Đề 7. Em hãy phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở
thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao
thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi
lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn
lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến
với bài thớ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng
mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấn đẫm cái hồn của ca dao,
dân ca Việt Nam . Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào
cái nghĩa tình muôn đời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như
vậy.Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặïc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng
tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảng tỉnh cho mỗi con
người có lối sống quên đi quá khứ.
Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức thuổi thơ của nhà
thơ và trong chiến tranh:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm
và trong sáng của thuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như
đã diễn tả một cách khái quát về sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con
người sinh ra và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và
bể là nhưng nơi chốn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấâu thơ mà khó có thể
quên được. Cũng chính nới đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần
lưng “đồng”, “sông” và điệp từ “ với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc
nhiều và được hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của bãi bồi thiên nhiên
cũa tác giả.Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có được ! Khi lớn lên, vầng trăng
đã tho tác giả vào chiến trường để “chờ giặc tới’.Trăng luôn sát cách bên người
lính, cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của
bom đạn kẻ thù. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ
dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đù, tâm sự của những người lính lại
mở ra để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trởø thành “tri kỉ”
của người lính trong nhưng năm tháng máu lửa.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của
cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng
trăng đù, người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên”
làm cho âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc cũa tác giả
vẫng đang tràn đầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất trần
trụi, cái chất hồn nhiên của người lính trong nhữnh năm tháng ở rừng. Cái vầng
trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của
sông. của bể và của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm
hồn - vầng trăng ấy sẽ phài làm quen với môt hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là
còn ở lại trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói loà. Thế nhưng
con người không thể kháng cự lại sự thay đổi đó.Người lính năm xưa nay cũng
làm quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. Và rồi trong
chính sự xa hoa đó, người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn
mà tưởng chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình
nhưng mình lại xem như không quen không biết. Phép nhân hoá vầng trăng trong
câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung động lòng người đoc bởi vì vầng trăng ấy
chính là một con người.
Cũng chính phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một
“người bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của
phố phường, những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật
khác đã lôi kéo con gười ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của
con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá
khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi
những giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản củacuộc sống, đó chình là
tình cảm con người. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ xảy ra buộc ngươi lính
phải đối mặt:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn -đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy
đủ về vật chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái
“thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính vôi bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một
cái gì đó. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình
đây hay sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình
nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta.
“Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ oán giận hay
trách móc con người vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và
khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của một con người biết sám
hối, biết vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người không ai có thể đóan
biết trước được. Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có
khó khăn, thử thách. Cũng như một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với
những qunh co, uốn khúc . Và chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố
ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ
trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đới. Dường như người lính trong bài
thơ đã hiểu được điều đó!
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đókhiến cho người lính áy
náydù cho không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng
thô: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có
cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào
ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với
vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm
về tuổi thơ của mình ngày nào, nới có “sông” và có “bể” .Chính những thước
phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và ngững giọt nước
mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần
nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại.
Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng
tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc
ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và
nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc,
chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.
Vầng trăng trong khổ thớ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kề chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Khổ thơ cuối cùnh mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư
tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn
đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im
lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủù
khiến cho con người giật mình. Ánh trăng như một tấm gương để cho con người
soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có
thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi
nũa thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chở
cho con người.
“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc
nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh
thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìmlại những giá trị đó. còn ai chưa biết coi
trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây
giờ, đừng để quá muộn. Bài thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà cón có những
nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ
đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ.
Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình dã gấy ấn tượng mạnh trong lòng
người đọc.