Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

PHÂN TÍCH CÁC QUAN NIỆM VỀ LÝ THUYẾT ĐA NHÂN TỐ LIÊN QUAN ĐẾN BỘ MÁY HỌC CỦA NGƯỜI. TRÊN CƠ SỞ ĐÓ VẬN DỤNG VÀO VIỆC DẠY PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC CHO SINH VIÊN CỦA KHOA MÌNH PHỤ TRÁCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.68 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
MƠN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC

Đề tài:
PHÂN TÍCH CÁC QUAN NIỆM VỀ LÝ THUYẾT ĐA NHÂN TỐ
LIÊN QUAN ĐẾN BỘ MÁY HỌC CỦA NGƯỜI. TRÊN CƠ SỞ
ĐÓ VẬN DỤNG VÀO VIỆC DẠY PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC
CHO SINH VIÊN CỦA KHOA MÌNH PHỤ TRÁCH

Giảng viên hướng dẫn

: PGS.TS Mai Văn Hưng

Học viên

: Đào Thị Trang

Khoa

: Lý luận chính trị


Hà Nội - 2015

2


1. Quan niệm trí tuệ đa nhân tố (multiple intelligence)


Thuyết ba nhăn tố về trí tuệ của Robert Sternberg
Qua quá trình nghiên cứu, Stemberg và các cộng sự (1984) đã xây dựng
thuyết 3 nhân tố trí tuệ (Triachic theory of intelligence), thuyết này cho rằng
có 3 loại trí tuệ khác nhau:
-

Trí tuệ phân tích (Analytical or Componential Intelligence) là loại trí

tuệ giống với loại trí tuệ được thừa nhận trong các lý thuyết truyền thống về trí
tuệ. Nó phản ảnh chủ yếu năng lực suy luận ngôn ngữ của chúng ta, năng lực
này giúp ích cho hoạt động ở trong nhà trường. Người có loại trí tuệ này sẽ làm
tốt các trắc nghiệm địi hỏi phân tích một vấn đề thành các thành tố của nó.
-

Trí tuệ sáng tạo (Creative or Experiential Intelligence) là năng lực

kết hợp những kinh nghiệm khác nhau theo cách thức sáng tạo để giải quyết
những vấn đề mới. Loại trí tuệ này phản ánh sự sáng tạo được thể hiện như ở
các nghệ sĩ, các nhà sáng tác âm nhạc hay các nhả khoa học. Theo Sternberg,
những thiên tài sáng tạo như Leonardo da Vinci và Albert Einstein đã có
những trình độ cao đặc biệt về loại trí tuệ này.
-

Trí tuệ ngữ cảnh (Contextual Intelligence) là năng lực hoạt động

trong các tình huống xã hội thực tiễn, hàng ngày nó phản ảnh sự nhanh nhậy
(street smarts), ví dụ như trong việc mặc cả mua bán. Những người cỏ loại trí
tuệ này thường khơng được các điểm cao nhất trong các trắc nghiệm tiêu
chuẩn hóa và họ cũng không phải là những người sảng tạo ở mức cần thiết
Sternberg cho rằng trí tuệ ngừ cảnh là những cái quan trọng mà bạn không hề

được dạy tại nhà.
Thuyết ba nhân tố thừa nhận rằng chúng ta có thể hoạt động được trong
những hoàn cảnh khác với nhà trường. Hơn nữa, chúng ỉa cỏ thể xuất sắc
trong một loại trí tuệ này mà khơng xuất sắc trong hai loại trí tuệ kia. ơng tin
tường rằng mỗi loại trí tuệ trên đều cỏ thể được tăng cường nhờ sự luyện tập
đặc biệt. Năm 2000, Sternberg đã xuất bản cuốn sách Dạy trí tuệ thành cơng:
Tăng cường việc học vả thành tích của học sinh (To increase student learning
3


and achievement, Arlington Heights, II: Merrill - Prentice Hall). Sternberg
cho rằng thứ trí tuệ được đo bằng các trắc nghiệm IQ lả một thứ tri tuệ chết không dẫn đến hành động có mục đích. Tử đó, ơng đưa ra khải niệm Trí tuệ
thành cơng (successful intelligence). Đó là toại trí tuệ được dùng để đạt được
những mục đích quan trọng của cá nhân hay của xã hội. Sternberg đã phát
biểu: Khơng có gì sai khi có những điểm trắc nghiệm tốt, những điểm trắc
nghiệm tốt không loại trừ thành cơng nhưng chúng cũng khơng đảm bảo được
cho nó. Một số người có điểm trắc nghiệm tốt lại trở nên say mê với các điểm
số đó đến nỗi họ khơng bao giờ phát triển được các kĩ năng khác mà chúng sẽ
cân để có được trí tuệ thành cơng (Sternberg, 1997). Chính quan điểm như
vậy của Sternberg làm cho lý thuyết của ơng có khả năng áp dụng một cách
có tính chất xun văn hỏa cao - vì cái được coi là trí thơng minh cao trong xã
hội này lại khơng thể cỏ giá trị gì trong một xã hội khác. Trí tuệ phải được
hiểu trong một ngữ cảnh văn hóa và xã hội nhất định.
Thuyết đa trí tuệ của Gardner
Lý thuyết của Robert Sternberg được dựa trên cơ sở nghiên cứu về việc
chế biến thơng tin thì thuyết đa trí tuệ (theory of multiple Intelligence) của
Howard Gardner (1983) dựa trên hoạt động của nào bộ. Gardner cho rằng:
Não bộ đã tạo ra các hệ thống riêng biệt cho những năng lực tương ứng khác
nhau mà ông gọi là các trí tuệ . Theo Gardner có 7 kiều loại trí tuệ khác nhau
và mỗi kiểu được phát triển đến một mức độ khác nhau trong mãi con người.

-

Trí tuệ ngơn ngữ (Linguistic Intelligence) là năng lực diễn tả ngôn

ngữ dễ dàng bằng cách nói hay viết. Các nhà thơ, nhà văn, nhà báo là những
thi dụ rõ nhất về loại trí tuệ ngơn ngữ. Họ rất nhạy cảm với âm thanh, nhịp
điệu và nghĩa của các từ, nhạy cảm với những chức năng khác nhau của ngơn
ngữ. Trí tuệ ngơn ngữ nằm ở phần não trái: Thùy trán trái kiểm sốt các khả
năng nói, cịn thùy thái dương trái điều khiển sự hiểu biết ngơn ngữ..
-

Trí tuệ logic - tốn học (Logical - Mathematical Intelligence): là

năng lực tính tốn phức tạp và lý luận sâu sắc. Tiêu biểu cho loại trí tuệ này là
4


các nhà tốn học và các nhà khoa học nói chung. Các nhà khoa học lớn cỏ tài
nhìn thấu suốt vấn đề phức tạp vả cảm nhận được giải pháp trước khi đưa ra
bằng chứng. Trí tuệ nảy nằm trong bản cầu não trái nhưng khơng có liên hệ
chun biệt với một vùng nào cả. Cho nên, nó dễ bị ảnh hưởng do sự suy
thối tồn bộ hơn là các tổn thương, tai biến của não. Trường hợp những
người chậm phát triển trí tuệ lại có thể thực hiện các phép tốn với tốc độ cực
nhanh.
-

Trí tuệ âm nhạc (Musical Intelligence): Đó là năng lực tạo ra và

thưởng thức các nhịp điệu, cung bậc (của nốt nhạc), âm sắc, biết thưởng thức
các dạng biếu cảm của âm nhạc. Loại trí tuệ này độc lập rõ hơn các loại khác.

Một người tẩm thường về âm nhạc có thể đặc biệt xuất sắc ở các lĩnh vực
khác. Một số trẻ tự kỷ lại có khả năng chơi một loại nhạc cụ nào đó. Tiêu biểu
cho loại trí tuệ này là các nhà soạn nhạc, các nghệ sĩ biểu diễn violong. Đây
có lẽ là loại trí tuệ phát triển sớm nhất ở trẻ con. Loại trí tuệ này chủ yếu nằm
ở bán cầu não phải, nhưng khu trú kém chính xác hơn ngơn ngữ và có thể mất
đi do những tổn thương ở não.
-

Trí tuệ khơng gian (Spatial Intelligenceị: Bao gồm các khả năng tiếp

nhận thể giới thị giác không gian một cách chỉnh xác và khả năng thực hiện
những biến đổi với sự trì giác ban đầu của mình. Nó cho phép tưởmg tượng
hình dạng của các sự vật với góc nhìn khác với người khác. Loại trí tuệ này
cần thiết cho việc định hướng và trí nhớ thị giác của chúng ta, đặc biệt là sự
định hướng trừu tượng trong không gian. Người cỏ loại trí tuệ này có thể diễn
tả tư tưởng và dự định của mình dưới dạng kí họa. Điển hình cho loại trí tuệ
này là các nhà hàng hải, các kỳ thủ, họa sĩ vả nhà điêu khắc. Loại trí tuệ này
chủ yếu nằm ờ phía sau bán cầu não phải. Sự tồn thương của vùng não này có
thể làm người bệnh khơng nhận ra được người thán vả nơi chốn rất quen
thuộc trước đây.
-

Tri tuệ vận động cơ thể (body - Kinesthetic Intelligence): Gồm các

thành tố cơ bản lá các năng lực kiểm soát vận động của cơ thể mình và cần
5


nắm chắc các đối tượng một cách khéo léo. Ở đây, cơ thể tham gia trực tiếp
vào việc giải quyết các vấn đề, thường nhanh hơn cả trí óc, nhất là trong các

tình huống nguy hiểm và trong khỉ chơi thể thao. Điển hình cho loại trí tuệ
này là các nghệ sĩ múa, các nhà thể dục dụng cụ, các nghệ sĩ kịch câm. Loại
tri tuệ này nằm ở trung khu vận động của bán cầu não trái (đối với phần cơ
thể bên phải) và bán cầu não phải (đổi với phần cơ thể bên trải). Các tổn
thương nào bộ thường chỉ ảnh hưởng đến sự chi huy một phần cơ thể.
-

Trí tuệ về bản thân (Intrapersonal Intelligence): Bao gồm những

năng lực đánh giá các cảm xúc của bàn thân mình, Dăng lực phân biệt giữa
các cảm xúc ấy và đưa chúng vào hướng dẫn hành vi. Sụ hiểu biết về những
điểm mạnh vả điểm yếu của bản thân, về những thèm muốn và trí thơng minh
của mình. Người có trí tuệ loại này là những người hiểu biết về bản thân minh
một cách cặn kẽ và chính xác. Tuy nhiên, loại trí tuệ nảy có ở mọi người với
các cường độ và mức độ khác nhau. Trùy trán lả trung tâm của loại trí tuệ
này, tổn thương ở phần dưới thùy trán dần đến sự kích thích hay hưng phấn,
tổn thương ờ phần trên thùy trán thì tạo ra thờ ơ và vơ cảm.
-

Trí tuệ về người khác (Interpersonal Intelligence): Bao gồm những

năng lực nhận thức rõ ràng và đáp ứng lại các tâm trạng, khí chất, động cơ và
các thèm muốn của người khác một cách thích hợp. Người có trí tuệ loại này
có khả năng xâm nhập vào tư tưởng của người khác, có khả năng khích lệ và
nâng đỡ người khác. Tiêu biểu cho loại trí tuệ này là những nhà trị liệu, người
bán hàng, các linh mục, nhà sư phạm. Thùy trán cũng có vai trị quan trọng
đối với loại trí tuệ này. Các tồn thương ở thùy trán có thể làm mất khả năng
thấu hiểu người khác và làm thay đổi hoàn toàn nhân cách. Sự lão hóa có khả
năng làm mất đi tất cả mọi khả năng xã hội của con người.
- Trí tuệ tự nhiên ( Naturalist Intelligence): Đây là loại trí tuệ thử 8 mà

sau này Gardner mới nêu ra và bổ sung thêm vào 7 loại trí tuệ trước đây. Đó
là năng lực phân biệt một cách tinh tế giữa hệ thực vật và hệ động vật của thể

6


giới tự nhiên hoặc giữa các mẫu vật và những thiết kế do con người tạo ra.
Tiêu biểu cho loại trí tuệ này là các nhà thực vật, người đầu bếp vv...
Quan điểm của Gardner đã được đánh giá cao nhưng cũng bị phê phán.
Mơ hình của ơng được đánh giá cao vì đã thừa nhận ngữ cảnh văn hóa của trí
tuệ, đà tính đến nhiều năng lực của con người và hệ thống cơ bản (khung) của
nó, đã quan tám đến việc phân tích trí tuệ ở nhà trường và các môi trường ứng
dụng khoa học khác. Một so nhà sư phạm chấp nhận lý thuyết của Gardner và
sử dụng một sổ bắc nghiệm truyền thống để đánh giá một số loại trí tuệ như
trí tuệ ngơn ngữ, trí tuệ logic - tốn học, trí tuệ khơng gian. Hiện tại vẫn chưa
có cách nào chứng minh sự on định và tính ứng nghiệm của việc thực hiện
các trắc nghiệm đối với các trí tuệ mới (Ulric Neisser, 1996). Có những quan
điểm cho ràng các trí tuệ mà Gardner trình bày này thực chất là các tài năng
(talent) chứ không phải là các trí tuệ (Sandra Scair,1985). Một số quan điềm
khác cho rằng các loại trí tuệ của Gardner tưcrag quan với nhau rất cao, về cơ
bản là đo lường một loại tri tuệ giống nhau, nhưng một sổ loại quan điểm
khác lại cho rằng các loại trí tuệ này có vè giống như một bảng liệt kê các
phong cách học tập và phong thái nhân cách chứ không phải là những năng
lực hay trí tuệ. Cũng có những quan điểm khác cho rằng 8 loại trí tuệ của
Gardner chỉ là sự mô tả các năng lực vả dẫn đến 8 điểm sổ trắc nghiệm IQ
chứ không phải là một điểm sổ (Lester A..Lefton, 2000).
Thuyết trí tuệ cảm xúc (emitional Intelligence)
Trong q trình hoạt động, con người ln uyển chuyển, cởi mở và linh
hoạt nên địi hỏi phải có sự kết hợp của trí tuệ với các cảm xúc của con người,
đặc biệt khi con người tin tưởng và hợp tác với những người khác để giải

quyết những vấn đề vả nắm bắt các vận hội. Như vậy, có một người rất thông
minh nhưng chưa chắc đủ đảm bảo cho sự thành đạt của mỗi người. Muốn
thành đạt thì con người cần cỏ một hệ số cảm xúc nhất định (EQ - Emotional
Quotient).

7


Trong mơ hình của Gardner đã nói đến nói đến toại trí tuệ này tuy nhiên
khơng thể hiện được một cách rõ ràng, chúng có tác động rất tích cực đến hoạt
động thích ứng trí tuệ của con người. Vào năm 1990, Peter Salovey và John
Mayer là người dầu tiên đưa ra thuật ngữ Trí tuệ cảm xúc và cho rằng trí tuệ
cảm xúc là khả năng kiểm sốt và điều chỉnh các cảm xúc của mình và của
người khác, khả năng sử dụng cảm xúc để dẫn dắt ỷ nghĩ và hành động
(Salovey,P

&

Mayer,J,D,1990

-

Emotional

Intelligence.lmagination,

Congnition and Personality). Từ sau năm 1995, Daniel Goleman đã xuất bản
cuốn sách Trí tuệ cảm xúc và được bán rất chạy tại Mỹ và từ đó vấn đề trí tuệ
cảm xúc càng ngày càng dược quan tâm nhiều hơn. Daniei Goleman cho rang:
mọi quan niệm về bản chất con người mà bỏ qua quyền năng của các cảm xúc

thì đều thiếu sáng suốt ...chúng ta dã cường điệu giá trị vả tầm quan trọng của
lý trí thuần túy được đo bằng IQ trong đời sống con người. Chúng ta có hai
hình thức khác nhau của trí tuệ là trí tuệ lý trí và tri tuệ cảm xúc. Cách chúng ta
hướng dẫn cuộc sống của mình được quyết định bởi hai thứ trí tuệ ấy, trí tuệ
cảm xúc cũng quan trọng như IQ. Trên thục tế, không có trí tuệ cảm xúc thì trí
tuệ lý trí khơng thể hoạt động một cách thích đáng. Trong cuốn sách Làm việc
với cảm xúc ( Working with Emotional Intelligence) xuất bản 1998, Daniel
Goleman đã định nghĩa: Trí tuệ cảm xúc là năng lực nhận biết các cảm xúc
của mình và của người khác, năng lực tự thúc đẩy và năng lực điều hành tốt
các cảm xúc trong bản thân mình và trong các mối liền hệ với người khác.
Như vậy, Daniel Goleman dã bổ sung 5 năng lục cảm xúc và xà hội cơ
bán lả: Năng lực tự ỷ thức, năng lực tự điều chỉnh, năng lực thúc đẩy, năng
lực đồng cảm và các kĩ năng xã hội. Tuy nhiên trong hai bài báo cơng bố sau
đó (2001), Golcman đưa ra cấu trúc trí tuệ cảm xúc gồm 2 loạt đúp (2x2) các
hoạt động tạo ra năng lục tổng thể nhằm nhận biết và điều khiển cảm xúc của
mình và ở người khác

8


Cấu trúc của trí tuệ cảm xúc
Năng lực cá nhân (quan hệ với mình)

Năng lực xã hội (quan hệ với người

Tự biết mình
- Nhận biết xúc cảm của mình

khác)
Nhận biết các quan hệ xã hội

- Đồng cảm

- Đánh giá mình chỉnh xác

- Định hướng sự phục vụ

- Tự tin
Tự kiếm sốt, quản lý mình

- Biết cách tổ chức
Quản lý điều khiển các mối quan

- Kiểm sốt xúc cảm của mình

hệ xã hội
- Phát triển người khác

- Có lịng tin

- Tạo ảnh hưởng

- Tự ý thức

- Giao tiếp

- Thích ứng

- Kiểm sốt xung đột

- Động co thành đạt


- Lãnh đạo có tầm nhìn, khơn ngoan

- Sáng tạo

- Xúc tác để thay đổi
- Xây dựng các mối quan hệ

- Tinh thần đồng đội và sự hợp tác
Vào năm 1995, nhà tâm lý học Israel Reuvan Bar - On, viện trường
viện nghiên cứu quốc tế về trí tuệ ứng dụng (International Institute of Applied
Intelligence) tại Đan Mạch đã tạo ra thuật ngữ EQ (Emotional Quotient) và đã
xuất bản tập EQ - i (Emotional Quotient Inventory, 1997) - trắc nghiệm đầu
tiên về trí tuệ cảm xúc. Reuvan Bar - On cho rằng EQ không thay thế IQ và
chúng ta nên quan tâm đến cả hai phép đo để hiểu tốt hon về con người và
tiềm năng của họ đối với sự thành công trong các mặt khác nhau của đời
sống, vả tác giả hy vọng vào thể ki 21, sẽ có sự trang bị một phổ rộng hơn và
giầu mạnh hơn về kiến thức nghề nghiệp được dựa trên cái mà chúng ta đã
biết về trí tuệ nhận thúc (cognitive intelligence) và cái mà chủng ta đã bắt dầu
học được về trí tuệ cảm xúc.
Việc nghiên cứu và hồn thiện về trí tuệ cảm xúc đang được thực hiện
mạnh mẽ. Các phát hiện mới về chức năng của hai bán cầu nào cũng đã ủng

9


hộ cho quan niệm về trí tuệ cảm xóc. Người ta cho ràng: bán cầu não phải có
chức năng xử lý các quan hệ nghe và nhìn trong khơng gian - gọi là bán cầu
biểu tượng (representational hemisphere), còn bán cầu não trải có chức Răng
ngơn ngừ và phân tích - gọi là bán cầu minh bạch (sequential analysis,

catergorical hemisphere). Bán cầu ưu thế có chức năng trí tuệ với các dấu
hiệu tương bung (symbol) là lời nói và chữ viết, cịn bán cầu gọi là khơng ưu
thé khơng có nghĩa là kém hoạt động tri tuệ, mả ngược lại nó có hiệu lực trí
tuệ khi phân tích các hiện tượng mà ý nghĩa của nỏ thề hiện bằng tín hiệu
(signal) nghe và nhìn trực tiếp truyền cảm: tượng thanh, tượng hỉnh.
Thuyết trí tuệ sáng tạo (emitional Intelligence)
Nghiên cứu trí tuệ sáng tạo đã được tiến hành rộng rãi và đa dạng và
được tiên hành dưới nhiều góc độ khác nhau như: Nghiên cứu trí tuệ sáng tạo
dưới góc độ q trình hoạt dộng sảng tạo, góc độ nhân cách sáng tạo, góc độ
văn hóa, dưới góc độ phân tích sản phẩm, góc độ sinh lý thần kinh, qua các lý
thuyết sảng tạo. Các hướng nghiên cứu đã đưa ra những quan niệm khác nhau
về tính sáng tạo, tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu Tính sảng tạo trở thành một
thuộc tính nhân cách tồn tại như một tiềm năng ờ con người. Tiềm năng sáng
tạo có ở mọi người bình thường và được huy động trong từng hồn cảnh sổng
cụ thể. Khi tạo ra cái mới cho cá nhân, trong kinh nghiệm của một người thi
sáng tạo đó được xem xét trên bình diện cá nhân, cịn tạo ra cái mới liên quan
đán cả một nền văn hố thì sáng tạo đó được xem xét trên bình diện xã hội.
Sự khác nhau giữa bình diện cá nhân và bình diện xã hội là mức độ của sự
sáng tạo và nhìn chung sáng tạo ở góc độ xã hội thường được đánh giá cao
hơn ở góc độ cá nhân. Sáng tạo cá nhân có ỷ nghĩa rất quan trọng đối với sự
phát triển của nhân cách cụ thể và là tiền dề của sáng tạo xả hội - điều kiện
không thể thiếu cho sự phát triển của một xã hội, một nền văn hố.
Việc đánh giá tính sáng tạo là dựa trên các thành phần của tính sáng
tạo. Có các nhận định khác nhau về thành phần của tinh sáng tạo, nhìn chung
tính sáng tạo có các thành phần sau:
10


-


Thành phần tính mềm dẻo, linh hoạt (flexibility): Tính mềm dẻo là

khả năng chủ thể biển đổi thông tin, kiến thức đã tiếp thu được một cách dễ
đàng, nhanh chỏng tù góc độ, quan niệm này sang góc độ và quan niệm khác.
Chủ thể chuyển đổi sơ đổ tư duy có sẵn trong đầu sang một bệ tư duy khác,
chuyển đổi từ phương pháp cũ sang hệ thống phương pháp mới, chuyển đổi từ
hành động trở thành thói quen sang một hành động mới, gạt bỏ sự cứng nhắc
mà con người đã có để thay đổi sự nhận thức dưới một góc độ mới, thay đổi
cà những thải độ đã cổ hữu trong hoạt động tinh thần, trí tuệ.
-

Thành phần tính lưu lốt, trơi chảy (fluency): Thảnh phần tính Lưu

lốt, trôi chảy là năng lực tổ hợp, tạo ý tưởng mới, kết họp các yếu tổ riêng lẻ
của tình huống, hồn cảnh, sự vật nhanh chóng. Nhiều khỉ năng lực này là sự
nhớ được nhanh, tái hiện nhanh các từ, cấu trúc thành ngũ, hoặc những liên
tưởng đã có trong đầu, từ đó hình thành giả thuyết mới và nhanh chóng sàn
sinh ra ỷ tưởng mới.
• Thành phần Tính độc đáo (originality): Tính độc đáo là năng lực tư
duy độc lập trong q trình giải quyết vắn đề, nó cho phép con người nhìn
nhận các sự vật, hiện tượng, vấn đề theo cách khác, mới lạ so với những cách
trước.
-

Thành phần Tạo cấu trúc mới (elaboration): Tạo cấu trúc mới nghĩa

là tù các thông tin đã biết, từ những ý tưởng đã có vv...chủ thể xây dựng được
một cấu trúc mới, một kế hoạch mới với các bước tổ chức, bành động liên tiếp
và phù hợp, phối hợp các ý tường, các câu nói, các cử động w....
-


Thành phần Tính nhạy cảm (sensitivity): Tính nhạy cảm là năng lực

nhanh chỏng phát hiện sai lầm, mâu thuẫn, thiếu hụt hoặc hay thiểu logic,
thiếu ngăn gọn, chưa tối ưu vv... nắm bắt dễ dàng nhanh chóng các vấn đề,
nhận ra các ý nghĩa mới của sự vật từ những thơng tin cịn thiếu hụt của bản
thân. Từ đó nảy sinh ý tường cấu trúc lại sự vật, hiện tượng cho hợp lý hơn,
hồn hảo và thích hợp hơn để tạo ra cái mới. Tính nhạy cảm vấn đề được thể
hiện ở sự cởi mở, thái độ thơng thống khi tiếp xúc với ngoại giới.
11


2. Trên cơ sở thuyết trí tuệ đa nhân tố liên quan đến bộ máy học của
người, tôi vận dụng vào dạy phương pháp tự học cho sinh viên của Khoa
Lý luận chính trị. Cụ thể là mơn Những ngun lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin 1.
Thứ nhất, xác định rõ đối tượng, động cơ, mục đích của việc học tập
Bước vào học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin ,
đầu tiên chúng ta cần có một sự khái quát chung, trả lời cho câu hỏi: Học cái
gì, học để làm gì? Trước khi bàn tới học như thế nào? Nội dung môn Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lêninbao quát các lĩnh vực tri thức hết
sức rộng lớn, nhưng trong đó có ba bộ phận lý luận cơ bản có mối quan hệ
thống nhất với nhau, đó là: triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội
khoa học.
Triết học Mác-Lênin nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; xây dựng thế giới quan, phương
pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng. Kinh tế
chính trị Mác-Lênin nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội, chủ yếu là
các quy luật kinh tế về sự ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa và quá trình hình thành, phát triển của phương thức sản xuất

mới. Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những quy luật của quá trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa, quá trình chuyển biến từ xã hội cũ sang xã hội
mới (xã hội chủ nghĩa) và tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
Hàng ngày, chúng ta luôn đứng trước những sự kiện, hiện tượng, những
vấn đề, những công việc mà cuộc sống đặt ra cần phải suy nghĩ, nhận biết và
tìm biện pháp giải quyết. Muốn giải quyết tốt, địi hỏi chúng ta phải có cách
nhìn nhận sự việc đúng đắn, sâu sắc và tìm ra biện pháp phù hợp. Việc học
tập, nghiên cứu Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin là để xây
dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học. Nói một cách nơm na, tức là
học cách nhìn nhận sự việc, học cách xử lý công việc của chủ nghĩa Mác để
áp dụng vào giải quyết những công việc thực tế hàng ngày của chúng ta một

12


cách có hiệu quả. Việc nắm vững những nội dung của môn Những nguyên lý
cơ bản chủ nghĩa Mác-Lênin chẳng những là điều kiện tiên quyết để hiểu rõ
cơ sở lý luận quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà còn là nền tảng cơ sở để học tập, nghiên
cứu các môn khoa học khác, đặc biệt các môn kinh tế chuyên ngành; vận
dụng nó một cách sáng tạo trong hoạt động thực tiễn của đời sống. Như vậy,
rõ ràng việc học tập, nghiên cứu Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa MácLênin là hết sức cần thiết đối với bản thân mỗi người. Một khi đã thấy rõ được
tầm quan trọng, tính thiết thực của mơn học thì cần phải xác định đúng động
cơ, thái độ của việc học tập ngay từ đầu. Học không cốt chỉ để đủ điểm mà cái
chính yếu là để vận dụng nó vào giải quyết những cơng việc hàng ngày của
cuộc sống, từ đó bản thân cần nêu cao quyết tâm, khơng ngại khó, ngại khổ,
nỗ lực, tích cực trong q trình học tập để lĩnh hội tri thức.
Thứ hai, xây dựng phương pháp học tập phù hợp
Qua theo dõi và trao đổi với sinh viên, đặc biệt là tìm hiểu nguyên nhân
đối với những sinh viên có kết quả học tập khơng đạt u cầu, chúng tơi nhận

thấy có nhiều nguyên nhân, trong đó nổi lên nguyên nhân là do không xây
dựng được phương pháp học tập phù hợp. Những em này vẫn tiếp tục duy trì
thói quen “học vẹt, học dồn, học tủ” từ các bậc học phổ thông. Nhiều em cố
học thuộc lòng từng câu, từng chữ y nguyên như trong sách giáo khoa, nhưng
không nắm được nội dung cốt lõi của vấn đề học tập. Học như thế là học vẹt,
học mà không hiểu. Một số khác có thói quen chủ quan ỷ lại, quá tự tin vào
sức mình, hoặc do lười nhác, hoặc cũng có thể do không nhận thức đầy đủ
tầm quan trọng của môn học, cho rằng đây là môn học phụ chỉ cần học đủ
điểm là được nên không tập trung nỗ lực học tập ngay từ đầu mà để đến cuối
kỳ, cận sát ngày thi mới học, để “nước đến trôn mới nhảy”. Với một khối
lượng nội dung học tập lớn lại dồn vào trong một thời gian quá ngắn, trong
khi còn phải chịu áp lực từ phía nhiều mơn học khác nữa nên chắc chắn là sẽ
bị rơi vào tình trạng “bức xơ” q tải. Một khi rơi vào tình trạng quá tải, để
13


đối phó với việc thi, kiểm tra trước mắt các em thường phải chọn “giải pháp
tình thế” đó là học tủ, lựa chọn một vài vấn đề, nội dung mà các em cho là sẽ
ra thi để học, kiến thức hồn tồn khơng có tính hệ thống, kết quả đem lại
không như ý muốn.
Đối với môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin , khi
học các em sẽ phải tiếp cận với hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học,
trong đó có nhiều khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật mang tính trừu
tượng cao, bao hàm các lĩnh vực tri thức hết sức rộng lớn, trong khi quỹ thời
gian học tập thì khơng nhiều, cho nên các em khơng thể áp dụng phương pháp
học thuộc lịng từng câu từng chữ, kinh viện, giáo điều như trước được nữa.
Vì vậy, ngay sau khi chuyển lên bậc học cao đẳng, dưới sự hướng dẫn của
thầy cô giáo các em cần phải nhanh chóng đổi mới phương pháp học tập, xây
dựng cho mình phương pháp học tập phù hợp, từ bỏ những thói quen xấu, học
vẹt, học dồn, học tủ, chuyển sang phương pháp học tập mới, hình thành thói

quen chủ động nghiên cứu, tạo lập kỹ năng sưu tầm, tra cứu tài liệu, sử dụng
các phương tiện học tập, tìm kiếm, phát hiện và giải quyết vấn đề để lĩnh hội
tri thức. Khi học trên lớp, không cần phải ghi chép nhiều, chỉ cần ghi tóm
lược những ý chính và phải cố gắng lắng nghe để hiểu đúng tinh thần, thực
chất của vấn đề. Khi về nhà cần đọc nhiều tài liệu, sách báo, tạp chí...; trước
hết là đọc lại giáo trình để hiểu rõ các thuật ngữ, khái niệm, phạm trù, nguyên
lý, quy luật; tiếp đến là đọc các tài liệu tham khảo có liên quan; đối chiếu, liên
hệ với thực tiễn để bổ sung kiến thức. Để có kiến thức sâu rộng và nhớ lâu,
khơng những cần phải lắng nghe bài giảng của thầy, sử dụng các phương tiện
học tập để tự học mà còn cần phải tích cực tham gia trao đổi, thảo luận, tranh
luận cùng với bạn bè trong nhóm, trong lớp. Ơng cha ta từ xa xưa đã từng có
câu “học thầy khơng tày học bạn” là cũng vì lẽ đó.
Thứ ba, tổ chức thực hiện tốt việc thảo luận, tranh luận
Trong xu thế dạy học hiện đại, hầu hết các trường đại học, cao đẳng
trong và ngoài nước đặc biệt chú trọng hình thức thảo luận. Hoạt động thảo
14


luận có tác dụng phát huy cao độ tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người
học trong quá trình lĩnh hội tri thức; tạo nên môi trường hợp tác, tương trợ
giúp đỡ giữa các thành viên với nhau, hình thành tinh thần trách nhiệm của cá
nhân đối với tập thể, tạo lập thói quen chủ động, tự giác học tập, làm việc;
hình thành thói quen, kỹ năng tổ chức, giao tiếp, tự đánh giá kết quả hoạt
động của cá nhân và của tập thể. Thông qua hoạt động thảo luận, tranh luận
trong tập thể, vốn hiểu biết, kinh nghiệm, năng lực, trình độ của mỗi cá nhân
sẽ bộc lộ, đồng thời quá trình nhận thức cá nhân sẽ được điều chỉnh, phát triển
nâng lên trình độ cao hơn; nguồn tri thức của các cá nhân sẽ được tối đa hóa
do nhờ kết hợp được trí tuệ, sức sáng tạo cá nhân với tập thể nhóm và lớp.
Hình thức thảo luận địi hỏi phải có sự phân cơng và hợp tác chặt chẽ giữa các
thành viên, các nhóm tổ; nhờ đó sẽ làm cho học viên thích ứng dần với sự

phân công và hợp tác trong đời sống lao động xã hội.
Để việc thảo luận, học nhóm có kết quả, các em cần phải chủ động bàn
bạc thành lập nhóm, xây dựng kế hoạch học tập, phân công giao nhận nhiệm
vụ thảo luận, tổ chức phối hợp hoạt động trong nhóm; tự giác chuẩn bị tốt từ
trước nội dung những vấn đề thảo luận, sưu tầm, nghiên cứu tài liệu, suy nghĩ
chuẩn bị trước các ý kiến cá nhân; chủ động, tích cực trao đổi thơng tin, nỗ
lực cao độ trong q trình phối hợp hoạt động thảo luận nhóm và tranh luận
trước tập thể lớp, nhận xét đánh giá kết quả.
Thứ tư, hình thành thói quen, kỹ năng sưu tầm, tra cứu tài liệu, sử
dụng các phưong tiện học tập
VI.Lênin đã từng nói: “Khơng có sách thì khơng có tri thức”. Câu nói
ấy khơng những đã chỉ cho chúng ta nơi cất giữ một khối lượng tri thức
khổng lồ, mà còn chỉ cho chúng ta con đường để đi tới tri thức của nhân loại.
Khơng đâu có thể giúp chúng ta có nguồn tri thức dồi dào, phong phú bằng
thư viện nếu ta biết khai thác và sử dụng tốt nó cho việc học tập của mình.
Nhớ lại thời bao cấp, khi cịn là học sinh phổ thơng nguồn sách, tài liệu ít, chỉ
tập trung ở các thư viện lớn. Nhân có dịp vào thư viện Quốc gia thành phố Hồ
15


Chí Minh, tơi loay hoay mất cả giờ đồng hồ để tìm kiếm mà vẫn khơng tìm
mượn được cuốn sách mình mong ước, chỉ vì khơng biết cách tra cứu tài liệu,
trong khi cơ thủ thư thì ln bận rộn với việc giao trả sách. May thay khi vào
giảng đường đại học, được nhà trường dành cho cả lớp hơn một tuần đầu để
học và thực hành cách tra cứu tư liệu cũng ở tại thư viện này. Việc tìm mượn
sách trước đây đối với tôi sao quá ư là khó khăn, giờ chỉ chưa đầy năm phút
tơi đã tìm thấy nó rồi. Ngày nay, hầu hết các địa phương và các trường đại
học, cao đẳng đều có các trung tâm thư viện với trữ lượng sách khá dồi dào và
trang thiết bị hiện đại. Đây là một thuận lợi lớn, vì vậy các em cần nhanh
chóng tiếp cận, tạo lập kỹ năng sưu tầm, tra cứu tài liệu, sử dụng các phương

tiện hiện đại, khai thác tốt thư viện để phục vụ cho việc học tập của mình.
Từ những suy nghĩ và sự việc của cá nhân bản thân, tôi đem ra trao đổi
và hy vọng các bạn sẽ tìm thấy được những điều bổ ích và nhận được những
sự giúp đỡ, hướng dẫn thiết thực từ phía thầy cơ và nhà trường để phấn đấu
hồn thành xuất sắc việc học tập của mình.

16



×