Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy Văn mẫu lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.02 KB, 14 trang )

PHÂN TÍCH BÀI THƠ “ÁNH TRĂNG” CỦA NGUYỄN DUY
Bài tham khảo:
Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng
chiến chông Mĩ cứu nước đau thương và oanh liệt của dân tộc. Bài thơ Ánh trăng
được viết tại thành phố Hồ Chí Minh năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước.
Trong cuộc sống hòa bình, một số người đã từng trải qua thử thách, gian khổ,
từng chứng kiến sự hi sinh lớn lao của đồng đội và nhân dân, từng gắn bó sâu nặng
với thiên nhiên nhưng đã vội quên những gian nan, cơ cực và những kỉ niệm thắm
thiết nghĩa tình của một thời chưa xa.
Bài thơ là một lần “giật mình” nhìn lại của Nguyễn Duy. Nó có tác dụng thức tỉnh
bao người trước cái điều vô tình ấy.
Ánh trăng trước hết là tiếng lòng, là sự tự vấn lương tâm của riêng Nguyễn
Duy. Nhà thơ đứng giữa hôm nay mà suy ngẫm về thời đã qua và từ tâm trạng
riêng, tiếng thơ ông cất lên như một lời nhắc nhở. Vầng trăng ở đây không chỉ là
một hình ảnh cụ thể của đất trời mà còn là biểu tượng cho một quá khứ đẹp đẽ, là
mối liên hệ giữa tâm tình riêng và ý nghĩa phổ biến rộng lớn, giữa nội dung cụ thể
và tính khái quát của bài thơ.
Bài thơ không chỉ đề cập đến thái độ thờ ơ, quay lưng đối với những hi sinh,
mất mát của thời chiến tranh mà còn là chuyện nghĩa tình, nhớ về cội nguồn, nhớ
về những người đã khuất. Cao hơn nữa, Ánh trăng còn là lời nhắc nhở mỗi con
người về lẽ sống chung thủy với chính mình.
Sự kết hợp khéo léo giữa tự sự với trữ tình đã tạo cho bài thơ dáng dấp của
một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian. Giọng điệu tâm tình được thể
hiện bằng thể thơ năm chữ. Hai khổ thơ đầu là cảm xúc của nhà thơ về ánh trăng
khi chiến đấu trong rừng. Khổ thứ ba là cảm xúc trước vầng trăng trong thành phố
hoà bình. Nhịp thơ ở phần này tự nhiên, nhịp nhàng. Đến khổ thứ tư, giọng thơ
thay đổi, thể hiện thái độ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của tác giả trước sự xuất hiện
đột ngột của vầng trăng trong đêm mất điện. Giọng thơ trầm lắng, thiết tha ở hai
khổ cuối rất hợp với sự hồi tưởng và suy tư lặng lẽ.
Dòng cảm xúc trữ tình của nhà thơ cũng tuôn chảy theo những lời tự sự.


Nhà thơ kể rằng:
Hồi nhỏ sống với đồng,
Với sông rồi với bể;
Hồi chiến tranh ở rừng,
Vầng trăng thành tri kỉ.
Nhà thơ tưởng không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa ấy. Thế mà từ hồi
về thành phố ăn sung mặc sướng, quen sống giữa những tiện nghi hiện đại, mới
chỉ có mấy năm mà đã nhìn vầng trăng tình nghĩa như người dưng qua đường.
Sự việc bất thường ở khổ thơ thứ tư chính là tác nhân gợi nhớ để từ đó tác giả
bộc lộ cảm xúc của mình:
Thình lình đèn điện tắt,
Phòng buyn-đinh tối om,
Vội bật tung cửa sổ,
Đột ngột vầng trăng tròn.
Ánh trăng toả sáng căn phòng. Chính vầng trăng xuất hiện bất ngờ trong bối
cảnh ấy đã gây ấn tượng mạnh, thổi bùng nỗi nhớ về một thời máu lửa chưa xa.
Vầng trăng là hình ảnh của thiên nhiên tươi mát, là người bạn tri kí của nhà
thơ suốt thời tuổi nhỏ và thời chiến tranh. Trong phút chốc, sự xuất hiện đột ngột
của vầng trăng giừa thành phố làm sống dậy tâm trí nhà thơ bao kỉ niệm ấm áp
nghĩa tình của những năm tháng gian nan mà hào hùng. Hiển hiện rõ ràng trong
tâm tưởng của một con người đang sống giữa phố phường hiện đại là những khung
cảnh thân thương gắn liền với hình ảnh vầng trăng trong quá khứ. Tuy nhà thơ
không khóc nhưng nỗi nhớ cứ rưng rức ở trong lòng.
Ngửa mặt nhìn lên mặt,
Có cái gì rưng rưng,
Như là đồng là bể,
Như là sông là rừng.
Vầng trăng không chỉ là vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng của thiên nhiên mà cao
hơn thế, nó là biểu tượng của tinh thần lạc quan trong cuộc sống chiến đấu gian
khổ, hiểm nguy mà nồng đượm nghĩa tình và sáng ngời chân lí.

Khổ thư cuối bài thế hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng
trăng và cũng là chiều sâu tư tương mang tính triết lí của tác phẩm:
Trăng cứ tròn vành vạnh như quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng thể phai mờ.
Ta có thể hiểu khác đi là những người cầm súng bảo vệ Tổ quốc đã ngã xuống trên
mảnh đất này không bao giờ tính toán thiệt hơn. Đất nước, dân tộc mãi mãi ghi
nhớ công lao của họ. Ánh trăng im phăng phắc không nói mà nói bao điều, nhắc
nhở nhà thơ (và cả mỗi chúng ta) rằng: con người có thể vô tình, có thể lãng quên
nhưng thiên nhiên và nghĩa tình trong quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt.
Bài thơ Ánh trăng là lời tự nhắc nhở của Nguyễn Duy về thái độ, tình cảm của
mình đối với quá khứ gian khổ hào hùng của đất nước.
Tuy nhiên, bài thơ không phải là lời nhắc nhở riêng ai, mà nhắc nhở cả một
thế hệ đã từng trải qua những năm tháng gian khổ của chiến tranh, từng gắn bó với
thiên nhiên, được nhân dân đùm bọc, che chở, nay được may mắn sống trong hoà
bình thì đừng bao giờ quên quá khứ. Hơn thế, bài thơ còn có ý nghĩa với nhiều
người, nhiều thời bởi nó đặt ra vấn đề thái độ trân trọng và biết ơn đối với quá
khứ, những người đã khuất và đối với cả chính mình. Bài thơ nằm trong mạch cảm
xúc uống nước nhớ nguồn. Đây là truyền thông tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta tự
bao đời.
Bài tham khảo 2:
Nguyễn Duy thuộc thế hệ làm thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước.Vừa mới xuất hiện, Nguyễn Duy đã nổi tiếng với bài “Tre Việt
Nam”. Bài “Hơi ấm ổ rơm” của ông đã từng đoạt giải hưởng báo Văn nghệ. “Ánh
trăng” cũng là một trong những bài thơ được nhiều độc giả yêu thích bởi tình cảm
chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ mới lạ.
Qua bài thơ, tác giả đã kín đáo bộc lộ những suy nghĩ, chiêm nghiệm về một lẽ
sống cao quý trong cuộc đời của mỗi con người.
Khổ thơ mở đầu như những lời tự sự ghi lại những dòng hồi ức của tác giả về quá
khứ:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể

hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Trăng gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu. Trăng gắn với đồng ruộng, dòng
sông, biển cả. Dù ở đâu, đi đâu trăng cũng ở bên cạnh. Nhưng phải đến khi ở rừng,
nghĩa là lúc tác giả sống trên tuyến đường Trường Sơn, xa gia đình, quê hương,
vầng trăng mới thành “tri kỷ”. Trăng với tác giả là đôi bạn không thể thiếu nhau,
hiểu biết, thông cảm lẫn nhau. Điệp từ “hồi”, “với” diễn tả cuộc sống nhiều biến
động của một con người. Điều ấy chứng tỏ nhà thơ đã đi nhiều, trải nhiều… Qua
những hình ảnh không gian “đồng”, “sông”, “bể”, “rừng”, tác giả đã diễn tả tinh tế
sự vận động của thời gian gắn bó với sự trưởng thành của nhà thơ lớn lên từ đồng
nội…
Tác giả như khắc đậm thêm tình cảm của mình đối với trăng:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Trăng có vẻ đẹp bình dị vô cùng, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một
cách vô tư, hồn nhiên. Trăng tượng trưng vẻ đẹp thiên nhiên nên trăng hòa vào
thiên nhiên, hòa vào cây cỏ. Hay nhà thơ còn muốn diễn tả sự gần gũi giữa mình
với thiên nhiên, gần gũi với trăng: “Trần trụi với thiên nhiên”. Tâm hồn người
chiến sĩ lúc ấy cũng “hồn nhiên” vô tư đến độ “như cây cỏ”… Vầng trăng “tri kỷ”
đã đẹp rồi mà “vầng trăng tình nghĩa” còn cao quý biết nhường nào:
“ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Trăng mỗi tháng một lần theo chu kỳ tuần hoàn của thiên nhiên, lại đến với
con người. Trăng mang ánh sáng đến cho con người giữa ban đêm. Trăng tỏa ánh
sáng xuống vòm cây, soi tỏ những lối đi, tỏa vẻ đẹp dịu mát xuống sân nhà. Trăng
làm vui vẻ trẻ con, làm ấm lòng người già, trăng tạo mộng mơ cho đôi lứa, trăng
chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ với những người lính ở rừng núi. Cái “tình
nghĩa” vẹn toàn ấy của trăng làm sao con người có thể quên được. Cách nhân hóa

“vầng trăng thành tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” thể hiện tình cảm nặng lòng của
tác giả đối với trăng biết nhường nào!
Từ “ngỡ” ở đầu câu thơ thứ ba như báo trước một điều gì sẽ xảy ra trái với dự
đoán và suy nghĩ ban đầu…
Điều ấy đã trở thành hiện thực, điều “ngỡ không bao giờ quên” ấy bây giờ đã 
quên:
“Từ hồi về thành phố
…như người dưng qua đường”
Trước đây tác giả sống với sông, với bể, với rừng, bây giờ môi trường sống đã
thay đổi. Tác giả về sống với thành phố. Đời sống cũng thay đổi theo, quen “ánh
điện, cửa gương”. “Ánh điện” và “cửa gương” tượng trưng cho cuộc sống sung
túc, đầy đủ sang trọng… dần dần “cái vầng trăng tình nghĩa” ngày nào bị tác giả
lãng quên. Phải chăng “vầng trăng” ở đây tượng trưng cho những năm tháng gian
khổ ấy. Đó là tình bạn, tình đồng chí được hình thành từ những tháng năm gian
khổ ấy. “Trăng” bây giờ thành “người dưng”… Hình ảnh nhân hóa ở đây thật sinh
động “đi qua ngõ”. Trăng đâu có cao xa vời vợi, trăng vẫn gần gũi thân thương
vậy mà con người thật lạnh lùng dửng dưng… Rõ ràng hoàn cảnh tác động đến
con người thật mạnh mẽ. Bởi thế người đời vẫn thường nhắc nhau: “Ngọt bùi nhớ
lúc đắng cay – Ra sông nhớ suối có ngày nhớ đêm”.
Khổ thơ này có kết cấu đối lập, một bên là “ánh điện, cửa gương” sáng lòa,
lộng lẫy, rực rỡ và một bên là “ánh trăng” dịu ngọt, thanh nhẹ. Đặt những hình ảnh
có vẻ đối lập bên nhau, Nguyễn Duy muốn bộc lộ kín đáo một lời tự thú chân
thành, nghiêm khắc.
Bài thơ được phát triển đến một tứ thơ có chút kịch tính:
“Thình lình đèn điện tắt
…đột ngột vầng trăng tròn”
Cử chỉ “vội bật tung cửa sổ” lúc bấy giờ chỉ là phản xạ hết sức tự nhiên của
một người quen với ánh sáng điện nay lại bị giam trong bóng tối, mong có được
một chút ánh sáng bên ngoài cho căn phòng đỡ tối tăm hơn mà thôi. Nhưng may
mắn thay cũng là trớ trêu thay, lúc ấy lại có trăng. Trăng trở nên quý giá biết bao

vào những khi mất điện. Và riêng tác giả, cái vầng trăng đột ngột hiện trên khoảng
trời kia đâu phải chỉ để thay thế trong khoảnh khắc cho sự cố vừa rồi, mà nó còn
làm xáo trộn tâm hồn thi sĩ:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
…như là sông, là rừng”
Trong câu thơ “Ngửa mặt lên nhìn mặt”, tác giả dùng đối xứng hai từ “mặt”
rất hay. Đó là nhìn mặt tri kỷ, mặt của tình nghĩa mà bấy lâu nay mình dửng dưng.
Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại người bạn tuổi thơ, như gặp lại người
bạn từng sát cánh bên nhau trong những tháng năm gian khổ. Từ gợi tả “rưng
rưng” diễn tả nỗi xúc động của thi sĩ… Những kỉ niệm ngày nào bấy lâu tưởng bị
chôn vùi nay lại ùa về đánh thức tâm hồn người trong cuộc:
“như là đồng là bể
như là sông, là rừng”
Điệp từ “như là” cùng với nhịp thơ gấp bộc lộ rất rõ cảm xúc đang trào dâng
mạnh mẽ…
Khổ cuối bài thơ, Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm trong suy tư, 
trong chiêm nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.”
Hình ảnh “vầng trăng” còn được nhà thơ nhìn lại “tròn vành vạnh” thật là đẹp,
một cái đẹp viên mãn không hề bị khiếm khuyết. Cái ánh sáng tròn đầy hay cũng
là cái đẹp của tình nghĩa thủy chung, nhân hậu mặc cho ai kia thay đổi, vô tình. Và
cao quý biết bao bởi vì “vầng trăng” ngày nào còn tỏ ra bao dung độ lượng: “kể
chi người vô tình”. Nhưng chính ánh trăng vô ngôn, không một lời trách cứ ấy đã
khiến cho “người vô tình” thấy rõ cái khiếm khuyết của bản thân mà không khỏi
“giật mình” tỉnh ngộ:
“ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”

Ánh trăng hay là ánh nhìn? Vừa nghiêm khắc, lạnh lùng, vừa bao dung độ
lượng, “sự im lặng đáng sợ” ấy khiến kẻ trong cuộc phải “giật mình” vì đến lúc
này mới nhận rõ mình hơn. Cái “giật mình” chân thành thay cho một lời sám hối.
Đó chính là cái hay và độc đáo của bài thơ có sức cảm hóa lòng người.
Bài thơ gây được xúc động bởi cách diễn tả như một lời tâm sự chân thành, lời tự
nhắc nhở có giọng trầm tĩnh mà lắng sâu. Khổ thơ cuối của bài thơ mang chiều sâu
tư tưởng triết lý: vầng trăng cứ tròn đầy lặng lẽ, “kể chi người vô tình”, là biểu
tượng của sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn trong sáng
mà không hề đòi hỏi sự đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân
mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một
cách sâu sắc.
Với một giọng điệu thơ nhẹ nhàng, sâu lắng kết hợp với thể thơ ngũ ngôn và
việc không viết hoa chữ cái đầu dòng thơ – thể thơ phù hợp với việc tự sự, bộc lộ
cảm xúc, bài thơ “Ánh trăng” đã thực sự gây nhiều xúc động đối với bao độc giả.
Có lẽ ai đã từng đọc “Ánh trăng” cũng đều nghiêm khắc với chính mình như thế vì
một thời quá khứ chưa được đánh giá đúng mức. Vâng, muộn còn hơn không, mỗi
chúng ta đều phải có trách nhiệm với những gì thuộc về quá khứ. Hẳn “Ánh trăng”
không chỉ làm “giật mình” một Nguyễn Duy mà thôi!
Bài tham khảo 3:
Vầng trăng dịu mát, sáng trong, vầng trăng huyền diệu tròn đầy tự bao giờ đã
trở nên thân thương gắn bó với con người.Nếu vị thi tiên Lí Bạch khi xa quê đã
không thể quên ánh trăng trên đỉnh núi Nga Mi: “Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
Nếu Bác kính yêu coi trăng như bè bạn tri âm “TRăng vào cửa sổ đòi thơ”thì
Nguyễn Duy_nhà thơ trưởng thành thời kháng chiến chống Mỹ lại coi trăng là
nguồn sáng lung linh để thanh lọc tâm hồn, để ăn năn hối lỗi. Bài thơ “Ánh trăng”
(1978)của ông được khơi nguồn từ những cảm xúc chân thành và cao đẹp như thế
Bài thơ mang dnág dấp như một câu chuyện với lời kể mở đầu tự nhiên,trôi chảy
về mối quan hệ gán bó giữa trăng và nhà thơ:
Hồi nhỏ sống với đồng

Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Chỉ bằng 4 câu thơ ngắn Nguyễn Du đã dựng lại được cả thời niên thiếu cho
đến lúc trưởng thành,1 không gian thân thương: đồng, sông, bể.Từ không gian đầy
ắp kỉ niệm ấy ta nhận ra niềm say mê,sảng khoái của con người trong cái mát lành
dịu ngọt ân tình của quê hương qua ánh trăng lai láng trên cánh đồng, dòng sông,
bãi biển.Không gian cứ mở rộng mãi ra, bao la bát ngát theo nhịp trưởng thành của
con người.Thời gian không ngừng vận động và cậu bé lớn lên từ quê hương ấy đã
trở thành chiến sĩ. Khi xa quê, đi vào cuộc chiến, nỗi nhớ thương chợt hiện về
quay quắt tâm hồn,lúc này người và trăng lại càng gắn bó _ánh trăng là bạn tri kỉ
chia sẻ mọi gian nan thiếu thốn, mọi buồn vui sướng khổ trong những năm tháng
chiến tranh của tác giả.NHư vậy là tuổi thơ chớp mắt đã trôi qua.Cái còn lại lúc
này là vầng trăng thật đơn sơ,chung thuỷ.
Hai chữ hồi ở câu thơ thứ nhất và thứ 3 làm cho khổ thơ như có một chỗ dừng
chân. Cái dừng chân giữa ranh giới của ấu thơ và trưởng thành. Ánh trăng soi rọi
về quá khứ khiến tiếng nói tâm tình trở nên sâu lắng thiết tha
Trần trụi giữa thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa
Trăng hồn nhiên như trẻ thơ, trăng chân thành như bè bạn,trăng gắn bó sâu
nặng với con người mà không trở lực nào có thể ngăn cách. Những năm tháng con
người sống thật nhất với mình, trần trụi,hồn nhiên là khi con người ta trân trọng,
đinh ninh một lời thề son sắt “ngỡ không bao gìơ quên,cái vầng trăng tình nghĩa”
Từ ngỡ là chiếc cầu nối ngôn từ vừa khép lại thời qua khứ vừa mở ra thời hiện tại
tạo nên sự chuyển tiếp cho khổ thơ thứ 3
Từ hồi về thnàh phố
Quen đèn điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ

Như người dưng qua đường
Cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói loà của ánh điện cửa gương,với những
vật dụng ngày càng hiện đại dường như đã làm lu mờ ánh sáng của vầng trăng.Tác
giả đã tạo ra sự đối lập giữa vầng trăng nghĩa tình trong quá khứ với vầng trăng xa
lạ như người dưng qua đường bây giờ.Là ánh trăng đã khác ánh trăng của ngày
xưa?Không! Ánh trăng vẫn thế vẫn gần gũi thân thương dịu dàng,chỉ có hoàn cảnh
sống của con người đã thay đổi khiến họ không nhận ra vẻ đẹp của vầng trăng tri
kỉ ngày xưa hay chính họ đã thờ ơ,họ quên đi.Thật xót xa cho vầng trăng tuổi thơ
vầng trăng đi bên nhau một thời chinh chiến như tri kỉ,vậy mà khi người ta sống
giữa phồn hoa đô thị thig nó lại bị lãng quên.Mấy chục năm về trước Tố Hữu cũng
đã từng băn khoăn, trăn trở về sự thay đổi của lòng người như thế trong bài thơ
Việt Bắc:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng
Phố cao còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ ánh trăng giữa rừng
Ánh trăng đã đựơc tác giả nhân hoá để gửi gắm suy tư về nhân tình thế
thái.Lời thơ so sánh của Nguyễn Duy “vầng trăng đi qua ngõ, như người dưng qua
đường” như xoáy vào lòng người một nỗi niềm xót xa nhức nhối,bới sự phản bội ở
đây không chỉ với lịch sử,với thiên nhiên mà còn với chính bản thân mình nữa
Cuộc đời như một dòng sông khi duị êm lặng lẽ, lúc cuộn sóng trào dâng,bởi
thế cuộc sống thời hiện đại sao có thể êm đềm mãi cho được
Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn_đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn
Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ của toàn bài,là sự chuyển biến có ý
nghĩa bước ngoặt của mạch cảm xúc, bộc lộ rõ chủ đề tư tưởng của bài thơ. Ở đây
không chỉ là sự thay thế ánh trăng cho ánh điện mà còn là sự thức tỉnh trong tiềm
thức của con người. Các từ “bật tung”, “đột ngột” diễn tả cảm xúc mạnh mẽ bất

ngờ có cái gì như là thoảng thốt âu lo trong hình ảnh”Vội bật tung cửa sổ” Vầng
trăng ấy đâu phải chỉ khi đèn điện tắt mới xuất hiện mà nó vẫn nguyên vẹn như
thế, tròn đầy như thế, dịu lành như thế, vẫn lặng lẽ đi bên cạnh cuộc đời con
người,nó làm sáng lên cái góc tối đánh thức sự quên lãng trong cái đời sống đủ
đầy đến thừa thãi của con người
Trong khoảng khắc thình lình đối diện với vầng trăng,một thời kỉ niệm ân tình
ngày xưa ùa về “rưng rưng” sống dậy thổn thức,lay động da diết lòng người
Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng
Hai chữ “mặt” trong một câu thơ là hai tấm lòng đang đối diện:mặt trăng và
mặt người.Hay chính là con người đang đối diện với chính lòng mình,với cái phần
ân tình quá khứ mà mình đã vô tình lãng quên.Có cái gì đó trào dâng lên trong
lòng người,rưng rưng,cay xè và giọt lệ như sắp tuôn trào bên hàng mi.Nhà văn
Nam Cao đã từng nói rất đúng rằng:“Nước mắt là tấm kính biến hình của vũ trụ”
Nước mắt có thể thanh lọc tâm hồn con người, khi nào người ta còn biết khóc là
khi họ còn có một trái tim,một tấm lòng để rung động và để yêu thương.Cái tốt
lành trong sáng đã hé nở trong hai chữa “rưng rưng” nao lòng người ấy.Nguyễn
Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại một không gian tình nghĩa: đồng bể, sông, rừng.
Ánh trăng soi rọi tâm hồn, khiến nhà thơ bừng tỉnh”
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Vầng trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình
Khổ thơ kết bài của bài thơ là hai vế đối lập mà song song. Đối lập giữa cái
tròn đầy vạnh vạnh của vầng trăng là hao khuyết thiếu hụt của kẻ đã vô tâm quên
đi quá khứ _cái qua khứ ân tình thuỷ chung mà họ “ngỡ không bao giờ quên”. Đối
lập giữa cái im lặng độ lượng của trăng là sự thức tỉnh trong lương tri con người.
Đối lập giữa hiện tại và quá khứ.Suy nghĩ của tác giả ở khổ thơ này đã được nâng

lên tầm cao triết lí.Nếu ai đó có lúc quên đi những điều thiêng liêng tốt đẹp của
quá khứ thì phải có những lúc giật mình tỉnh thức trong hiện tại mới mong đạt
được những ân nghĩa tốt lành ở tương lai.Bởi đó là chân lí đã trở thành đạo lí của
người Việt ta:”Uống nước nhớ nguồn”
“Ánh trăng” nhẹ nhàng,trong sáng về câu chữ,tự nhiên, thuần thục về kết
cấu,bình dị, dễ hiểu về ý thơ,tha thiết trong giọng điệu.Bài thơ đã đem đến cho
người đọc một bài học sâu sắc:con người cần sống có trước có sau,có tình có nghĩa
để không bao giờ phải giật mình day dứt về những năm tháng vô tình hờ hững đã
qua. Dù xã hội ngày càng văn minh, hiện đại nhưng ánh trăng trên trời cao và cả
ánh trăng của Nguyễn Duy vẫn thật sự cần thiết với mỗi con người bởi nó là tấm
gương sáng nhất giúp chúng ta soi vào để nhận ra những gì trong lành tinh khôi
nhất của cuộc đời.Vầng trăng soi sáng những tâm hồn vô tình lãng quên.
Bài tham khảo 4:
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở
thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao
thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi
lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn
lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến
với bài thớ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng
mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấn đẫm cái hồn của ca dao,
dân ca Việt Nam . Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào
cái nghĩa tình muôn đời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy.Trăng
đối với nhà thơ có ý nghĩa đặïc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa
và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảng tỉnh cho mỗi con người có
lối sống quên đi quá khứ.
Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức thuổi thơ của nhà thơ
và trong chiến tranh:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể

hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và
trong sáng của thuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như đã
diễn tả một cách khái quát về sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con người
sinh ra và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và bể là
nhưng nơi chốn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấâu thơ mà khó có thể quên
được. Cũng chính nới đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần lưng
“đồng”, “sông” và điệp từ “ với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều
và được hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của bãi bồi thiên nhiên cũa tác
giả.Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có được ! Khi lớn lên, vầng trăng đã tho
tác giả vào chiến trường để “chờ giặc tới’.Trăng luôn sát cách bên người lính,
cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom
đạn kẻ thù. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới
ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đù, tâm sự của những người lính lại mở ra
để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trởø thành “tri kỉ” của
người lính trong nhưng năm tháng máu lửa.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc
đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đù,
người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm
cho âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc cũa tác giả vẫng
đang tràn đầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất trần trụi,
cái chất hồn nhiên của người lính trong nhữnh năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng
mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông.
của bể và của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn -

vầng trăng ấy sẽ phài làm quen với môt hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:
“Từ hồi về thành phá
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn
ở lại trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói loà. Thế nhưng con
người không thể kháng cự lại sự thay đổi đó.Người lính năm xưa nay cũng làm
quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. VàØ rồi trong chính sự
xa hoa đó, người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng
chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại
xem như không quen không biết. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự
có cái gì đó làm rung động lòng người đoc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con
người. Cũng chính phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một
“người bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của
phố phường, những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật
khác đã lôi kéo con gười ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của
con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá
khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi
những giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản củacuộc sống, đó chình là tình
cảm con người. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ xảy ra buộc ngươiø lính phải
đối mặt:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn -đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về
vật chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình
lình”, “đột ngột” ấy, người lính vôi bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì
đó. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay

sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người
bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta. “Người bạn ấy”
không bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người
vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó cũng sẵn
sàng đón nhận tấm lòng của một con người biết sám hối, biết vươn lên hoàn thiện
mình. Cuộc đời mỗi con người không ai có thể đóan biết trước được. Không ai mãi
sống trong một cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử thách. Cũng như
một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những qunh co, uốn khúc. Và chính
trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được
cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của
cuộc đới. Dường như người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó!
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đókhiến cho người lính áy náydù cho
không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt trăng
và mặt người đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng
rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc
động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với vầng trăng,
bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ
của mình ngày nào, nới có “sông” và có “bể” .Chính những thước phim quay
chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và ngững giọt nước mắt tuôn ra
tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho
người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa
những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những
điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không
bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên
tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành,
ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.

Vầng trăng trong khổ thớ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kề chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Khổ thơ cuối cùnh mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng
và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và
không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng
phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủù khiến
cho con người giật mình. Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi
mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể
chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nũa
thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chởù cho
con người.
“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với
mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì
hãy thức tỉnh và tìmlại những giá trị đó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy
thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá
muộn. Bài thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà cón có những nét đột phá trong
nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không
viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất
nhanh, giọng điệu tâm tình dã gấy ấn tượng mạnh trong lòng người đọc

×