Bài thu hoạch học phần cơ bản
I. Kh¸I qu¸t chung vÒ thÞ trêng chøng kho¸n
(TTCK)
1. Khái niệm TTCK
Hiện nay tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về TTCK :
Quan điểm thứ nhất cho rằng TTCK và thị trường vốn là một, chỉ là tên
gọi khác nhau của cùng một khái niệm: Thị trường tư bản (Capital Market).
Nếu xét về mặt nội dung, thì thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản chất
bên trong của quá trình mua bán các chứng khoán. TTCK là biểu hiện bên
ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể
phân biệt, tách rời nhau mà thống nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên
trong và bên ngoài của thị trường tư bản.
Quan điểm thứ hai của đa số các nhà kinh tế cho rằng: “TTCK được
dặc trưng bởi thị trường vốn chứ không phải đồng nhất là một”. Như vậy,
theo quan điểm này, TTCK và thị trường vốn là khác nhau, tròn đó TTCK chỉ
giao dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn như trái phiếu chính
phủ, cổ phiếu và trái phiếu công ty. Các công cụ tài chính ngắn hạn được giao
dịch trên thị trường tiền tệ, không thuộc phạm vi hoạt động của TTCK.
Quan điểm thứ ba, dựa trên những gì quan sát được tại đa số các Sở
giao dịch chứng khoán lại cho rằng “TTCK là thị trường cổ phiếu”, hay là nơi
mua bán các phiếu cổ phần được các công ty phát hành ra để huy động vốn.
Theo quan điểm này, TTCK được đặc trưng bởi thị trường mua bán các công
cụ tài chính mang lại quyền tham gia sở hữu.
Các quan điểm trên đều được khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn
và trong từng điều kiện lịch sử nhất định. Tuy nhiên, quan niệm đầy đủ và rõ
ràng, phù hợp với sự phát triển chung của TTCK hiện nay đó là: TTCK là nơi
diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Chứng khoán
(CK) được hiểu là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người
sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Nó được thể hiện
dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các
loại sau đây: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ và chứng khoán phái sinh
(quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp
đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán).
Học viên thực hiện: Nguyễn Ngọc Bình
1
Bài thu hoạch học phần cơ bản
2. Bản chất kinh tế - xã hội của TTCK
Bản chất kinh tế - xã hội của TTCK do các quan hệ kinh tế - xã hội,
trong đó CK trở thành hàng hoá quy định. Về thực chất, CK không có giá trị
nội tại, chúng chỉ là các bằng chứng xác nhận về mặt pháp lý quyền sở hữu
của chủ nhân CK về phần vốn đã góp hoặc đã cho tổ chức phát hành vay. Sở
dĩ các CK trở thành hàng hoá là do trong nền kinh tế thị trường, nó là phương
tiện đầu tư mang lại lợi tức. Tóm lại, TTCK là một cấu trúc xã hội đặc biệt
của sự vận hành vốn trong nền kinh tế thị trường. Cùng với thị trường tiền tệ,
thị trường tín dụng, TTCK giúp cho vốn vận động liên tục từ nơi thừa đến nơi
thiếu.
II. CÁC ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI ĐỂ HÌNH THÀNH TTCK
Ở VIỆT NAM
1. Những điều kiện kinh tế cần thiết để hình thành TTCK ở
Việt Nam
1.1. Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam vừa tạo
điều kiện, vừa đặt ra yêu cầu phải xây dựng TTCK
Từ những năm 1980, Việt Nam thực hiện chuyển đổi từ nền kinh tế
mang tính hiện vật sang nền kinh tế thị trường. Quá trình chuyển đổi này
được chia làm 2 giai đoạn:
- 1980 – 1989: Thời kỳ này thực thi các cải cách nhằm phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần, từng bước thị trường hoá các quan hệ trao đổi
sản phẩm, tư liệu sản xuất, sức lao động,… Đến cuối giai đoạn này, Việt Nam
cơ bản chuyển sang quỹ đạo của kinh tế thi trường, đặc biệt đã xuất hiện
những yếu tố sơ khai của thị trường tài chính:
+ Quan hệ trao đổi hàng - tiền ngày càng mở rộng. Đồng tiền từ chỗ
làm công cụ bổ sung của chỉ tiêu pháp lệnh, đã ngày càng đảm nhiệm nhiều
hơn chức năng phương tiện lưu thông, thanh toán và cất trữ.
+ Lượng tiền tiết kiệm của dân cư tăng nhanh, làm tăng số lượng tiền
gửi vào các tổ chức tín dụng. Do đó, ngoài hệ thống ngân hàng quốc doanh,
các tổ chức tín dụng xuất hiện khá nhiều.
Học viên thực hiện: Nguyễn Ngọc Bình
2
Bài thu hoạch học phần cơ bản
+ Xuất hiện nhiều hình thức huy động vốn với mức huy động không
phải nhỏ để đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài
quốc doanh.
- Từ năm 1990 trở lại đây: Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị
trường đã bắt đầu đi vào chiều sâu nhằm tạo ra khung pháp lý căn bản cho các
quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Những nội dung cải cách trong giai đoạn này đã
từng bước tạo điều kiện làm xuất hiện thị trường tài chính nói chung và
TTCK nói riêng.
Nội dung cải cách quan trọng nhất liên quan đến hệ thống doanh nghiệp
Nhà nước mà vấn đề cơ bản là cơ cấu lại và xác lập cơ chế vận hành vốn Nhà
nước. Cùng với đó là quá trình đa dạng hoá sỡ hữu doanh nghiệp Nhà nước đã
làm xuất hiện khá nhiều yếu tố của TTCK như công ty cổ phần, cổ phiếu, trái
phiếu,nhu cầu định giá giá trị doanh nghiệp nhà nước,…Chính vì thế, thị
trường vốn nói chung và TTCk nói riêng cũng nhen nhóm hình thành.
Ngoài ra còn phải kể đến việc từng bước pháp lý hoá các quyền về tài
sản và xây dựng nền kinh tế mở, nâng cao độ lưu động của nền kinh tế.
1.2. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đẩy nhanh tăng trưởng
kinh tế đòi hỏi bổ sung thêm kênh huy động vốn qua TTCK ở Việt Nam
Quá trình công nghiệp hóa đất nước với nhu cầu vốn khổng lồ của nó
sẽ là động lực thúc đẩy TTCK phát triển. Chính phủ khuyến khích dân cư tự
bỏ vốn kinh doanh, cho phép phát triển các hình thức huy động vốn đa dạng
từ xã hội. Do vậy, các tổ chức tín dụng phát triển mạnh ở khắp các địa
phương trong cả nước, huy động và cho vay những nguồn vốn lớn. Tính đến
năm 1990, cả nước đã có gần 1200 quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng.
Hệ thống NHTM và các tổ chức tín dụng ngày càng hoàn thiện làm cho
việc huy động và cho vay đầu tư các công trình công nghiệp không ngừng
tăng lên nhờ mức huy động tiền gửi từ xã hội ngày càng lớn (năm 1985 –
1990: khoảng 2000 tỷ đồng; năm 1995: 17000 tỷ đồng). Để có thể khai thác
được nguồn vốn trong nước phục vụ quá trình công nghiệp hoá, cần có những
hình thức huy động hấp dẫn các nhà đầu tư. Và hình thức được kỳ vọng nhất
là phát hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp. Bản thân TTCK cũng được
coi là hình thức hấp dẫn để thu hút thêm đầu tư nước ngoài,cả dưới góc độ
đầu tư gián tiếp lẫn góc độ cung cấp môi trường thuận lợi hơn cho đầu tư trực
tiếp. Do đó, vào cuối những năm 1990, cùng với việc triển khai các thị trường
Học viên thực hiện: Nguyễn Ngọc Bình
3
Bài thu hoạch học phần cơ bản
trao đổi ngoại tệ, thị trường liên ngân hàng, thi trường mở, thực tiễn đã bắt
đầu đặt ra các yêu cầu bức bách phải có thị trường chứng khoán.
1.3. Quá trình hình thành công ty cổ phần với tư cách là chủ thể phát
hành CK ở Việt Nam
Tính đến thời điểm 31/02/2001, Việt Nam đã có 1457 công ty cổ phần,
với tổng số vốn điều lệ gần 9700 tỷ đồng. Với số lượng công ty cổ phần
không phải nhỏ này đã tạo cơ sở ban đầu cung cấp òang hoá cho thị trường
giao dịch thứ cấp. Tuy nhiên nhìn chung số công ty cổ phần hiện mới chỉ phát
hành cổ phiếu lần đầu khi thành lập doanh nghiệp. Số công ty đại chúng còn
rất ít. Nhu cầu phát hành CK chưa cao, phương thức phát hành chưa đi vào
chuẩn tắc, CK chưa có chất lượng cao,…nên sau hơn một năm Trung tâm
Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đi vào hoạt động, tính đến
cuối năm 2001 mới có 9 công ty niêm yết với tổng số cổ vốn 436 tỷ đồng.
1.4. Tiết kiệm của dân cư Việt Nam và TTCK
Từ năm 1991 trở lại đây, khi nền kinh tế đã bước vào ổn định và tăng
trưởng, tích luỹ trong nền kinh tế dần được cải thiện và tăng nhanh đã tạo
điều kiện cho dân cư tiết kiệm để tham gia vào thị trường vốn.
Lượng tiền gửi vào NHTM Việt Nam từ 1995 – 1999 (Đơn vị: tỷ đồng)
Năm 1995 1996 1997 1998 1999
Tiền gửi TK của dân
cư
16.370 18.739 25.710 42.164 53.070
Tiền gửi của các tổ
chức
16.678 22.717 30.560 31.987 48.257
Như vậy, trong tổng số tiền nhàn rỗi của xã hội, lượng tiền do cá nhân
sở hữu chiếm tỷ trọng khá lớn, trên dưới 50% tổng tiền gửi. Đây là tín hiệu
tích cực cho TTCK Việt Nam, bởi lẽ theo sự đánh giá tương đối thống nhất
của các chuyên gia, thị trường cổ phiếu thứ cấp của Việt nam trong giai đoạn
đầu sẽ cơ bản là thị trường của các nhà đầu tư cá nhân, do quy mô của thị
trường này còn nhỏ và lượng hang hoá đầu tư chưa nhiều.
1.5. Quá trình hình thành các tổ chức trung gian môi giới và dịch vụ
trên TTCK.
Học viên thực hiện: Nguyễn Ngọc Bình
4
Bài thu hoạch học phần cơ bản
- Công ty chứng khoán
- Các tổ chức dịch vụ trên TTCK
- Các định chế đầu tư trên TTCK ở Việt Nam
2. Các điều kiện xã hội cần thiết để hình thành và phát triển ổn định
TTCK ở Việt Nam
2.1. Môi trường chính trị - xã hội và TTCK
Một trong những điều kiện để TTCK có thể ra đời và hoạt động bình
thường là môi trường chính trị - xã hội ổn định. Ở thập kỷ 90 thế lỷ XX, Việt
Nam đã cơ bản đạt đến tình trạng đó.
Nhờ ổn định chính trị - xã hội và nhất quán đường lối kinh tế thị trường
đa thành phần, Việt nam đã tạo được môi trường đầu tư vừa ít rủi ro, vừa có
tính khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Hiệu lực quản lý
của Nhà nước cũng tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trên TTCK vào một thị
trường ổn định, trung thực, bảo vệ nhà đầu tư, đấu tranh có hiệu quả với các
hành vi gian lận.
Tuy nhiên, môi trường chính trị - xã hội của Việt nam cũng còn mặt
hạn chế đối với TTCK. Đó là dân cư và doanh nghiệp chưa có thói quen thực
thi dân chủ theo luật. Rất nhiều quan hệ kinh tế - xã hội còn được xử lý theo
tập quán, lệ làng. Người dân còn thiếu tri thức trong việc nhờ cậy pháp luật
bảo vệ cho mình. Việc thi hành luật pháp trong thực tế chưa nghiêm minh,
chính sách còn hay thay đổi, do đó các doanh nghiệp chưa thực sự tính toán
làm ăn lâu dài nên nhu cầu phát hành CK không lớn,…
Học viên thực hiện: Nguyễn Ngọc Bình
5