Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

an ninh lương thực và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.75 KB, 35 trang )

I. Phần mở đấu.
1. Sự cần thiết.
Người xưa nói: “Dân dĩ thực vi tiên” - tức dân lấy ăn làm đầu, cái ăn hay
lương thực luôn là nhu cầu thiết yếu trước tiên của con người. Đảm bảo
lương thực cho người dân luôn là vấn đề trước mắt cũng như lâu dài cho mọi
quốc gia, trong mọi thời đại. Quá trình hình thành dân tộc Việt Nam gắn
liền với sản xuất lúa nước lâu đời, hình thành nên một quốc gia nông nghiệp
và ông cha ta đã đúc kết một chân lý: “phi nông bất ổn”. Đảng ta từ khi ra
đời, lãnh đạo cách mạng đã rất quan tâm đến vấn đề nông nghiệp và nông
dân, đến đảm bảo lương thực cho nhân dân. Quá trình đổi mới gần 30 năm
qua, nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực, trong đó
nổi bật là thành tựu xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh lương thực quốc
gia đồng thời duy trì vị thế của nước xuất khẩu gạo hàng đầu góp phần đảm
bảo an ninh lương thực của thế giới. Tuy nhiên, đảm bảo an ninh lương thực
quốc gia còn có những hạn chế, như an ninh lương thực còn thiếu bền vững
khi còn có sự chênh lệch về tiếp cận lương thực giữa các nhóm và giữa một
số vùng của đất nước; sản xuất lương thực chịu tác động từ tình trạng biến
đổi khí hậu toàn cầu và các cú sốc từ thị trường lương thực thế giới; yêu
cầu phát huy lợi thế so sánh từ địa vị quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu để
gia tăng năng suất và thu nhập cho người sản xuất lương thực .v.v…Trong
bối cảnh đó, một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam cần phải được giải quyết
thấu đáo, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Vì vậy, nhóm chúng em chọn đề tài : “An ninh lương thực và giải pháp chủ
yếu bảo đảm an ninh lương thực cho người dân nông thôn nước ta”.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
a. Mục tiêu chung.
An ninh lương thực và giải pháp chủ yếu bảo đảm an ninh lương thực
cho người dân nông thôn nước ta.
b. Mục tiêu cụ thể.
− Phân tích tình hình an ninh lương thực của Việt Nam.
− Đưa ra giải pháp đảm bảo an ninh lương thực của Việt Nam,đặc biệt là


cho người dân nông thôn.
− Dự báo và đề xuất một số định hướng giải pháp góp phần đảm bảo an
ninh lương thực của Việt Nam.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu.
− Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Trên địa bàn cả nước, đặc biệt là vùng nông
thôn.
+ Phạm vi thời gian: từ năm 1998 đến nay.
− Đối tượng nghiên cứu: tình hình an ninh lương thực.
4. Phương pháp nghiên cứu.
− sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng.
− Phương pháp thống kê số liệu.
− Phương pháp tổng hợp.
II. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của nghiên cứu.
1. Cơ sở lý luận.
1.1. Khái niệm về an ninh lương thực.
− Theo Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực thuộc Liên Hợp quốc
(FAO) (2002) trong Trade reform and security food, hiện nay có
đến hơn 200 định nghĩa về an ninh lương thực, mỗi cách tiếp cận
đều đưa ra một quan niệm về an ninh lương thực. Vì thế khái niệm
này được diễn giải theo nhiều cách khác nhau. Các nhà nghiên cứu
cho rằng, bất cứ khi nào quan niệm an ninh lương thực được đề
cập đến trong tiêu đề của một nghiên cứu thì nên đưa ra các định
nghĩa rõ ràng hoặc ngầm định cho sát với thực tế.
− An ninh lương thực là một khái niệm với nhiều cấp độ tiếp cận,
nhiều cách nhìn khác nhau. Xuất phát từ mục đích nghiên cứu của
đề tài luận văn với cách tiếp cận an ninh lương thực ở cấp độ quốc
gia, trên cơ sở kế thừa các quan niệm về an ninh lương thực của
các học giả và tổ chức trong và ngoài nước, luận văn thống nhất
quan niệm về an ninh lương thực của Việt Nam là việc có đầy đủ,

ổn định lương thực cho toàn dân trên phạm vi toàn quốc cả trước
mắt và lâu dài để không ai bị đói và mọi người đều được hưởng
cuộc sống năng động và khoẻ mạnh.
1.2. Vai trò của an ninh lương thực.
 An ninh lương thực đáp ứng nhu cầu tồn tại của con người và đẩy
lùi sự nghèo đói.
− Xã hội đang phát triển như vũ bão với nhiều vật dụng hiện đại ra đời phục
vụ cho nhu cầu của con người, nhưng người ta có thể thiếu các phương
tiện hiện đại nhưng người ta không thể làm gì với cái dạ dày trống rỗng.
− Lương thực như là một phương tiện thiết yếu bậc nhất để duy trì sự tồn tại
của con người.
− Lương thực phải được cung cấp đều đặn, đầy đủ cho mọi người nếu muốn
sống, hoạt động và phát triển.
− Một quốc gia muốn phát triển mạnh về mọi mặt thì điều trước tiên phải
quan tâm tới việc duy trì cuộc sống cho cư dân ( về ăn, mặc, ở, đi lại,…)
trên lãnh thổ của mình từ đó khiến họ yên tâm làm việc cho quốc gia, góp
phần phát triển đất nước.
 An ninh lương thực đảm bảo cho quá trình tăng trưởng kinh tế.
− Vấn đề an ninh lương thực và tăng trưởng kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau.
− Xét về mục tiêu chính sách của các chính phủ, an ninh lương thực được
coi như một chuỗi liên tục từ mức độ vi mô về đảm bảo dinh dưỡng cho
người dân đến mức vĩ mô là đảm bảo cung cấp đầy đủ lương thực cho thị
trường trong nước và khu vực.
− Ổn định an ninh lương thực theo cả hai góc độ (vi mô, vĩ mô) giúp thúc
đẩy triển vọng tăng trưởng kinh tế hiệu quả hơn, giảm đói nghèo.
 An ninh lương thực có vai trò ổn định chính trị xã hội.
− Nguyên nhân sâu xa của mọi tệ nạn xã hội là nghèo đói, mà yếu tố chính
đấy là an ninh lương thực không được đảm bảo.
− Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, một đất nước, một khu vực mà

không bảo đảm an ninh lương thực sẽ tạo ra hệ luỵ lan tỏa không nhỏ đối
với các nước và các khu vực khác.
1.3. Nội dung vấn đề an ninh lương thực.
− Sự sẵn có về an ninh lương thực.
Sự sẵn có lương thực được hiểu là: sản lượng lương thực, diện tích trồng
trọt, các chỉ tiêu về xuất và nhập khẩu lương thực được đảm bảo. Tức là đảm
bảo nguồn cung lương thực đầy đủ mọi nơi, mọi lúc.
Điều này liên quan đến việc nỗ lực trong việc bảo vệ diện tích đất trồng
cây lương thực, có chính sách bảo đảm lợi ích cho người sản xuất lương
thực để họ an tâm sản xuất; tăng cường đầu tư để tăng sản lượng và chất
lượng lương thực, tạo thuận lợi cho thương mại nông sản, xây dựng hệ thống
phân phối lương thực ổn định.
− Sự tiếp cận với lương thực.
Sự tiếp cận (access) nguồn lương thực được hiểu là: tỉ lệ tiếp cận lương
thực cơ bản trong tổng dân số, thiếu lương thực cơ bản trong nhóm nghèo,
giá lương thực cơ bản cao và tăng, lương thực được lưu thông, phân phối
đến các vùng trong nước.
Điều này liên quan đến việc tạo các cơ hội việc làm, thu nhập và có hỗ trợ
thích hợp để bảo đảm khả năng tiếp cận với lương thực của người dân; thận
trọng trong việc sử dụng lương thực vào mục đích khác.
− Sự ổn định của lương thực.
Sự ổn định (stability) của lương thực là: phải có hệ thống phân phối ổn
định. Cung và cầu lương thực trên thị trường ổn định, nghĩa là giá lương
thực và các xu hướng khác trên thị trường không tăng (giảm) mạnh (ví dụ
giá gạo cao liên tục hay kho dự trữ giảm báo hiệu những yếu tố không tốt
đến sự ổn định về cung lương thực)
Điều này liên quan đến các cố gắng của từng quốc gia trong việc đẩy
mạnh hợp tác quốc tế để phối hợp hành động chung trong khu vực và toàn
cầu để đảmbảo sản và cung ứng lương thực ổn định
− Sự an toàn và chất lượng lương thực được sử dụng.

Sự an toàn, chất lượng của lương thực được sử dụng thể hiện qua độ dinh
dưỡng của lương thực, chất lượng và vệ sinh lương thực, tỷ lệ suy sinh
dưỡng và thiếu chất do lương thực
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến an ninh lương thực.
− Nhân tố tác động đến sự sẵn có về an ninh lương thực.
+ Thứ nhất, diện tích đất sản xuất nông nghiệp trên thế giới
đang có xu hướng giảm nhanh.
+ Thứ hai, từ ba thập kỷ cuối của thế kỷ 20 đến nay, thế giới có
nhiều tiến bộ nhảy vọt về khoa học và công nghệ, nhưng
nhiều nước, nhiều vùng đã không chú ý tới việc tiếp tục đầu
tư vào sản xuất nông nghiệp nói chung, sản xuất lương thực
nói riêng.
+ Thứ ba, khí hậu là một trong những yếu tố tác động đến sản
lượng lương thực.
− Nhân tố tác động đến sự tiếp cận với lương thực.
Thứ nhất,thị trường nông sản thế giới bị bóp méo vì chính sách trợ cấp nông
nghiệp của các nước công nghiệp phát triển.
Thứ hai, việc nhiều nước xuất khẩu lương thực, khởi đầu là Ân Độ (cuối năm
2007), sau đó Ai Cập, Campuchia, Mêxico, (quý I/2008) thời gian vừa qua hạn
chế xuất khẩu càng khiến giá lương thực tăng cao.
− Nhân tố tác động đến sự ổn định của lương thực.
+ Thứ nhất, sức ép dân số và thay đổi trong cơ cấu tiêu dùng, trong
khi nguồn cung ứng lương thực bị đe dọa.
+ Thứ hai, các nhu cầu về lương thực không chỉ tăng do dân số tăng,
mà còn do nhu cầu của các ngành kinh tế khác.
− Nhân tố tác động đến chất lượng lương thực.
+ Thứ nhất, việc ứng dụng công nghệ sinh học, chọn tạo giống lúa và lương
thực đảm bảo dinh dưỡng.
+ Thứ hai, áp dụng quy trình sản xuất hiện đại, an toàn và thân thiện môi
trường trong việc tạo ra các sản phẩm lương thực sạch, không chứa nhiều

hóa chất, đảm bảo chất lượng vệ sinh thực phẩm cho người tiêu dùng,
không gây hại cho sức khỏe của người dùng.
+ Thứ ba, các chính sách của các quốc gia trong việc quản lý an toàn lương
thực, thực phẩm và chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân thông qua
phòng chống suy dinh dưỡng ở bà mẹ và trẻ em.
1.5. Đặc điểm về đảm bảo an ninh lương thực ở nước ta.
Nước ta nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nên sản xuất lương thực nước
ta có tính chất vùng rõ rệt nên việc đảm bảo an ninh lương thực cũng sẽ có
tính chất vùng.
Việc đảm bảo an ninh lương thực ở mỗi vùng khác nhau là khác nhau, do
ở mỗi vùng có các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội khác nhau.Đảm bảo an
ninh lương thực không chỉ là việc đảm bảo cho người dân đủ ăn, phải lo cho
họ khi họ thiếu ăn mà việc quan trọng là với những điều kiện của mỗi vùng
thì phải có các chiến lược, chính sách cụ thể hợp lý để họ tự cung, tự cấp hay
nói cách khác là họ tự đảm bảo lương thực cho mình nhằm duy trì cuộc
sống.
Chúng ta đảm bảo an ninh lương thực đối với những vùng cụ thể sẽ phải
có các công cụ cụ thể nhằm đảm bảo an ninh lương thực tốt nhất, ít công
nhất và rẻ nhất, chẳng hạn như một vùng nào đó sản xuất lúa gạo không hiệu
quả tất yếu xảy ra lương thực không đủ ăn, bị đói nhưng chính sách lại
không phù hợp vẫn cứ bắt họ phải cấy lúa, vậy thì tình trạng đói là đương
nhiên. Với tình huống cụ thể này thì ta phải có phương pháp để giải quyết
như chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đổi hướng sang
trồng cây khác có hiệu quả hơn, kinh tế hơn, chuyển sang chăn nuôi. Như
vậy không chỉ đảm bảo được an ninh lương thực mà còn giúp cho người dân
thoát được cảnh nghèo đói truyền kiếp. Do thu nhập giữa các vùng, các địa
phương là khác nhau và có sự chênh lệch nên đảm bảo an ninh lương thực
đối với từng vùng, từng địa phương đối tượng là khác nhau. Khu vực thành
thị thu nhập cao, việc đảm bảo an ninh lương thực không còn là việc đảm
bảo vấn đề ăn về số lượng nà còn đảm bảo an ninh lương thực còn phải là cả

về số lượng, chất lượng, mẫu mã và văn hoá, đảm bảo về dinh dưỡng, đảm
bảo an ninh lương thực ở trình độ cao.
Khu vực nông thôn, đồng bằng có thu nhập thấp nhưng ở khu vực này lại
sản xuất được nhiều lương thực nên vấn đề đói về lương thực cũng không
đáng quan tâm vì thế đảm bảo an ninh lương thực ở khu vực này tiến dần tới
tăng thu nhập cho họ, sử dụng lương thực chất lượng, có dinh dưỡng cao và
sử dụng lương thực sạch, huy động dự trữ phòng trừ các tình huống xảy ra.
Vùng núi, vùng sâu, vùng xa, có thu nhập thấp, đói về lương thực xẩy ra
thường xuyên nên cần phải đảm bảo an ninh lương thực trước tiên là về số
lượng, giúp họ có lương thực để duy trì cuộc sống và tích cực thoát nghèo,
tự lo được cho mình.
 Việt Nam nằm trong miền nhiệt đới gió mùa nên đảm bảo an ninh
lương thực có đặc điểm là đảm bảo an ninh lương thực với các biến động đột
xuất do những yếu tố khách quan đem lại như hạn hán, lũ lụt, mất mùa…
Thực tế cho thấy ở Việt Nam thời tiết luôn biến động thất thường mưa, bão,
lũ, hạn hán thường xuyên xảy ra nên trong chương trình đảm bảo an ninh
lương thực của Việt Nam luôn quan tâm tới tình huống này nhằm đáp ứng
lương thực kịp thời cho người dân khi xẩy ra các tình huống đột suất từ đó
nhằm ổn định về kinh tế, chính trị đất nước, đưa đất nước phát triển bền
vững.
2. Cơ sở thực tiễn.
2.1. Kinh nghiệm trong nước.
Nỗ lực bảo đảm an ninh lương thực cần được gắn kết chặt chẽ với chiến
lược phát triển quốc gia tổng thể, quá trình tái cơ cấu kinh tế cũng như việc
thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu.
Chia sẻ kinh nghiệm của Việt Nam tại Hội nghị cấp cao APEC 2012, Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang khẳng định phát triển nông nghiệp và nông thôn
chính là bước đột phá đầu tiên của công cuộc đổi mới và hiện tiếp tục là biện
pháp hữu hiệu giúp Việt Nam ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì đà tăng trưởng
và bảo đảm an sinh xã hội.Chủ tịch Nước đề nghị các thành viên APEC đẩy

mạnh hợp tác với các khuôn khổ hợp tác ASEAN, ASEAN+3, ba bên và
Nam-Nam nhằm hỗ trợ thiết thực các nước đang phát triển trong bảo đảm an
ninh lương thực.
− Nghị quyết 63-NQCP 23/12/2009 về Đảm bảo an ninh lương thực quốc
gia:
+ Vấn đề an ninh lương thực quốc gia phải nằm trong chiến lược tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội, gắn với mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó
xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân là quan
trọng, góp phần bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia.
+ Phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, hiệu quả là cơ sở bảo đảm an
ninh lương thực quốc gia; gắn sản xuất với các hình thức tổ chức phù hợp
để đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu lương thực thực phẩm trong mọi tình
huống; nâng cao dinh dưỡng, cải thiện chất lượng bữa ăn của nhân dân.
+ Phát huy lợi thế về cây lúa là chính và phát triển lương thực, thực phẩm
thành các vùng sản xuất hàng hóa có hiệu quả và sức cạnh tranh cao; đẩy
mạnh cơ giới hóa, chế biến, bảo quản theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và bảo vệ môi trường bền vững.
+ Tổ chức tốt hệ thống mua, bán và dự trữ ở các vùng miền, tạo thuận lợi
cho mọi người dân tiếp cập dễ dàng về lương thực, thực phẩm với chất
lượng, hiệu quả ngày càng cao. Giải quyết hài hòa giữa tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu lương thực, thực phẩm.
+ Phát huy nguồn lực của nhân dân và các thành phần kinh tế là chính, nhà
nước hỗ trợ tích cực trong việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia; bảo
đảm thu nhập cho người sản xuất lương thực và tạo điều kiện cho các địa
phương thuần nông phát triển.
 Mục tiêu :
Đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 phải đảm bảo đủ nguồn cung cấp
lương thực với sản lượng cao hơn tốc độ tăng dân số; chấm dứt tình trạng
thiếu đói lương thực, nâng cao chất lượng bữa ăn; bảo đảm cho nông dân sản

xuất lúa có lãi bình quân trên 30% so với giá thành sản xuất.
Cụ thể: a) Đảm bảo nguồn cung lương thực
Tiếp tục đẩy mạnh thâm canh sản xuất lúa, nhất là ở đồng bằng sông Cửu
Long, đồng bằng sông Hồng, tạo nguồn cung vững chắc đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài.
Đến năm 2020, bảo vệ quỹ đất lúa 3,8 triệu ha để có sản lượng 41 – 43
triệu tấn lúa đáp ứng tổng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu
khoảng 4 triệu tấn gạo/năm; tăng diện tích trồng ngô lên 1,3 triệu ha, sản
lượng 7,5 triệu tấn; diện tích trồng cây ăn quả 1,2 triệu ha, sản lượng 12 triệu
tấn; rau các loại 1,2 triệu ha, sản lượng 20 triệu tấn; sản lượng các loại cây
màu tăng trên 30%; chăn nuôi đạt sản lượng thịt hơi các loại 8 triệu tấn, sữa
tươi 1 triệu tấn, trứng gia cầm 14 tỷ quả; sản lượng khai thác thủy sản 2,4
triệu tấn, sản lượng nuôi trồng thủy sản 4 triệu tấn.
b) Đảm bảo nhu cầu về dinh dưỡng
Đến năm 2020, cải thiện tình trạng dinh dưỡng hướng tới cân đối dinh
dưỡng và nâng cao mức tiêu thụ calo bình quân hàng năm lên 2.600 – 2.700
Kcalo/người và giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi còn dưới 5%.
Cải thiện cơ cấu và chất lượng tiêu dùng lương thực, đạt mức tiêu thụ
bình quân/người vào năm 2020: gạo giảm xuống còn 100kg; thịt các loại 45
kg, cá các loại 30 kg, quả các loại 50 kg, rau các loại 120 kg, tăng mức tiêu
dùng trứng, sữa gấp 2 lần so với hiện nay. Toàn bộ nông sản, lương thực tiêu
thụ trên thị trường đạt chỉ tiêu an toàn vệ sinh thực phẩm.
c) Đảm bảo khả năng tiếp cận lương thực của người dân
Chấm dứt tình trạng thiếu đói lương thực vào năm 2012. Sau năm 2012
đảm bảo 100% người dân ở mọi nơi, mọi lúc có đủ lương thực.
Đảm bảo thu nhập cho người sản xuất lương thực đến năm 2020 cao hơn
2,5 lần so với hiện nay
− Quốc hội cũng đã có Nghị quyết về việc giữ 3,8 triệu ha đất lúa.
+ Để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, Quốc hội đã có Nghị quyết về
việc giữ 3,8 triệu ha đất lúa. Năm 2011, khi Quốc hội thảo luận về quy

hoạch đất tới 2020 và kế hoạch sử dụng đất tới 2015, dư luận đã e ngại
khó giữ chỉ tiêu 3,8 triệu ha đất trồng lúa vào năm 2020 vì nhiều lý do
khác nhau, để đảm bảo an ninh lương thực.
+ Tuy nhiên qua thực tiễn thực hiện, việc giữ 3,8 triệu ha đất lúa không có
nghĩa là phải giữ cho diện tích đó lúc nào cũng phải trồng lúa, khi có nơi,
cây lúa không làm cho dân ấm no hơn bằng trồng những cây khác như
ngô, đậu tương, hoa…
+ Thực tế trên khắp cả nước đã chứng minh điều này. Tại huyện Trạm Tấu,
tỉnh Yên Bái, thời gian qua địa phương này đã chuyển đổi 850 ha đất
trồng lúa nương và sắn sang để trồng ngô với giá 5.000 đồng/kg ngô, cao
hơn nhiều so với giá lúa ở khu vực này. UBND tỉnh Yên Bái cho biết đời
sống bà con Trạm Tấu đã thay đổi khi chuyển sang trồng ngô, nhiều hộ
gia đình đã mua được xe máy. Năm nay Trạm Tấu hy vọng sản lượng ngô
sẽ tăng lên 7.000 tấn.
+ Ngay tại vùng đồng bằng phù sa của Hà Nội, người nông dân xã Hạ Mỗ,
huyện Đan Phượng đã có thu nhập gần 2 tỷ đồng/ha/năm khi trồng hoa
thay vì trồng lúa. Gia đình nông dân Nguyễn Văn Xuân hiện đang chăm
sóc 6 sào hoa loa kèn, hoa ly, mỗi sào cho doanh thu 400-500 triệu
đồng/năm, trừ chi phí thì gia đình anh thu nhập 40-50 triệu đồng/sào/năm,
cao hơn rất nhiều so với trồng lúa.
− Một số kinh nghiệm về đảm bảo an ninh lương thực của tỉnh Yên Bái:
+ Để đảm bảo an ninh lương thực cần có sự quan tâm chỉ đạo sát sao của
các cấp, các ngành để đảm bảo được mục tiêu đề ra
+ Có sự tham gia hoạt động đều đặn nhiệt tình của các thành viên trong đó
sở Nông nghiệp và PTNT là chủ lực, và phải có tưởng cho các cơ quant
ham mưu thực hiện hiệu quả, thường xuyên đưa ra kế hoạch hoạt động
từng quy’ từng năm để giúp Ủy ban an ninh lương thực tổ chức chỉ đạo
thực hiện
+ Thường xuyên trao đổi thông tin tập huấn giữa các đơn vị và tổ chức các
lớp tập huấn, hội thảo, tổ chức các buổi tham quan trong và ngoài nước để

năng cao năng lực kiến thức cho các cán bộ.
+ Tranh thủ sự giúp đỡ của Bộ NN & PTTNT, phối hợp chặt chẽ giữa các
ngành thực hiện.
+ Kiên quyết chỉ đạo chuyển đổi hệ thống cây trồng vật nuôi phát triển nông
nghiệp để giải quyết an ninh lương thực. Đẩy nhanh sản xuất cây trồng
vật nuôi có thu nhập cao. Chú trọng sản xuất lương thực tại chỗ nhằm
đảm bảo an ninh lương thực tại chỗ.
+ Mở rộng hệ thống chợ nông thôn để tăng khả năng tiếp cận lương thực
của người dân.
2.2. Kinh nghiệm nước ngoài.
An ninh lương thực đang trở thành một thách thức lớn toàn cầu và với vai
trò là diễn đàn hợp tác kinh tế hàng đầu ở khu vực, APEC cần hành động
mạnh mẽ. Hội nghị cấp cao APEC 2012 đã nhất trí tiếp tục triển khai tích
cực các biện pháp hợp tác bảo đảm an ninh lương thực trên cơ sở cách tiếp
cận đa ngành, trong đó coi trọng tăng đầu tư cho nông nghiệp, tăng sản
lượng và năng suất sản xuất lương thực, hợp tác công-tư, áp dụng công nghệ
mới, quản lý bền vững hệ sinh thái biển, ngăn chặn đánh bắt cá bất hợp
pháp… Các nhà lãnh đạo cũng đề xuất thúc đẩy hợp tác bảo đảm an toàn
thực phẩm, phát triển các thị trường nông sản minh bạch và ổn định…
Một trong những biện pháp gia tăng an ninh lương thực là kiểm soát dân
số và áp dụng công nghệ xanh trong nông nghiệp. Trong hơn 30 năm, dân số
Trung Quốc ngoài việc đã tránh sinh được gần 400 triệu người còn kiên
quyết duy trì bằng được 105 triệu ha đất nhằm canh tác. Các giống cho năng
suất trên 12 tấn/ha đã giúp Trung Quốc trở thành quốc gia có khả năng tự
cung cấp lương thực lớn nhất thế giới.
Đối với Ấn Độ, cho dù dân số đã vượt ngưỡng 1 tỷ người, nhưng nhờ
thành tựu của "cách mạng xanh" trong mấy thập kỷ vừa qua nên đã có năm
Ấn Độ dư thừa và xuất khẩu lương thực.
Kinh nghiệm Nhật Bản cho thấy, 50% diện tích đất trồng lúa đã bị mất
trắng trong thời kỳ 1965 - 1990 để phát triển đô thị và công nghiệp, nhưng

họ đã tạo ra kỳ tích về thâm canh tăng năng suất lúa và đồng thời thay đổi
phong cách ẩm thực - ăn ít gạo - và mặt khác do thu nhập cao nên phần tiền
để mua gạo không đáng kể so với chi tiêu hằng ngày, nên an ninh lương thực
cho hơn 120 triệu dân vẫn "vững như bàn thạch".
Tuy vậy, cần phải nhấn mạnh rằng: Tăng năng suất không thể là vô hạn.
Ví dụ, tại Nhật Bản, năng suất trồng lúa liên tục gia tăng trong nhiều thập
niên, tuy nhiên từ 14 năm nay, chỉ số năng suất này đã bị chững lại. Trung
Quốc và Hàn Quốc cũng đang tiến gần đến mức thu hoạch tối đa tương tự
như tại Nhật Bản. Nhằm tăng diện tích canh tác, hiện nay một số các nước
giàu USD như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… đang thực hiện chiến
lược thuê ruộng đất ở các nước khác để sản xuất lúa ngoài lãnh thổ.
III. Kết quả nghiên cứu.
1. Khái quát về tiềm năng sản xuất lương thực của Việt Nam
Việt Nam vốn là quốc gia nông nghiệp, có truyền thống trồng lúa nước
lâu đời ở khu vực. Hiện chúng ta có nhiều tiềm năng lợi thế về sản xuất
lương thực, nhất là lúa gạo. Người nông dân Việt Nam có truyền thống cần
cù, chịu khó, được đánh giá là ham học hỏi, tích cực ứng dụng thành tựu
khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất nông nghiệp - là nguồn lực quan
trọng nhất cho sản xuất lương thực, đảm bảo an ninh lương thực nước ta.
Diện tích gieo trồng lúa cả năm không ngừng được mở rộng, từ 5,6 triệu
ha (năm 1980), đến nay là khoảng 7,3 triệu ha. Mỗi vùng sinh thái nông
nghiệp của nước ta đều có những thế mạnh nhất định trong việc sản xuất
lương thực, thực phẩm. Các thế mạnh ấy đang ngày càng được phát huy tốt
hơn nhờ sản xuất đi đôi với bảo quản và chế biến sản phẩm, nhờ sự trao đổi,
lưu thông lương thực, thực phẩm hàng hoá giữa các vùng. Đồng bằng sông
Cửu Long là vùng trọng điểm lương thực, thực phẩm số một. Đồng bằng
sông Hồng là vùng trọng điểm số hai về lương thực, thực phẩm. Ngoài hai
vùng trọng điểm trên, các vùng khác cũng có những thế mạnh khác nhau về
sản xuất lương thực, thực phẩm.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng của nền kinh tế hiện nay góp

phần gắn sản xuất với thị trường thế giới, phân tán rủi ro, thu hút nguồn vốn
đầu tư để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao thu nhập
cho người sản xuất lương thực.
2. Thực trạng an ninh lương thực tại nông thôn Việt Nam.
2.1. Thành tựu an ninh lương thực Việt Nam.
a. Sự sẵn có lương thực
Với những chủ trương và chính sách cụ thể của Nhà nước đầu tư cho phát
triển sản xuất nông nghiệp, tăng sản lượng nhằm đảm bảo an ninh lương
thực, trong những năm vừa qua Việt Nam tiếp tục đạt được những thành tích
đáng ghi nhận về sản lượng lương thực.
Lương thực không những đủ hàng ngày mà còn được dự trữ ở trong dân
và dự trữ của Nhà nước. Nhiều loại lương thực, thực phẩm không những đáp
ứng được nhu cầu ở trong nước, mà còn xuất khẩu với khối lượng lớn, đứng
thứ hạng cao trên thế giới. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, từ 1989 đến
hết tháng 6/2011, Việt Nam đã xuất khẩu được xấp xỉ 81 triệu tấn, thu về
được trên 24,2 tỷ USD. Nước ta đã góp phần đảm bảo nguồn cung lương
thực cho nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
b. Sự tiếp cận lương thực
- Về tiêu dùng lương thực: như đã nêu trên đây, do sản lượng lương
thực tăng nhanh hơn đáng kể tốc độ tăng dân số, nên sản lượng lương thực
bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng liên tục, từ 445 kg/người/năm
năm 2000 lên 513kg/người/năm vào năm 2010. Ngay cả với những năm
thiên tai diễn ra nghiêm trọng, lương thực vẫn được phân phối cho những
vùng khó khăn kịp thời, đảm bảo lương thực cho hầu hết nhân dân. Sản
lượng nhiều loại cây, con đã đáp ứng đủ nhu cầu.
- Về khả năng tiếp cận lương thực: Tăng trưởng kinh tế liên tục trong
nhiều năm qua đã giúp cải thiện đáng kể thu nhập của người dân. Thu nhập
tăng là điều kiện quan trọng hàng đầu để người dân dễ dàng hơn trong việc
tiếp cận với nguồn lương thực: chi tiêu nói chung và chi tiêu cho lương thực
nói riêng của người dân đã được cải thiện.

- Về lưu thông, phân phối lương thực: Thị trường lưu thông lương
thực ngày càng được mở rộng cả về quy mô, cơ cấu các thành phần kinh tế
tham gia, đảm bảo lưu thông thuận lợi giữa các vùng, các khu vực, kể cả các
vùng núi, vùng xa xôi hẻo lánh, góp phần quan trọng vào việc đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia và từng địa phương. Sự phát triển nhanh và rộng
khắp của hệ thống chợ, siêu thị, trung tâm thương mại tạo điều kiện cho
người dân thuận lợi hơn trong việc tiếp cận nguồn lương thực, phục vụ đời
sống bản thân, gia đình.
c. Sự ổn định lương thực
Sản lượng lương thực hàng năm gần đây tăng cao hơn tốc độ tăng dân số,
chẳng hạn giai đoạn 2001 - 2008, sản lượng lương thực có hạt tăng 3,7% cao
hơn 3 lần tốc độ tăng dân số trong cùng thời kỳ . Mặt khác, nhà nước và cả
người dân có tỷ lệ dự trữ lương thực nhất định hàng năm là ổn định. Hai
nhân tố trên góp phần quan trọng đảm bảo nguồn cung lương thực ổn định.
Trong khi, cầu về lương thực trong thời gian qua về lương thực được đánh
giá là không có sự đột biến tăng hay giảm, nên đã góp phần làm cho giá
lương thực cơ bản ổn định (ngoại trừ năm 2008).
Những yếu tố về sự mở rộng thị trường lương thực, đảm bảo lương thực
được vận chuyển rộng khắp đến các vùng cũng góp phần quan trọng đảm
bảo sự ổn định của lương thực một cách thường xuyên.
Đối với những vùng bị thiên tai, nhà nước có sự cứu trợ, hỗ trợ kịp thời về
lương thực, đã giúp bình ổn thị trường lương thực.
d. Sự an toàn, chất lượng lương thực
Cùng với sự gia tăng thu nhập, nhu cầu tiêu dùng gạo của người dân Việt
Nam đang có xu hướng giảm xuống. Trong khi đó, tỷ lệ thịt, cá, trái cây
trong bữa ăn hàng ngày của người dân tăng lên. Người dân đã chú trọng hơn
đến chất lượng dinh dưỡng, độ an toàn của lương thực, qua đó nâng cao chất
lượng cuộc sống toàn diện của mình.
Thời gian qua nhà nước và người dân đã có sự quan tâm đến vấn đề vệ
sinh, an toàn thực phẩm. Nhà nước đã chú ý đến việc tuyên truyền về sức

khỏe dinh dưỡng; tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra an toàn, chất lượng
lương thực, thực phẩm trên thị trường góp phần đảm bảo chất lượng, an toàn
lương thực, đảm bảo an ninh lương thực.
2.2. Hạn chế và nguyên nhân.
a. Sản lượng lương thực có thể giảm xuống, hạn chế sự sẵn có lương thực.
Hạn chế về sự sẵn có lương thực do nhiều nguyên nhân, trong đó có các
nguyên nhân cơ bản:
− Diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người thấp, lại đang bị thu hẹp
nhanh chóng.
− Ảnh hưởng của tình trạng biến đổi khí hậu, thiên tai và dịch bệnh.
− Nguyên nhân cơ bản của sự giảm sút sản lượng trong tương lai, cũng có
thể coi là hạn chế của an ninh lương thực, đó là lợi nhuận từ sản xuất
nông nghiệp nói chung, trong đó có người trồng lúa giảm.
b. Hạn chế trong tạo điều kiện cho người dân, nhất là người nghèo, tiếp cận
lương thực.
Theo số liệu thông kê của Tổ chức Oxfam (2012), có khoảng 8,7% số hộ
gia đình ở nông thôn không được đảm bảo về an ninh lương thực, tỷ lệ thiếu
đói lương thực cục bộ, theo mùa là 6,7%. Đây là hạn chế cơ bản của an ninh
lương thực Việt Nam, nhất là trong điều kiện chúng ta là nước đứng đầu thế
giới về xuất khẩu gạo.
Một nghịch lý là nghèo đói tập trung chủ yếu ở nông thôn, nơi tạo ra
lương thực. Và thực tế cho thấy là giảm nghèo đang chậm lại và có dấu hiệu
không bền vững do tỷ lệ tái nghèo cao. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến điều
này, có nguyên nhân từ vòng luẩn quẩn của đói nghèo của người sản xuất
lương thực, sản xuất lúa đã được chỉ ra ở trên. Có nguyên nhân từ sự phát
triển kinh tế đất nước, chính sách xóa đói giảm nghèo chưa bền vững;
Sự tiếp cận lương thực của người dân hạn chế còn do những hạn chế sau:
c. Hạn chế trong kết cấu hạ tầng, đầu tư phục vụ sản xuất lương thực.
+ Về kết cấu hạ tầng: cơ sở hạ tầng chưa được chú trọng đầu tư, nhất là hệ
thống thủy lợi, đê điều,…bên cạnh đó giao thông vận tải cũng chưa phát

triển.
+ Về đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn: việc đầu tư vào đào
tạo kĩ thuật sản xuất cho nhân dân chưa được phổ biến; đầu tư vào phát triển.
d. Hạn chế trong quản lý, điều tiết thị trường lương thực, đảm bảo sự ổn
định của giá cả và thị trường lương thực.
Có một thực tế đã xảy ra là người dân Đồng bằng sông Cửu Long mua
gạo ngoài chợ với giá luôn cao hơn giá gạo xuất khẩu. Đây là một vấn đề bất
cập được đặt ra cho các nhà quản lý.
Trong cuộc khủng hoảng lương thực năm 2008, các doanh nghiệp kinh
doanh lương thực nhà nước rơi vào tình trạng “cạn kiệt hầu bao” do ngân
hàng chậm giải ngân thì thậm chí các nhà đầu tư chứng khoán đã nhận ra sự
hấp dẫn của thị trường lúa gạo. Nhiều đơn vị không có chức năng kinh
doanh lương thực, thực phẩm cũng nhảy vào mua gạo, thuê thêm các kho
chứa hàng ở Đồng bằng sông Cửu Long để tích trữ gạo. Một số thị trường
bán lẻ gần như lệ thuộc vào 3-5 đầu mối cung cấp. Khi các đầu mối này
ghim hàng lập tức đã tạo nên cơn sốt giá. Sở dĩ họ có thể thao túng thị
trường gạo nội địa là vì các doanh nghiệp kinh doanh lương thực nhà nước
“bận lo” xuất khẩu mà quên thị trường nội địa. Nhiều doanh nghiệp xuất
khẩu gạo cho biết họ không cạnh tranh được với tư thương, nguyên nhân là
do bản thân họ phải chịu 5% thuế giá trị gia tăng khi thu múa lúa gạo nguyên
liệu, còn tư thương thì không.
Như vậy, chuyện thiếu gạo hiện nay ở Đồng bằng sông Cửu Long cũng
như ở những địa phương khác chỉ là “ảo”. Chính sự đầu cơ của các tư
thương cùng với những thông tin thiếu minh bạch là nguyên nhân chính dẫn
đến giá lương thực, thực phẩm tăng đột biến trong thời gian qua, đặc biệt là
giá gạo.
e. Hạn chế trong đảm bảo an toàn, chất lượng lương thực.
− Trong khi nước ta không còn là quốc gia có nạn đói tràn lan, thặng dư sản
xuất lúa gạo ngày càng tăng thì an ninh dinh dưỡng - đảm bảo an toàn,
chất lượng lương thực tiêu dùng của người dân chưa được đảm bảo. Nước

ta vẫn đối mặt với “nạn đói tiềm ẩn”, người dân hàng ngày vẫn đối mặt
với tình trạng thiếu vitamin A, mất cân bằng dinh dưỡng. Gần 1/3 trẻ em
nông thôn còi cọc, có chiều cao rất thấp so với lứa tuổi. Tỷ lệ trẻ em suy
dinh dưỡng và bà mẹ nuôi con bú thiếu chất còn cao. Cứ 5 trẻ em có một
em bị suy dinh dưỡng. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng khá phổ biến, không chỉ
ở vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo và khó khăn mà ngay cả các vùng sản
xuất lương thực lớn nhất nước như đồng bằng sông Cửu Long.
− Nguyên nhân cơ bản là thiếu chăm sóc y tế và chế độ ăn uống không đảm
bảo cân bằng về dinh dưỡng.
3. Những cơ hội và thách thức đặt ra đối với Việt Nam trong
việc đảm bảo an ninh lương thực.
 Cơ hội :
− Mở rộng thị trường lương thực, gia tăng ảnh hưởng về ổn định thị trưởng
lương thực toàn cầu tiếp cận thị trường của các nước thành viên WTO,
chiếm trên 90% khối lượng và giá trị thương mại thế giới, tạo điều kiện
mở rộng thị trường cho nông sản Việt Nam, nhất là lúa gạo. Phù hợp với
mục tiêu chiến lược của ngành nông nghiệp trong 10 năm tới là phát triển
một nền nông nghiệp bền vững, có khả năng cạnh tranh và hướng ra xuất
khẩu, từ đó góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp, tăng thu nhập cho
người trồng lúa.
− Hệ thống chính sách trong nước: Hệ thống pháp lý sẽ được điều chỉnh
theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ tạo ra môi trường kinh doanh
trong nước bình đẳng, khuyến khích được mọi thành phần kinh tế, nhất là
các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ tham gia đầu tư vào ngành nông
nghiệp. Thu hút được nhiều nhà đầu tư, thương mại nước ngoài.
− Tạo sức ép khá lớn cho các nhà sản xuất, kinh doanh hàng nông sản trong
nước phải điều chỉnh sản xuất theo hướng phát huy lợi thế cạnh tranh
hoặc phải áp dụng các tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh.
− Đây vừa là thách thức vừa là động lực, cơ hội để mọi thành phần kinh tế

trong ngành nông nghiệp vươn lên trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế.
− Giải quyết tranh chấp thương mại: WTO là diễn đàn đấu tranh lại các đối
xử bất công trong thương mại nên khi tham gia WTO các mặt hàng xuất
khẩu được đảm bảo quyền lợi.
− Áp dụng công nghệ mới và chi phí sản xuất lương thực thấp hơn. Phát
huy lợi thế của nước xuất khẩu gạo.
 Thách thức:
− Chính sách của các nước lớn
Tự do hóa nông nghiệp đang là vấn đề tranh cãi lớn trong vòng đàm phán
hiện nay của WTO giữa các cường quốc với các nước đang phát triển và
giữa Mỹ với châu Âu.
Mỹ và một số cường quốc muốn các nước khác chấm dứt hoặc hạn chế
đến mức thấp nhất trợ cấp cho nông nghiệp, đồng thời nhanh chóng hạ thấp
thuế quan và giảm hẳn hàng rào phi thuế quan đối với nông sản, nhưng
chính họ lại không làm như thế.
Các nước đang phát triển, ngoài phần phát huy nội lực, cần có thêm nguồn
đầu tư từ nước ngoài để phát triển nông nghiệp.
− Những thách thức mang tính toàn cầu
+ Biến đổi khí hậu.
+ Tác động của thị trường thế giới.
+ Tác động của chính sách năng lượng toàn cầu.
+ Thách thức từ khủng hoảng an ninh lương thực thế giới.
“Phi nông bất ổn”, “Thực túc binh cường”, "Nhất sĩ nhì nông. Hết gạo
chạy rông nhất nông nhì sĩ ” là những tổng kết từ thực tế cuộc sống của
ông cha ta. Soi rọi kinh nghiệm đó vào tình hình khủng hoảng lương thực
dẫn đến bất ổn xã hội tại nhiều nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi thời
gian qua càng thấy vai trò, vị trí quan trọng của nông nghiệp trong việc đảm
bảo an ninh lương thực, nền tảng đảm bảo an ninh kinh tế, an ninh quốc gia.
− Thách thức từ sự bất cập của các chính sách liên quan an ninh lương thực

hiện nay.
+ Chính sách dân số:
Vấn đề đảm bảo an ninh lương thực vẫn tiếp tục đặt ra không ít vấn đề
cần giải quyết. Dân số nước ta đông, trong đó có đến 73% sống ở địa bàn
nông thôn, đất canh tác không nhiều. nếu tính theo đầu người thì ở mức thấp
nhất thế giới. Dân số Việt Nam là 74,7 triệu người năm 1998. Đến năm
2006, dân số đã tăng lên khoảng 84,15 triệu người và năm 2007 khoảng 86
triệu người, là nước đông dân thứ 13 trên thế giới. Theo dự báo của Tổng
cục Thống kê, đến năm 2024, nước ta sẽ vượt 100 triệu dân, đạt 100,5 triệu
người. Với đà tăng dân số nhanh như vậy sẽ góp phần không nhỏ làm trầm
trọng thêm những khó khăn trong giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, an
ninh lương thực. đang diễn ra hàng ngày.
+ Chính sách cơ cấu kinh tế và phát triển nông nghiệp - nông thôn:
Có thể nói, nông nghiệp chưa nhận được sự đầu tư đúng mức với tầm
quan trọng về kinh tế - xã hội đối với đất nước. Tiềm năng to lớn của lĩnh
vực nông nghiệp trong việc xóa đói giảm nghèo đã bị suy giảm, chính sách
vĩ mô tập trung vào các ngành công nghiệp và dịch vụ dẫn tới tỉ lệ lãi suất,
lạm phát ở mức cao.
Theo dự báo từ nay đến năm 2025, Việt Nam có thể lấy từ 10 - 15% diện
tích đất nông nghiệp và các loại đất khác để phục vụ phát triển công nghiệp.
Việc mất đi một phần rất lớn quỹ đất trồng do biến đổi khí hậu cùng với việc
đô thị hóa và công nghiệp hóa sẽ đặt Việt Nam trước một thách thức rất
nghiêm trọng trong việc bảo đảm an ninh lương thực.
4. Các định hướng và giải pháp trong thời gian tới.
4.1. Dự báo an ninh lương thực Việt Nam trong thời gian tới.
Do lợi thế về vị trí địa lý, Việt Nam có thể trồng lúa trên khắp địa bàn cả
nước trong thời gian 12 tháng của một năm, không chỉ một vụ mà có thể
trồng tới ba vụ (vụ lúa đông xuân, lúa hè thu, và lúa mùa). Tuy nhiên, thóc
gạo hàng hóa tập trung chủ yếu ở hai vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và
đồng bằng Sông Hồng; ở các vùng còn lại, sản xuất lúa gạo chỉ đủ hoặc chưa

đủ cho nhu cầu tiêu dùng tại chỗ. Trong điều kiện đó, sản xuất lúa gạo gắn
với an ninh lương thực trên quy mô cả nước (tầm quốc gia) phụ thuộc vào
tính ổn định và bền vững của sản xuất lúa gạo ở hai vùng Đồng bằng Sông
Cửu long và đồng bằng Sông Hồng, vừa có chức năng cung cấp cho nhu cầu
của nội vùng, vừa đáp ứng nhu cầu bị thiếu hụt ở các vùng khác, đặc biệt là
hai vùng Tây Bắc và Tây Nguyên và cung cấp nguồn gạo cho dự trữ quốc
gia và xuất khẩu. Vì vậy, kết cấu hạ tầng từ hai vùng sản xuất lúa gạo chính
đến các vùng khác cũng quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực
quốc gia.
Tổng diện tích lúa cả năm đã giảm tới trên 465 nghìn ha, bình quân mỗi
năm giảm trên 66 nghìn ha, chủ yếu ở hai vùng sản xuất lúa chính của cả
nước. Xu hướng này nếu tiếp diễn sẽ ảnh hưởng xấu đến sản lượng lúa ở hai
vùng này, cũng như ảnh hưởng đến sản lượng lúa gạo, an ninh lương thực
trong nước và khối lượng xuất khẩu gạo như hiện nay.
Theo dự báo về dân số và khả năng sản xuất lúa gạo của Việt Nam đã có
hiện nay thì cân đối cung cầu về thóc gạo từ nay tới năm 2020 được luận cứ
như sau:
- Dân số đạt 85,2 triệu người vào năm 2007, và với mức tăng bình
quân như hiện nay (1,2%/năm) thì đến năm 2010 sẽ là 88,5 triệu người, năm
2015 là 93,6 triệu người, và năm 2020 là 98,6 triệu người.
- Mức tiêu dùng gạo trên đầu người trong nước sẽ giảm do tăng tiêu
dùng thịt, sữa và rau, củ quả theo nhịp tăng của thu nhập dân cư, nhưng nhu
cầu gạo cho chăn nuôi, công nghiệp chế biến sẽ vẫn tăng lên, vì vậy tổng
lượng thóc gạo tiêu dùng trong nước thời gian tới vẫn sẽ tiếp tục tăng.
Dựa trên những luận cứ trên đây, Dự thảo lần 9 Đề án “Chiến lược an
ninh lương thực quốc gia đến năm 2020” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn soạn thảo đã dự kiến cân đối cung cầu thóc gạo đến năm 2010,
2015, 2020.
An ninh lương thực quốc gia được giữ vững với cân đối cung cầu về thóc
gạo cho các mục tiêu sử dụng trong nước vẫn sẽ được đảm bảo và có dư khá

nhiều: 5,4 triệu tấn vào năm 2010, 5,1 triệu tấn vào năm 2015, và 3,3 triệu
tấn vào năm 2020. Số thóc dư thừa này sẽ là nguồn để nước ta tiếp tục xuất
khẩu, nhưng khối lượng giảm dần. Mức cung sản lượng thóc sẽ tăng lên 37,2
triệu tấn vào năm 2015 và 38,5 triệu tấn vào năm 2020.
4.2. Các quan điểm định hướng, giải pháp đảm bảo an ninh lương thực cho
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
a. Quan điểm định hướng về an ninh lương thực của Đảng và nhà nước.
− Thứ nhất, thường xuyên tuyên truyền cho nhân dân có ý thức cộng
đồng về vấn đề an ninh lương thực.
− Thứ hai, các cấp có thẩm quyền ban hành cơ chế huy động đặc thù
về lương thực khi có lũ, lụt, thiên tai và tình huống xấu xảy ra đối
với tất cả các thành phần kinh tế. Đặc biệt chú trọng đến các vùng
miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa thường bị chia cắt
do khó khăn về thông tin, giao thông vận tải.
− Thứ ba, mỗi địa phương tiếp tục rà soát lại quy hoạch đất đai với
tiêu chí đầu tiên là mang tính khoa học cao.
− Thứ tư, thường xuyên chủ động dự báo bám sát tình hình lương thực
khu vực và thế giới để có chính sách lương thực quốc gia phù hợp,
vừa phát huy lợi thế so sánh góp phần tăng trưởng kinh tế thời kỳ
hội nhập quốc tế vừa bảo đảm ổn định xã hội.
b. Một số giải pháp đảm bảo an ninh lương thực.
 Thúc đẩy sản xuất và nâng cao năng suất trong sản xuất nông nghiệp.
− Tích cực đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp.

×