Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

“Một số giải pháp phát triển các dịch vụ ngân hàng tại VPBank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.03 KB, 74 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
Mục lục
Lời mở đầu............................................................................................. 2
Chương 1: Tổng quan về ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng..........4
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng..............................4
1.2 Các dịch vụ ngân hàng....................................................................9
1.2.1 Các dịch vụ truyền thống........................................................9
1.2.2 Các dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây
.................................................................................
12
1.3 Vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế hiện đại
21
Chương 2: Phát triển dịch vụ ngân hàng tại VPBank ......................23
2.1 Sự hình thành và phát triển của VPBank
23
2.2 Phát triển các dịch vụ ngân hàng ở VPBank
26
2.2.1 Sự phát triển các dịch vụ ngân hàng ở VPBank
..........................................................................................................
27
2.2.2 Các dịch vụ hiện có ở VPBank
.....................................................................................................
33
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B 1
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng ở
VPBank trong thời gian tới...............................................54
3.1 Đẩy mạnh việc xây dựng và quảng bá hình ảnh ngân hàng
54
3.2 Thành lập bộ phận Quản trị quan hệ khách hàng – CRM
55


3.3 Triển khai một số dịch vụ mới
59
Tài liệu tham khảo................................................................................72
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B 2
Chuyên đề tốt nghiệp
Lời mở đầu
VPBank tên đầy đủ là Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh
nghiệp Ngoài quốc doanh Việt Nam được thành lập theo Giấy phép hoạt động
số 0042/NH-GP của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12
tháng 8 năm 1993 với thời gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt
động từ ngày 04 tháng 9 năm 1993. Sau 13 năm hoạt động, trải qua nhiều khó
khăn thử thách, đến nay có thể nói VPBank đã bước đầu thành công trong việc
xây dựng thương hiệu của mình.
Năm 2000 đánh dấu một chuyển biến quan trọng trong quá trình phát
triển của VPBank. Đó là việc Hội đồng quản trị quyết định lựa chọn mục tiêu
chiến lược của VPBank cho tới năm 2010 là xây dựng VPBank trở thành ngân
hàng bán lẻ hàng đầu của Việt Nam và trong khu vực. Khách hàng tiềm năng
quan trọng nhất của VPBank sẽ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh
doanh cá thể và phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của dân cư. Việc xác định
lại mục tiêu chiến lược nói trên là một quyết định táo bạo và kiên quyết của
Hội đồng quản trị dựa trên những phân tích khoa học xác đáng. Xác định lại
chiến lược, nhằm vào các đối tượng khách hàng chính, VPBank thiết kế lại
toàn bộ các sản phẩm của mình và sắp xếp, chấn chỉnh lại toàn bộ bộ máy tổ
chức để phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng, đồng thời VPBank đã không
ngừng cải tiến phong cách phục vụ, tích cực nghiên cứu nhu cầu của khách
hàng để đưa ra các sản phẩm dịch vụ đa dạng và có tính cạnh tranh cao.
Thực tế đã chứng minh rằng định hướng phát triển trở thành ngân hàng
bán lẻ của VPBank là hoàn toàn đúng đắn. Năm 2005 VPBank đã chính thức
thoát khỏi tình trạng kiểm soát đặc biệt. Vượt qua giai đoạn khủng hoảng kéo
dài (1997 – 2004), VPBank đã vươn lên khẳng định được mình với uy tín

thương hiệu ngày càng vững mạnh, tình hình tài chính lành mạnh và chất
lượng hoạt động được kiểm soát tốt. Kết thúc năm tài chính 2005, tỷ lể chia cổ
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B 3
Chuyên đề tốt nghiệp
tức của VPBank đạt 20%. Có thể nói VPBank đang hoàn thiện trên từng bước
tiến của mình.
Tuy đã đạt được những thành công đáng khích lệ nhưng để vươn tới vị
trí ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam thì VPBank còn rất nhiều việc phải
làm đặc biệt là trong thời gian sắp tới, khi Việt Nam chính thức gia nhập
WTO, mở cửa hoàn toàn thị trường tài chính cho các ngân hàng nước ngoài…
Sau 15 tuần thực tập tại VPBank, với mục đích tìm hiểu các hoạt động
thực tế và các dịch vụ của một ngân hàng em đã hoàn thành chuyên đề thực
tập tốt nghiệp với đề tài: “Một số giải pháp phát triển các dịch vụ ngân hàng
tại VPBank”. Trong quá trình thưc hiện đề tài em đã được sự giúp đỡ, hướng
dẫn tận tình của:
• Tiến sĩ Phan Thị Thu Hà – Khoa Ngân hàng tài chính ĐH KTQD
• Ban giám đốc và tập thể cán bộ, nhân viên ngân hàng VPBank
chi nhánh Thăng Long
Em xin chân thành cảm ơn !
Phan Quang Huy
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B 4
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 1
Tổng quan về ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của
nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương
mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các
ngân hàng.

Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền
kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh
tế - xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ
cho toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là thu nhập quan trọng của nhiều hộ
gia đình. Đồng thời ngân hàng cũng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các
doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình. Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng
thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hóa dự trữ
hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Đối với người tiêu dùng, ngân
hàng là nơi họ gửi tiền tiết kiệm và cung cấp tín dụng giúp họ đáp ứng những
nhu cầu chi tiêu. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các
khoản mua hàng hóa và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, ủy nhiệm chi, thẻ tín
dụng hay tài khoản điện tử… Và khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế
hoạch tài chính, họ thường đến các ngân hàng để nhận được lời tư vấn… Tóm
lại, khi xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế
cũng trở nên ngày càng quan trọng.
1.1.1 Sự hình thành ngân hàng
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát
triển của nền sản xuất hàng hóa. Quá trình phát triển của nền kinh tế là điều
kiện thúc đẩy sự phát triển của hệ thống ngân hàng; đến lượt mình, sự phát
triển của ngân hàng lại trở thành động lực cho nền kinh tế phát triển.
Thợ vàng chính là những người đầu tiên thực hiện nghề ngân hàng
thông qua nghiệp vụ đúc tiền và đổi tiền của họ. Vì vậy, những ngân hàng đầu
tiên được gọi là ngân hàng thợ vàng. Việc lưu hành những đồng tiền riêng của
mỗi quốc gia kết hợp với sự phát triển của thương mại đã tạo ra yêu cầu đúc,
đổi tiền tại các cửa khẩu hoặc trung tâm thương mại lớn. Những làm nghề đúc,
đổi tiền kinh doanh bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại. Họ thu lợi
nhuận từ phần chênh lệch giữa giá mua và giá bán.
Người làm nghề đổi tiền thường là những người giàu có. Họ thường có

két tốt để cất giữ tiền bạc, của cải của mình. Do nhu cầu cất trữ tiền của các
lãnh chúa, các nhà buôn… rất lớn, nhiều người làm nghề đổi tiền cung cấp
luôn cả dịch vụ cất trữ hộ. Thực hiện cất trữ hộ tài sản làm tăng thu nhập, tăng
sự đa dạng các loại tiền, tăng qui mô tài sản của những người kinh doanh tiền
tệ. Việc cất trữ hộ tài sản này là điều kiện để những người làm nghề đổi tiền có
thể làm trung gian thanh toán. Thanh toán qua trung gian làm nảy sinh nhu cầu
thanh toán không dùng tiền mặt và đến lượt nó những ưu điểm của thanh toán
không dùng tiền mặt đã thu hút các thương gia gửi tiền nhiều hơn. Như vậy
trong điều kiện đồng tiền kim loại được sử dụng trong lưu thông, các chủ cửa
hàng vàng bạc vừa đổi tiền, thanh toán hộ, vừa đúc tiền và cho vay nặng lãi.
Các chủ cửa hàng này gọi là những người kinh doanh tiền tệ hay nhà buôn
tiền.
Ban đầu, những nhà buôn tiền còn dùng vốn tự có của mình để cho vay
nhưng điều đó không kéo dài. Sau một thời gian hoạt động, họ nhận thấy rằng
thường xuyên có những người gửi tiền vào và có người lấy tiền ra nhưng tất cả
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
những người gửi tiền không lấy tiền ra cùng một lúc. Điều này đã tạo ra một
số lượng tiền dư thường xuyên trong két. Lợi dụng tính chất vô danh của tiền,
nhà buôn tiền đã sử dụng tạm thời số dư tiền này để cho vay và thu lãi. Hoạt
động này làm thay đổi cơ bản hoạt động của nhà buôn tiền từ cho vay nặng lãi
sang cho vay dựa trên tiền gửi của khách hàng – Ngân hàng. Hoạt động cho
vay dựa trên số dư tiền gửi của khách đã tạo ra lợi nhuận lớn cho ngân hàng
nên các ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút các nguồn tiền gửi vào ngân
hàng mình bằng cách trả lãi cho người gửi tiền…
Ngày nay, ngân hàng đã trở thành một tổ chức quan trọng trong nền
kinh tế. Các dịch vụ ngân hàng không còn bó hẹp trong phạm vi cất giữ hộ của
cải, trung gian thanh toán, nhận tiền gửi và cho vay nữa, hoạt động của các
ngân hàng đã đa dạng hơn rất nhiều và đang dần dần mở rộng sang các lĩnh
vực như cung cấp dịch vụ bất động sản, môi giới chứng khoán, tham gia các

hoạt động đầu tư vào quỹ hỗ tương, bảo hiểm, bảo lãnh… và nhiều nghiệp vụ
mới khác.
Có rất nhiều định nghĩa được đưa ra về ngân hàng nhưng cách định
nghĩa toàn diện nhất là dựa trên những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp:
Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong
nền kinh tế.
1.1.2 Lịch sử phát triển
Hình thức ngân hàng đầu tiên – ngân hàng của các thợ vàng – cho vay
chủ yếu là đối với các cá nhân, chủ yếu là những người giàu có: Quan lại, địa
chủ… nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng. Nhiều ngân hàng lớn còn mở rộng
cho vay tài trợ một phần cho những chi tiêu cần dùng trong chiến tranh của
các vua chúa. Hình thức cho vay chủ yếu thời đó là thấu chi, có nghĩa là: cho
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
phép khách hàng chi nhiều hơn số tiền gửi tại ngân hàng. Đây là một hình thức
cho vay chứa rất nhiều rủi ro. Do lợi nhuận từ cho vay rất cao nên nhiều chủ
ngân hàng đã phát hành chứng chỉ tiền gửi khống (có giá trị lưu thông như
vàng, bạc) để cho vay. Khi xảy nhiều khách hàng gặp rủi ro, các ngân hàng
cho vay theo hình thức này gặp khó khăn về khả năng thanh toán và rơi vào
tình trạng phá sản.
Sự sụp đổ của các ngân hàng gây khó khăn cho hoạt động thanh toán và
tác động xấu đến hoạt động kinh doanh của các nhà buôn. Trước tình trạng đó,
nhiều nhà buôn đã góp vốn lại thành lập một ngân hàng của riêng mình với
chức năng chủ yếu là cho vay ngắn hạn và thanh toán hộ gắn liền với quá trình
luân chuyển của tư bản thương nghiệp. Ngân hàng này được gọi là ngân hàng
thương mại.
Ngân hàng thương mại cũng thực hiện các nghiệp vụ truyền thống của
ngân hàng như: nhận tiền gửi, cho vay, cất trữ hộ và trung gian thanh toán.

Tuy nhiên, ngân hàng thương mại đã phát triển hơn các ngân hàng thợ vàng ở
một điểm cơ bản đó là: ngân hàng thương mại chủ yếu cho các nhà buôn vay
dưới hình thức chiết khấu thương phiếu. Đây là các khoản cho vay ngắn hạn
dựa trên quá trình luân chuyển của hàng hóa với lãi suất phải thấp hơn lợi
nhuận được tạo ra do sử dụng tiền vay.
Sau một thời gian hoạt động, sự sụp đổ của nhiều ngân hàng thương mại
đã gây tổn thất lớn cho những người gửi tiền. Trong tình hình đó, các ngân
hàng tiền gửi đã xuất hiện. Ngân hàng này không cho vay, chỉ thực hiện giữ
hộ, thanh toán hộ để lấy phí. Đồng thời tại mỗi nước, trong những điều kiện
lịch sử cụ thể đã hình thành nhiều loại ngân hàng khác như ngân hàng tiết
kiệm, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng trung ương… tạo nên
hệ thống ngân hàng. Trong hệ thống đó, ngân hàng trung ương làm chức năng
xây dựng và quản lí chính sách tiền tệ quốc gia còn các ngân hàng khác dù có
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
một số nghiệp vụ khác nhau nhưng đều có đặc điểm chung là thực hiện chức
năng của một trung gian tài chính thực hiện kinh doanh tiền tệ.
Cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ, hoạt động ngân hàng đã có
những bước tiến vượt bậc. Sự phát triển này thể hiện ở việc đa dạng hóa các
loại hình ngân hàng và các hoạt động ngân hàng. Từ các ngân hàng tư nhân,
quá trình tích tụ và tập trung vốn trong các ngân hàng đã dẫn đến hình thành
ngân hàng cổ phần. Quá trình gia tăng vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt
động ngân hàng đã tạo ra các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước …
Đến nay, các ngân hàng thương mại từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn là chủ
yếu đã mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản.
Nhiều ngân hàng mở rộng sang cho vay tiêu dùng, cho thuê tài chính, kinh
doanh chứng khoán… Các hình thức huy động cũng ngày càng phong phú.
Các loai tiền gửi khác được đưa ra nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách
hàng. Công nghệ ngân hàng đang góp phần làm thay đổi các hoạt động của
ngân hàng làm cho các hoạt động này càng ngày càng đơn giản, dễ tiếp cận

hơn đối với khách hàng. Thanh toán điện tử đang dần dần thay thế thanh toán
thủ công, đẩy nhanh tốc độ, tính thuận tiện, an toàn trong thanh toán. Các loại
thẻ đang thay thế dần tiền giấy và dịch vụ ngân hàng điện tử, ngân hàng tại
nhà đang tạo ra các tiện ích ngày càng lớn cho cả khách hàng lẫn ngân hàng..
Trong quá trình phát triển, các ngân hàng không chỉ gia tăng về số
lượng dịch vụ mà còn phát triển cả về quy mô. Quá trình tích tụ và tập trung tư
bản đã tạo ra các tập đoàn ngân hàng cực lớn với số vốn tự có lên tới hàng
chục tỷ đô la Mỹ, tổng tài sản đạt hàng trăm tỷ đô la Mỹ, đủ sức tài trợ cho
những ngành công nghiệp và dịch vụ mũi nhọn trên toàn cầu.
Trên thế giới hiện nay, các ngân hàng đang có xu thế liên kết, hợp tác
với nhau ngày càng chặt chẽ, thúc đẩy hình thành các hiệp hội, các tổ chức
liên kết, các ngân hàng đa quốc gia nhằm tạo ra các chính sách chung, hoặc
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B
Chuyên đề tốt nghiệp
tương thích để kiểm soát chung, để kết nối và tạo ra sự thống nhất trong điều
hành và vận hành hệ thống ngân hàng trong mỗi khu vực và trên toàn thế giới.
Cùng với những bước phát triển thăng trầm của nền kinh tế thế giới.
Trong lịch sử phát triển của ngân hàng cũng đã xảy ra không ít những cuộc
khủng hoảng. Những cuộc khủng hoảng này dù lớn hay nhỏ cũng gây ra
những tác động xấu đến nền kinh tế và chính trị cho một quốc gia, một khu
vực hay thậm chí cho cả thế giới. Tuy nhiên cũng từ những cuộc khủng hoảng
đó mà các nhà quản lý đã rút ra được nhiều bài học quý báu giúp cho sự phát
triển ổn định của ngành ngân hàng trong tương lai.
1.2 Các dịch vụ ngân hàng
Trải qua hàng trăm năm phát triển, đến nay hoạt động của các ngân
hàng ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp hơn. Mặc dù vậy, các nghiệp vụ
truyền thống của ngân hàng vẫn đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với
ngân hàng và đang tồn tại phát triển song song với các dịch vụ hiện đại khác.
1.2.1 Các dịch vụ truyền thống
 Thực hiện mua bán, trao đổi ngoại tệ: Lịch sử cho thấy rằng một

trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại
tệ- một nhà ngân hàng đứng ra mua, bán một loại tiền này, chẳng hạn
USD lấy một loại tiền khác, chẳng hạn Franc hay Pesos và hưởng phí
dịch vụ. Sự trao đổi đó rất quan trọng đối với khách du lịch vì họ sẽ cảm
thấy thuận tiện và thoải mái hơn khi có trong tay đồng bản tệ của quốc
gia hay thành phố mà họ đến. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua
bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì
những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có
trình độ chuyên môn cao.
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B 10
Chuyên đề tốt nghiệp
 Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại: Ngay ở thời kì
đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối
với các doanh nhân địa phương, những người bán các khoản nợ (khoản
phải thu) của khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bước
chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các
khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ hoặc xây dựng văn
phòng và thiết bị sản xuất.
 Nhận tiền gửi: Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó
các ngân hàng đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay.
Một trong những nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm
của khách hàng-một quỹ sinh lợi được gửi tại ngân hàng trong khoảng
thời gian nhiều tuần nhiều tháng, nhiều năm, đôi khi được hưởng mức lãi
suất tương đối cao. Trong lịch sử đã có mức kỷ lục về lãi suất, chẳng hạn
các ngân hàng Hy Lạp đã trả mức lãi suất 16% một năm để thu hút các
khoản tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung
Hải với lãi suất gấp đôi hay gấp ba lãi suất tiết kịêm.
 Bảo quản, cất giữ hộ vật có giá: Ngay từ thời Trung Cổ, các ngân
hàng đã bắt đầu thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho
khách hàng trong những kho bảo quản chắc chắn của mình. Những giấy

chứng nhận do ngân hàng ký phát - ghi nhận về các tài sản của khách
hàng đang được ngân hàng lưu giữ - có thể có giá trị lưu hành như tiền.
Đó là hình thức đầu tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay, nghiệp vụ
bảo quản vật có giá vẫn được các ngân hàng cung cấp cho khách hàng và
thưòng do phòng “Bảo quản” của ngân hàng thực hiện.
 Cung cấp các tài khoản giao dịch và thanh toán: Cuộc cách mạng
công nghiệp ở Châu Âu và châu Mỹ đã đánh dấu sự ra đời những hoạt
động và dịch vụ ngân hàng mới. Một trong những dịch vụ mới quan
trọng nhất được phát triển trong thời kỳ này là tài khoản tiền gửi giao
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B 11
Chuyên đề tốt nghiệp
dịch - một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiết kiệm có thể viết séc
thanh toán cho việc mua hàng hóa, dịch vụ. Đưa ra loại tài khoản tiền gửi
mới này đánh dấu một bước đi quan trọng nhất trong ngành ngân hàng vì
nó đã cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các
giao dịch kinh doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an toàn
hơn. Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của hệ thống ngân hàng,
các phương thức thanh toán của ngân hàng không còn giới hạn trong một
quốc gia nữa mà đã mở rộng ra phạm vi quốc tế với các dịch vụ đa dạng
như: nhờ thu, phát hành L/C, chuyển tiền quốc tế…
 Cung cấp dịch vụ ủy thác: Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã
thực hiện quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và
doanh nghiệp thương mại và thu phí trên cơ sở giá trị tài sản hay quy mô
vốn họ quản lý. Dịch vụ này được gọi là dịch vụ ủy thác. Hiện nay ngân
hàng đang cung cấp hai loại dịch vụ ủy thác là: ủy thác thông thường cho
cá nhân, hộ gia đình và dịch vụ ủy thác thương mại cho các doanh
nghiệp.
Dịch vụ ủy thác cá nhân giúp khách hàng thực hiện việc tiết kiệm
các khoản tiền cho các mục đích riêng trong tương lai. Khách hàng gửi
tại ngân hàng một số tiền nhất định, ngân hàng sẽ thay khách hàng quản

lý và đầu tư khoản tiền đó cho đến khi khách hàng cần. Trong ủy thác
thương mại, ngân hàng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và kế
hoạch tiền lương cho các công ty kinh doanh. Ngân hàng còn đóng vai
trò đại lý cho các công ty này trong hoạt động phát hành cổ phiếu, trái
phiếu. Ở các nước phát triển, dịch vụ ủy thác là một dịch vụ đem lại
nhiều lợi nhuận cho các ngân hàng thương mại.
 Tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ: Khả năng huy động và
cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã gây chú ý cho các Chính
phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn (chi cho chiến tranh, cứu trợ thiên tai…) và
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B 12
Chuyên đề tốt nghiệp
thường là cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều
muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Ngày nay, Chính
phủ giành quyền cấp phép và kiểm soát các hoạt động của ngân hàng.
Các ngân hàng được cấp phép hoạt động với điều kiện là họ phải cam kết
thực hiện các chính sách của Chính phủ ở một mức độ nào đó và phải tài
trợ cho Chính phủ. (Thường là các ngân hàng phải mua trái phiếu Chính
phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà các ngân hàng
huy động được)
1.2.2 Các dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây
Dưới sự tác động của môi trường kinh tế - xã hội, của khoa học kĩ
thuật… Các dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng, phong phú hơn. Ngày nay,
các ngân hàng không chỉ cung cấp các dịch vụ truyền thống của mình mà đã
phát triển thêm nhiều dịch vụ mới…
Một số yếu tố có tác động mạnh mẽ đế các hoạt động ngân hàng ngày
nay:
 Sự gia tăng cạnh tranh giữa các ngân hàng: để tăng lợi nhuận của
mình, các ngân hàng đã không ngừng nghiên cứu, đưa vào các dịch vụ
mới để thu hút khách hàng. Quá trình mở rộng các dịch vụ đã thực sự gia
tăng từ những năm gần đây dưới áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng và

các tổ chức tài chính khác và đặc biệt là từ sự hiểu biết và đòi hỏi cao
hơn của khách hàng. Việc đưa vào triển khai các dịch vụ mới đã làm gia
tăng chi phí hoạt động của ngân hàng, dẫn đến rủi ro phá sản cao hơn.
Tuy nhiên các dịch vụ mới này cũng có những ảnh hưởng tốt đến ngành
ngân hàng thông qua việc tạo ra những nguồn thu mới: các khoản lệ phí
khi thực hiện dịch vụ - đây là một bộ phận có xu hướng tăng trưởng
nhanh hơn so với các nguồn thu truyền thống từ lãi.
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B 13
Chuyên đề tốt nghiệp
 Sự phi quản lý hóa của chính phủ: sự giảm bớt sức mạnh kiểm
soát của chính phủ cũng là một yếu tố thúc đẩy sự cạnh tranh và quá
trình mở rộng dịch vụ vủa ngân hàng. Điều này bắt đầu từ những năm 80
ở Mỹ và đã lan rộng ra trên phạm vi toàn cầu. Khởi đầu, chính phủ nâng
lãi suất trần đối với tiết kiệm nhằm giúp công chúng có thu nhập khá hơn
từ khoản tiết kiệm của mình. Việc làm này của chính phủ đã tạo ra sự
cạnh tranh mới giứa ngân hàng và các đối thủ chính của nó như hiệp hội
tín dụng và cho vay, các công ty dịch vụ tài chính… Cả hai bên đều đưa
ra nhiều sản phẩm dịch vụ mới có thể đem lại cho khách hàng nhiều lợi
nhuận hơn. Sự nới lỏng luật lệ kết hợp với gia tăng cạnh tranh đã làm
tăng chi phí trung bình thực tế của tài khoản tiền gửi – nguồn vốn cơ bản
của ngân hàng. Các ngân hàng phải trả lãi nhiều hơn để có thể chiến
thắng đối thủ cạnh tranh trong việc huy động vốn. Thêm vào đó, chính
phủ còn yêu cầu các ngân hàng phải sử dụng vốn sở hữu nhiều hơn để tài
trợ cho tài sản của mình. Trước tình hình đó, các ngân hàng buộc phải
tìm cách cắt giảm các chị phí hoạt động khác như cắt giảm nhân công,
thay thế các thiết bị lỗi thời bằng hệ thống xử lý điện tử hiện đại… Đồng
thời tìm ra cách huy động các nguồn vốn mới bằng cách cung cấp thêm
các tiện ích cho người gửi tiền.
 Sự phát triển của khoa học kỹ thuật: Sự phát triển không ngừng
của khoa học kỹ thuật đã thực sự làm thay đổi bộ mặt của ngân hàng. Từ

nhiều năm nay, các ngân hàng đã đẩy mạnh việc ứng dụng các công nghệ
mới, hiện đại vào hoạt động của mình. Nhờ đó mà hoạt động của ngân
hàng càng ngày càng trở nên nhanh chóng, an toàn và đáng tin cậy hơn.
Một ứng dụng nổi bật của việc ứng dụng khoa học công nghệ vào ngân
hàng là: các máy rút tiền tự động ATM. Các máy rút tiền này cho phép
khách hàng tiếp cận với tài khoản của mình vào bất cứ lúc nào trong
ngày mà không phải đến ngân hàng… Ngoài ra, với hệ thống máy vi tính
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B 14
Chuyên đề tốt nghiệp
hiện đại các ngân hàng có thể xử lý hàng ngàn giao dịch một cách nhanh
chóng trên toàn thế giới và cung cấp cho khách hàng các tiện ích như:
ngân hàng điện tử, ngân hàng tại nhà…
 Quá trình toàn cầu hóa ngân hàng: Để sử dụng hiệu quả quá trình
tự động hóa và những đổi mới công nghệ đòi hỏi các hoạt động ngân
hàng phải có quy mô lớn. Vì vậy, các ngân hàng đã không ngừng mở
rộng phạm vi hoạt động của mình để thu hút ngày càng nhiều khách hàng
hơn. Kết quả của những nỗ lực mở rộng đó là sự bành trướng về địa lý và
hợp nhất các ngân hàng đã vượt ra khỏi ranh giới lãnh thổ một quốc gia
đơn lẻ và lan rộng ra với quy mô toàn cầu. Ngày nay, các ngân hàng lớn
trên thế giới đang cạnh tranh với nhau trên tất cả các lục địa. Vào những
năm 80, các ngân hàng Nhật, dẫn đầu là Dai-I Kangyo Bank và Fuji
Bank đã phát triển nhanh hơn hầu hết các đối thủ cạnh tranh trên khắp
thế giới. Các ngân hàng lớn đặt trụ sở tại Pháp, tại Đức và tại Anh cũng
trở thành những đối thủ nặng ký trên thị trường cho vay Chính phủ và
cho vay công ty. Quá trình phi quản lý hóa đã giúp tất cả các tổ chức này
cạnh tranh hiệu quả hơn so với các ngân hàng Mỹ và nắm được thị phần
ngày càng tăng trên thị trường toàn cầu về dịch vụ ngân hàng.
Một số dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây:
Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, các dịch vụ của
ngân hàng cũng ngày càng được đa dạng hóa. Bên cạnh các dịch vụ truyền

thống, ngày nay các ngân hàng đang cung cấp thêm một số dịch vụ mới như:
 Cho vay tiêu dùng: Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không
chú ý đến việc cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình vì họ tin rằng các
khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương
đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Bắt đầu từ
những năm đầu thế kỉ 20, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B 15
Chuyên đề tốt nghiệp
gửi của khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại lớn. Dưới
áp lực cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng với nhau, việc thu hút
những khách hàng lớn trở nên khó khăn hơn. Các ngân hàng buộc phải
hướng đến người tiêu dùng như là một đối tượng khách hàng tiềm năng.
Cho tới những năm 1920 và 1930, nhiều ngân hàng lớn do Citicorp và
Bank of America dẫn đầu đã thành lập những phòng tín dụng tiêu dùng
lớn mạnh. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở
thành một trong những loại hình tín dụng đạt mức tăng trưởng nhanh
nhất. Thời gian gần đây, tốc độ tăng trưởng của tín dụng tiêu dùng đã
chậm lại do ngày càng có nhiều ngân hàng cung cấp dịch vụ này. Tuy
nhiên, người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng
và tạo ra một trong số những nguồn thu quan trọng nhất của ngân hàng.
 Tư vấn tài chính: Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu
cầu thực hiện hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu
tư. Ngân hàng ngày nay cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng,
từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư vấn về
các cơ hội thị trường trong nước và ngoài nước cho các khách hàng của
họ.
 Quản lý tiền mặt: Qua nhiều năm, các ngân hàng phát hiện ra rằng
một số dịch vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng rất cần thiết cho các
khách hàng và họ đã đem những dịch vụ đó ra kinh doanh. Một ví dụ
điển hình về các dịch vụ kiểu này là dịch vụ Quản lý tiền mặt, trong đó,

ngân hàng quản lý việc thu và chi tiền mặt cho các doanh nghiệp đồng
thời nó sử dụng số tiền thặng dư để đầu tư tạm thời vào các chứng khoán
sinh lời, các khoản tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần.
Hiện nay dịch vụ quản lý tiền mặt không chỉ dành riêng cho các
doanh nghiệp, các tổ chức nữa mà đang dân dần hướng đến người tiêu
dùng. Khuyên hướng này đang lan rộng ra vì các công ty môi giới chứng
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B 16
Chuyên đề tốt nghiệp
khoán, các tập đoàn tài chính khác cũng cung cấp cho khách hàng dịch
vụ tài khoản với hàng loạt dịch vụ tài chính có liên quan ví dụ như: mua
bán chứng khoán, viết séc, sử dụng thẻ tín dụng…
 Dịch vụ thuê mua thiết bị: hoạt động chủ yếu của ngân hàng là cho
vay để khách hàng mua tài sản. Tuy nhiên trong một số trường hợp,
khách hàng không đủ điều kiện để vay (hoặc không muốn vay). Để mở
rộng tín dụng, các ngân hàng thương mại đã mua hoặc thuê các tài sản để
cho khách hàng thuê. Khi hết hạn thuê, khách hàng quyền chọn mua lại
tài sản hoặc không. Tài sản cho thuê thuộc quyền sở hữu của ngân hàng
nên ngân hàng có thể thu hồi để bán hoặc cho người khác thuê khi người
thuê không trả nợ được. Điều này đã làm giảm bớt rủi ro cho ngân hàng.
Có hai hình thức cho thuê là: cho thuê nghiệp vụ và cho thuê tài chính.
Cho thuê nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian ngắn, người đi
thuê không có dự định mua tài sản đó để sử dụng lâu dài sau khi thuê.
Còn cho thuê tài chính đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian dài và người
đi thuê có quyền mua lại tài sản khi hết hợp đồng thuê. Hoạt động cho
thuê của các ngân hàng thương mại hiện nay chủ yếu là cho thuê tài
chính.
 Bán các dịch vụ bảo hiểm: Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã
bán bảo hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó đảm bảo cho việc chi trả
trong trường hợp khách hàng vay vốn bị chết hay bị tàn phế. Hiện nay,
hình thức bán bảo hiểm chủ yếu của các ngân hàng là liên kết với các

hãng bảo hiểm . Ngân hàng sẽ đóng vai trò là một người môi giới, với
mỗi hợp đồng bảo hiểm bán được (thường là những hợp đồng bảo hiểm
tổn thất tài sản như ô tô, nhà cửa…) , ngân hàng sẽ được hưởng một
khoản hoa hồng. Ngoài ra, ngân hàng còn có thể thành lập ra các công ty
con có chức năng kinh doanh bảo hiểm. Ngân hàng cũng cung cấp các
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B 17
Chuyên đề tốt nghiệp
dịch vụ tiết kiệm gắn liền với bảo hiểm như: tiết kiệm an sinh, tiết kiệm
hưu trí…
 Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: ngày nay, các
ngân hàng đang phấn đấu để trở thành một “bách hóa tài chính” thực sự,
cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thỏa mãn
mọi nhu cầu tại một địa điểm. Để thực hiện mục tiêu này, các ngân hàng
bắt đầu cung cấp cho khách hàng của mình các dịch vụ môi giới chứng
khoán, các cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà
không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Các ngân hàng
thường làm điều này bằng cách thành lập các công ty chứng khoán con
hoặc liên kết với các công ty chứng khoán đang hoạt động.
 Bảo lãnh: Các ngân hàng ngày nay thường dựa vào uy tín và khả
năng tài chính của mình để cung cấp dịch vụ bảo lãnh cho khách hàng.
Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng về việc sẽ thực hiện
nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng
không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Bảo lãnh thường có 3 bên:
bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh. Bảo lãnh của
ngân hàng có nghĩa ngân hàng là bên bảo lãnh; khách hàng là người được
bảo lãnh; và người hưởng bảo lãnh là bên thứ ba.
 Cung cấp các dịch vụ đại lý: Các ngân hàng trong quá trình hoạt
động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi
nhưng lại rất muốn mở rộng phạm vi hoạt động của mình ra khắp thế
giới. Để giải quyết nhu cầu này, nhiều ngân hàng (thường là các ngân

hàng lớn) đã cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác.
Các ngân hàng đại lý sẽ thực hiện các nghiệp vụ như: thanh toán hộ, phát
hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài
trợ… cho các ngân hàng thuê đại lý và thu phí làm dịch vụ đại lý của
mình.
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B 18
Chuyên đề tốt nghiệp
 Các dịch vụ thẻ
- Thẻ tín dụng (Credit Card) là loại thẻ được sử dụng phổ biến
nhất trên thế giới hiện nay. Theo đó người chủ thẻ được sử dụng một hạn
mức tín dụng không phải trả lãi (nếu chủ thẻ hoàn trả số tiền đã sử dụng
đúng kỳ hạn) để mua sắm hàng hóa dịch vụ tại những cơ sở chấp nhận
loại thẻ này. Thẻ tín dụng là một phương thức thanh toán không dùng
tiền mặt cho phép người sử dụng có khả năng chi tiêu trước, trả tiền sau.
Khoảng thời gian từ khi thẻ được dùng để thanh toán hàng hóa, dịch vụ
tới lúc chủ thẻ phải trả tiền cho ngân hàng có độ dài phụ thuộc vào từng
loại thẻ tín dụng của các tổ chức khác nhau. Thời gian này chủ thẻ được
hoàn toàn miễn phí lãi đối với số tiền phát sinh. Nếu hết thời gian miễn
phí lãi này mà toàn bộ số tiền phát sinh chưa được thanh toán cho ngân
hàng thì chủ thẻ sẽ phải chịu những khoản phí và lãi chậm trả. Khi toàn
bộ số tiền phát sinh được hoàn trả cho ngân hàng, hạn mức tín dụng của
chủ thẻ được khôi phục như ban đầu. Ngân hàng phát hành thẻ tín dụng
cho khách hàng dựa trên uy tín và khả năng đảm bảo chi trả của từng
khách hàng. Khả năng đảm bảo chi trả được xác định dựa trên tổng hợp
nhiều thông tin khác nhau như: thu nhập, tình hình chi tiêu, mối quan hệ
sẵn có đối với ngân hàng, địa vị xã hội của khách hàng… Do đó, mỗi
khách hàng có những hạn mức tín dụng khác nhau.
- Thẻ ghi nợ (Debit Card) là loại thẻ có quan hệ trực tiếp và gắn
với tài khoản tiền gửi thanh toán của chủ thẻ. Để sử dụng loại thẻ này,
chủ thẻ phải có tài khoản hoạt động thường xuyên tại ngân hàng. Loại

thẻ này khi rút tiền tại các máy rút tiền tự động ATM hay mua hàng hóa
dịch vụ tái các đơn vị chấp nhận thẻ, giá trị những giao dịch sẽ được trừ
ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ. Như vậy, người sử dụng thẻ này
không phải lưu ký tiền vào tài khoản đảm bảo thanh toán thẻ, căn cứ để
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B 19
Chuyên đề tốt nghiệp
thanh toán là số dư tài khoản tiền gửi của chủ sở hữu thẻ tại ngân hàng và
hạn mức thanh toán tối đa của thẻ do ngân hàng quy định.
Trong số các loại thẻ ghi nợ, thẻ ATM là hình thức phát triển đầu
tiên, nó cho phép chủ thẻ tiếp cận trực tiếp với tài khoản của mình tại
ngân hàng từ máy rút tiền tự động. Chủ thẻ có thể thực hiện nhiều giao
dịch khác nhau tại máy rút tiền tự động ATM, bao gồm: xem số dư tài
khoản, chuyển khoản, rút tiền, in sao kê…Sự tiện lợi là đặc điểm quan
trọng nhất của chủ thẻ ATM. Bằng cách nhập mã số cá nhân PIN, chủ thẻ
có thể tiếp cận tài khoản cá nhân của mình tại các máy rút tiền tự động
24/24h một ngày và 7 ngày trong tuần. Điều này có nghĩa là nhiều giao
dịch được thực hiện ngoài giờ làm việc của ngân hàng và các ngày nghỉ.
Tuy nhiên, sử dụng thẻ ATM, chủ thẻ chỉ có thể tiếp cận với tài khoản
của mình từ những máy rút tiền tự động. Đây là một hạn chế bởt tài
khoản cá nhân chưa được tận dụng triệt để trong thanh toán hàng hóa,
dịch vụ.
- Thẻ trả trước(Prepaid Card) là loại thẻ mới được phát triển trên
thế giới, khách hàng không cần phải thực hiện các thủ tục phát hành thẻ
theo yêu cầu của ngân hàng như điền vào yêu cầu phát hành thẻ, chứng
minh tài chính… họ chỉ cần trả cho ngân hàng một số tiền và sẽ được
ngân hàng bán cho một tấm thẻ với mệnh giá tương đương. Đặc tính của
loại thẻ này giống như mọi thẻ bình thường khác, chỉ có điều thẻ này chỉ
được giới hạn trong số tiền có trong thẻ và chi tiêu trong một khoảng thời
gian nhất định tùy vào quy định của mỗi ngân hàng, tức là hạn mức của
thẻ không có tính chất tuần hoàn.

 Dịch vụ ngân hàng điện tử E-Banking: E-banking đang ngày càng
phát triển mạnh mẽ, tạo ra môi trường tài chính năng động, đã có hàng
ngàn cá nhân và các doanh nghiệp trên thế giới sử dụng các dịch vụ ngân
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B 20
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng điện tử mà không gặp bất kỳ một vấn đề nào. Ngân hàng điện tử
bao gồm hàng loạt các sản phẩm và dịch vụ như chuyển tiền, thanh toán
hoá đơn, rút tiền ATM ... đã giúp các doanh nghiệp hoạt động có hiệu
quả hơn thông qua các hoạt động tự động của ngân hàng và các giao dịch
điện tử với ngân hàng.
Dịch vụ này giúp các doanh nghiệp có thể kiểm soát tài chính của
mình tại nhà, văn phòng hoặc khi đi công tác chặt chẽ hơn. Kết quả là,
ngân hàng điện tử có thể giúp cá nhân và doanh nghiệp giảm được các
chi phí hành chính, nâng cao năng suất và quản lý tiền mặt tốt hơn- trong
một môi trường hoàn toàn an toàn.
- Các mô hình Ngân hàng điện tử:
• PC banking – là hình thức theo đó ngân hàng có thể cung cấp
phần mềm được cài đặt tại các văn phòng của người sử dụng. Sau đó
người sử dụng có thể truy cập tài khoản của mình thông qua modem và
đường nối điện thoại với ngân hàng. Đồng thời họ có thể chuyển tiền từ
tài khoản vãng lai sang tài khoản tiết kiệm của cùng một chủ tài khoản.
Cách truy cập này không cần thiết phải thông qua Internet.
• Internet Banking – Internet banking đóng một vai trò tích cực
hơn. Mỗi trang chủ của ngân hàng được coi là một cửa sổ giao dịch.
Thông qua trang chủ của ngân hàng, người sử dụng có thể truy cập tài
khoản của mình và các dịch vụ trực tuyến khác như mua hợp đồng bảo
hiểm, đầu tư vào chứng khoán.... Mỗi lần nhấp chuột sẽ là một cơ hội để
kinh doanh và đầu tư, theo đó ngân hàng thay mặt khách hàng thanh toán
và trừ các chi phí dịch vụ thông qua tài khoản của họ tại ngân hàng.
Ngày nay, các dịch vụ ngân hàng đã trở nên ngày càng đa dạng, phong

phú và hướng tới mục tiêu tạo ra sự thuận lợi nhất cho khách hàng. Khách
hàng có thể hoàn toàn thỏa mãn tất cả các nhu cầu về dịch vụ tài chính của
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B 21
Chuyên đề tốt nghiệp
mình thông qua một ngân hàng và tại một địa điểm. Các ngân hàng hiện đại
đang giữ một vai trò ngày càng quan trọng trong mỗi nền kinh tế.
1.3 Vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế hiện đại
Với các dịch vụ ngày càng đa dạng, phong phú, ngày nay các ngân hàng
đang giữ những vai trò hết sức quan trọng và không thể thay thế trong mỗi nền
kinh tế. Những vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế hiện đại là:
 Vai trò trung gian tài chính: Thực hiện vai trò này, ngân hàng
chuyển các khoản tiết kiệm từ các hộ gia đình thành các khoản tín dụng
cho các đơn vị, tổ chức có nhu cầu về vốn để đầu tư. Trong nền kinh tế
luôn có các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu
cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần
bổ sung vốn. Bên cạnh đó lại có những cá nhân và tổ chức có thặng dư
trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu
cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Nếu việc cho vay
tiền đem lại lợi ích cho cả 2 bên thì tất yếu những người có tiền tiết kiệm
sẽ đem tiền của mình cho những người cần vốn vay. Tuy nhiên trong nền
kinh tế để những người có tiền tiết kiệm và những người có nhu cầu về
vốn tự tìm đến được với nhau là rất khó khăn và tốn kém. Để giải quyết
điều này, các ngân hàng đã đứng ra làm trung gian môi giới. Ngân hàng
nhận tiền gửi của những người có tiền tiết kiệm với lãi suất là a% và sẽ
cho những người cần bổ sung vốn vay với lãi suất là b% (b<a). Phần
chênh lệch giữa a và b chính là thu nhập của ngân hàng. Như vậy cả người
cho vay và người đi vay đều đạt được mục đích của mình mà chỉ phải tốn
ít chi phí cho trung gian (chi phí này nhỏ hơn chi phí mà 2 bên phải bỏ ra
để tự đi tìm đối tác cho mình) Sự xuất hiện của ngân hàng với vai trò
trung gian tài chính đã giúp cho việc phân phối các nguồn vốn trong nền

kinh tế trở nên hiệu quả hơn.
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B 22
Chuyên đề tốt nghiệp
 Vai trò trung gian thanh toán: Ngày nay, ngân hàng trở thành trung
gian thanh toán lớn nhất ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng,
ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh
toán được nhanh chóng và thuận lợi, tiết kiệm chi phí, ngân hàng đã cung
cấp cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như: thanh toán bằng séc,
thanh toán bằng ủy nhiệm chi, các loại thẻ… Các ngân hàng còn thanh
toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc qua các trung
tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả
cao khi qui mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công
nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý áp
dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo
tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một
quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới.
 Vai trò tạo phương tiện thanh toán: Theo quan điểm hiện đại, đại
lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu
thông (M
0
), thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của khách
hàng tại các ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết
kiệm và tiền gửi có kì hạn… Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản
tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng số
tiền đó để mua hàng hóa dịch vụ. Do đó, thông qua việc cho vay, các ngân
hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (M
1
). Toàn bộ hệ thống ngân hàng
cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ
ngân hàng này sang ngân hàng khác trên cơ sỏ cho vay. Khi khách hàng

tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản
thu của một khách hàng tại một ngân hàng khác. Từ đó sẽ tạo ra các khoản
cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay
lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối
lượng tiền gửi gấp bội thông qua hoạt động cho vay.
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B 23
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 2
Phát triển dịch vụ ngân hàng tại VPBank
2.1 Sự hình thành và phát triển của VPBank
VPBank tên đầy đủ là Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh
nghiệp Ngoài quốc doanh Việt Nam được thành lập theo Giấy phép hoạt động
số 0042/NH-GP của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12
tháng 8 năm 1993 với thời gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt
động từ ngày 04 tháng 9 năm 1993. Sau 13 năm hoạt động, trải qua nhiều khó
khăn thử thách, đến nay có thể nói VPBank đã bước đầu thành công trong việc
xây dựng thương hiệu của mình.
Các chức năng hoạt động chủ yếu của VPBank bao gồm:
 Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, từ các tổ chức kinh
tế và dân cư
 Cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức
kinh tế và dân cư
 Kinh doanh ngoại hối
 Dịch vụ Thanh toán quốc tế
 Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá khác
 Cung cấp các dịch vụ chuyển tiền trong nước và Quốc tế
 Cung cấp các dịch vụ giao dịch giữa các khách hàng và các dịch vụ
ngân hàng khác theo quy định của NHNN Việt Nam
Vốn điều lệ ban đầu khi mới thành lập là 20 tỷ VND. Sau đó, do nhu
cầu phát triển,VPBank đã tiếp tục tăng vốn điều lệ lên 70 tỷ VND theo quyết

định số 193/QÐ-NH5 ngày 12/9/1994 và tiếp tục tăng lên 174,9 tỷ VND theo
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B 24
Chuyên đề tốt nghiệp
QÐ số 53/QÐ-NH5 vào ngày 18/3/1996 của NHNN. Đến cuối năm 2004,
VPBank nhận được quyết định số 689/NHNN -HAN7 của Ngân hàng Nhà
nước chấp thuận cho VPBank được nâng vốn điều lệ lên 198,4 tỷ đồng. Trong
quý I năm 2005, theo Công văn chấp thuận số 134/NHNN-HAN7 ngày
25/02/2005, NHNN đã chấp thuận cho VPBank nâng vốn điều lệ lên
243,7 tỷ đồng. Hiện nay số vốn điều lệ của VPBank đã là 500 tỷ đồng với 2 cổ
đông chiến lược nước ngoài là Quỹ đầu tư Dragon Capital và ngân hàng
OCBC.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, VPBank luôn chú ý đến
việc mở rộng quy mô, tăng cường mạng lưới hoạt động tại các thành phố lớn.
Tính đến hết tháng 1 năm 2006, hệ thống VPBank có tổng cộng 31 điểm giao
dịch gồm có: Hội sở chính tại Hà Nội, 12 Chi nhánh cấp I tại các tỉnh, thành
phố của đất nước là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Ðà
Nẵng, Cần Thơ, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc và Bắc Giang, 14 chi nhánh cấp 2 và
4 Phòng Giao dịch. Trong năm 2005 và 2006, VPBank dự kiến sẽ mở thêm
khoảng 20 điểm giao dịch mới tại các Tỉnh, Thành là trọng điểm kinh tế của cả
nước.
Số lượng cán bộ, nhân viên của VPBank trên toàn hệ thống tính đến
cuối năm 2005 là 782 người, trong đó phần lớn là các cán bộ, nhân viên có
trình độ Ðại học và trên Ðại học (chiếm 87%). Với đội ngũ cán bộ, nhân viên
năng động, nhiệt tình và có trình độ nghiệp vụ cao, nguồn nhân lực của
VPBank luôn được đánh giá cao và sẽ là một trong những tiền đề cho sự phát
triển của Ngân hàng trong tương lai.
Năm 2000 đánh dấu một chuyển biến quan trọng trong quá trình phát
triển của VPBank. Đó là việc Hội đồng quản trị quyết định lựa chọn mục tiêu
chiến lược của VPBank cho tới năm 2010 là xây dựng VPBank trở thành ngân
hàng bán lẻ hàng đầu của Việt Nam và trong khu vực. Khách hàng tiềm năng

quan trọng nhất của VPBank sẽ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh
Phan Quang Huy – Ngân hàng 44B 25

×