết cho bản thân. SGK Vật lí giúp cho HS tìm hiểu kiến thức
mới, nghiên cứu và nghiền ngẫm những điều chưa hiểu biết hoặc hiểu chưa thấu
10
đáo về kiến thức Vật lí. SGK Vật lí giúp phát triển những kĩ năng làm bài tập, thực
hành thí nghiệm, kĩ năng lao động Hình thành và phát triển ở HS phương pháp
học tập, nghiên cứu khoa học, thu thập thông tin và xử lí thông tin [26].
Theo GS.TSKH. Thái Duy Tuyên “SGK Vật lí tạo điều kiện cho người học
có thể tự kiểm tra, tự đánh giá kiến thức, kĩ năng, tự khẳng định khả năng của mình
đối với môn học. Từ đó người học sẽ có được biện pháp cụ thể để bổ sung kiến thức
và kĩ năng Vật lí cho bản thân. Nhờ đó, HS tự điều chỉnh để trở thành một cái tôi
hoàn thiện về đức, trí, thể, mỹ. Việc làm này còn có ý nghĩa quan trọng là góp phần
đáp ứng yêu cầu về lực lượng lao động của quốc gia trong quá trình hội nhập và
phát triển” [30].
SGK Vật lí giúp HS tham khảo, tra cứu thông tin về Vật lí. Nó được coi là
một công cụ tin cậy, có tính thuyết phục cao đối với người học; giúp cho người học
tìm kiếm được những thông tin chính xác, phù hợp với lứa tuổi, với trình độ hiện tại
của người học. Quá trình tự làm việc với SGK tức là tự tương tác giữa HS với SGK
sẽ phát huy tối đa các phẩm chất vốn có của cá nhân. Tự làm việc với SGK sẽ tạo
điều kiện cho HS tự do sáng tạo, tự kiểm tra năng lực của mình về bài học, môn học

từ đó kích thích HS hứng thú học tập, lòng ham thích nghiên cứu khoa học, nghĩa là
hình thành ở HS khả năng tự học, tự nghiên cứu. Từ đó, HS tự tìm tòi phương pháp
nhận thức tốt nhất cho bản thân. Điều này sẽ tạo ra ở HS động cơ học tập đúng đắn
và sẽ dẫn đến kết quả tốt trong học tập.
Như vậy, vai trò, chức năng cơ bản của SGK Vật lí đối với HS là một
phương tiện cung cấp kiến thức Vật lí, thông tin khoa học bộ môn cho HS; giúp HS
tự tìm kiến thức mới, tự kiểm tra, đánh giá bản thân, tra cứu thông tin, tạo điều kiện
cho HS nắm vững, nắm chắc, nắm chính xác kiến thức. Từ đó hình thành ở các em
năng lực tự học, tự làm chủ kiến thức, thông tin cần thiết. Đồng thời SGK Vật lí
giúp phát triển năng lực nhận thức và hình thành nhân cách cho HS.
1.1.2.2. Vai trò, chức năng của SGK Vật lí đối với giáo viên
SGK Vật lí cung cấp các kiến thức phù hợp với yêu cầu về chuẩn kiến thức
và chuẩn kĩ năng theo quy định của chương trình giáo dục bộ môn. Từ đó, GV xác
11
định mục tiêu bài dạy, lựa chọn phương án, phương pháp dạy học để tổ chức cho
HS chiếm lĩnh tri thức và rèn luyện các kĩ năng cần thiết. Song song với đó, GV
được định hướng tham khảo các tài liệu cần thiết, định hướng đặt câu hỏi, bài tập,
gợi ý nhiệm vụ học tập, giao nhiệm vụ nghiên cứu cho HS, cho các nhóm HS. Khi
xác định rõ mục tiêu kiến thức, GV sẽ tổ chức tốt cho mỗi HS, mỗi nhóm HS tương
tác với kiến thức. Đây cũng chính là bước quan trọng của việc rèn luyện và hình
thành cho HS những kĩ năng cần thiết. Đồng thời, SGK có thể giúp người dạy khêu
gợi và phát huy khả năng tự học của người học.
Như vậy, vai trò, chức năng cơ bản của SGK Vật lí đối với GV là phương
tiện quan trọng nhất cung cấp các kiến thức phù hợp với yêu cầu về chuẩn kiến thức
và chuẩn kĩ năng theo quy định của chương trình giáo dục. SGK giúp GV tham
khảo, lựa chọn phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá HS và định hướng quá trình
tổ chức hoạt động nhận thức toàn diện cho HS, giáo dục nhân cách, bồi dưỡng tâm
hồn, hình thành năng lực cho HS.
Rèn luyện kĩ năng sử dụng SGK cho HS sẽ góp phần xây dựng một xã hội
học tập, học tập suốt đời. Cần chú ý rằng, các hoạt động của HS sẽ đạt được những

điều trên khi GV biết cách tổ chức cho các em các hoạt động tương tác với SGK
một cách phù hợp. Điều đáng quan tâm nữa là trong mỗi một lớp học, trình độ và
năng lực (năng lực về sức khoẻ, năng lực tư duy, năng lực tâm – sinh lý, năng lực
cảm nhận, cảm giác, ) của các em hoàn toàn không đồng đều, do vậy GV càng
phải quan tâm đánh giá được tương đối trình độ và khả năng chiếm lĩnh cũng như
nhu cầu học tập của mỗi em. Việc làm này là vô cùng khó khăn cho GV THPT hiện
nay. Tuy vậy, khó khăn này hoàn toàn có thể khắc phục được nếu có quy trình
hướng dẫn thực hiện một cách phù hợp.
1.2. Rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK cho HS
trong dạy học
1.2.1. Khái niệm kĩ năng
Theo GS.TS. Phạm Hữu Tòng “ Kĩ năng là khả năng của con người thực
hiện các hoạt động nhất định dựa trên việc sử dụng các kiến thức và kĩ xảo đã có.
12
Cơ sở tâm lí của kĩ năng là sự hiểu mối liên hệ tương hỗ giữa mục đích hoạt động,
các điều kiện hoạt động và các cách thức thực hiện hoạt động. Kĩ năng dựa trên
kiến thức, kĩ năng là kiến thức trong hành động” [29].
Khi con người hoạt động liên tục và lặp lại một hoạt động nào đó chuyên biệt
một cách thành thạo sẽ hình thành kĩ năng, kĩ xảo đối với công việc đó.
Theo quan niệm về kĩ năng như trên, có thể quan niệm kĩ năng sử dụng kênh
hình, kênh chữ trong SGK là khả năng mà mỗi người học, người dạy có thể khai
thác, xử lí, sử dụng linh hoạt các kênh thông tin có trong SGK một cách có chủ đích
mang lại hiệu quả nghiên cứu, học tập cao nhất cho bản thân. Từ đó nâng cao chất
lượng học tập, giảng dạy, chất lượng sống cho bản thân và cộng đồng.
1.2.2. Rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK trong
các hình thức lên lớp
Việc rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK cho HS cần
được tiến hành có kế hoạch sao cho các em vừa được rèn luyện ở lớp học vừa tự rèn
luyện ở nhà. Có như vậy việc rèn luyện cho HS kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh
chữ trong SGK sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Do đó, đề tài xác định việc rèn luyện kĩ

năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK cho HS được thực hiện ở cả trong giờ
lên lớp và ngoài giờ lên lớp.
1.2.2.1. Tổ chức rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK
cho HS trong giờ lên lớp
Việc rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK trong giờ lên
lớp có thể được thực hiện ở tất cả các kiểu bài, các giai đoạn, các hoạt động trong
tiến trình dạy học. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong một giờ lên lớp chỉ nên tổ chức
từ một (hoặc một vài) đến ba hoạt động nhằm rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình,
kênh chữ trong SGK cho HS chứ không nên quá ôm đồm trong tất cả các hoạt động,
các bài hay các giai đoạn. Các hoạt động mà GV chọn lựa phải có tác dụng cụ thể,
có ý đồ sư phạm rõ ràng và được cân nhắc một cách cẩn thận. GV cần đảm bảo
dành thời gian hợp lí cho hoạt động rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ
13
trong SGK. Bởi vì, thời gian của một tiết học là có hạn nhưng phải đảm bảo tất cả
các hoạt động cần thiết, đáp ứng đầy đủ kiến thức cơ bản của bài học.
Hơn nữa, trình độ, năng lực của HS là không giống nhau, để có hiệu quả
trong việc tổ chức GV cần phải theo dõi, giúp đỡ HS và điều chỉnh kịp thời. Quá
trình tổ chức này có thể sử dụng một hoặc nhiều công cụ hỗ trợ, chẳng hạn: phiếu
học tập, sơ đồ tư duy, bài tập trắc nghiệm hiển thị trên màn hình, Đồng thời, GV
có thể tổ chức rèn luyện cho từng HS, hoặc nhóm HS, hoặc vừa theo nhóm vừa theo
cá nhân HS trong điều kiện thực tiễn thích hợp. Cần quan tâm tới các đối tượng HS
cá biệt về năng lực học tập.
Trong quá trình này, GV nên có biện pháp kích thích hứng thú làm việc của
các em bằng các hình thức khen ngợi, khen thưởng, chẳng hạn: Cho điểm tốt, tuyên
dương và đề nghị tuyên dương ghi vào sổ ghi đầu bài, Một điều nữa mà GV cần
hết sức chú ý là phải đảm bảo không khí học tập thoải mái, linh hoạt, phát huy và
tôn trọng khả năng sáng tạo của các em.
Việc rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK cho HS có thể
được thực hiện ở tất cả các kiểu bài lên lớp: Bài nghiên cứu kiến thức mới, bài ôn tập,
bài thực hành, bài kiểm tra, đánh giá. Nhưng trong khuôn khổ của đề tài này chúng tôi

chỉ tập trung nghiên cứu việc rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong
SGK cho HS trong kiểu bài nghiên cứu kiến thức mới.
Đối với kiểu bài lên lớp nghiên cứu kiến thức mới thông tin kiến thức cần
giải quyết được trình bày trong SGK ẩn dưới nhiều ý đồ của tác giả, các thông tin
này thường hoàn toàn mới đối với HS. SGK trình bày nội dung kiến thức dưới hai
kênh cơ bản và hỗ trợ lẫn nhau, nếu HS biết cách sử dụng và kết hợp thông tin từ
hai kênh này thì hiệu quả lĩnh hội kiến thức sẽ được nâng cao. Do đó, GV có thể sử
dụng tiến trình rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK để thực
hiện việc tổ chức cho HS làm việc với SGK với nhiều kĩ năng khác nhau ứng với
nhiều giai đoạn khác nhau của tiến trình đã định hướng. HS có thể tiến hành sử
dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK để tự tìm ra nội dung kiến thức cần thiết và
các vấn đề cần giải quyết.
14
Trong kiểu bài lên lớp nghiên cứu kiến thức mới bao gồm các khâu sau:
v Khâu kiểm tra bài cũ
Thông thường, khâu kiểm tra bài cũ ở các trường THPT là hình thức GV yêu
cầu HS trình bày, mô tả để tái hiện kiến thức HS đã học bằng năng lực trí nhớ của
HS, hoặc HS vận dụng hiểu biết về bài đã học để giải bài tập hay trả lời các câu hỏi
do GV đặt ra. Tuy nhiên, ở khâu này GV hầu như không chú trọng đến việc kiểm
tra các kĩ năng sử dụng với các kênh thông tin trong SGK của HS.
Việc đặt câu hỏi, hoặc ra bài tập sao cho có thể vừa kiểm tra được kiến thức
Vật lí vừa kiểm tra được các kĩ năng sử dụng với các kênh thông tin của SGK là
không đơn giản, đòi hỏi GV phải có năng lực và “gia công” tỉ mỉ.
Tuy vậy, nếu GV biết sử dụng tiến trình rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh
hình, kênh chữ trong SGK cho HS để giải quyết các yêu cầu do GV đưa ra trong
khâu kiểm tra bài cũ sẽ tạo cơ hội hình thành cho HS kĩ năng sử dụng kênh hình,
kênh chữ trong SGK. Chẳng hạn, yêu cầu HS sử dụng các kĩ năng sử dụng kênh
hình, kênh chữ trong SGK để tìm thông tin còn thiếu trong khi giải một bài tập, sử
dụng đồ thị, lập sơ đồ tóm tắt kiến thức đã học, lập bảng kiến thức, bảng so sánh,
ở hoạt động kiểm tra bài cũ. Việc làm này làm bộc lộ trực tiếp năng lực học tập của

từng HS để GV kịp thời điều chỉnh, giúp đỡ.
v Khâu nghiên cứu kiến thức mới
Sử dụng tiến trình rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK
cho HS một cách hợp lí trong khâu nghiên cứu kiến thức mới có nhiều thuận lợi. GV
tổ chức cho HS sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK theo tiến trình đã được xây
dựng thì việc tìm thông tin cơ bản ban đầu của phần kiến thức cần nghiên cứu sẽ
được HS thực hiện một cách đồng loạt. Trong giai đoạn này, mỗi HS sẽ thu thập được
một số thông tin cần thiết về kiến thức, cũng như bước đầu định hình được phần kiến
thức nghiên cứu, hoặc nảy sinh, phát hiện những vấn đề cần giải quyết ở HS.
Đây là bước thuận lợi để GV tổ chức cho HS trao đổi, tranh luận theo nhóm
đưa ra tình huống có vấn đề cần giải quyết, hoặc đưa ra giả thuyết làm cho tiết học
15
thêm sôi nổi có không khí học tập. Ở khâu này, cần chú ý đến vấn đề về thời gian
cho hoạt động làm việc với SGK của HS.
v Khâu củng cố, vận dụng
Tác giả biên soạn SGK đã rất chú ý đến việc vận dụng, củng cố kiến thức HS
lĩnh hội được của mỗi bài học bằng việc đưa ra các câu hỏi, bài tập và những điều
“Em có biết?”. Do vậy, trong khâu củng cố, vận dụng, việc sử dụng tiến trình rèn
luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK sẽ góp phần phát huy tính tự
lực và nâng cao chất lượng kiến thức cho HS. Trong khâu này, GV có thể yêu cầu
HS đọc, tóm tắt các câu hỏi, bài tập, bảng kiến thức thông qua kênh hình, kênh chữ
trong SGK để giải quyết các yêu cầu về củng cố, vận dụng bài học của GV, và giao
nhiệm vụ rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK, tài liệu học
tập ở nhà cho HS.
Có thể sử dụng tiến trình rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ
trong SGK trong hoạt động củng cố, vận dụng một đơn vị kiến thức, hay một bài
học, một chương hoặc một phần.
1.2.2.2. Tổ chức rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK
cho HS ngoài giờ lên lớp
Hoạt động học tập trong giờ lên lớp của HS cho dù HS và GV có nỗ lực đến

đâu thì cũng không thể giải quyết triệt để mục tiêu học tập, rèn luyện kĩ năng do
nhiều yếu tố khách quan. Do vậy, việc tiếp tục tổ chức rèn luyện kĩ năng sử dụng
kênh hình, kênh chữ trong SGK cho HS ngoài giờ lên lớp là rất cần thiết.
HS tự sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK ngoài giờ học có nhiều thuận
lợi, chẳng hạn các em không bị giới hạn thời gian luyện tập, các em tự làm việc theo
ý thích, năng lực cá nhân, có không gian, thời gian riêng do các em lựa chọn và sắp
xếp. Bên cạnh đó, sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK ngoài giờ lên lớp cũng
có một số khó khăn nhất định như không có sự hướng dẫn, giám sát, điều chỉnh trực
tiếp và kịp thời của GV. Do đó, đòi hỏi HS phải có ý thức tự giác cao và HS phải
tiếp tục giải quyết nhiệm vụ học tập chưa thật sự hoàn chỉnh trên lớp.
16
Để có thể tổ chức tốt hoạt động rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ
trong SGK cho HS ngoài giờ lên lớp, GV cần phải xác định các kĩ năng cụ thể cần rèn
luyện, biện pháp tổ chức rèn luyện, các yêu cầu HS cần đạt được trong quá trình rèn
luyện. Từ đó đưa ra các yêu cầu cụ thể để HS rèn luyện ở nhà, hướng dẫn một cách
chi tiết các bước mà HS cần thực hiện để đảm bảo HS có thể thực hiện được và có
biện pháp kiểm tra kết quả rèn luyện của HS.
GV nên có các phương án yêu cầu HS thực hiện nhiệm vụ học tập ở nhà một
cách vừa sức, có tính kích thích được hứng thú học tập, thúc đẩy sự nỗ lực, tò mò tìm
kiếm kiến thức của HS. Đồng thời, GV định hướng hoạt động tự lực của HS sao cho
nếu các em thực sự nỗ lực thì sẽ tiếp thu tốt bài học hôm sau, củng cố tốt bài đã học.
Quá trình rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK cho HS
ngoài giờ lên lớp sẽ góp phần phát huy tính tự lực và nâng cao chất lượng kiến thức
cho HS một cách rất thuận lợi.
1.2.3. Các mức độ sử dụng kênh hình, kênh chữ trong SGK
1.2.3.1. Mức độ 1
Mức độ 1 được sử dụng trong trường hợp HS chưa có kĩ năng sử dụng kênh
hình, kênh chữ trong SGK hoặc có nhưng ở mức thấp. Trường hợp này GV phải
làm mẫu, hướng dẫn tỉ mỉ, rõ ràng cho các em theo trình tự các bước sử dụng kênh
hình, kênh chữ. Phải đảm bảo HS phải quan sát thấy, nghe thấy rõ ràng và hiểu

được các bước tiến hành. Sau đó, GV thực hiện lại và yêu cầu HS thực hiện theo.
GV chú ý quan sát, bao quát HS để kịp thời điều chỉnh nếu cần thiết.
Có thể tóm tắt việc sử dụng tiến trình rèn luyện kĩ năng sử dụng kênh hình,
kênh chữ trong SGK Vật lí cho HS THPT trong dạy học Vật lí ở mức độ 1 như sau:



1.2.3.2. Mức độ 2:
Mức độ 2 được sử dụng trong trường hợp HS có kĩ năng sử dụng kênh hình,
kênh chữ trong SGK nhưng còn lúng túng chưa thành thạo hoặc thụ động. Trong
GV hướng dẫn
HS làm việc GV quan
sát, điều chỉnh
GV và HS cùng
thực hiện

×