Lời nói đầu
1-/ Tính cấp thiết của đề tài.
Trong nền kinh tế thị trờng, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự chi
phối nghiệt ngã của các quy luật kinh tế (quy luật giá trị, quy luật cung, cầu,
quy luật cạnh tranh ...) tất yếu dẫn đến sự phát triển, tăng trởng của doanh
nghiệp này, phá sản của doanh nghiệp khác, Sức mạnh của nền kinh tế thị tr-
ờng là sự tăng trởng cao, song nó cũng chứa đựng nhiều khuyết tật cố hữu hình
thành những mâu thuẫn không tự điều hoà nổi.
ở nớc ta từ sau Đại hội Đảng VI (1986) Nhà nớc chủ trơng chuyển nền
kinh tế hiện vật theo cơ chế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hớng XHCN vận hành theo cơ chế thị trờng. Trong cơ chế
đó các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh (hợp pháp) vừa hợp tác phát triển. Sự
thay đổi này làm thay đổi mọi mặt hoạt động kinh doanh của ngành thơng mại
Việt Nam.
Sự giao lu hàng hoá trên thị trờng cả nớc đợc thông suốt không ràng buộc
nhiều bởi các mệnh lệnh hành chính. Thị trờng trong nớc từng bớc phát triển và
ngày càng hoà nhập vào thị trờng khu vực và thế giới.
Hàng hoá trên thị trờng phong phú, nhu cầu tiêu dùng tuỳ theo khả năng
thanh toán của mình. Điều đó kích thích các nhà sản xuất tích cực đổi mới công
nghệ, mặt hàng, nâng cao chất lợng và hạ giá thành hàng hoá.
Sự chuyển đổi nền kinh tế theo hớng thị trờng hàng hoá đã khơi dậy
nhiều tiềm năng kinh tế, làm cho kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, nó xoá dần
tính chất tự cung tự cấp trong sản xuất và lu thông hàng hoá trên nhiều vùng
kinh tế xã hội của Việt Nam.
1
Nhà nớc thông qua các công cụ quản lý vĩ mô tác động vào thị trờng để
điều tiết cung cầu. Hàng hoá đợc tự do lu thông giữa các vùng trong cả nớc thị
trờng sôi động tạo khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp dẫn đến hiệu quả
kinh doanh trong thơng mại.
Phân bón là một trong những mặt hàng vật t quan trọng phục vụ chủ yếu
cho sản xuất Nhà nớc. Tuy nhiên trong tổng khối lợng nhiều triệu tấn phân hoá
học tiêu dùng hàng năm, thì sản xuất trong nớc mới đáp ứng đợc khoảng 65%
nhu cầu về lân, cha tới 10% nhu cầu về đạm, còn nhiều loại khác thì trong nớc
vẫn cha sản xuất đợc. Từ nhiều năm nay Nhà nớc đã áp dụng nhiều biện pháp
quản lý khác nhau: quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch, chỉ định các đơn vị đầu
mối kinh doanh nhập khẩu; hỗ trợ giá cớc vận chuyển phân bón Bắc - Nam lên
miền núi, cho vay vốn sản xuất, dự trữ thời vụ phân bón với lãi suất u đãi ... Tuy
nhiên, thị trờng phân bón hoá học nớc ta trong những năm qua có nhiều biến
động bất thờng, có nhiều cơn sốt nóng, lạnh thất thờng. Và điều này đã làm ảnh
hởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp kinh
doanh phân bón ở Việt Nam thời gian qua.Trớc tình hình đó việc nghiên cứu tổ
chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh
phân bón ở Việt Nam, nhằm tìm ra các phơng hớng và biện pháp tổ chức hoạt
động có hiệu quả của việc điều khiển lu thông phân bón vô cơ ở Việt Nam trong
tơng lai là việc hết sức quan trọng và cần thiết.
2-/ Mục đích nghiên cứu của đề tài.
-Đánh giá một cách đúng đắn thực trạng hệ thống tổ chức,quản lý lu
thông và tình hình hoạt động kinh doanh phân bón vô cơ của các doanh nghiệp
nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ ở Việt nam hiện nay.
-Đề xuất phơng hớng hoàn thiện hệ thống quản lý và kinh doanh phân
bón vô cơ nhằm giải quyết một cách căn bản vấn đề phân bón và oỏn định thị
trờng phân bón ở việt nam trong thời gian tới.
2
3-/ Nội dung của đề tài
Để đạt đựơc mục tiêu trên, đề tài sẽ tập trung giải quyết những vấn đề sau:
-Đánh giá và phân tích hệ thống tổ chức quản lý lu thông phân bón vô cơ
ở Việt nam.
-Đánh giá và phân tích hệ thống tổ chức kinh doanh phân bón vô cơ ở
Việt nam bao gồm, các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất phân bón vô cơ trong
nớc và các doanh nghiệp kinh doanh buôn bán phân bón vô cơ khác.
-Đề ra các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý
và kinh doanh phân bón vô cơ ở Việt nam, từ đó đề xuất một số kiến nghị với
Chính phủ và Nhà nớc về vấn đề điều hành phân bón trong thời gian tới.
3
phần I
Hệ thống tổ chức quản lý lu thông phân bón
vô cơ ở Việt nam
1-/ Nhà nớc và vai trò tổ chức, quản lý lu thông
phân bón vô cơ trên thị trờng.
1.1-/ Nhà nớc và vai trò điều tiết nền kinh tế.
Kinh tế thị trờng là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trờng, ở đó sản
xuất cái gì, nh thế nào, cho ai đều đợc quyết định thông qua thị trờng.
Trong nền kinh tế thị trờng, các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh
nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trờng. Thái độ c
xử của các thành viên tham gia thị tròng là hớng vào tìm kiếm lợi ích của mình
theo sự dẫn dắt của giá cả thị trờng.
Kinh tế thị trờng vận hành theo cơ chế thị trờng, đến lợt nó, cơ chế thị tr-
ờng tác động dới sự chi phối của các quy luật thị trờng trong môi trờng cạnh
tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Nhân tố cơ bản của thị trờng, cơ chế thị trờng là hàng hoá tiền tệ, ngời
bán, ngời mua, từ đó hình thành mối quan hệ cơ bản của cơ chế thị trờng là
quan hệ cung cầu. Về bản chất, cơ chế thị trờng là cơ chế giá cả tự do. Cơ chế
này có một số đặc trng sau:
-Các vấn đề liên quan đến phân bổ, sử dụng các nguồn tài nguyên, lao
động, vốn đợc quyết định một cách khách quan thông qua hoạt động của các
quy luật kinh tế.
-Hầu nh tất cả các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế đều đợc
tiền tệ hoá.
-Lợi nhuận là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng trởng
kinh tế và lợi ích kinh tế. Cơ chế thị trờng dùng lỗ lãi để quyết định các vấn đề
kinh tế cơ bản.
4
-Cạnh tranh là môi trờng hoạt động của cơ chế thị trờng, là yếu tố thúc
đẩy tiến bộ kỹ thuật, tăng năng suất lao động và hiệu quả của sản xuất.
-Cơ chế thị trờng không phải là một mớ hỗn độn mà là một trật tự kinh tế,
trật tự này đợc hình thành bởi sự tác động của hệ thống quy luật của thị tr-
ờng.Thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế, sự linh hoạt của hệ thống
giá cả, nền kinh tế thị trờng có khả năng duy trì đợc sự cân bằng của sức cung
và sức cầu về hàng hoá, dịch vụ, ít khi gây ra sự khan hiếm và thiếu thốn hàng
hoá.
Ưu điểm của cơ chế thị trờng:
+ Cơ chế thị trờng có khả năng tự động điều tiết nền sản xuất xã hội, tự
động phân bổ các nguồn tài nguyên vào các khu vực,các ngành kinh tế mà
không cần bất cứ sự điều khiển từ trung tâm nào.
+ Cơ chế thị trờng, với sự dẫn dắt của động lực lợi nhuận có thể phát huy
cao nhất tính năng động, tài năng của mỗi ngời. Kích thích áp dụng kỹ thuật
mới, giảm chi phí sản xuất, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực...
thúc đẩy LLSX phát triển, tăng trởng kinh tế cả theo chiều rộng và chiều sâu.
+ Cơ chế thị trờng có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng, phong phú của con
ngời và xã hội. Cơ chế thị trờng buộc ngời sản xuất phải không ngừng cải tiến
kỹ thuật, mẫu mã sản phẩm để phù hợp với sở thích và lợi ích của ngời tiêu
dùng, trên cơ sở thoả mãn nhu cầu của ngời tiêu dùng mà tối đa hoá lợi nhuận,
từ đó làm cho chất lợng cuộc sống không ngừng đợc nâng cao.
+ Nhờ những u thế của mình, cơ chế thị trờng có khả năng đảm bảo tốc
độ tăng trởng và phát triển nhanh chóng về kinh tế, thúc đẩy tiền bộ xã hội mà
không một cơ chế nào trớc đây có thể sánh đợc. Paul A.samuelson nhận xét
rằng:Một nền kinh tế thị trờng là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách
không tự giác nhân dân và doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị trờng.
Nó là một phơng tiện để giao tiếp, để tập hợp tri thức của hàng triệu cá nhân
khác nhau, không có bộ óc trung tâm, nó vẫn giải đợc bài toán mà máy tính lớn
nhất ngày nay không thể giải đợc. Không ai thiết kế ra nó, nó tự xuất hiện và
cũng nh xã hội của loài ngời nó đang thay đổi.
5
Những nhợc điểm của cơ chế thị trờng:
+ Cơ chế thị trờng có thể gây ra những mât ổn định và thờng xuyên phá
vỡ cân đối trong nền sản xuất xã hội. Thực tế phát triển kinh tế thị trờng chỉ rõ
những vấn đề lạm phát và thất nghiệp, chu kỳ kinh doanh luôn là những căn
bệnh kinh niên không thể khắc phục đợc nếu không có sự can thiệp của nhà n-
ớc.
+ Cơ chế thị trờng bao hàm cả những thất bại thị trờng, nó là môi trờng
đẻ ra các tệ nạn kinh tế nh buôn lậu, hàng giả, lừa đảo, cạnh tranh không lành
mạnh.... làm giảm hiệu quả của nền kinh tế.
+ Cơ chế thị trờng có xu hớng làm cho sự phân hoá thu nhập ngày càng
tăng giữa các tầng lớp dân c, gây ra những bất bình đẳng về kinh tế trong xã
hội.
+ Trong cơ chế thị trờng, vì mục tiêu lợi ích cá nhân, một số hoạt động
kinh tế có khả năng là tăng mức ô nhiễm môi trờng, tâm lý chạy theo đồng tiền
làm xuất hiện lối sống ích kỷ, thực dụng, có thể gây ra những hậu quả xấu về
mặt xã hội.
+ Hơn nữa, các lĩnh vực hoạt động rất cần cho sự ổn định và tăng trởng
kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội nh có mức sinh lợi thấp, thời gian thu hồi
vốn chậm thờng không đợc giới kinh doanh chú ý đầu t phát triển,
Qua sự phân tích trên cho thấy, nền kinh tế thị trờng không phải là một
hệ thống đợc tổ chức hài hoà mà bản thân hệ thống đó chứa đựng rất nhiều nhợc
điểm. Những khuyết tật của cơ chế thị trờng cần phải đợc khắc phục hạn chế.
Song bản thân thị trờng không thể tự giải quyết những vấn đề đó. Vì vậy, kinh
tế thị trờng ngày nay không thể thiếu đợc vai trò quản lý của nhà nớc. Kinh tế
thị trờng không phải là gậy thần, liều thuốc vạn năng. Thành công của mỗi quốc
gia khi chuyển sang kinh tế thị trờng chủ yếu phụ thuộc vào sự kết hợp giữa khả
năng điều tiết của thị trờng (bàn tay vô hình) và sự quản lý điều tiết của nhà nớc
(bàn tay hữu hình). Đến nay vai trò của nhà nớc trong kinh tế thị trờng đã đợc
khẳng định cả về mặt lý luận và thực tiễn. Vấn đề chỉ còn là sự vận dụng trong
từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể nh thế nào để đảm bảo có hiệu và thành
6
công. Vai trò của nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng đợc thể hiện ở những mặt
sau đây:
- Thứ nhất: Nhà nớc tạo môi trờng diều kiện cho kinh tế thị trờng phát
triển. Nhà nớc bảo đảm sự ổn định về mặt kinh tế, chính trị xã hội. Nhà nớc tập
trung xây dựng cơ sở vật chất, tài chính, giáo dục và luật pháp. Đối với những
nớc mới chuyển sang cơ chế thị trờng nh nớc ta thì phải chú ý nhiều đến kết cấu
hạ tầng, luật pháp và giáo dục.
-Thứ hai: Nhà nớc định hớng sự phát triển nền kinh tế thông qua việc
xây dựng và tổ chức thực hện các chiến lợc kinh tế xã hội, các chơng trình mục
tiêu, các kế hoạch ngắn và dài hạn.
-Thứ ba: Nhà nớc bảo đảm dân chủ, công bằng xã hội. Xây dựng một xã
hội văn minh, dân chủ rộng rãi, tôn trọng nhân cách của con ngời là điều kiện
cho sự phát triển của xã hội. Trong kinh tế thị trờng, sự phân hoá giàu nghèo và
giai tầng rất lớn. Nhà nớc cần phải có các chính sách xã hội hợp lý để bảo đảm
cuộc sống của những ngời nghèo và các đối tợng chính sách xã hội; bảo đảm
cho mọi ngời đợc tự do hành nghề, bình đẳng trớc pháp luật; bảo đảm môi trờng
vật chất tinh thần cho mọi công dân.
-Thứ t: Nhà nớc trực tiếp quản lý các doanh nghiệp nhà nớc. Các doanh
nghiệp này ra đời do kết quả của quốc hữu hoá các doanh nghiệp t nhân, xây
dựng mới các doanh nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Đây là
những doanh nghiệp mà nhà nớc dựa vào để điều tiết và điều chỉnh nền kinh tế,
bảo đảm cho sự phát triển cân đối cho nền kinh té quốc dân và có thu nhập để
trang trải một phần các chi phí hoạt động của bộ máy nhà nớc.
1.2-/ Phân bón vô cơ- đối tợng quản lý và điều tiết lu thông của nhà nớc.
Phân bón là một trong những yếu tố quan trọng trong sản xuất nông
nghiệp, nó giúp cho nhiều nớc đông dân trên thế giới tự túc đợc lơng thực, thoát
khỏi đói nghèo. Đồng thời phân bón cũng là mặt hàng kinh doanh có nhiều rủi
ro cả cho những nhà sản xuất lẫn doanh nghiệp lu thông.
7
ở nớc ta, có tới 80% dân số làm nông nghiệp, trong những năm tiến hành
công cuộc đổi mới gần đây, nền nông nghiệp nớc nhà có những bớc phát triển t-
ơng đối ổn định, đã góp phần tăng trởng kinh tế chung của đất nớc, sản lợng l-
ơng thực mỗi năm một tăng, từ chỗ hàng năm thiếu ăn về lơng thực, tới nay
chúng ta không những đủ ăn, có dự trữ mà còn xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên
thế giới. Có đợc kết đó là do Chính phủ có những chủ chơng, chính sách phù
hợp với yêu cầu thực tiễn, phù với bối cảnh sản xuất hàng hoá trong cơ chế thị
trờng và đã làm tăng đáng kể năng suất cây trồng mỗi năm. Theo tính toán của
IFRT năm 1996 thì việc tăng năng suất đóng góp trên 80% tăng sản lợng lơng
thực và trong tơng lai việc tăng sản lợng đó sẽ còn dựa vào việc tăng năng
suất.Vì vậy để đảm bảo an ninh lơng thực quốc gia ,thâm canh và giống mới có
thể đợc coi nh là giải pháp duy nhất đối với Việt nam. Trong thâm canh và trong
việc sử dụng giống mới thì phân bón vô cơ vô cùng quan trọng và ngày càng
quan trọng. Nó góp phần tăng năng suất cây trồng qua nhiều cơ chế tác động
khác nhau. Song quan trọng là phân bón cung cấp cho cây trồng những dinh d-
ỡng cần thiết mà đất không đủ khả cung cấp, góp phần duy trì độ phì nhiêu của
đất trong quá trình canh tác. Mặt khác cùng với năng suất kinh tế, phân bón góp
phần tăng lợng sinh khối và nhờ đó tăng hữu cơ trả lại cho đất-yếu tố cực kỳ
quan trọng với đất nhiệt đới. Tuy nhiên, để đa phân bón vô cơ vào sử dụng trong
nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu sử dụng cho ngời nông dân, nhằm tăng năng suất
cây trồng, tăng sản lợng thì không thể không kể đến vai trò của các nhà sản
suất-kinh doanh-cung ứng phân bón vô cơ thên thị trờng, đó là các nhà doanh
nghiệp kinh doanh phân bón chuyên ngành, các doanh nghiệp nhà nớc, các
doanh nghiệp và đại lý t nhân. Theo con số thống kê của các nhà chuyên môn
thì khả năng đáp ứng bằng sản xuất phân bón công nghiệp trong nớc còn thấp,
mới khoảng 65--75% về phân lân,8-9% về phân đạm, còn lại đều phải nhập
khẩu. Do vậy với nhu cầu phân bón sử dụng hàng năm cho nông nghiệp nớc ta,
ớc tính năm 2000 là 2,95 triệu tấn thì số lợng phân bón các loại cần nhập khẩu
hàng năm là rất lớn và phải bỏ hàng trăm triệu USD để nhập phân bón.Vì vậy,
làm thế nào để nhập đủ phân bón, cung ứng đúng thời vụ nhng lại không để tồn
8
kho gây ứ đọng, gây hiệu quả kinh doanh thấp-đó là bài toán thật khó giải đối
với mỗi doanh nghiệp kinh doanh phân bón trên thị trờng và các cơ quan quản
lý vĩ mô của Nhà nớc.
Nhìn lại, quá trình kinh doanh phân bón vô cơ từ năm 1991 trở về trớc,
việc nhập khẩu phân bón vô cơ (chủ yếu là URê) nằm trong quỹ đạo của kế
hoạch hoá tập trung.Theo phơng thức này, mặc nhiên Uỷ ban Kế hoạch Nhà nớc
(nay là Bộ Kế hoạch và Đầu t) và Bộ Tài chính thay mặt Chính phủ nhận nợ và
thanh toán với phía nớc bạn bằng nông sản và các loại hàng hoá khác.Tổng
công tyVTNN tiếp nhận phân nhập khẩu song, tổ chức tiêu thụ đợc đến đâu thì
nộp tiền cho Bộ Tài chính đến đó. Nh vậyKinh doanh theo cơ chế này chẳng
mấy khó khăn, phức tạp và Tổng công ty VTNN luôn an toàn, bởi vì đợc bao
cấp trong giá nhập khẩu và tỷ giá ngoại tệ, đồng thời đợc hởng chiết khấu lu
thông theo tỷ lệ ấn định doanh số. Từ tháng 8-1991, tình trạng bắt đầu biến đổi
khác hẳn,Tổng công ty chỉ đợc tiếp nhận nốt 100.000 tấn URE theo nghị định
th bằng 10% số nhập khẩu theo kế hoặch hàng năm trớc đó (do liên xô cắt viện
trợ),còn lại chuyển hớng khai thác nguồn hàng này ở khu vực II.Cùng thời gian
đó, chúng ta thiếu ngoại tệ, với Tổng công ty VTNN, toàn bộ vốn kinh doanh
chỉ có114 tỷ đông, giá ngoại tệ tăng liên tục tới 7000Đ/USD và giá URE quốc
tế cũng tăng từ 190-210USD/tấn. Nh vậy Tổng công ty chỉ nhập thêm đợc
184.000 tấn URE từ thị trờng mới, nâng tổng khả năng cung ứng lên hơn
284.000 tấn, bằng khoảng 25% nhu cầu phân bón cả nớc lúc bấy giờ. Do sự mất
cân đối cung-cầu này, lập tức dẫn tới cơn sốt phân bón vô cơ, tỷ giá cánh kéo
bất hợp lý đến mức 1kgURE=2,5-2,6 kg thóc. Đến năm 1992&1993, việc kinh
doanh nhập khẩu phân bón gần nh đợc thả nổi toàn bộ theo cơ chế thị trờng;
Năm 1992 có tới trên 100 đầu mối nhập khẩu phân bón, năm 1993 các doanh
nghiệp có chức năng hay không có đều đi buôn phân bón (khi đó cha có hạn
ngạch), nhiều doanh nghiệp vốn lu động tuy ít nhng do nhà nớc có chủ trơng
cho vay Đôla với điều kiện là phải nhập khẩu hàng hoá (đồng thời có chủ trơng
cấm nhập khẩu 17 mặt hàng) nên đã cố tình vay Ngân hàng, và vay vốn này dồn
đi buôn phân bón về nhiều. Trong thời gian ngắn có tới gần 100 đơn vị đi buôn,
9
phân bón về nhiều, ứ đọng, phát sinh tăng thêm các loại chi phí lu kho,lu
bãi,hao hụt, hao hụt, lãi suất ngân hàng....Do vậy buộc phải bán giá thấp; giá
lúc bấy giờ rẻ hơn nhiều vùng, nhiều nớc trong khu vực. Đồng thời lúc này do
do chênh lệch mức lãi suất giữa vay tiền đồng và tiền đô la càng khích lệ các
doanh nghiệp nhẩy vào lãnh vực nhập khẩu phân bón. Cụ thể vay đô la thì mức
lãi suất 0,5% tháng (=6% năm) trong khi tỷ giá ít thay đổi, nếu vay tiền đồng
2,1% tháng (=25,2% năm) nh vậy chênh lệch lãi suất giữa vay đô la và tiền
đồng trong 6 tháng là 9,6%, bán lỗ phân bón 5%(trong 6 tháng) nẫn còn lãi
4,6%. vì thế nên có nhiều doanh nghiệp làm ngơ chuyện lỗ lãi. Theo ớc tính của
các nhà kinh tế thì quý IV/1992 và cả năm 1993 cả nớc lỗ khoảng 200-300 tỷ
đồng, số lỗ này nhà nớc gánh chịu chủ yếu vì vốn kinh doanh của các doanh
nghiệp quốc doanh phần lớn là vốn ngân sách cấp.Bớc sang năm 1994, do năm
1993 phân bón ứ đọng, thua lỗ nên Chính phủ đã cấm nhập khẩu phân bón tràn
lan, gom lại chỉ có 17 đầu mối, trong đó có 16 đầu mối nhập khẩu 40% còn 01
đầu mối đảm nhận 60%. Sự thay đổi về nhập khẩu phân bón theo chiều hớng
thu gọn lại đầu mối và các đơn vị đợc giao hạn ngạch nhập cha đủ điều kiện
đảm nhận đã đẩy đến sự hững hụt trong nhập khẩu phân bón, thị trờng trong n-
ớc bị thiếu trầm trọng, con sốt phân bón thịnh hành. Để duy trì mặt hàng cung
cấp liên tục phân bón cho hệ thống đại lý có phân bón phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có hạn ngạch phải đi
kiếm hạn ngạch của các doanh nghiệp quốc doanh để nhập khẩu phân bón. Sang
đầu năm 1995 do ảnh hởng giá phân bón của thị trờng thế giới liên tục tăng và
tăng cao ở mức Urê khoảng 260-265 USD/T, lúc này cũng là thời điểm chuẩn bị
phải sử dụng phân bón, các doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận lại lại đua nhau
nhập khẩu phân bón và tình trạng mua bán hạn ngạch giữa các doanh nghiệp
quốc doanh và ngoài quốc doanh càng trở nên phức tạp và tiêu cực hơn. Cho
đến tháng 4/1995 giá phân bón thế giới đột biến hạ Urê còn 215-220 USD/T và
tồn kho vẫn nhiều , lập tức ban vật giá Chính phủ đã có quyết định cho phụ thu
phân bón nhập khẩu với mức 7% trên gáa nhập thực tế và sau hơn 1 tháng hạ
xuống còn 4%. Khi đó Tạp chí phân bón thị trờng quốc tế ngày 8/5/1995 nhận
10
xét: Việc Chính phủ Việt nam cho ra phụ thu 7% thực tế là thuế nhập khẩu,
mức thuế này nhằm mục đích là cứu lấy các doanh nghiệp kinh doanh cá mập
, và kèm theo đó là trợ giá cớc phí vận chuyuển phân bón cho nông dân ở các
tỉnh miền núi để nông dân ở các vùng này đợc hởng giá tơng ứng với giá ở các
tỉnh miền xuôi. Nh vậy, những giải pháp can thiệp của Nhà nớc trong thời gian
này nhằm bảo vệ lợi cho ngời đã nhập khaảu phân bón, tuy nhiên vẫn chỉ là các
giải pháp tình thế, chắp vá bởi lẽ nó chỉ là các giải pháp cụ thể xảy ra từng năm.
Khi đó nhiều ý kiến cho rằng, để doanh nghiệp kinh doanh phân bốn tự xử lý
tìm ra sự an toàn về tài chính, lấylãi lúc này bù lỗ lúc khác, tự giữ vốn tiếp tục
hoạt động thì các doanh nghiệp phải tự vơn lên trở thành nghề kinh doanh,
chấm dứt tình trạng kinh doanh theo kiểu chụp dật, đánh quả, có lời thì nhập
khó khăn thì bỏ. Nhận thức này đã đợc dần sáng tỏ nên năm 1996-1997 cơ chế
nhập khẩu và cơ chế quản lý giá phân bón đã có chặt chẽ hơn. Chính phủ trực
tiếp quy định đầu mối nhập khẩu phân bón và thành lập tổ điều hành để chỉ đaọ,
đôn đốc, kiểm tra việc nhập khẩu làm sao khớp với thời điểm mùa vụ, đảm bảo
nhu cầu cho sản xuất nông nghiệp; cơ chế vay ngân hàng và bảo lãnh cũng đợc
quy định chặt chẽ hơn, không bảo lãnh nhập trả chậm tràn lan nh trớc đây, vì
thế đã hạn chế đợc việc mua bán hạn ngạch, hạn chế đợc phần rủi ro và hạn chế
đợc việc gây rối loạn thị trờng. Tuy vậy việc can thiệp của Nhà nớc vào việc
nhập khẩu phân bón nh trên cũng hết sức khó khăn, bởi lẽ giá cả phân bón biến
động phức tạp, giá URÊ trên thị trờng thế giới có lúc giảm rất nhanh và chỉ còn
98-102 USD /tấn, gần đây giá DAP chỉ trong vòng hai tháng đã giảm tới 50-60
USD / tấn( từ 230USD/tấn còn 175USD/tấn). Thực sự cho tới quyết định
140TTg (7/3/1997) của Thủ tớng chính phủ cho tới nay thì tình hình kinh doanh
phân bón mới có nhiều tiến bộ và hiệu quả. Đó là việc lập kế hoạch nhập khẩu
phân bón đợc tính toán khá sát với yêu cầu thực tế, đã có quyết định giao kế
hoạch nhập khẩu ngay từ đầu năm, tạo điều kiện chủ động giao dịch, ký kết hợp
đồng nhập khẩu và cung ứng kinh doanh trên thị trờng.
Từ những phân tích trên mục đích chứng minh rằng xây dựng cơ chế thị
trờng là bớc đi tất yếu khách quan, nghĩa là chấp nhận trên thực tế sự tham gia
11
kinh doanh phân bón vô cơ của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
khác, một khi các doanh nghiệp này có thực lực về kinh tế. Nhng không có
nghĩa là phó mặc cho thị trờng tất cả, mà các cơ quan chức năng của Nhà n-
ớc cần giám sát chặt chẽ, tổ chức theo dõi thờng xuyên việc thực thi nhiệm vụ
kinh doanh phân bón, đặc biệt là nhập khẩu, để từng bớc ổn định đội ngũ th-
ơng nhân chuyên kinh doanh phân bón có thực lực kinh tế, có kinh nghiệm
kinh doanh.
2-/ Hệ thống cơ quan quản lý và điều tiết lu thông
phân bón vô cơ của nền kinh tế.
2.1-/ Về Tổ chức cơ quan quản lý và điều tiết phân bón vô cơ
Nh trên đã phân tích, trong tổng khối lợng nhiều triệu tấn phân hoá học
tiêu dùng hàng năm thì sản xuất trong nớc mới chỉ đáp ứng đợc khoảng 65%
nhu cầu về lân, cha tới 10% nhu cầu về đạm, còn nhiều loại khác thì trong nớc
vẫn cha sản xuất đợc. Do vậy hàng năm nớc ta vẫn phải bỏ ra hàng triệu USD để
nhập khẩu phân bón. Từ nhiều năm nay nhà nớc đã áp dụng nhiều biện pháp
quản lý khác nhau, quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch, chỉ định các đơn vị đầu
mối đợc kinh doanh nhập khẩu; hỗ trợ giá cớc vận chuyển phân bón Bắc-Nam
lên Miền núi, cho vay vốn sản xuất, dự trữ thời vụ phân bón với lãi suất u
đãi... .Tuy nhiên, những năm gần đây, hệ thống cung ứng phân bón phải đối mặt
với những thử thách to lớn và trải qua mấy nấc thăng trầm tơng ứng với những
phơng sách quản lý khác nhau của nhà nớc. Từ giữa năm 1991 trở về trớc việc
nhập khẩu phân bón hoá học (chủ yếu là ure) nằm trong quy đạo của cơ chế kế
hoạch hoá tập trung. Mỗi năm, Tổng công ty vật t nông nghiệp thực hiện nhập
khẩu từ 800.000-1.000.000 tấn ure theo nghị định th giữa hai nhà nớc Việt Nam
và Liên Xô, sau đó tiến hành phân phối theo kế hoạch đã định cho các đơn vị ở
các địa phơng trong cả nớc. Theo phơng thức này Uỷ ban kế hoạch Nhà nớc và
Bộ tài chính thay mặt chính phủ nhận nợ và thanh toán với phía Liên Xô. Tổng
công ty vật t nông nghiệp tiếp nhận phân nhập khẩu xong, tổ chức tiêu thụ sau
đó nộp tiền cho Bộ tài chính.
12
-Từ tháng 8/1991, tình huống bắt đầu biến đổi khác hẳn, Tổng công ty
Vật t nông nghiệp đợc tiếp nhận nốt 100.000 tấn ure theo nghị định th, bằng
10% số nhập khẩu theo kế hoạch hàng năm trớc đó, do Liên Xô cắt viện trợ.
-Đến năm 1992- 1993, việc kinh doanh phân bón vô cơ đợc thả nổi toàn
bộ theo cơ chế thị trờng.
-Bớc sang năm 1994 đã đánh dấu một bớc đổi mới quan trọng về cơ chế
quản lý của nhà nớc đối với lĩnh vực lu thông, nhập khẩu phân bón. Với việc chỉ
định các đầu mối nhập khẩu phân bón, tuy nhiên các đầu mối nhập khẩu đợc
sàng lọc, giảm bớt số lợng, coi trọng tiêu chuẩn chất lợng và năng lực thực sự về
tài chính, tiếp thị.
Từ năm 1995 đến nay: Nhà nớc tiếp tục quản lý chặt chẽ nhập khẩu phân
bón.
13
Sơ đồ 1 - Các cơ quan quản lý và điều tiết phân bón
vô cơ thời kỳ đổi mới cơ chế kinh tế.
Nh vậy, có thể khẳng định trong cơ chế thị trờng, không thể thiếu vai trò
quản lý vĩ mô, kế hoạch định hớng của nhà nớc và sự phối hợp đồng bộ của các
cấp, các ngành với vấn đề quản lý và điều tiết phân bón vô cơ ở nớc ta. Công tác
quản lý Nhà nớc trong lĩnh vực nhập khẩu và kinh doanh phân bón vô cơ phải
nhằm mục tiêu đa việc nhập khẩu và kinh doanh phân bón vào nề nếp, nhằm
cung ứng đủ và kịp thời phân bón vô cơ trực tiếp đến hộ nông dân phục vụ sản
xuất với giá cả hợp lý, gắn việc cung ứng vật t, dịch vụ (trớc hết là phân bón )
với việc thu mua lúa hàng hoá của nông dân thành một hệ thống bảo đảm sự
quản lý và điều hành của Nhà nớc. Cụ thể là:
* Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm xây dựng kế
hoạch cân đối Cung- cầu phân bón trong từng vụ, của từng miền trong cả nớc,
14
Nước bán phân bón
trên thế giới
Các đầu mối nhập
khẩu được chỉ định
Cửa hàng đại lý
bán lẻ
Tổ chức trung gian
phân bón
Nông dân
Bộ công nghiệp
Bộ Nông nghiệp &
PTNT, Bộ Thương
mại
Bộ Tài
chính
Ngân
hàng
Tỉnh
TP
Hải
quan
Vật
giá
Bộ
KHĐT
Bộ
KHCN
-MT
cùng Bộ thơng mại theo dõi và kiểm tra tiến độ hàng về, tình hình Cung ứng và
giá cả phân bón trong cả nớc, đề xuất ý kiến điều chuyển kịp thời lợng phân bón
cần nhập khẩu hàng năm phục vụ sản xuất nông nghiệp trình Chính phủ quyết
định.
* Bộ Công nghiệp thông báo việc sản xuất phân bón vô cơ trong nớc hàng
năm và quy hoạch tổng thể chiến lợc phát triển ngành sản xuất phân bón đến năm
2000 và 2010 theo hớng tăng nhanh sản xuất trong nớc thay thế dần nhập khẩu với
hình thức tự vay vốn hoặc liên doanh để sản xuất phân bón.
* Bộ Thơng mại chịu trách nhiệm, điều hành nhập khẩu phân bón theo kế
hoạch chung và cân đối của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chỉ định
doanh nghiệp nhập khẩu phân bón, thông báo chỉ tiêu nhập khẩu cho từng
doanh nghiệp. Từ đó Chủ tịch UBND tỉnh thành phố thông báo doanh nghiệp
cho Bộ Thơng mại, Cục Hải quan, Bộ Tài chính, Bộ kế hoạch đầu t, các doanh
nghiệp đợc thông báo làm thủ tục nhập khẩu tại cơ quan Hải Quan.
* Ngân hàng Nhà nớc Việt nam cùng Bộ Tài chính, Bộ Thơng mại, Bộ
nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định việc quản lý, sử dụng tiền bán
hàng của các doanh nghiệp nhập khẩu để đảm bảo thanh toán với nớc ngoài khi
đến hạn. Khi đợc Chính phủ phê duyệt hạn ngạch nhập khẩu phân bón, Ngân
hàng Nhà nớc Việt nam chỉ đạo các ngân hàng Thơng mại bảo lãnh cho các
doanh nghiệp đợc chỉ định nhập khẩu phân bón vay trả chậm nớc ngoài và đợc
lấy giá trị hàng hoá phân bón nhập khẩu làm bảo đảm và ký quỹ với mức thấp
nhất theo quy định của Ngân hàng nhà nớc Việt nam. Đối với một số doanh
nghiệp đợc giao nhập khẩu số lợng phân bón lớn để điều hoà cung cầu, bình ổn
giá trong nớc, ngoài quy định chung, Ngân hàng cho vay và bảo lãnh theo số l-
ợng phân bón nhập cụ thể của từng doanh nghiệp để các doanh nghiệp thực hiện
đợc chỉ tiêu đã giao. Trờng hợp có khó khăn về vốn, Bộ kế hoạch đẩu t, Bộ Tài
chính cân đối trình Thủ tớng chính phủ cho phép sử dụng từ nguồn quỹ dự trữ
ngoại tập trung của Nhà nớc để cho vay nhập phân bón.
15
*Ban vật giá Chính phủ, tuỳ từng trờng hợp là cơ quan xác định mức trọ
giá cho từng mặt hàng, từng địa phơng, xác định mức giá bán tối đa giá trần
cho từng mặt hàng.
*Tổng công ty Vật t nông nghiệp chịu trách nhiệm: ngoài việc thực hiện
đầy đủ trách nhiệm nh các doanh nghiệp khác còn phải từng bớc tổ chức lại
mạng lới bán buôn, đại lý bán phân bón trực tiếp đến nông dân, quản lý chặt
chẽ quỹ dự trữ lu thông phân bón đợc nhà nớc giao, chịu trách nhiệm đảm bảo
dự trữ lu thông bằng ngoại tệ và bằng hiện vật cho 3 miền Bắc, Trung, Nam,
theo quy định; khi xảy ra đột biến giá và mất cân đối quan hệ Cung- cầu phải
kịp thời đa lực lợng dự trữ lu thông can thiệp thị trờng theo chỉ đạo của Bộ nông
nghiệp và phát triển nông thôn và Bộ Thơng mại nhằm ổn định Cung- cầu và
giá phân bón trong cả nớc.
*Đối với các loại phân hoá học là nguyên liệu sản xuất phân bón tổng
hợp, Bộ Thơng mại thống nhất với Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ
công nghiệp, cho phép một số doanh nghiệp bảo đảm nhập đủ nguồn nguyên
liệu cung ứng cho các cơ sở sản xuất phân bón trong nớc đã đợc Bộ công nghiệp
cấp giấy phép sản xuất và Bộ khoa học công nghệ và môi trờng cấp giấy chứng
nhận chất lợng hàng hoá. Bộ công nghiệp rà soát, chấn chỉnh lại các doanh
nghiệp sản xuất phân bón tổng hợp, nhằm mục đích bảo đảm chất lợng hàng
hoá và cân đối Cung- cầu về phân bón tổng hợp.
*Ban chỉ đạo để điều hành hoạt động xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân
bón do một thứ trởng Bộ Thơng mại làm trởng ban, bao gồm đại diện của Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ tài chính, Ngân hàng nhà nớc, Tổng
cục Hải quan, một số tỉnh có sản lợng lúa hàng hoá lớn và hiệp hội XNK lơng
thực Việt Nam.
2.1-/ Về cung ứng phân bón vô cơ trong nớc:
Từ năm 1991 trở về trớc: hệ thống cung ứng phân bón do Quốc doanh
độc quyền đợc tổ chức thành 2 cấp: cấp I (Tổng công ty vật t nông nghiệp
Trung Ương,) cung ứng đến kho cấp II (Tỉnh), Cấp II cung ứng cho cấp III (Cấp
16
III thuộc cấp II quản lý); Quốc doanh địa phơng thực hiện cung ứng 90% nhu
cầu phân bón trên địa bàn. Sơ đồ 2
Mô hình cung ứng phân bón vô cơ thời kỳ kế hoạch
hóa tập trung
Nhập khẩu
Giao chỉ tiêu nhập khẩu
Từ năm 1992 cùng với sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cơ chế kinh doanh
phân bón mang tính độc quyền, nhiều tầng nấc, giá cả áp đặt đợc xoá bỏ. Hệ
thống phân phối theo ngành dọc từ cấp I tới cấp III đã mất tác dụng. Thay vào
đó là nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh phân bón trên thị tr-
ờng nội địa để cung ứng cho ngời sản xuất. Quốc doanh địa phơng chỉ cung ứng
20-30%. Có thể nói hệ thống cung ứng đợc mở rộng, t nhân tham gia cung ứng
phân bón ngày càng nhiều, phân bón không còn chạy vòng vèo nh trớc đây
mới tới đợc tay ngời sản xuất. Sơ đồ 3
17
Nước bán phân
hoá học trên thế
giới
Quốc doanh cấp I
Nhà nước Việt
Nam xây dựng kế
hoạch
Quốc
doanh
Việt
Nam
Cấp II
Quốc
doanh
Vật tư
Việt
Nam
Cấp III
Hợp
tác xã,
tập
đoàn
sản
xuất
Mô hình cung ứng phân bón hoá học thời kỳ đổi mới
cơ chế kinh tế.
Đi đôi với hệ thống cung ứng phân bón theo hớng tự do lu thông. Nhà n-
ớc cũng thực hiện tự do hoá giá cả- có nghĩa là về cơ bản giá phân bón do thị tr-
ờng quyết định. Tuy vậy, nhng để nông dân đợc hởng mức giá bình ổn nhất là
khi thời vụ cần có phân bón chăm sóc cây trồng Nhà nớc đang sử dụng quỹ bình
ổn giá để hỗ trợ cho kinh doanh phân bón dự trữ lu thông một số lợng phân ure
nhất định để chủ động bán ra ở thời điểm bình thờng cũng khi thời vụ hoặc ở
thời điểm giá cả tăng cao, bảo đảm để nông dân mua đợc đạm ure xoay quanh
định hớng 1 ure tơng đơng 2 lúa mà nông dân đồng bằng Sông Cửu Long và
khoảng 1,5 lúa ở đồng bằng sông Hồng đã chấp nhận.
3-/ Các công cụ quản lý và điều tiết lu thông phân
bón vô cơ của nhà nớc ở Việt nam .
Quản lý và điều tiết vĩ mô thị trờng và lu thông nói chung và phân bón vô
cơ nói riêng là vấn đề phức tạp, khó khăn. Sự quản lý và điều tiết của các cơ
quan nhà nớc ở tầm vĩ mô phải hết sức mềm dẻo, linh hoạt, phải xuất phát từ
18
Nước bán phân hoá
học trên thế giới
Các đầu mối nhập
khẩu
Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông
thôn
Các tổ chức trung
gian cung ứng
phân
Cửa hàng đại lý
bán lẻ
Nông dân
mục tiêu định hớng, tôn trọng sự vận động khách quan của thực tiễn.Trong giai
đoạn đầu chuyển sang kinh tế thị trờng, xây dựng cơ chế quản lý kinh tế với rất
nhiều mục tiêu và các giải pháp khác nhau. Các vấn đề kinh tế xã hội cấp bách
đang đan xen vào nhau, vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau đòi hỏi phải giải
quyết đồng bộ không đợc biệt lập, riêng rẽ. Những vấn đề cơ bản của nền kinh
tế có những mục tiêu và giải pháp khác nhau, có khi mâu thuẫn nhau. Bởi vậy,
phải đặt trong tổng thể của nền kinh tế quốc dân để giải quyết vấn đề. Mục tiêu
điều tiết thị trờng, lu thông phân bón vô của nhà nớc nằm trong hệ thống mục
tiêu kinh tế xã hội, đáp ứng mục tiêu cao nhất là ổn định và nâng cao đời sống
nhân dân phát triển toàn diện con ngời, xây dựng xã hội lành mạnh, văn minh
trên cơ sở một nền sản xuất hàng hoá phát triển cao. Nhà nớc điều tiết lu thông
hàng hoá và phân bón vô cơ nhằm làm cho nó ngày càng phát triển cả về chiều
rộng và chiều sâu, phát huy mặt tích cực, hạn chế những tiêu cực phát sinh. H-
ớng lu thông hàng hoá và phân bón vào các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nớc.
Để đạt đợc hiệu quả cao, nhà nớc cần linh hoạt sử dụng hệ thống công cụ điều
tiết và quản lý vĩ mô:
3.1-/ Chơng trình có mục tiêu phát triển thơng mại của nhà nớc.
Tính cân đối của nền kinh tế quốc dân là yêu cầu khách quan cho sự phát
triển của nó. Nền kinh tế quốc dân là một thể thống nhất bao gồm nhiều bộ
phận hợp thành có quan hệ hữu cơ với nhau. Trong đó có những khâu, những bộ
phận quan trọng có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của nền kinh tế. Thông
qua sự tác động tới các yếu tố then chốt đó sẽ đảm bảo sự phát triển tối u của
nền kinh tế. Kế hoạch hoá vĩ mô là kế hoạch định hớng, thực hiện những cân
đối lớn nhằm đảm bảo tốc độ phát triển hợp lý và hiệu quả cao.
Kế hoạch định hớng ở tầm vĩ mô cũng phải đợc thay đổi linh hoạt phù
hợp với sự vận động khách quan của nền kinh tế. Cùng với các chơng trình mục
tiêu, kế hoạch kinh tế quốc dân đợc xây dựng đúng đắn sẽ là một công cụ quan
trọng. ở các nớc T bản phát triển, các nớc công nghiệp mới đã sử dụng thành
19
công Kế hoạch kinh tế quốc dân nh một công cụ trọng tâm, tác động vào nền
kinh tế .
3.1.1.Mô hình kế hoạch hoá định hớng
+ Mục tiêu của KHHĐH:Là nhằm giữ một số cân đối lớn trong nền kinh
tế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc.
+ Chủ thể của KHHĐH:Trong mô hình kế hoạch hoá cũ (Kế hoạch hoá
tập trung), chủ thể của kế hoạch hoá là nhà nớc, ở đây kế hoạch là cơng lĩnh thứ
2 của Đảng, là pháp lệnh của cơ quan quyền lực nhà nớc tối cao (Quốc hội, Hội
đồng nhân dân). Chính phủ chỉ giữ vai trò tổ chức thực hiện kế hoạch.
Trong mô hình KHHĐH hiện nay, Đảng lãnh đạo làm chiến lợc (không
làm kế hoạch), Quốc hội làm Hiến pháp (không làm kế hoạch). Chủ thể của
KHHĐH là Chính phủ. Chính phủ làm KHHĐH trong khuôn khổ chiến lợc do
Đảng quyết nghị và tuân thủ hệ thống pháp luật do Quốc hội quyết định. Sự
phân định nh vậy một mặt, đề cao đúng mức vai trò của Chính phủ, mặt khác
không hạ thấp vai trò của Đảng, Quốc hội khi phải quyết định những dự án kế
hoạch. Đồng thời làm cho mối quan hệ giữa chiến lợc với luật pháp đợc thể hiện
nhất quán trong kế hoạch mà sự nhất quán đó đợc quy tụ vào một nơi chịu trách
nhiệm là Chính phủ.
+ Đối tợng của KHHĐH: Trong mô hình kế hoạch hoá tập trung trớc đây,
đối tợng của kế hoạch là các quá trình kinh tế diễn ra trong khu vực sở hữu công
cộng, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp quốc doanh do quan niệm rất hẹp về hàng
hoá- tiền tệ, nên ngay trong khu vực sở hữu công cộng, nhiều quá trình kinh
doanh đã nằm ngoài đối tợng của kế hoạch. Đặc biệt, khu vực kinh tế dịch vụ đã
có một bộ phận lớn không nằm trong đối tợng của kế hoạch do có sự phân biệt
giữa sản xuất vật chất (hệ thống phân ngành kinh tế MPS).
Trong mô hình KHHĐH, đối tợng của kế hoạch là toàn bộ quá trình vận
động của nền kinh tế hàng hoá (kể cả những bộ phận cha phải là hàng hoá trong
thời kỳ chuyển đổi hiện nay). Trong đó tiền tệ sắm vai trò vĩ mô cực kỳ quan
trọng.
20
+ Phơng pháp KHHĐH:Trong mô hình kế hoạch hoá tập trung, kế
hoạch đợc tiến hành theo phơng pháp của hệ thống sản phẩm vật chất MPS
( Materal Product System). Phơng pháp này không tính đến các dịch vụ, đợc
quan niệm là không liên quan trực tiếp tới sản xuất vật chất nh các dịch vụ giáo
dục, y tế, thể thao, hành chính, ngân hàng. Phơng pháp này cũng bỏ qua hạch
toán khấu hao trong nền kinh tế (theo UNDP) phơng pháp này bỏ qua 20- 30%
tổng sản phẩm xã hội. Kế hoạch hoá định hớng đòi hỏi phải thể hiện đầy đủ mọi
cục diện của nền kinh tế trong mỗi tác động qua lại giữa các nhân tố cấu thành
của nó. Bởi vậy, KHHĐH buộc phải chuyển từ phơng pháp cũ (MPS) sang ph-
ơng pháp mới là phơng pháp hạch toán quốc gia theo hệ thống tài khoá quốc gia
SNA (System of Natinal Acount).
Trong mô hình kế hoạch hoá tập trung, kế hoạch không coi trọng phơng
pháp giá trị. Một loại chỉ tiêu giá trị quan trọng đã bị bỏ qua trong các kế hoạch
nh tổng tiêu dùng, tổng tiết kiệm, tổng thu thuế, chỉ số hàng tiêu dùng, tỷ giá, tỷ
lệ lạm phát, chỉ số tăng tiền lơng danh nghĩa, tổng sản phẩm xã hội tính theo tr-
ợt giá.... Trái lại trong mô hình KHHĐH, các chỉ tiêu giá trị trên đây trở thành
các chỉ tiêu hệ trọng nhất trong khi đánh giá thực trạng nền kinh tế cũng nh khi
nêu ra các đinh hớng phát triển và ổn định. Việc chuyển từ phơng pháp hiện vật
(là chính) sang phơng pháp giá trị (là chính) là sự chuyển biến về chất của ph-
ơng pháp KHHĐH so với phơng pháp kế hoạch trớc đây. Nó không tuỳ thuộc ở
các cơ quan định hớng hoạch định kế hoạch mà chủ yếu tuỳ thuộc ở thớc giá trị
trong nền kinh tế, ở mức độ phạm vi tiền tệ hoá các quá trình kinh tế. Trong mô
hình kế hoạch cũ, các cân đối hiện vật giữ vai trò trọng yếu (lơng thực, xăng
dầu, phân bón....). nhng dù mở rộng danh mục đến đâu cũng không thể nào thể
hiện nổi tổng cân đối (về hiện vật ) của nền kinh tế. Trái lại phơng pháp cân đối
của mô hình KHHĐH đòi hỏi phải chuyển sang những cân đối vĩ mô đợc đo
bằng các tiêu chuẩn tài chính, tiền tệ trong đó chủ yếu nh: Cân đối tiết kiệm và
tiêu dùng, cân đối cán cân thơng mại, cân đối cán cân thanh toán quốc tế, cân
đối thu chi ngân sách ....những cân đối này phải dựa trên sự vận động thực tế
của hệ thống tài chính, tiền tệ, giá cả của nền kinh tế.
21
+ Nội dung chủ yếu của KHHĐH: Xác định các chỉ tiêu tổng hợp của
nền Kinh tế quốc dân, các chỉ tiêu định hớng cân đối đầu t và tiêu dùng các chỉ
tiêu cân đối ngân sách, các chủ tiêu cân đối tiền tệ, các chỉ tiêu định hớng điều
chỉnh cơ cấu kinh tế trong tác động của định hớng cán cân thơng mại và định h-
ớng cán cân thanh toán quốc tế, các chỉ tiêu định hớng cân đối lao động xã hội.
3.1.2.Mô hình kế hoạch hoá định hớng phát triển thơng mại trong nền
kinh tế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc
+ Mục tiêu của KHHĐH phát triển thơng mại: ổn định thị trờng, phát
triển lu thông thị trờng hàng hoá phát triển xuất nhập khẩu và lợi nhuận.
+ Chủ thể của KHHĐH phát triển thơng mại: Là Bộ Thơng mại- cơ
quan nhà nớc Trung ơng của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nớc
đối với ngành thơng mại trong phạm vi cả nớc. Trong đó Bộ trởng Bộ Thơng
mại với t cách vừa là thành viên Chính phủ vừa là Thủ trởng của Bộ chịu trách
nhiệm trình Chính phủ chiến lợc, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành thơng
mại, phơng hớng mục tiêu và các cân đối lớn của kế hoạch dài hạn, trung hạn và
ngắn hạn, bao gồm tất cả các thành phần kinh tế thuộc ngành Thơng mại để
định hớng cho toàn ngành, các địa phơng (các Sở thơng mại) các đơn vị cơ sở
thuộc Bộ trong việc xây dựng kế hoạch của mình, trên cơ sở đó Bộ tổng hợp và
phân tích hoạt động kinh tế- kỹ thuật toàn ngành thơng mại. Bộ trởng Bộ thơng
mại có trách nhiệm tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển thơng mại
trong phạm vi cả nớc(Điều 116 hiến pháp năm 1992, luật tổ chức Chính phủ,
nghị định 15 CP ngày 3/2/1993 của chính phủ). Luật thơng mại (điều 145) cũng
quy định: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nớc về Thơng mại, Bộ Thơng mại
chịu trách nhiệm trớc Chính phủ thực hiện việc quản lý nhà nớc về thơng mại,
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vị nhiệm vụ
quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lý nhà nớc về thơng mại đối với lĩnh
vực đợc phân công phụ trách.
Nh vậy Bộ thơng mại là chủ thể của kế hoạch hoá phát triển Thơng mại
trong phạm vi cả nớc, trong quá trình xây dựng kế hoạch, Bộ thơng mại vừa
phải tổng hợp, phân tích tình hình kinh tế-kỹ thuật của toàn ngành, từ t liệu của
22
các địa phơng trong cả nớc, các đơn vị trực thuộc Bộ, ngành hữu quan. Kế
hoạch hoá phát triển thơng mại phải do Bộ trởng Bộ thơng mại trình Chính phủ
phê duyệt mới có hiệu lực quản lý.
+ Đối tợng của kế hoạch hoá phát triển thơng mại: Trong nền kinh tế
thị trờng có sự quản lý của nhà nớc, nhà nớc bao quát toàn bộ các quá trình kinh
tế trong ngành Thơng mại, các hoạt động thơng mại, hàng hoá trong nớc và với
nớc ngoài của tất cả các thành phần kinh tế, mà trọng tâm là các quan hệ thị tr-
ờng hàng hoá nh quan hệ Tổng cung- Tổng cầu, quan hệ tiền- hàng, quan hệ
Cung- cầu từng mặt hàng thiết yếu; các cơ cấu thơng mại chủ yếu nh cơ cấu
thành phần kinh tế, cơ cấu ngành hàng, mặt hàng lu thông trên thị trờng nội địa
và xuất khẩu, nhập khẩu. Cơ cấu thị trờng trong nớc theo vùng lãnh thổ, cơ cấu
các khu vực thị trờng ngoài nớc (Cơ cấu thị trờng xuất khẩu và cơ cấu thị trờng
nhập khẩu), cơ cấu nguồn nhân lực của ngành thơng mại, quan hệ thơng mại
giữa Việt Nam với các khu vực nớc bạn hàng với các tổ chức thơng mại khu vực
và thế giới.
+ Phơng pháp kế hoạch hoá phát triển thơng mại trong nền kinh tế thị
trờng: Trong mô hình kế hoạch hoá cũ (kế hoạch Thơng nghiệp, kế hoạch hoá
cung ứng vật t, kế hoạch hoá ngoại thơng) do sử dụng phơng pháp hiện vật là
chính, nên đã không coi trọng các chỉ tiêu giá trị, các chỉ tiêu về nhu cầu thị tr-
ờng mà chỉ chú trọng đến các chỉ tiêu về tổng lợng hàng hoá của khu vực quốc
doanh; định lợng nguồn cung ứng của nhà nớc; các chỉ tiêu định mức cung ứng
và những địa chỉ cấp phát chính thuộc khu vực kinh tế nhà nớc. Vì thế một mặt
không bao quát đợc tổng lợng hàng hoá cung ứng của toàn xã hội và tổng nhu
cầu hàng hoá của toàn xã hội. Mặt kế hoạch hoặc không tính đến giá trị giá trị
thực tế của hàng hoá do sự chi phối của gía trị đồng tiền nội tệ bị trợt giá và các
yếu tố lạm phát. Nay chuyển sang sử dụng phơng pháp giá trị là chính, nên các
chỉ tiêu về nhu cầu thị trờng cần đợc đặc biệt coi trọng nh: Tổng quỹ mua, sức
mua thực tế của toàn xã hội. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu;
giá trị đồng Việt Nam trong quan hệ thanh toán thơng mại; nhu cầu của các
khu vực nớc bạn hàng xuất khẩu; các chỉ tiêu về thuế, đặc biệt là thuế xuất khẩu
23
và thuế nhập khẩu; chỉ giá cả trong nớc và giá xuất khẩu; các chỉ tiêu hiệu quả
thơng mại nh tổng doanh số (mua vào và bán ra), lợi nhuận; các chỉ tiêu về ổn
định thị trờng nội địa, các chỉ tiêu cân đối thị trờng các mặt hàng thiết yếu...
trong đánh giá thực trạng cũng nh nêu ra các định hớng phát triển Thơng mại
Việt Nam.
Theo đó, để xây dựng các phơng án kế hoạch Thơng mại có chất lợng Bộ
Thơng mại phải tổ chức điều tra cơ bản (nhất về năng lực sản xuất và điều tra về
sức mua), nghiên cứu dự báo về xu hớng và động thái của thị trờng đặc biệt là
thị trờng xuất khẩu. Trớc hết là các khu vực thị trờng trọng điểm và thị trờng
các mặt hàng thiết yếu liên quan đến những cân đối lớn của nền kinh tế
+ Nội dung chủ yếu của kế hoạch hoá định hớng phát triển thơng mại
trong nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của nhà : Nghi quyết số 12 NQ/TW
của Bộ Chính trị đã xác định kế hoạch hoá Thơng mại trong nền kinh tế thị tr-
ờng phải thể hiện các nội dung: xây dựng chiến lợc thị trờng và quy hoạch phát
triển thơng mại đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế hàng hoá, tạo điều kiện thúc
đẩy sản xuất phát triển. Xác định các cân đối lớn (Cân đối Tổng cung- Tổng
cầu, cân đối tiền- hàng cân đối Cung- cầu từng mặt hàng thiết yếu....).
Về mặt phơng pháp luận, có thể phác hoạ và xác định một số nội dung
chủ yếu của kế hoạch thơng mại nh sau:
- Tạo dựng bức tranh toàn cảnh của nền thơng mại( thực trạng và định l-
ợng phát triển ) thông qua các chỉ tiêu tổng hợp nh:
+Tổng mức lu chuyển hàng hoá bán lẻ xã hội ( theo giá hiện hành và có
tính đến yếu tố trợt giá trong tơng lai) phân theo thành phần kinh tế và cơ cấu
vùng; cơ cấu thị trờng trọng điểm; chỉ số trợt giá chung của thị trờng..
+ Giá trị lu chuyển các ngành hàng, mặt hàng thiết yếu, chỉ số giá cả thị
trờng các mặt hàng thiết yếu.
+Tổng quỹ mua và tổng sức mua thực tế của toàn xã hội, phân theo cơ
cấu khu vực/ vùng, các thị trờng trọng điểm các khu vực tập chung sức mua lớn,
nhu cầu sản xuất và nhu cầu của dân c, các khu công nghiệp trung trung và các
24
vùng sản xuất tập trung, sức mua của thị trờng nông thôn và thị trờng thành thị
của miền núi.
+Giá trị kim ngạch xuất khẩu, phân theo cơ cấu các khu vực thị trờng
xuất khẩu các nớc bạn hàng chính, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực trong đó chú ý đến các nhân tố mới nh các thị trờng mới có
sức mua lớn, các mặt hàng nhóm hàng chế biến sau.
+Giá trị kim ngạch nhập khẩu, phân theo cơ cấu nhóm hàng(phân loại
chuẩn của quốc tế), cơ cấu thị trờng nhập khẩu theo khu vực địa lý và theo trình
độ phát triển(nhấn mạnh thị trờng có công nghệ nguồn),các thị trờng nhập khẩu
chính.
+Giá xuất khẩu và giá nhập khẩu, hiệu số giữa giá xuất và giá nhập khẩu.
-Định hớng cân đối Cung- cầu các mặt hàng thiết yếu là một trong những
nội dung trọng tâm của kế hoạch hoá thơng mại. Danh mục các mặt hàng thiết
yếu cần đợc điều chỉnh trong các kỳ kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn
phù hợp với yêu cầu và trình độ phát triển của nền kinh tế trong từng thời kỳ cụ
thể. ở đây cần đợc đặc biệt chú ý đến yếu tố công nghiệp hoá và các doanh
nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài sẽ tác động mạnh đến cả hai phía Cung- cầu các
mặt hàng thiết yếu.
Tóm lại: Kế hoạch hoá thơng mại trong nền kinh tế thị trờng có sự quản
lý của nhà nớc do Bộ Thơng mại xác lập. Chính phủ phê duyệt, đó là loại kế
hoạch gián tiếp hớng dẫn thị trờng và các hoạt động thơng mại của các thơng
nhân, kế hoạch đó có đối tợng là toàn bộ của các quá trình lu thông hàng hoá
các hoạt đông thơng mại hàng hoá trong nớc và với nớc ngoài của tất cả các
thành phần kinh tế kế hoạch, từ đó định ra những cân đối chủ yếu nhất của nền
thơng mại nh cân đối Tổng cung- Tổng cầu, cân đối tiền- hàng, cân đối Cung-
cầu các mặt hàng thiết yếu ... nhằm mục tiêu giữ một số cân đối của thị trờng và
thơng mại, ổn định, phát triển lu thông hàng hoá, phát triển xuất nhập khẩu và
lợi nhuận. Đồng thời, hớng thị trờng và các quá trình thơng mại trong nớc và
với nớc ngoài tiến tới một thế cân bằng mới theo yêu cầu của phát triển kinh tế-
25