Tải bản đầy đủ (.pdf) (569 trang)

Phát triển bền vững miền núi việt nam mười năm nhìn lại và các vấn đề đặt ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.01 MB, 569 trang )


Mục lục
Mục lục ................................................................................................................................................... i
Lời giới thiệu .......................................................................................................................................... iii
Cách đánh số các bảng, đồ thị và các đề mục................................................................................... iii
Các chữ viết tắt ...................................................................................................................................... vi

Phần I - Các vấn đề chung ........................................................................................1
Bài 1

Mời năm phát triển miền núi Việt Nam: Các vấn đề kinh tế - xà hội, văn hoá và
môi trờng ............................................................................................................................... 2

Bài 2

Mời năm phát triển kinh tế và xà hội miền núi ................................................................. 27

Bài 3

Tổng quan môi trờng miền núi Việt Nam trong mời năm qua: Thực trạng và
những vấn đề đặt ra .............................................................................................................. 85

Bài 4

Thực trạng và một số vấn đề phát triển đời sống văn hoá của các tộc ngời
thiểu số ở nớc ta hơn 10 năm qua ................................................................................... 103

Phần II - Các báo cáo chuyên đề ...................................................................124
Các báo cáo chuyên đề về Kinh tế - XÃ hội ........................................................................ 125
Bài 1


Một số vấn về dân số với phát triển các dân tộc thiểu số và miền núi Việt Nam ......... 126

Bài 2

Mời năm phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp miền núi và các vấn đề đặt ra ............. 145

Bài 3

An toàn lơng thực của các dân tộc thiểu số ở vùng cao Việt Nam dới tác động
của yếu tố xà hội và văn hoá ............................................................................................. 168

Bài 4

Xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp và đô thị hoá ở miền núi: 10
năm nhìn lại và những vấn đề đặt ra ................................................................................. 188

Bài 5

Mời năm phát triển thơng mại và thị trờng miền núi Việt Nam ................................ 207

Bài 6

Tình hình hoạt động của các thành phần kinh tế trong nông nghiệp ở miền núi
thời kỳ 1991 - 2000 .............................................................................................................. 236

Bài 7

Vấn đề phát triển kinh tế hộ nông dân ở vùng đồi núi Hoà Bình theo hớng sản
xuất hàng hoá ...................................................................................................................... 260


Bài 8

Tác động chính sách Định canh định c và di dân, phát triển vùng kinh tế mới
đến phát triển bền vững kinh tÕ - x· héi ë miỊn nói ........................................................ 277

Bµi 9

Chơng trình 135 Phát triển kinh tế - xà hội các xà đặc biệt khó khăn vùng dân
tộc và miền núi giai đoạn I (1998-2000) ........................................................................... 293

Bài 10

Sức khoẻ và y tế ở vùng dân tộc thiểu số ........................................................................ 311

Bài 11

Mét sè vÊn ®Ị vỊ giíi ë miỊn nói ViƯt Nam ...................................................................... 352

Bài 12

Một số vấn về đề đầu t cho nông nghiệp và nông thôn miền núi ............................... 371

i


Bài 13

Tổng quan 10 năm thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xà hội đối với
vùng dân tộc và miền núi nớc ta ..................................................................................... 382


Các báo cáo chuyên đề về Tài nguyên - Môi trờng ..................................................... 393
Bài 14

Công tác bảo vệ thiên nhiên ở miền núi trong 10 năm qua, những thuận lợi và
khó khăn .............................................................................................................................. 394

Bài 15

Những vấn đề về đa dạng sinh học ở vùng núi Việt Nam: Hiện trạng và diễn biến
trong 10 năm qua ................................................................................................................ 410

Bài 16

Mời năm phát triển lâm nghiệp miền núi ........................................................................ 428

Bài 17

Chính sách đất đai và vấn đề quản lý rừng cộng đồng .................................................. 441

Bài 18

Luật tục địa phơng và luật pháp của Nhà nớc trong quản lý rừng: nghiên cứu
trờng hợp tại một cộng đồng ngời Dao ở miền núi phía Bắc, Việt Nam ................... 459

Bài 19

Miền núi Thừa Thiên - Huế trong thời kỳ đổi mới ............................................................ 473

Bài 20


Phát triển bền vững miền núi tỉnh Kon Tum 10 năm qua: Thành công và những
vấn đề quan tâm .................................................................................................................. 486

Bài 21

Dân số và vấn đề tài nguyên môi trờng - xà hội ở Đắk Lắk.......................................................... 502

Các báo cáo chuyên đề về Văn hoá ...................................................................................... 509
Bài 22

Hội nhập vào thời đại phát huy đổi mới bản sắc văn hoá các tộc ngời thiểu số ....... 510

Bài 23

Biến động về tôn giáo tín ngỡng trong dân tộc H'Mông và một số dân tộc thiểu
số ở Tây Nguyên đối với sự ổn định và phát triển miền núi ........................................... 525

Bài 24

Văn hoá các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc Việt Nam: Truyền thống và
biến đổi ................................................................................................................................ 547

Bài 25

Phong tục tập quán, nghi lễ và vấn đề phát triển bền vững miền núi Tây Nguyên ..... 555

ii


Lêi giíi thiƯu

MiỊn nói ViƯt Nam chiÕm 2/3 diƯn tÝch đất đai trong cả nớc, là nơi c trú của hơn 50 tộc
ngời, cũng là nơi tập trung nhiều tài nguyên sinh học, khoáng sản và năng lợng có giá trị. Miền
núi có vai trò quan trọng trong an ninh quốc phòng và chiếm một vị trí đặc biệt trong chiến lợc
phát triển của đất nớc.
Các nghiên cứu phát triển bền vững miền núi Việt Nam đà đợc Nhóm nghiên cứu miền
núi, tiền thân của Tổ công tác miền núi (UWG), Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trờng,
Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện từ những năm 1980, trong chơng trình cấp Nhà nớc "nghiên
cứu sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trờng - 5202 (1981-1985) và 52D
(1986-1990)". Năm 1990, Tổ Công t¸c MiỊn nói (UWG) thùc sù ph¸t triĨn trong sù hợp tác với
Mạng lới nghiên cứu các Hệ sinh thái Nông nghiệp các trờng Đại học Đông Nam á - Southeast
Asian Universities Agroecosystem Network (SUAN), Trung tâm Đông-Tây (EWC),

Đại học

Berkeley, Hoa kỳ, v.v. khi lý thuyết Sinh thái nhân văn (Human Ecology) đợc đa vào áp dụng
cho các nghiên cứu miền núi, bắt đầu bằng một Hội thảo tập huấn nhận thức về lý thuyết Sinh
thái nhân văn và nghiên cứu phối hợp giữa Trung tâm và các tổ chức nói trên tại huyện Thanh
Hoà, Đoan Hùng và Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phú cũ. Sản phẩm đầu tiên đó đà đợc xuất bản bằng
hai thứ tiếng "Agroecosystems of the Midlands of Northern Vietnam, A report on a Preliminary
Human Ecology Field Study of Three Districts in Vinh Phu Province - HÖ sinh thái nông nghiệp
Trung du Miền Bắc Việt Nam - Báo cáo bớc đầu về Nghiên cứu Sinh thái nhân văn ở ba huyện,
tỉnh Vĩnh Phú" (Lê Trọng Cúc, Kathleen Gillogly và A.T.Rambo,1990). Từ đó đến nay Tổ Công
tác Miền núi đà tiến hành nhiều nghiên cứu và hội thảo khoa học phát triển bền vững Miền núi
trên cơ sở lý thuyết Sinh thái nhân văn. Nhiều ấn phẩm đà đợc công bố: Đất chật ngời đông Sinh thái nhân văn vùng đồng bằng Sông Hồng (1992); Nghiên cứu Sinh thái nhân văn Hệ sinh
thái nơng rẫy tổng hợp bản Tát, Hoà Bình (1993); Những vấn đề Sinh thái Nhân văn ở Việt Nam
(1994); Sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trờng Bình-Trị-Thiên (1996); Tiếp
cận Sinh thái nhân văn và phát triển bền vững miền núi Tây Nam Nghệ An (1997); Những xu
hớng phát triển ở vùng núi phía Bắc Việt Nam (1997); Những khó khăn trong phát triển miền núi
phía Bắc Việt Nam (1999); Nghiên cứu phát triển bền vững miền núi Việt Nam (1999); Nghiên cứu
phát triển bền vững vùng núi khu vực miỊn trung ViƯt Nam (2000); Vïng nói phÝa B¾c ViƯt Nam,

một số vấn đề môi trờng và kinh tế - xà hội (2001).
Báo cáo "Phát triển bền vững miền núi Việt Nam - mời năm nhìn lại và các vấn đề đặt ra"
là tập hợp kết quả nghiên cứu mời năm phát triển miền núi Việt Nam do Trung tâm Nghiên cứu
Tài nguyên và Môi trờng (CRES), Đại học quốc gia Hà Nội chủ trì, phối hợp với Trung tâm
Thông tin Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn với sự đóng góp của hơn 30 nhà khoa học và
quản lý danh tiÕng thuéc nhiÒu lÜnh vùc kinh tÕ, x· hội, văn hoá và môi trờng. Các vấn đề trong
báo cáo đà đợc thảo luận, đối thoại cởi mở trên một cuộc toạ đàm ngày 11-12/4/2002, tại Hà Nội
với sự tham gia của hơn 70 đại biểu là các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch
định chính sách, các nhà quản lý... ở trung ơng và địa phơng có liên quan đến miền núi.

iii


Báo cáo bao gồm 2 phần chính:
Phần I. Tổng quan chung bao gồm các bài viết có tính tổng hợp: Mời năm phát
triển miền núi Việt Nam, các vấn đề kinh tế, xà hội, văn hoá và môi trờng; Phát triển
kinh tế, xà hội miền núi 10 năm qua và các vấn đề đặt ra; Môi trờng miền núi Việt
Nam 10 năm qua: biến đổi và các vấn đề cần quan tâm; Văn hoá các dân tộc thiểu
số miền núi Việt Nam: 10 năm nhìn lại và các vấn đề thảo luận.
Phần II. Các báo cáo chuyên đề bao gồm các lĩnh vực nghiên cứu: dân số, phát
triển nông lâm nghiệp, kết cấu hạ tầng, phát triển công nghiệp và đô thị hoá, thơng
mại và thị trờng miền núi, chính sách đầu t và phát triển miền núi, các thành phần
kinh tế, định canh định c, xoá đói giảm nghèo, an toàn lơng thực, y tế, giáo dục,
giới. Các vấn đề về môi trờng, bảo vệ thiên nhiên, đa dạng sinh học, phát triển lâm
nghiệp, quản lý rừng cộng đồng. Các báo cáo Phát huy đổi mới bản sắc văn hoá các
tộc ngời thiểu số, Văn hoá dân tộc Tây Nguyên truyền thống và hiện đại, phong tục
tập quán, nghi lễ, Văn hoá các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc; truyền thống và
biến đổi, biến động về tôn giáo, tín ngỡng, v.v.
Báo cáo cung cấp sự đánh giá thực trạng phát triển Miền núi trong mời năm
qua, phân tích những gì đà làm đợc, những gì cha làm đợc, mức độ tơng xứng

giữa những gì đà bỏ ra và những gì đà thu lại. Tính phù hợp và khả thi của các chính
sách và việc thực hiện các chính sách, xác định các quá trình cơ bản của sự thay đổi
về môi trờng, kinh tế, xà hội và văn hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập khu
vực, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Chúng tôi hy vọng, thông qua báo cáo này, nhiều ngời sẽ đợc chia sẻ sự hiểu
biết về vùng núi Việt Nam một cách toàn diện hơn, hệ thống hơn, nó không những có
trong các vấn đề nghiên cứu trả lời, mà còn những vấn đề mới đợc phát hiện từ các
nghiên cứu này.
Lời cảm ơn: Để thực hiện đợc báo cáo này, Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên
và Môi trờng, Đại học quốc gia Hà Nội đà nhận đợc sự giúp đỡ về tài chính từ phía
Quỹ Ford. Hơn 30 nhà khoa học đà đóng góp bài viết. Báo cáo này đợc thực hiện
nhờ sự làm việc hăng say, tâm huyết của PGS. Chu Hữu Quý trong việc biên tập,
hiệu chỉnh các bài viết. Chúng tôi ghi nhận công lao của các cán bộ Tổ công tác
miền núi, Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trờng, đại học Quốc gia Hà Nội
đà nhiệt tình trong việc kết nối cuối cùng bản báo cáo này.

GS. Lê Trọng Cúc

iv


Cách đánh số các bảng, đồ thị và các đề mục
I. Cách đánh số các bảng và đồ thị
Các bảng và đồ thị đợc đánh số dựa trên:
- Số thứ tự phần chính của báo cáo (gồm có 2 phần chÝnh I vµ II)
- Sè thø tù cđa bµi viÕt, và
- Số thứ tự của bảng/đồ thị
Ví dụ: Bảng II.3.5, có nghĩa là bảng thứ 5 của báo cáo số 3 trong phần II.
Tuy nhiên, để đơn giản, trong phần text nội dung sẽ không ghi chi tiết mà chỉ ghi số thứ tự
của bảng/đồ thị.


II. Cách đánh số các đề mục
Các đề mục trong mỗi bài đợc đánh số theo cấp của đề mục nh sau:
I. -- Đề mục cấp lớn nhất
I.1. -- Đề mục cấp nhỏ hơn
I.1.1. -- Đề mục cấp nhỏ hơn nữa...

v


Các chữ viết tắt

ATK

An toàn khu

LĐTBXH
MNPB

Miền núi phía Bắc

NCPFP

NN & PTNT Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn

Lao động-Thơng binh-XÃ hội
Uỷ ban Quốc gia về Dân số và
Kế hoạch hoá Gia đình


CBR

Tỷ suất sinh thô

CDR

Tỷ suất chết thô

NGO

Tổ chức phi chính phủ

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Nxb

Nhà xuất bản

CSHT

Cơ sở hạ tầng

ODA

Vốn hỗ trợ phát triển chính thức

DCR


Hội chữ thập đỏ Đan Mạch

SIDA

ĐBKK

Đặc biệt khó khăn

Cơ quan Hợp tác Phát triển
Quốc tế của Thụy Điển

ĐBSCL

Đồng bằng sông Cửu Long

TFR

Tổng tỷ suất sinh

ĐCĐC

Định canh định c

TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh

FDI

Vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài


Tr. đ

Triệu đồng

GENDCEN

Trung tâm nghiên cứu giới, môi
trờng và phát triển bền vững

TTCX

Trung tâm cụm xÃ

TW

Trung ơng

GLKT

Giao lu kinh tế

U5MR

Tỷ lệ chết trẻ em dới 5 tuổi

GSO

Tổng cục Thống kê


UBND

Uỷ ban Nhân dân

GTSLHH

Giá trị sản lợng hàng hóa

UBDTMN

Uỷ ban Dân tộc và Miền núi

HĐBT

Hội đồng Bộ trởng

UNICEF

Quỹ Nhi đồng Quốc tế

HĐND

Hội đồng Nhân dân

USD

Đô la Mỹ

HTX


Hợp tác xÃ

VBP

ILO

Tổ chức lao động quốc tế

Ngân hàng phục vụ ngời
nghèo

IMR

Tỷ lệ chết trẻ sơ sinh

VLSS

Điều tra mức sống dân c

IUD

Đặt vòng tránh thai

VH-DHS

Điều tra

KTM

Kinh tế mới


XĐGN

Xoá đói giảm nghèo

KTCK

Kinh tÕ cưa khÈu

XHCN

X· héi chđ nghÜa

KTXH

Kinh tÕ x· héi

XNK

Xt nhËp khẩu

LBR

Trọng lợng trẻ sơ sinh thấp

vi


Phần 1 - Các vấn đề chung


1


Bµi 1
Mười năm phát triển miền núi Việt Nam
Các vấn đề kinh tế - xã hội, văn hố và mơi trường
PGS,TS. Lê Trọng Cúc
Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường
Đại học Quốc gia Hà Nội

I. Đặt vấn đề
Theo phân loại của Uỷ ban Dân tộc và Miền núi (UBDTMN), Việt Nam có 10 tỉnh vùng cao
(Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Bắc Cạn, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk và Lâm
Đồng), 9 tỉnh miền núi (Lạng Sơn, Quảng Ninh, Yên Bái, Tuyên Quang, Thái Ngun, Phú Thọ,
Hồ Bình, Bắc Giang và Bình Phước), và 23 tỉnh có miền núi. Thực sự, đất đai miền núi có diện
tích khoảng 23 triệu ha, chiếm 3/4 diện tích đất đai trong cả nước.
Vùng núi có địa hình phức tạp, ở phía Bắc núi cao, suối sâu, độ dốc lớn, đất feralit đỏ
vàng, nghèo chất dinh dưỡng. ở Tây Nguyên địa hình bằng phẳng hơn. Lớp phủ ba zan đã bị
phong hoá thành đất ba zan màu mỡ, thuận lợi cho việc trồng các cây công nghiệp, nông nghiệp
và cây ăn quả. Nằm trong điều kiện nhiệt đới gió mùa, lượng mưa lớn với 1.800 mm/năm trung
bình ở phía Bắc; 2500 đến 3000 mm ở Tây Nguyên; 3000 mm đến 3500 mm ở A Lưới Thừa
Thiên - Huế, Bảo Lộc, Lâm Đồng. Mưa tập trung trong một thời gian ngắn thường gây ra lũ lụt,
sụt lở và xói mịn đất, nhiều trận lũ qt tàn phá các cơng trình cơng cộng, thuỷ lợi, đường sá
gây tổn thất nặng nề người và của.
Vùng núi Việt Nam có số dân khoảng 25 triệu người, trong đó có hơn 10 triệu người dân
tộc thiểu số, còn lại là người Kinh chuyển từ vùng đồng bằng lên miền núi để tăng cường cán bộ
và phát triển các vùng kinh tế mới qua nhiều giai đoạn và hình thức khác nhau. Trên các điều
kiện sinh thái và dân cư đa dạng đó có thể sản xuất ra các sản phẩm phong phú về chủng loại có
giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, điều kiện địa hình phức tạp cũng là trở ngại lớn cho việc phát triển
cơ sở hạ tầng, xây dựng đường sá, tiếp nhận thông tin, mở mang thị trường và thực hiện các

chính sách chủ trương của Đảng và Chính phủ.
Bài viết này trình bày một cách chung cho miền núi và chủ yếu tập trung cho 10 tỉnh vùng
cao và 9 tỉnh miền núi như UBDTMN đã xác định. Các dẫn liệu đưa ra để phân tích ở đây vừa
mang tính đại diện cho cả tồn vùng kết hợp với những dẫn liệu của các trường hợp nghiên cứu
riêng lẻ trong khoảng thời gian từ năm 1990 trở lại để minh hoạ. Các kết quả nghiên cứu chuyên
ngành, một số đã được công bố trên các sách, báo, tạp chí, một số chưa cơng bố, đang trong
thời kỳ xử lý số liệu, biên tập ở dạng bản thảo. Đồng thời, nghiên cứu các chính sách dưới dạng
văn bản pháp quy được xây dựng trên cơ sở đường lối, chủ trương chung mang tính định hướng
thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị, chính sách và thơng tri của Đảng và chính sách của Nhà
nước trong bối cảnh tồn cầu hố, hội nhập khu vực, cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Để có thể hiểu được tồn cảnh phát triển của vùng núi trong 10 năm qua, chúng tôi vận
dụng lý thuyết tư duy hệ thống, phân tích sự tương tác giữa các yếu tố thành phần trong toàn bộ
hệ thống hơn là tập trung vào những thay đổi cụ thể bên trong từng yếu tố. Những hiếu biết về
các mối tác động qua lại giữa các yếu tố trong hệ thống cũng cho thấy tốc độ và xu hướng phát
triển của vùng núi.

2


Bản đồ địa hình Việt Nam

(Ghi chú: Bản đồ này chỉ nhằm mục đích mơ tả)

3


Một số yếu tố chính tác động mạnh mẽ lên phát triển kinh tế xã hội, văn hố và mơi trường
ở vùng núi có thể đề cập đến như: Các chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng và Chính
phủ, áp lực của dân số lên nguồn tài nguyên cạn kiệt và mơi trường đang ngày càng suy thối,
văn hố truyền thống đang ngày càng bị xói mịn, các dịch vụ xã hội về cơ sở hạ tầng, giáo dục,

y tế, thông tin đang ngày càng được cải thiện. Đây là những yếu tố tương tác với nhau và được
khuyếch đại trong hệ thống thông tin phản hồi, trong đó bất cứ một thay đổi tốt hay xấu nào của
yếu tố này cũng kéo theo những thay đổi tốt hay xấu của các yếu tố kia. Một hệ thống như vậy sẽ
vận hành theo đường phát triển xoắn ốc. Đường xoắn ốc có thể thay đổi đi lên (tốt) hoặc đi
xuống (xấu), phụ thuộc vào sự cân bằng giữa mức độ tích cực và tiêu cực của bản thân các yếu
tố và tác động qua lại giữa các yếu tố với nhau.

II. Những vấn đề về chính sách
Một trong những vấn đề quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội cả nước nói
chung và miền núi nói riêng trước hết là hệ thống chính sách liên quan đến đất đai. Đảng và Nhà
nước chú ý đặc biệt đến vấn đề này. Nghị định số 64/CP ngày 27/9/1993 quy định việc giao đất
nông nghiệp và nghị định số 02/CP ngày 15/1/1994 quy định việc giao đất lâm nghiệp. Nội dung
các văn bản mang tính pháp quy về chính sách đất đai khẳng định: Đất đai thuộc quyền sở hữu
toàn dân, Nhà nước thống nhất quản lý, Nhà nước giao đất, cho thuê đất để các tổ chức, các hộ
gia đình, các cá nhân sử dụng ổn định lâu dài, có quyền thừa kế, trao đổi, chuyển nhượng, thế
chấp, và được đền bù khi Nhà nước thu hồi. Đối với miền núi mỗi nông hộ được giao từ 1 đến 2
ha đất canh tác, trong vòng 20 năm và 5 đến 10 ha rừng để quản lý với thời hạn 50 năm. Sau
thời hạn đó nếu có nhu cầu vẫn được tiếp tục sử dụng. Chính sách đất đai thực sự là sơ sở
pháp lý đảm bảo cho mọi người dân quyền làm chủ mảnh đất của mình, thúc đẩy sản xuất, nâng
cao năng suất trong sản xuất nông, lâm nghiệp, sử dụng và bảo vệ hợp lý tài nguyên thiên nhiên
và môi trường theo hướng một nền nơng lâm nghiệp bền vững.
Phân tích số liệu ở một số điểm nghiên cứu của Trung tâm Tài nguyên và Môi trường, Đại
học quốc gia Hà Nội về thực trạng sở hữu đất đai ở các hộ gia đình vùng sâu, vùng xa như ở
Khe Nóng (dân tộc Đan Lai), huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An cho thấy con số về ruộng đất chủ
yếu có nguồn gốc từ cha ông để lại hay tự khai phá mà có. Rừng chưa được giao, toàn bộ rừng
nằm dưới sự quán lý của Nhà nước mà đại diện là Lâm trường Con Cuông và giám sát của kiểm
lâm khu bảo tồn thiên nhiên Pù Mát. Hiện nay dân bả Khe Nóng khơng có sở hữu đất rừng mà
chỉ khai thác lén lút gỗ và các sản phẩm phi gỗ để sử dụng và bán ra ngồi. Vì vậy, khi hỏi đến
thu nhập họ khơng nói đến tiền bán gỗ trái phép.
ở Thài Phìn Tủng (dân tộc H'Mơng trắng), huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, nói là ruộng đất

nhưng thực chất là các hốc đá. Việc đo đạc để xác định chính xác là rất khó khăn. Cán bộ nơng
nghiệp huyện Đồng Văn đã dùng phương pháp quy đổi, dựa trên số lượng hạt giống để tính ra
diện tích gieo trồng. Theo số liệu điều tra trong số 40 hộ ở Thài Phìn Tủng thì có đến 28 hộ có sổ
đỏ và 33 hộ có sổ xanh. Qua thực tế điều tra thì thực chất sở hữu đất đai ở đây chủ yếu vẫn giao
theo nguồn gốc "cha ông", "tổ tiên" hay chiếm đoạt mà có, vì thế có hộ nhiều đất, có hộ thì q ít
đất.
ở Bản Tát (dân tộc Tày), huyện Đà Bắc, tỉnh Hồ Bình, có thời gian các hộ gia đình đã có
sổ xanh, sổ đỏ, ruộng nước, đất khô và rừng đã được chia. Nhưng việc phân chia đất rừng trong

4


sổ sách không khớp với trên thực tế nên sổ lại bị thu lại, hiện nay cũng chưa phân định rõ ràng.
ở Bản Tát canh tác nương rẫy đang còn duy trì một cách phổ biến. Thực chất diện tích nương
vẫn là hình thức khai phá, chiếm đoạt. Hàng năm xã xác định cho một khu rừng nào đó rồi dân
đến khai phá, phát đốt làm nương rẫy, không xác định về diện tích, ai đến sớm chiếm nhiều, ai
đến sau, hết đất chiếm ít, và dân tự thương lượng với nhau, nhường nhịn nhau để có đất làm
nương. Vì vậy, có hộ có nhiều nương, có hộ thì ít nương.
Nhìn chung ở các vùng sâu, vùng xa việc thực hiện chính sách Nhà nước về giao đất, giao
rừng vẫn gặp nhiều khó khăn. Một mặt là kỹ thuật xác định ranh giới sở hữu và kinh phí cho việc
đo đếm, xác lập bản đồ ở những vùng sâu, vùng xa như ở Khe Nóng, Thài Phìn Tủng, Tát là rất
tốn kém. Mặt khác, một số trong những khó khăn nói trên phải kế đến là tính đặc thù dân tộc,
phong tục tập quán mà thường các chính sách ít đề cập đến. Ví dụ, các cư dân canh tác nương
rẫy như người Đan Lai ở Khe Nóng, người Tày ở Bản Tát và một số dân tộc thiểu số khác có
truyền thống sở hữu ruộng đất cộng đồng, trong họ chưa hình thành sở hữu cá nhân. ở đây có lẽ
vấn đề sở hữu đất đai, luật pháp và chính sách cần phải chú ý hơn khía cạnh văn hố, truyền
thống của từng nhóm dân tộc. Có những nhóm dân tộc từ trước đến nay chỉ có sở hữu cộng
đồng. Các thành viên trong bn làng vừa có quyền khai thác, sử dụng với sự đồng ý của cộng
đồng thơng qua già làng, trưởng bản, vừa có trách nhiệm bảo vệ, nhất là các khu vực rừng đầu
nguồn, rừng thiêng và nguồn nước. Cũng như ở Bản Tát, xã chỉ cho một mảnh rừng ót (rừng thứ

sinh) nào đó rồi bà con đưa nhau đến khai phá làm nương rẫy. Vì vậy, việc kết hợp được phong
tục, tập quán và luật pháp hiện hành là rất cần thiết và có như vậy thì việc giao đất, giao rừng,
qn lý đất đai, sở hữu đất đai ở các vùng dân tộc mới đi vào thực tế.
Một vấn đề khác là chính sách đất đai chỉ tập trung vào diện tích mà ít quan tâm đến chất
lượng đất sử dụng trong sản xuất. Đây cũng là tình trạng chung của nhiều nước trên thế giới, thể
hiện qua các nghiên cứu về sở hữu đất đai thường đề cập đến sự công bằng trên cơ sở diện
tích. Ví dụ, chênh lệch diện tích sở hữu đất đai giữa người nhiều đất nhất và ít đất nhất (khơng
tính người khơng có đất) ở Châu Mỹ La tinh như ở Brasil hệ số Gini là 0,85 và ở Pê Ru là 0,95. ở
các nước Nam á như ấn Độ, Pakistan khoảng 0,61 (Terry McKinley and Keith Griffin, 1993). ở
Việt Nam theo nghiên cứu trên 5 điểm ở vùng núi của chúng tôi, hệ số Gini diện tích trung bình
khẩu là: Khe Nóng - 0,38; Thài Phìn Tủng - 0,35; Tát - 0,49; Ngọc Tân - 0,34; Làng Thao - 0,45.
Như vậy mức độ chênh lệch về diện tích đất ở đây là khơng lớn. Tuy nhiên, chênh lệch về giá trị
sử dụng trong sản xuất có thể lớn do chất lượng đất khác nhau.
Chính sách đất đai cịn liên quan đến tính cơng bằng xã hội. Hiện nay ở nhiều nơi, nhất là
vùng trung du, miền núi đang phát triển mạnh mẽ mơ hình kinh tế trang trại, kinh tế đồi rừng. Luật
đất đai cho phép chuyển nhượng đất, nên một số gia đình có tiền, tích tụ ruộng đất để hình thành
mơ hình trang trại và đang được Nhà nước khuyến khích. Nếu những nơi đất chưa sử dụng cịn
nhiều thì việc tích tụ đất cho trang trại không thành vấn đề. Nhưng thực tế trên các điểm nghiên
cứu nói riêng và miền núi Việt Nam nói chung, đất đang là tài nguyên hạn hẹp, khơng có đất
hoang trống. Việc thành lập trang trại chỉ có thể thực hiện được bằng cách tích tụ đất, mua đất từ
các hộ gia đình. Thực tế một số hộ nghèo, thiếu lao động đã nhượng đất để đi làm th. Như
vậy, vơ hình trung một số gia đình khá giả trở thành ơng chủ đất mới và một số người lại trở
thành người làm thuê, không miếng đất cắm dùi. ở một số địa phương miền núi đã có tình hình
10-15% số hộ nơng dân nghèo khơng có ruộng đất canh tác (Nguyễn Thị Hằng, 1998).

5


III. Dân cư, dân số
Theo số liệu điều tra dân số năm 1999 thì Việt Nam có 76.323.173 người thuộc 54 dân tộc,

trong đó người Kinh có tới 65.795.718 người chiếm 86,2%. Các dân tộc thiểu số chủ yếu sống ở
vùng trung du, miền núi chiếm 13,8%. Mặc dù sống trong điều kiện địa hình phức tạp, mơi trường
đa dạng nhưng cũng có thể nhận biết một cách tương đối dễ dàng địa bàn cư trú của mỗi nhóm
dân tộc. ở vùng núi phía Bắc các dân tộc Thái, Mường, Tày, Nùng cư trú ở các vùng thấp, trong
các thung lũng. Các dân tộc thuộc nhóm ngơn ngữ Mơn-Khơme, Ca đai, Dao cư trú ở rẻo giữa, ở
trên cao là dân tộc H'Mông. Theo dãy Trường Sơn từ Bắc vào Nam, dọc biên giới Việt - Lào là
các dân tộc thuộc nhóm Mơn - Khơme Bắc Trưịng Sơn và nhóm ngơn ngữ Mơn - Khơme trung
Trường Sơn rồi nhóm ngơn ngữ Nam Đảo và cuối cùng là nhóm ngơn ngữ Nam Trường Sơn
hoặc gọi là Nam Tây Nguyên. Người Kinh là dân tộc đa số chủ yếu sống ở vùng đồng bằng,
nhưng qua quá trình di cư, chuyển cư lên miền núi để tăng cường lực lượng cán bộ và phát triển
các cùng kinh tế mới, hiện nay số người Kinh ở miền núi đã chiếm hơn một nửa.
Nhìn lại mười năm, thời gian giữa hai cuộc Tổng điều tra dân số (1989 - 1999) cho thấy
công tác dân số kế hoạch hố gia đình đã thu được những kết quả khả quan. Tỷ lệ tăng dân số
tự nhiên trong cả nước ở giai đoạn này là 1,7% bình quân/năm (mười năm trước đó bình qn
tăng mỗi năm là 2,1%). Tuy nhiên, các dân tộc vùng cao con số này cịn rất lớn như Hà Nhì,
H'Mơng là 3,4%, SiLa 3,5%, Chơ Ro, Pa Thẻn 4,1%, Rmăm 4,4% v.v.. Một số dân tộc khác như
Xinh Mun lên tới 5,0%, Pu Péo 6,1%, Kháng 9,6%. Chênh lệch về tỷ lệ sinh thô ở vùng đồng
bằng và miền núi đang là một khoảng cách lớn. So sánh các tỉnh miền Bắc trung bình ở 3 tỉnh Hà
Nội, Hải Phịng và Thái Bình, tỷ lệ sinh thô ở năm 1999 là 15%o, trong lúc đó trung bình 3 tỉnh
miền núi: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu là 33,03%o. Như vậy chênh lệch đến hơn 2,2 lần. So sánh
các tỉnh Vĩnh Long, Thành phố Hồ Chí Minh ở Đồng bằng sơng Cửu Long với Gia Lai, Kon Tum,
Tây Nguyên thì con số chênh lệch này cũng tương tự.
Nhìn về tỷ suất sinh thơ, so sánh giữa hai vùng đồng bằng và miền núi tính trên 1.000 dân
ở năm 1999 cho thấy các tỉnh vùng đồng bằng đều chỉ ở mức đơn vị là 4, còn ở các tỉnh miền núi
ở mức đơn vị là 8, thậm chí ở Hà Giang là 10, Kon Tum là 11. Tuy nhiên, tỷ lệ chết trẻ sơ sinh ở
các tỉnh đồng bằng và thành phố chỉ 10%o đến 20%o. Trong lúc đó ở miền núi phần lớn là 60%o,
có tỉnh như Kon Tum lên đến 82,64%o. Những con số trên đây cho thấy ở các tỉnh miền núi, hệ
thống y tế, chăm sóc sức khoẻ người dân nói chung, sức khoẻ sinh sản nói riêng đang gặp rất
nhiều khó khăn. Nếu như số phường, xã ở vùng đồng bằng số bác sĩ chiếm tỷ lệ khá cao từ 70
đến gần 100% thì các phường xã vùng miền núi chưa đến 2%, có nơi như Lai Châu, Sơn La là

0%. Số phường xã ở các tỉnh vùng đồng bằng chưa có trạm y tế chỉ từ 1-2 đến 5-7 xã thì vùng
miền núi là 45-50 xã đến 90 xã, ở Lạng Sơn có đến 94 xã. (Khổng Diễn, 2001).
Nhìn về cấu trúc tuổi dân số cho thấy số dân dưới tuổi lao động (0-14 tuổi) trong cả nước
năm 1999 là 33,1%. Trong lúc đó ở miền núi có tới 18 dân tộc, con số đó là trên 45%, thậm chí
có dân tộc như H'Mông là 50,29%. Nếu cộng cả số người dưới tuổi lao động và số người già trên
tuổi lao động thì có khá nhiều dân tộc, một người lao động phải nuôi trên một người ăn theo. Với
tỷ lệ dân số trẻ ở miền núi như hiện nay và hiện tượng kết hôn sớm đang rất phổ biến, báo động
cho một xu hướng tăng dân số trong vài thập niên tới là không thể tránh khỏi.
Mặc dù chúng ta đã có một chương trình Dân số và Kế hoạch hố gia đình, Đảng và Nhà
nước đã đề ra cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch từ đầu những năm 60, đã có hàng trăm văn

6


bản, hàng chục nghị quyết về dân số nhưng mới chỉ có 2 văn bản đề cập đến dân tộc thiểu số và
miền núi, nhưng lại là để "ưu tiên" hoặc khuyến khích phát triển dân số, đó là Quyết định 94-CP
năm 1970: " Đối với các dân tộc thiểu số vùng núi, rẻo cao cần khuyến khích phát triển dân số",
hoặc Quyết định 162-HĐBT năm 1988 "Tuổi sinh đẻ là 22 tuổi đối với phụ nữ, 24 tuổi đối với nam
ở khu vực đô thị, các nơi khác là 19 và 22 tuổi. Số con được sinh tối đa nói chung là 2 con, ở các
vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ là 3". Để khắc phục vấn đề dân số cần phải thực
hiện chính sách dân số - kế hoạch hố gia đình một cách khắt khe ngay từ bây giờ thì may ra
sau một vài thế hệ mới cải thiện được vấn đề dân số ở miền núi.
Xét về chất lượng lao động, trước hết nói đến trình độ học vấn, xét tỷ lệ số người từ 5 tuổi
trở lên chưa bao giờ đi học ở một số nhóm dân tộc (1999) cho thấy: Các nhóm dân tộc sống ở
vùng đồng bằng như Kinh, số người chưa bao giờ đi học là 7,41%. Các dân tộc sống trong các
vùng thấp, trong các thung lũng như Mường, Tày, Nùng, Thái, Hoa chiếm từ 8 đến 16%. Trong
lúc đó các dân tộc sống ở vùng cao, sâu, xa con số đó hầu hết trên 50%, đa số là trên 56%, có
dân tộc xấp xỉ hoặc trên 70% (H'Mông 69%, Mảng 71,64%, La Hủ 90,52%). ở đây khơng những
có sự chênh lệch giữa các nhóm dân tộc mà cịn có khoảng cách lớn về giới. Có đến 10 dân tộc
có tỷ lệ phụ nữ chưa bao giờ đến trường, chiếm từ 70% trở lên. Với trình độ học vấn như vậy, rõ

ràng việc tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến, tổ chức, quy hoạch sản xuất hợp lý là rất hạn chế.
Lao động ở vùng nông thơn miền núi vẫn là trong tình trạng lạc hậu, năng suất rất thấp.
Cùng với việc tăng dân số tại chỗ, miền núi đã và đang tiếp nhận một bộ phận dân cư,
hàng triệu người chuyển từ vùng đồng bằng đông đúc lên miền núi để phát triển kinh tế, cùng với
phong trào di dân tự do những năm gần đây đã đưa tốc độ tăng dân số lên hơn 300%. ở ba tỉnh
Tây Nguyên: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, theo niên giám thống kê 1999 thì tổng số dân năm
1991 là 1.981.011 người, đến năm 1999 con số đó đã lên đến 3.072.891 người, gấp 1,55 lần.
Riêng tỉnh Đắk Lắk dân số tăng lên gấp 5 lần kể từ năm 1979 đến năm 1999. Trong 10 năm cả
nước tăng 17,67%, trong lúc đó Tây Nguyên tăng 58,41%, Tây Bắc 21,35%. Tỷ lệ dân tộc Kinh ở
miền núi tăng 35-45% ở những năm cuối 80 đầu 90 và hiện nay là 45-75%. Mật độ trung bình
dân số miền núi đã tăng lên từ 70 đến 100 người/km2. Việc di dân tự do ồ ạt làm cho các chính
quyền địa phương nơi nhập cư đã khơng kiểm sốt được. Cùng với sự gia tăng dân số, thêm
vào đó sự áp đặt kinh nghiệm canh tác từ vùng đồng bằng vào vùng đất dốc đã làm cho nhiều
vấn đề môi trường trở nên trầm trọng hơn. Việc di cư tự do đã tạo nên cạnh tranh về đất đai và
đẩy một bộ phận dân cư lùi sâu vào rừng, do vậy rừng lại tiếp tục bị tàn phá.

IV. Định canh định cư
Vấn đề dân số và quyền sở hữu đất đai, sử dụng đất đai liên quan đến Chương trình định
canh định cư (ĐCĐC). Nghị quyết số 38-CP ngày 12/3/1968 nêu tồn diện cơng tác định canh
định cư, một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng của đất nước nhằm ổn định làm ăn
cho hơn 3 triệu người thuộc 52 dân tộc trong diện du canh du cư trên cả nước.
Năm 1992 công tác định canh định cư đưa vào chương trình 327. Nghị quyết 556 năm
1995 tách ĐCĐC ra khỏi 327. Hiện nay cả hai chương trình đều do bộ NN va PTNT thực hiện
nên công tác ĐCĐC vẫn thực hiện theo cơ chế của 327. Cho đến năm 1995 đối tượng vận động
định canh định cư là 503.444 hộ (3.063.912 nhân khẩu), trong đó diện du canh du cư có 191.881
hộ (1.240.225 nhân khẩu). Diện định cư du canh gồm 311.563 hộ (1.823.225 nhân khẩu). Sau

7



hơn 30 năm thực hiện công tác định canh định cư, đến nay đã có 167 ngàn hộ (trong số 503.444
hộ, 1995) đã hoàn thành và hoàn thành cơ bản ĐCĐC (Đỗ Văn Hồ, 2002).
Cơng tác định canh, định cư thực hiện mấy chục năm vừa qua đã có một số kết quả nhất
định, nhưng cũng bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Chẳng hạn, trong định canh, định cư chỉ chú trọng
nhiều đến việc xây dựng cơ bản trước mắt, nhà cửa, đường sá mà ít chú ý đến điều kiện làm ăn,
sinh sống lâu dài. ít chú ý đến sự tham gia của nhân dân địa phương, là những chủ thể đáng ra
phải được tự đề xuất, bàn bạc và trực tiếp quyết định các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của
mình, cho phù hợp với điều kiện từng vùng, văn hố của từng dân tộc thì cơng tác ĐCĐC lại ít
chú ý đến đặc điểm đặc thù đó mà thường áp đặt các mơ hình văn hố từ ngồi vào. Cần phải
duy trì và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống của các tộc người. Mặt khác, mấy năm vừa
qua bộ máy quản lý ĐCĐC liên tục thay đổi: Lúc đầu (1968) trực thuộc chính phủ, 1971 thuộc Bộ
Nơng Nghiệp, 1978 thuộc bộ Lâm Nghiệp, 1992 sang Uỷ Ban Dân tộc và Miền núi (UBDTMN),
1996 sang Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Mỗi một lần ở trung ương thay đổi như vậy
thì địa phương cũng thay đổi theo làm cho công tác quản lý luôn luôn bị xáo trộn. Những năm
qua đầu tư cho ĐCĐC nhiều nhưng dàn trải, ít hiệu quả, nội dung, đối tượng và phương pháp
thực hiện chưa rõ ràng. ý kiến của một số cán bộ định canh định cư cho rằng: Nhiều cấp, nhiều
ngành, nhiều thủ trưởng có liên quan cịn thờ ơ, xem nhẹ cơng tác ĐCĐC. Khơng ít cán bộ lúng
túng trong cơng tác này, bởi cả nước cũng chẳng có trường nào, cấp học nào đào tạo nghề
ĐCĐC. Cái yếu cộng thêm tiêu cực, dẫn đến một số người, số nơi coi tổ chức định canh định cư
là "phòng đợi", "túi đựng" cán bộ thừa... (Quyết Thắng, Báo Nhân Dân, ngày 10/12/1997).

V. Môi trường suy thối
Dân số là một nhân tố vơ cùng quan trọng, đứng hàng đầu trong mối quan hệ với tài
nguyên và môi trường. Đây là mối quan hệ hữu cơ, tăng giảm đối ngược nhau. Nếu khơng kiểm
sốt được dân số thì mơi trường sẽ bị suy giảm trước áp lực của dân số. Một ví dụ về mối quan
hệ giữa mật độ dân số và hiện trạng sinh thái, trường hợp nghiên cứu của chúng tôi trên 5

cộng đồng mẫu cho thấy mật độ dân số cao thường là ngun nhân chính gây nên
sự suy thối mơi trường. Tuy nhiên, trong mối quan hệ gia tăng dân số với phát triển
và đói nghèo hiển nhiên là mối quan hệ phức tạp và là động lực gây ra suy thoái mơi

trường.
Đối với mơi trường miền núi thì rừng là nguồn tài ngun sinh vật q giá nhất, đóng vai trị
quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ mơi trường. Với địa hình cao dốc,
cắt xẻ mạnh ở miền núi, rừng ở miền núi hạn chế lũ lụt, chống xói mịn đất, điều hồ khí hậu,
bảo tồn nguồn nước mặt và nước ngầm, giảm nhẹ ô nhiễm môi trường và sức tàn phá của thiên
tai. Do điều kiện địa lý kéo dài trên nhiều vĩ tuyến và cao độ, từ vùng khí hậu nhiệt đới phía Nam
đến vùng khí hậu ơn hồ ở các vùng núi phía Bắc đã tạo nên sự đa dạng về các hệ sinh thái
rừng, với nguồn tài nguyên rừng phong phú và đa dạng. Năm 1943 nước ta có khoảng
14.325.000 ha rừng, chiếm 43,70% diện tích rừng che phủ trong cả nước. Đến năm 1990 chỉ còn
lại khoảng 9.175.600 ha chiếm 28%.
Bảng I.1.1. Sự thay đổi độ che phủ rừng giữa 1943 và năm 2000
Năm

Diện tích (ha)

Độ che phủ(%)

8


Rừng tự nhiên

Rừng trồng

Tổng số

1943

14.325.000


000

14.325.000

43,70

1975 (6)

11.076.700

92.600

11.169.000

34,00

1980

10.186.000

422.300

10.608.000

32,40

1985

9.308.300


583.600

9.891.900

30,10

1990

8.430.700

744.900

9.175.600

28,00

1995

8.252.500

1.049.700

9.302.200

28,50

2000

9,444,198


1,471,394

10.915.592

33,20

Nguồn: FIPI 1995, Ban chỉ đạo kiểm kê rừng Trung ương, 2001.

Đến nay, nhờ những nỗ lực to lớn trong công tác phục hồi rừng và trồng rừng, độ che phủ
rừng đã lên tới 33,20% với tổng diện tích 10.915.592 ha trong đó diện tích rừng tự nhiên là
9.444.198 ha, bao gồm rừng gỗ 7.779.647 ha, rừng tre nứa 789.221 ha, rừng hỗn giao giữa rừng
lá rộng và tre nứa, rừng lá rộng và lá kim 702.871 ha, rừng ngập mặn 71.020 ha và rừng trồng là
1.471.394 ha (Bảng I.1.1).
Thực hiện chính sách giao rừng, hiện nay trong cả nước, có 7.956 ha đã được Nhà nước
giao và công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho các "chủ rừng":
- Doanh nghiệp Nhà nước được giao

3.578.394 ha

- Ban quản lý rừng phòng hộ được giao

1.025.204 ha

- Ban quản lý rừng đặc dụng được giao

1.126.979 ha

- Xí nghiệp liên doanh được giao

15.116 ha


- Các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang được giao
- Hộ gia đình và đơn vị tập thể được giao

204.764 ha
2.006.464 ha

Ngoài việc giao rừng cịn thực hiện hình thức "nhận khốn bảo vệ rừng". Tới nay đã có
918.326 ha rừng đã được nhận khoán quản lý bảo vệ và 214.000 ha rừng đã được các cộng
đồng địa phương quản lý theo hình thức truyền thống (Hà Công Tuấn, 2001). Nhờ công tác giao
khoán bảo vệ rừng mà tốc độ phá rừng ngày càng giảm đi rõ rệt; năm 1991 có 20.257 ha rừng bị
phá, năm 1995 giảm xuống còn 18.914 ha và năm 2000 chỉ cịn là 3.542 ha.
Mặc dù diện tích che phủ rừng có tăng nhưng chất lượng rừng vẫn ngày càng giảm sút;
rừng giầu và trung bình chỉ cịn 1,4 triệu ha (13%); rừng gỗ nghèo kiệt, rừng non 6 triệu ha (55%)
(Vũ Văn Dũng, 2001). Trong giai đoạn từ năm 1990 đến nay, chiều hướng biến chuyến về rừng
tự nhiên tồn quốc cơ bản vẫn trong tình trạng suy thối, cịn xa mức ổn định và chưa đạt hiệu
quả bảo vệ mơi trường. Một số diện tích rừng thứ sinh tự nhiên đang phục hồi, nhưng phần lớn
rừng phục hồi và rừng trồng chưa đến tuổi thành thục đã bị xâm hại, chặt đốn, khai hoang. Rừng
phòng hộ đầu nguồn trên các lưu vực sông vẫn đang bị xâm hại, độ che phủ trung bình chỉ cịn
khoảng dưới 20%, mà mức báo động là 30% (Võ Quý, 2002).

9


Diễn biến về sự thay đổi diện tích rừng do nhiều nguyên nhân. Trước hết về mặt quán lý
Nhà nước trong nhiều thập niên đã có những chủ trương chưa phù hợp. Từ những năm 50 song
song với việc thành lập các hợp tác xã nông nghiệp, hầu hết rừng và đất rừng nằm dưới sự quản
lý của hợp tác xã và các lâm trường nhà nước. Chính sách lâm nghiệp lúc bấy giờ chủ yếu tập
trung vào khai thác gỗ và các sản phẩm phi gỗ để bán và mở mang diện tích đất nơng nghiệp
theo kế hoạch mà không dựa vào khả năng của rừng. ở Tây Nguyên Nhà nước lấy đất cho các

lâm trường tính ra cũng đến 90%. Đắk Lắk chỉ tiêu khai thác có năm lên đến 500.000m3 và trong
vòng 10 năm đã tàn phá 32.000 ha mà chỉ trồng mới được có 9.000 ha. Mặt khác, du canh vẫn
tồn tại ở một số nhóm dân tộc cho đến tận ngày nay. Theo Đỗ Đình Sâm (1994) thì có khoảng 24
triệu người sống trong rừng và xung quanh các vùng rừng. Trong đó có khoảng 9 triệu người dân
tộc thiểu số thì có 2.879.685 người thuộc 482.512 hộ sống bằng nghề nương rẫy. Vì vậy, rừng bị
khai thác quá mức, suy thoái trầm trọng. Đến năm 1968 chính phủ mới đề ra chương trình định
canh định cư, nhưng thực hiện không mấy thành công.

VI. Canh tác nương rẫy
Từ xưa, nương rẫy vẫn là nguồn sống quan trọng của các dân tộc vùng núi. Một trong
những tác động mạnh mẽ nhất giữa con người và sinh quyển trong nông nghiệp là canh tác
nương rẫy. Canh tác nương rẫy là một hình thái nơng nghiệp cổ sơ nhất, tàn phá tài nguyên
rừng mạnh mẽ nhất. Đó là phương thức phát và đốt, khởi đầu của nền trồng trọt. Nông nghiệp
phát đốt đã được áp dụng từ kỷ nguyên Neolithic, không những ở các vùng nhiệt đới châu Phi,
châu Mỹ, châu á - Thái Bình Dương mà cả châu Âu, bao gồm nhiều dân tộc có nguồn gốc khác
nhau (Spenser, 1966). Người nguyên thuỷ, khởi đầu dựa vào các đám cháy rừng tự nhiên rồi về
sau mới biết phát đốt để gieo trồng. ở vùng nhiệt đới, á nhiệt đới, nền nông nghiệp cổ sơ ấy tồn
tại dai dẳng cho đến ngày nay với nhiều tên gọi khác nhau: La đang, Hu ma (Indonesia), Jhum
(án Độ), chena (Sri Lanca), kai gan (Philippin), ray (Thái Lan, Đông Dương). Trong tiếng Anh
cũng dùng nhiều tên gọi khác nhau: slash and burn, shifting cultivation, swidden agriculture.
Trong tiếng Việt chúng tôi gọi là "canh tác nương rẫy".
Có thể định nghĩa Canh tác nương rẫy là một hệ thống nông nghiệp phát đốt mà thời kỳ
gieo trồng thường ngắn hơn thời kỳ bỏ hố. Đặc điểm chung của loại hình trồng trọt này là phát
đốt các khu rừng nguyên sinh hay thứ sinh, chọc lỗ, tra hạt, khơng bón phân, canh tác khoảng
hai, ba vụ, đất bị kiệt mầu, bỏ hoá cho rừng tái sinh trở lại. Nhiều nhà nghiên cứu đã chứng minh
rằng, muốn đảm bảo tối thiểu cho cư dân nương rẫy thì chỉ có thể giới hạn từ 5 đến 10 người
trên 1 km2 rừng. Có như thế rừng mới tái sinh kịp. ở Việt Nam, một hộ gia đình đồng bào dân tộc
vùng cao (6-7 người) muốn đủ lương thực ăn phải gieo trồng trên diện tích 2-3 ha (lúa, ngơ)
hàng năm và cần có diện tích nương rẫy du canh 10 -15 ha. Có nghĩa là sau 2-3 năm canh tác
rồi bỏ hoang và đi nơi khác để phát đốt. Sau 10-15 năm khi rừng đã tái sinh, người nông dân lại

trở lại khai phá mảnh rẫy cũ của mình. Trong trường hợp này có thể nói phương thức sản xuất
nương rẫy quay vòng là hợp lý. Tuy nhiên, ngày nay do áp lực của dân số, tỷ lệ đất và người đã
thay đổi, chu kỳ bỏ hoá ngày càng ngắn, năng suất lúa nương chỉ đạt 600-700kg/ha. Nông
nghiệp nương rẫy vùng núi nhiều nơi đã chuyển từ canh tác nương rẫy cổ truyền du canh du cư
sang du canh định cư. Có nhiều bản làng đã định cư hàng trăm năm. Bên cạnh phương thức
canh tác nương rẫy du canh là phương thức sản xuất chính, người nông dân vẫn thực hiện
phương thức thu hái, săn bắt nhiều sản phẩm trong các hệ sinh thái rừng tự nhiên để tiêu dùng
hoặc trao đổi, bán chác trên thị trường. Mặt khác họ cũng phát triển đồng thời một hệ thống nông

10


nghiệp định canh trên nhiều thể loại khác nhau, nương cuốc, nương cầy, tìm kiếm, cải tiến, tận
dụng tài nguyên đất, nhằm tìm ra phương thức canh tác hợp lý hơn, sản xuất ra nhiều của cải
duy trì sản xuất lâu dài, nâng cao thu nhập ổn định cuộc sống. Mặc dù thế, theo tính tốn vào
những năm 1970-1990 ở khu vực miền núi, mỗi năm mất hàng trăm nghìn ha rừng tự nhiên,
trong đó phá rừng khai hoang làm nương rẫy khoảng 50.000 ha/năm (Đỗ Văn Hoà, 2002). Du
canh cũng đã dẫn đến di dân tự do, khi đất ngày càng khan hiếm buộc người dân phải di chuyển
xa hơn để tìm đất trồng trọt.
Ngồi việc khai hoang mở mang đất nơng nghiệp cịn các cơng trình đường điện, thuỷ
điện, làm đường, cháy rừng, chiến tranh chất độc hoá học đã làm cho rừng ngày càng suy thoái
trầm trọng. Vì vậy, trong thời kỳ trước năm 1990 rừng liên tục bị tàn phá, hàng năm trung bình
mất đi từ 200 đến 300 nghìn ha. Trong 10 năm trở lại đây, thực hiện chủ trương chuyển đổi từ
nền lâm nghiệp Nhà nước tập trung sang nền lâm nghiệp xã hội. Chính phủ đã giao quyền sử
dụng đất lâm nghiệp chưa có rừng một cách ổn định lâu dài trên 2 triệu ha cho các tổ chức và hộ
nông dân, trong đó có 1,4 triệu ha đã giao cho hộ gia đình để trồng rừng, trồng cây ăn quả lâu
năm, cây cơng nghiệp sở hữu tư nhân, hình thành các loại chủ rừng thuộc nhiều thành phần kinh
tế khác nhau (Nguyễn Ngọc Lung, 2002). Vì vậy, rừng được bảo vệ, mức độ suy thoái ngày càng
giảm đi rõ rệt.
Mặc dù chúng ta đã có rất nhiều cố gắng và đã đạt được những kết quả nhất định trong

việc phục hồi và phát triển vốn rừng. Tuy nhiên, chính sách giao rừng và cơ chế thực hiện chưa
đủ để đảm bảo cuộc sống cho người dân, chưa khuyến khích nơng dân các dân tộc trồng rừng,
đầu tư để kinh doanh rừng. Rừng chưa phải là nguồn sống chính của người làm rừng. Mức
khoán 50.000 đồng trên 1 ha nhưng thực tế người dân chỉ nhận được 30.000 - 40.000đ là mức
quá thấp, không tương xứng với công sức bỏ ra để bảo vệ rừng. Và bảo vệ như vậy rồi họ được
hưởng lợi nhuận gì cũng chưa rõ. Có nơi khi nhận rừng để bảo vệ lại còn phải trả tiền. Một hộ
nông dân nhận 10 ha rừng để bảo vệ phải nộp 500.000đ để làm giấy tờ, thủ tục. Mặt khác, chưa
có chính sách phát triển nguồn nhân lực thực sự ở người dân để đưa họ trở thành người làm
nghề rừng thực thụ. Vì vậy, phải có chính sách dạy nghề, tạo ra nguồn nhân lực, phổ cập, bồi
dưỡng kiến thức thực tiễn về nghề rừng cho quảng đại nhân dân làm lâm nghiệp.

VII. Rừng trồng và chương trình 5 triệu ha rừng
Về rừng trồng, năm 1975 pháp lệnh bảo vệ rừng đã được ban hành. Pháp lệnh này bao
gồm các quy định về quản lý rừng, trồng rừng, chống sâu bệnh và cháy rừng. Thực chất thì từ
năm 1965 Nhà nước đã chú ý đến công tác trồng rừng. Và năm 1975 chúng ta đã có một diện
tích rừng trồng là 92.600 ha. Con số này đến nay (1999), sau gần 30 năm đã lên đến 1.471.394
ha. Để có được diện tích rừng trồng như vậy, chúng ta đã phải trải qua bao nhiêu thách thức, có
nơi trồng đi, trồng lại nhiều lần, tính trung bình mỗi năm chúng ta cũng chỉ trồng được khoảng
gần 50.000 ha.
Về chương trình trồng 5 triệu ha rừng trong thời gian 10 năm, tức là đến năm 2010 có thể
nâng tỷ lệ che phủ của rừng lên 45%. Kể ra, trong 10 năm mà đạt được con số như vậy rõ ràng
là một thách thức lớn. Trong suốt 30 năm qua, bình quân mỗi năm chỉ trồng thành rừng khoảng
gần 50.000 ha. Hiện nay ta đã có gần 1.500.000ha. Để đạt được con số 5 triệu ha rừng trồng
trong 10 năm thì có nghĩa hàng năm phải trồng thành rừng 350.000 ha, gấp 7 lần trước đây.

11


Mặt khác đất đang là nguồn tài nguyên rất hạn chế. Mặc dù ta đang có một diện tích rộng lớn đất
khơng có rừng, nhưng khơng phải đất nào cũng có thể trồng rừng, một phần đất cịn để làm

nương rẫy, đất làm bãi chăn thả, và các cơng trình khác, v.v. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất
ở đây là đặt ra một tốc độ trồng rừng nhanh như vậy sẽ không thể thực hiện được. Các địa
phương chạy theo diện tích, trồng rừng mà khơng thành rừng, trồng đi, trồng lại, diện tích trồng
rừng thì nhiều mà diện tích thành rừng thì chẳng bao nhiêu như trước đây. Trong tổng kết 2 năm
trồng rừng của chương trình 5 triệu ha; chỉ lấy một con số 10.000 ha gieo bay cũng khó khẳng
định được nó có thành rừng hay khơng. ở Thái Lan trước đây cũng đã có một chương trình
tương tự như vậy. Năm 1994 để ứng phó với tình trạng mất rừng nghiêm trọng chính phủ đã đề
ra "Cuộc vận động trồng rừng để kỷ niệm 50 năm lên ngôi của Đức vua", trong thời gian 3 năm
dự định trồng 800.000 ha với các loài cây bản địa. Nhưng thực tế sau 3 năm thực hiện, kiểm kê
lại thì chỉ trồng được 204.800 ha. đạt 25,5% kế hoạch. (Colin McQuistan, 1999). [ ITTI Tropical
Forest Update 1999/1]. Chúng ta ủng hộ chủ trương này nhưng phải quy hoạch hợp lý, không
nên thuần tuý xem đây là một cơ hội mà bất chấp thời gian. Đây chưa nói đến trường hợp vì
khơng có kiến thức về lâm nghiệp, về trồng và bảo vệ rừng hay vì phong trào, lợi nhuận từ đề tài
nhận được, hay vì thành tích mà có trường hợp như trong chương trình 327, trồng rừng cây bản
địa ở Bãi ổi huyện Con Cuông, Nghệ An hay ở Thái Nguyên gần đây người ta chặt rừng tự nhiên
đang phục hồi để trồng lại rừng cây vườn ươm.

VIII. Đa dạng sinh học
Về hiện trạng đa dạng sinh học, chúng tôi chỉ đề cập đến hai mức độ: Đa dạng loài và đa
dạng hệ sinh thái. Đa dạng hệ sinh thái được tập trung vào các khu rừng đặc dụng (theo ngơn
ngữ của bộ Lâm nghiệp) hay nói đúng hơn là hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên. Hiện nay,
chúng ta đã có trên 100 khu rừng đặc dụng với diện tích trên 2 triệu ha. ở vùng núi có khoảng 80
khu rừng đặc dụng với diện tích gần 2 triệu hecta đã được thành lập. Mục đích xây dựng các hệ
sinh thái rừng đặc dụng là để bảo tồn các sinh cảnh rừng khác nhau, bảo tồn nguồn gen động
vật và thực vật rừng, bảo tồn các khu rừng có giá trị về cảnh quan, văn hoá, lịch sử và bảo vệ
sức khoẻ con người, phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, giáo dục và đào tạo. Trong các
văn bản trước năm 2001 rừng đặc dụng được chia làm 3 hạng: Vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên
nhiên và rừng văn hoá, lịch sử và môi trường. Gần đây trong Quy chế quản lý rừng đặc dụng
mới ban hành theo Quyết định số 08-2001/QĐ-TTg ngày 11/1/2001 của Thủ tướng chính phủ,
rừng đặc dụng được chia thành 3 hạng như cũ, riêng Khu bảo tồn thiên nhiên được chia thành 2

phân hạng: Khu dự trữ thiên nhiên và Khu bảo tồn loài/ sinh cảnh. Hiện nay nhiều khu bảo tồn
mới đã được hình thành, hầu hết các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên đã được phê
duyệt "Luận chúng kinh tế kỹ thuật" hay "Dự án đầu tư" và hình thành ban quản lý. Cũng trong
giai đoạn này sự hỗ trợ quốc tế cho công tác bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam đang được đẩy
mạnh, Nhiều dự án đầu tư lớn đang được thực thi ở nhiều khu bảo tồn có tính đa dạng sinh học
cao trong cả nước.
Ngoài các khu bảo tồn thiên nhiên, Việt Nam cũng đã tham gia vào hệ thống các khu Dự
Trữ Sinh quyển (Biosphere Reserve). Hiện nay, UNESCO quốc tế đã công nhận 2 khu dự trữ
Sinh quyển Việt Nam: Khu Dự trữ Sinh quyển Cần Giờ và khu Dự trữ Sinh quyển Cát Tiên. Mạng
lưới quốc tế các khu Dự trữ Sinh Quyển đại diện cho các hệ sinh thái toàn cầu đã được Đại Hội
đồng Liên Hợp Quốc năm 1972 về Môi trường Con người ở Stockholm đề xuất xem như các mơ
hình trình diễn về chất lượng môi trường, giúp cho việc bảo tồn nguồn gen và cung cấp một

12


mạng lưới hợp tác khoa học quốc tế. Đề xuất này chính là để quảng bá cho sự phát triển các khu
Dự trữ Sinh quyển. Năm 1995, UNESCO đã tài trợ một cuộc hội nghị cho các nhà khoa học chia
sẻ các kinh nghiêm về Khu Dự trữ Sinh quyển và phát triển, đề xuất một chiến lược cho việc phát
triển hiệu quả các khu Dự trữ Sinh quyển. Uỷ ban Quốc gia Con Người và Sinh quyển Việt Nam
đang tiếp tục đề xuất một số khu Dự trữ Sinh quyển khác dọc theo dãy Trường sơn, thậm chí cả
các khu Dự trữ Sinh quyển liên biên giới (Transboundary Biosphere Reserves). Hiện nay trên thế
giới đã có đến 411 khu Dự trữ Sinh quyển. Khu Dự trữ Sinh quyển thực sự là cơ sở cho việc bảo
tồn văn hoá và thiên nhiên, là mơ hình cho việc quản lý đất đai và phát triển bền vững. Nó cũng
là cơ sở cho công tác nghiên cứu, giáo dục, đào tạo và quan trắc. Các khu Dự trữ Sinh quyển
Việt Nam đang bắt đầu phát huy vai trò bảo tồn và phát triển bền vững.

IX. Bảo tồn lồi
Diện tích rừng vùng núi chiếm khoảng 90% diện tích rừng trong cả nước, trong đó có trên
70% tổng số lồi động thực vật và trên 90% các loài động thực vật quý hiếm. Cho đến nay Danh

lục các loài thực vật Việt Nam (2001) đã thống kê được 368 loài Vi khuẩn lam (tiền nhânProcaryota), 2.200 loài Nấm (Fungi), 2.176 loài Tảo (Algae), 481 lồi Rêu (Bryophyta), 1 lồi
Quyết lá thơng (Psilotophyta), 53 lồi thơng đất (Lycopodiophyta), 2 lồi cỏ Tháp bút
(Equisetophyta), 691 lồi Dương xỉ (Polypodiophyta), 69 loài Hạt trần (Gymnospermae) và
khoảng 13.000 lồi thực vật hạt kín (Angiospermae) đưa tổng số lồi thực vật Việt Nam lên đến
hơn 20.000 loài. Trong các lồi thực vật này có hơn 2.300 lồi được nhân dân đưa vào sử dụng;
làm đồ gỗ, xây dựng, làm thuốc, làm thực phẩm, làm thức ăn gia súc, làm cảnh, v.v..
Hệ động vật Việt Nam cũng rất phong phú. Đến nay đã thống kê được 225 loài thú, 828
loài chim, 259 lồi Bị sát, 84 lồi ếch nhái. Trong 10 năm trở lại đây đã phát hiện nhiều loài thú
lớn ở miền núi vùng Bắc Trường Sơn như: Sao La - Pseudoryx nghetinhensis (1992), Mang Lớn
- Megamuntiacus vuquangensis (1994), Bò sừng xoắn - Pseudonovibos spiralis (1994), Mang
Trường Sơn - Canimuntiacus truongsonensis (1997). Và gần đây ba loài chim mới được phát
hiện ở Tây Nguyên: loài

khướu Ngọc Linh (Garrulax ngoclinhensis), Khướu vằn mào đen

(Actinodura sodangorum) và loài khướu Kong Ka Kinh (Garrulax konkakingensis) (Võ Quý,
2002). Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú này đóng vai trị rất quan trọng trong sự phát
triển kinh tế của đất nước.
Cũng cần phải thấy rằng mặc dù số lượng các loài động vật, thực vật Việt Nam rất phong
phú và đa dạng, nhưng số lượng cá thể của mỗi lồi khơng nhiều nên khi khai thác không hợp lý
rất dễ bị nguy cơ tuyệt chủng. Trong sách đỏ Việt Nam (1996) phần thực vật đã thống kê được
356 lồi đang có nguy cơ bị tuyệt diệt. Nhiều loài cây gỗ, cây thuốc quý đang trở nên rất hiếm
như: cẩm lai, mun, trầm hương, lát hoa, sâm Ngọc Linh, vàng đắng, ba kích, v.v. Phần động vật
(1992) cũng đã thống kê được 366 loài đang có nguy cơ bị tuyệt diệt.
Những nguyên nhân làm suy giảm đa dạng sinh học là do sức ép của gia tăng dân số.
Những người dân sống trong rừng và xung quanh các vùng rừng vẫn phải dựa vào việc thu hái
lâm sản hoặc săn bắt động vật hoang dã để sống, đưa đến việc khai thác quá mức. Trình độ dân
trí của người dân địa phương cịn thấp, chưa nhận thức được tầm quan trọng của công tác bảo
vệ thiên nhiên đối với tương lai của con người. Chưa thực sự kết hợp giữa bảo tồn và phát triển,
không những trong hoạt động của nhân dân mà cả trong các văn bản pháp luật của Nhà nước.


13


Các cộng đồng địa phương cịn ít được tham gia công tác quản lý bảo tồn thiên nhiên. Mặt khác,
do nhu cầu gỗ quý và các loài động vật hoang dã, các sản phẩm phi gỗ ở thị trường trong và
ngồi nước ngày càng tăng, nạn bn bán gỗ và động vật hoang dã trái phép vẫn còn phổ biến
là nguyên nhân chính của sự mất mát tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học. Chính phủ đã
ra hàng loạt các văn bản pháp luật và chính sách liên quan đến công tác bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên và đa dạng sinh học, nhưng vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu nào để kiểm sốt việc bn
bán này. Hàng loạt các hiện tượng suy thối mơi trường khác cũng đang diễn ra. Các hoạt động
khai thác khoáng sản ở mức độ nhỏ đang làm ô nhiễm bằng các chất thuỷ ngân và arsenic.
Để khắc phục những khó khăn nói trên điều quan trọng trước tiên là sớm ổn định dân số,
giảm nhẹ áp lực của dân số lên tài nguyên và môi trường. Phải biết kết hợp chặt chẽ giữa bảo
tồn và phát triển, nâng cao mức sống cho nhân dân địa phương, phân phối công bằng lợi nhuận
trong các cộng đồng. Cần phải có chính sách hợp lý đối với cơng tác bảo tồn, khuyến khích sự
tham gia của cộng đồng trong công tác quản lý và bảo tồn, kết hợp chặt chẽ giữa ban quản lý
khu bảo tồn và chính quyền địa phương, đẩy mạnh cơng tác tuyên truyền giáo dục cho quảng đại
quần chúng, nhận thức đúng đắn công tác bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, tạo mơ hình tốt cho mọi
người noi theo. Tìm hiểu phong tục tập quán, luật tục, học hỏi các kiến thức địa phương vận
dụng sáng tạo vào công tác bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Đầu tư hơn nữa cho
công tác bảo tồn thiên nhiên miền núi.

X. Phát triển nông nghiệp
Đối với miền núi Việt Nam cư dân sống bằng nông nghiệp chiếm tỷ lệ trên 90%. Vì vậy,
phát triển nơng nghiệp đóng vị trí hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội vùng núi.
Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách thể hiện những chủ trương đường lối cũng như
những biện pháp cụ thể để phát triển nông nghiệp trong cả nước nói chung và miền núi, dân tộc
thiểu số nói riêng. Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 5 tháng 4 năm 1988 của bộ Chính trị về đổi
mới quản lý nơng nghiệp, thường gọi là Khoán 10 đã làm xoay chuyển tình thế nơng nghiệp trong

cả nước. Sản xuất nơng nghiệp những năm gần đây đã có những bước tiến nhảy vọt. Các loại
cây trồng, vật nuôi đều được cải tiến, tăng cường áp dụng kỹ thuật mới, phân bón, đẩy mạnh
tăng năng suất.
Trong 10 năm (1990 - 1999) giá trị sản xuất nơng nghiệp 3 vùng miền núi tăng bình quân
7,1% năm, trong đó vùng có tốc độ tăng nhanh nhất là Tây Nguyên (19,4% năm). Mặc dù có tốc
độ tăng trưởng sản xuất nông nghiệp khá lớn nhưng tỷ trọng của 3 vùng miền núi còn rất thấp,
chỉ đạt 20% trong tổng giá trị nông nhiệp năm 1999, giảm 5% so với năm 1990. Tốc độ tăng
lương thực ở miền núi không đuổi kịp tốc độ tăng dân số. Rừng bị tàn phá nặng nề, đất đai suy
thoái mạnh do xói mịn, thực tế là thiếu tài ngun đất để sản xuất nông nghiệp, năng suất lúa
nương chỉ đạt được 500 đến 600 kg/ha. Ngoài ra, cơ cấu sản xuất, thị trường tiêu thụ đang còn
nhiều bất cập. Vấn đề thể chế ở miền núi còn nhiều tồn tại, chưa thích hợp với các vùng, các đặc
điểm truyền thống và dân tộc khác nhau. Các thể chế và hành động tập thể hiện nay còn chưa
được xác định cho thích hợp với điều kiện tổ chức xã hội của vùng. Mặc dù trong thời gian qua
công tác khuyến nông đã có nhiều cố gắng. Tuy nhiên, qua các điểm điều tra cho thấy nhiều nơi
khuyến nông chưa đến được với dân, hoặc đến cũng chỉ phổ biến những kỹ thuật tiên tiến,
chung chung chưa có những kỹ thuật thích hợp với điều kiện từng vùng, chưa kết hợp được kỹ
thuật tiên tiến với truyền thống, chưa coi trọng tri thức địa phương. Có nơi gọi là làm khuyến

14


nông nhưng thực chất chỉ làm công tác dịch vụ đơn thuần, chạy theo cơ chế kinh tế thị trường
vận hành theo cơ chế lợi nhuận.
Trong nông nghiệp hiện nay ở miền núi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng đang được đặc biệt
quan tâm. Trong 10 năm qua những vùng trồng vải thiều như Lục Ngạn, cam quýt Tuyên Quang,
Hà Giang, Na Đồng Hỷ nằm trên các trục đường giao thông thuận tiện đã thu được lợi nhuận
không nhỏ. Tuy nhiên, việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng là một vấn đề đòi hỏi nghiên cứu thận
trọng và nghiêm túc về các khía cạnh sinh học, sinh thái, đất đai, khí hậu, thị trường, văn hố
truyền thống, mới có thể đưa đến những kết quả chắc chắn và phát triển một cách bền vững.
Trong đợt nghiên cứu ở Ngọc Tân, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ nhân dân cho biết, chương

trình phát triển nơng thơn miền núi Việt Nam - Thụy Điển đã hỗ trợ kỹ thuật và cây giống cho bà
con thay đổi cơ cấu cây trồng trong vườn nhà. Bà con đã rất nhiệt tình hưởng ứng và loại bỏ tất
cả các cây ăn quả cũ, cho là khơng năng suất và ít có giá trị, thay vào đó là các giống cam, mơ
mới, năng suất cao, chất lượng tốt. Sau 4-5 năm khi cam, mơ đã ra hoa kết trái, năng suất rất
cao, hình thức rất đẹp. Nhưng cam thì chua "tàn bạo" như lời bà con nói, mơ thì mơ lai khơng
hợp thị trường, cả hai thứ đều khơng ai mua! hàng có thừa mà khơng bán được. Như vậy,
chuyển đổi cơ cấu cây trồng có liên quan rất chặt chẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và vai trị
của các cơ quan khuyến nơng.
Một đối tượng khác- cây cà phê. Trong những năm qua ngành cà phê Việt Nam đã có
những thành tựu to lớn. Nếu tính từ năm 1975 với diện tích 13.400 ha và sản lương là 6.100 tấn,
thì hiện nay diện tích đã tăng lên 450.000 ha và sản lượng đạt trên 400.000 tấn, đã từng đứng
vào hàng thứ 3 xuất khẩu cà phê trên thế giới. Trong thành tựu quan trọng ấy, Tây Ngun đóng
một vai trị khơng nhỏ. Theo Niên giám thống kê 1999 thì Tây Ngun có 305.332 ha cà phê với
sản lượng 327.163 tấn, chiếm 80% diện tích và 85% sản lượng cà phê trong cả nước. Với một
địa hình tương đối bằng phẳng, đất đỏ bazan mầu mỡ, nền nhiệt phù hợp, lượng mưa dồi dào,
không có sương muối, khơng có bão tố, Tây Ngun đã trở thành một trong những vùng sản
xuất cà phê hiệu quả nhất. Năng suất cà phê đạt được trên 3 tấn/ ha, với quy mơ hàng ngàn ha.
Có những hộ gia đình trên quy mơ nhỏ 1 - 2 ha có khi đạt tới 5-7 tấn/ ha (năng suất bình quân
trên thế giới biến động từ 600-650 kg/ha). Tuy nhiên, vì diện tích trồng cà phê tăng mạnh, tăng
một cách tự phát, khơng quy hoạch, khơng thăm dị nguồn nước, trong điều kiện mùa khô kéo
dài như ở Tây Nguyên, không đủ nước tưới đang là một thách thức lớn. Một thách thức nghiêm
trọng nữa là sâu bệnh. Do tình trạng độc canh cây cà phê cùng với việc phá rừng để mở mang
diện tích đất nơng nghiệp làm cho nhiều loại sâu bệnh phát triển mạnh. Bệnh rệp sáp đã phá
hoại hàng ngàn ha cà phê ở Đắk Lắk (1994). Bệnh thối cổ rễ đã huỷ diệt trên 2.000 ha cho đến
nay chưa có biện pháp phịng trừ. Bệnh nhiễm rỉ sắt đang ngày càng gia tăng (Nguyễn Ngọc
Báu, 2000). Giá cả cà phê trong những năm gần đây lại đang giảm mạnh. Cà phê Việt Nam chất
lượng chưa cao, sức cạnh tranh thấp là bế tắc lớn hiện nay. Nhiều hộ gia đình đã bắt đầu chặt
phá cà phê để trồng cây lương thực khác cứu đói.
Đối với miền núi hiện nay, an toàn lương thực vẫn được quan tâm hàng đầu. Qua các
điểm nghiên cứu cho thấy tình hình an tồn lương thực đang là một vấn đề có nhiều bức xúc.

Điểm sâu xa nhất là Khe Nóng thì khơng hộ nào có đủ lương thực ăn trong 12 tháng mà trong 20
hộ điều tra chỉ có 1 hộ là đảm bảo được 10 tháng, một hộ được 8 tháng, 4 hộ được 6 tháng còn
nữa chỉ đảm bảo được 3, 4, 5 tháng. ở Thài Phìn Tủng ăn ngơ thay gạo cũng chỉ có 13 hộ trong

15


số 40 hộ (33%) có đủ ngơ ăn trong 12 tháng, còn phần lớn các hộ khác cũng chỉ đủ ăn trong 8
đến 11 tháng.
Khi điều tra ở thôn Yang Roong, Kon Tum thì tất cả các hộ đều có nhu cầu phát triển lúa
nước. Người dân đã tận dụng phần đất thấp ở ven suối Đắk Cấm và các hố bom ở vùng đất cao
hơn để trồng lúa nước, nhằm đảm bảo nhu cầu về gạo, giảm sự lễ thuộc vào việc làm sắn, mía
và lấy tiền cho thuê đất, bán đất và làm thuê để mua gạo. Họ đang tìm mọi cách để mở thêm đất
trồng lúa. ở thôn Klau Klảh, Kon Tum cũng thế, đất lúa nước đang đóng vai trị rất quan trọng.
Ngồi diện tích đất đã được sở hữu trong số đỏ, nhiều hộ còn khai hoang thêm, và đất trồng lúa
nước đã trở thành đất hàng hoá, mua bán, trao đổi cho thuê cũng tương tự như đất cà phê vậy.
Mặc dù chúng ta vẫn nói chúng ta đã giải quyết xong cơ bản về vấn đề lương thực, nhưng thực
chất vẫn là đại thể, còn các vùng sâu, vùng xa vấn đề lương thục vẫn đang rất khó khăn. Việc
tìm kiếm, khai khẩn đất có khả năng trồng lúa nước vẫn được ưu tiên hàng đầu.
Nói như vậy khơng có nghĩa là khơng nên thay đổi cơ cấu cây trồng. Tuy nhiên, thay đổi cơ
cấu cây trồng là một vấn đề khoa học kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực tiễn, hiện đại và
truyền thống. Mặt khác, chuyển đổi cơ cấu cây trồng liên quan tới nhiều điều kiện như cơ sở hạ
tầng, đường, điện, kỹ thuật, vốn, thị trường, v.v. Những điều kiện đó ở miền núi đang rất yếu
kém, thiếu thốn, cịn nhiều khó khăn và rất khác nhau, có nơi thay đổi thì tốt, có nơi thì chưa thể
thay đổi ngay được. Nhà nước cần có những đầu tư thích đáng cả về nghiên cứu khoa học và áp
dụng thực tiễn mới giải quyết được vấn đề này.

XI. Phát triển kinh tế hàng hoá
Định hướng phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước đã được thực hiện từ năm 1986 và trong chính sách đã có nhiều

điểm mới quan trọng như: phát triển kinh tế hàng hoá trên cơ sở lợi thế so sánh của từng vùng,
từng địa phương, từng dân tộc, dùng các sản phẩm hàng hoá trao đổi để giải quyết vấn đề lương
thực, có chế độ khuyến khích đặc biệt như trợ giá cước vận chuyển, bao tiêu sản phẩm, v.v., cho
một số vùng khó khăn. Kết quả thu được rất đáng khích lệ và có ý nghĩa lớn. Tuy nhiên, đối với
miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số từ lâu mang nặng tính kinh tế tự cung tự cấp nay chuyển
sang nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường cịn là một khoảng cách lớn.
Nhìn vào nguồn thu nhập từ hàng hoá trên 5 điểm nghiên cứu của Trung tâm Tài nguyên
và Môi trường cho thấy ở Khe Nóng chủ yếu khai thác gỗ và các sản phẩm phi gỗ trong rừng tự
nhiên bán cho bọn buôn lậu để lấy tiền, chiếm đến 58%, ở Bản Tát xẻ gỗ, đan gùi, lấy giang, lấy
chít là 27%, ở Ngọc Tân, Làng Thao làm đủ các loại nghề: nấu rượu, làm thợ xây, làm mộc, xay
xát, làm bánh đa, v.v. nhưng tỷ lệ thu nhập cũng chỉ chiếm trên dưới 22%. Sản xuất ra hàng hố
ở đây có thể nói đến là chăn ni lợn. Thu nhập hàng năm từ chăn ni lợn ở Thài Phìn Tủng
chiếm 52,7% , Ngọc Tân là 41,4%, Bản Tát 20,7% và Khe Nóng thấp nhất 16% tổng thu.
Trường hợp chăn nuôi lợn của người H'Mơng trắng ở Thài Phìn Tủng thật là đặc biệt. Mỗi
hộ gia đình cũng chỉ ni vài ba con. Giống lợn địa phương, to, nhiều nạc, ít mỡ, có con nặng
đến 150kg, đã từng nổi tiếng khắp cả nước. Người H'Mông ở đây nuôi lợn không thả rông như
một số dân tộc thiểu số khác mà họ đóng chuồng trại rất cẩn thần, sàn chuồng lát ván, mái
chuồng lợp ngói. Người ta thường nói vay tiền để chữa chuồng lợn chứ không vay tiền để chữa

16


nhà. Ngoài thu nhập bằng tiền bán rượu người ta cịn nấu rượu với mục đích chính là để kết hợp
với chăn nuôi lợn. Tiền thu từ bán rượu chiếm trên dưới 25% thu nhập, nhưng phần lớn số tiền
này lại mua ngơ trở lại, quay vịng trong chu trình nấu rượu. Nấu rượu để lấy bã nuôi lợn. Nuôi
lợn để bán và lấy phân cho ngô trên hốc đá. Đây là một phương thức rất phù hợp cho phát triển
kinh tế vùng này.
Nhìn chung, các ngành nghề ở đây gọi là nghề nhưng vẫn chưa thực sự có hàng hố, chỉ
mới bắt đầu vào nghề nhằm khai thác có hiệu quả các lợi thế về tự nhiên, phát huy tiềm năng
con người sẵn có, tận dụng thời gian nơng nhàn, dần dần đi vào kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị

trường. Qua các điểm nghiên cứu cho thấy hiện nay miền núi và các dân tộc thiểu số đang biểu
lộ rõ nét về nguồn lao động chất lượng thấp. Các nghề truyền thống chưa phát triển, chưa tiếp
thu được khoa học kỹ thuật tiên tiến, để dần dần đổi mới, nâng cao chất lượng lao động trong
nghề. Các ngành nghề phi nông nghiệp đang phát triển một cách khó khăn, mà khơng có hoạt
động này thì khơng thể tạo công ăn việc làm cho người lao động, không thể rút lao động ra khỏi
nông nghiệp, giảm bớt áp lực dân số trong các hệ nơng nghiệp. Vì vậy, sự phát triển bền vững
đòi hỏi phải vừa sản xuất lương thực, vừa sản xuất nơng sản hàng hố cho thị trường, vừa phát
triển ngành nghề phi nông nghiệp để tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho các nông hộ, vừa
bảo vệ môi trường. Muốn giải quyết vấn đề này cần phải có chương trình phát triển nơng thơn
tổng hợp, trong đó các thành phần kỹ thuật, các ngành nghề khác nhau và thể chế như tín dụng,
khuyến nơng, thị trường, tổ chức nơng dân, v.v, cần có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực mới để
phát triển các ngành nghề mới cho phù hợp với yêu cầu thay đổi hiện tại.

XII. Xố đói giảm nghèo
Chương trình xố đói giảm nghèo thực sự trở thành chương trình quốc gia từ năm 1998,
theo quyết định của Thủ tướng chính phủ (Quyết định số 133/1998/QĐ-TTg). ở miền núi vấn đề
này được đề cập khá đầy đủ trong Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ,
"Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa
hay gọi là chương trình 135". Mục tiêu tổng quát của chương trình 135 là: Nâng cao nhanh đời
sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng
sâu, vùng xa; tạo điều kiện để đưa nơng thơn các vùng này thốt khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc
hậu, chậm phát triển, hoà nhập vào sự phát triển chung của cả nước góp phần bảo đảm trật tự
an tồn xã hội, an ninh quốc phịng. Xố đói giảm nghèo là một chương trình lớn đang được
quan tâm mọi lúc, mọi nơi, là một chương trình liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm:
Cơ chế chính sách và giải pháp về đất đai, tư liệu sản xuất, cơ sở hạ tầng, tín dụng, chuyển giao
công nghệ, tạo công ăn việc làm và hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo. Chương trình đã
huy động nguồn đầu tư ngân sách lớn từ trung ương đến địa phương (tỉnh), và đóng góp ngày
cơng tại chỗ của nhân dân địa phương. Ngoài ra các ngành, các bộ đã chỉ đạo lồng ghép các
chương trình, dự án khác ưu tiên đầu tư vào các xã thuộc Chương trình 135. Trong giai đoạn I
(1998-2000) đã có 1.383 cán bộ được phân công xuống các xã giúp cơ sở phát triển KT-XH, ổn

định chính trị, an ninh quốc phịng và trực tiếp tham gia chỉ đạo chương trình. Năm 1999, trung
ương đã đầu tư 508 tỷ đồng và năm 2000 là 700 tỷ đồng. Ngân sách địa phương các tỉnh trong
hai năm qua đã đầu tư 168 tỷ đồng. Nguồn lực huy động tại chỗ bằng ngày cơng ước tính 150 tỷ
đồng. Chương trình đã thực hiện các nhiệm vụ trọng yếu như: xây dựng cơ sở hạ tầng, đường
giao thơng, thuỷ lợi nhỏ, cấp nước sinh hoạt, điện, phịng học, trạm xá, chợ, trung tâm cụm xã,
quy hoạch lại dân cư một số nơi cần thiết, phát triển sản xuất và đào tạo cán bộ. Kết quả chung

17


nhất trong hai năm thực hiện chương trình về cơ bản khơng cịn hộ đói kinh niên, mỗi năm giảm
được 4-5% hộ nghèo (Hồng Cơng Dung, 2001).
Trong chương trình xố đói giảm nghèo thì hệ thống dịch vụ tín dụng hỗ trợ người nghèo,
tiếp cận và vay vốn cho sản xuất là chú ý hơn cả. Liên quan đến dịch vụ này là các vấn đề lãi
suất, thời hạn vay, mức vay tín dụng, thủ tục và trả vốn đối với người nghèo. ở Ngọc Tân đã
thành lập quỹ tín dụng nơng dân, là một hình thức tốt. Tuy nhiên, qua điều tra ở các điểm nghiên
cứu khác thì việc vay vốn đối với người nghèo đang áp dụng hiện nay chưa thống nhất giữa các
nguồn cung cấp tín dụng, nhiều nơi người dân chưa thực sự tiếp cận được một cách đầy đủ với
hệ thống tín dụng. Có nơi thời hạn cho vay còn quá ngắn, người dân chưa kịp xoay xở thì nợ đã
đến rồi. Miền núi khơng như miền xi, kinh doanh gì cũng mang tính dài ngày; trồng rừng, trồng
cây ăn quả, ni trâu, ni bị đều địi hỏi thời gian 4-5-7 năm. Vì vậy, tín dụng ở miền núi phải
có những thay đổi cho phù hợp. (Lê Trọng Cúc, 2001)
Tuy nhiên, nguyên nhân của sự nghèo đói có khi khơng chỉ khơng có vốn mà còn nhiều
nguyên nhân khác nhau bao gồm sự biệt lập về mặt địa lý, ngơn ngữ, khơng có lợi thế tiếp nhận
thông tin, khoa học kỹ thuật, thiếu vốn, bệnh tật bẩm sinh, có q nhiều con cái, khơng có lao
động, thiếu sự tham gia năng động, khơng có khả năng quy hoạch phát triển, sử dụng không hợp
lý tài nguyên thiên nhiên. Đối với một số hộ nghèo như vậy được vay tín dụng khơng phải là cơ
may, vì họ chẳng biết làm gì với số tiền vay được. Khi đánh giá nghèo người ta thường nghĩ đến
mức thu nhập. Nhưng thực tế nghèo không chỉ đơn giản là mức thu nhập thấp mà còn là sự
thiếu thốn trong việc tiếp cận dịch vụ như giáo dục, thuốc men. Không chỉ thiếu tiền mặt, thiếu

những điều kiện tốt hơn cho cuộc sống, mà cịn trong tình trạng đe doạ bị mất những phẩm chất
q giá, đó là lịng tin và lịng tự trọng.
Để thực hiện tốt chương trình xố đói giảm nghèo cần kết hợp với các chương trình quốc
gia khác như chương trình phát triển kinh tế - xã hội miền núi, chương trình tạo việc làm, chương
trình y tế, giáo dục, nước sạch, phát triển nông thôn, v.v., vì các chương trình này cũng đều có
cùng một mục đích cuối cùng là xố đói giảm nghèo. Giải quyết được vấn đề này thì sẽ khắc
phục được đầu tư dàn trải và chồng chéo. Mặt khác, để thực hiện tốt chương trình xố đói giảm
nghèo cũng như các dự án khác ở nơng thơn miền núi, cần có cơ chế, chính sách hợp lý trong
việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đồng thời cần có chính sách thu hút lực lượng lao động
có chất lượng cao, tham gia các dự án và chương trình phát triển. Sự tham gia có tính quyết định
trong việc xây dựng, thiết kế các dự án này không thể thiếu sự đóng góp của người dân địa
phương. Nếu được xây dựng, thiết kế có sự đóng góp của người dân địa phương sẽ làm cho
các biện pháp can thiệp phù hợp hơn với hoàn cảnh, đến những yếu tố kinh tế - văn hoá - xã hội
truyền thống cũng như các nhu cầu, lợi ích thực tế của địa phương và các nhóm dân cư. Những
vấn đề này chưa thấy được thể hiện ở nhiều điểm nghiên cứu.

XIII. Y tế, sức khoẻ cộng đồng
Xem xét tình hình chăm sóc sức khoẻ và chữa trị thì hầu hết các xã đều có trạm xá, và có
cán bộ y tế. Mạng lưới y tế cơ sở (xã, thơn bản) đã được hình thành. Vấn đề khó khăn nhất là
đội ngũ cán bộ thì đã dần dần được khắc phục bằng nhiều hình thức đào tạo 3 tháng, 6 tháng, 9
tháng. Đội ngũ cán bộ y tế thôn bản dần dần được củng cố và phát triển, đã phát huy được nhiều
hiệu quả trong cơng tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, loại bỏ nhiều loại dịch bệnh và

18


×