Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Đề tài Thuỷ canh cây cà chua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1000.89 KB, 53 trang )

MỞ ĐẦU
Rau quả không chỉ cung cấp dinh dưỡng, màu sắc trong bữa ăn hàng ngày mà còn
là những vị thuốc hữu hiệu lại an toàn trong sử dụng, đặc biệt là không gây di bệnh
mới.
Vì thế mà từ lâu người ta đã nói “ăn không rau như đau không thuốc” ý muốn nhấn
mạnh tầm quan trọng của rau quả đối với đời sống con người. Nó cung cấp các loại
Vitamin và các chất khoáng thiết yếu cho cơ thể. Các chất bổ dưỡng ở rau, quả đã xây
dựng nên mạng lưới “vi mạch” trong cơ thể, góp phần mang lại nguồn năng lượng
hoàn chỉnh cho mỗi người đồng thời đây còn là món ăn ngon miệng. Gần đây khoa học
dinh dưỡng đã kết luận rằng rau quả còn cung cấp cho con người nhiều chất xơ, có tác
dụng giải các độc tố phát sinh trong quá trình tiêu hoá thức ăn. Do vậy, trong chế độ
dinh dưỡng của con người rau quả không thể thiếu và ngày càng quan trọng. Tại các
nước phát triển, mức sống của người dân càng được nâng cao thì trong khẩu phần ăn,
tỷ trọng rau quả ngày càng tăng.
Nói đến công dụng của rau quả ta không thể bỏ qua công dụng của cà chua. Đó là
một loại quả mọng, khi chín có màu đỏ. Màu đỏ của cà chua cho thấy hàm lượng
vitamin rất cao, trung bình 100g cà chua chín tươi sẽ đáp ứng 13% nhu cầu hàng ngày
về vitamin A, B6, C. Ngoài các vitamin B1, B2, cà chua còn rất giàu các chất vi lượng
như Ca, Fe, K, P, Mg, Ni, Co, I, các acid hữu cơ… Chính vì thế mà cà chua được xem
là một thực phẩm giàu chất dinh dưỡng, tăng cường sức đề kháng của cơ thể. Sắc tố
lycopen trong cà chua, cùng với β-caroten được xem là những chất chống oxy hoá cao,
vừa ngăn chặn tế bào ung thư, vừa chống sự hình thành các cục máu đông trong thành
mạch máu. Lycopen có tác dụng chống thoái hoá hoàng điểm, giảm mù loà.
Với những lợi ích của cà chua nêu trên nên em đã chọn đề tài “Thuỷ canh cây
cà chua”, nhằm nâng cao năng suất và chất lượng cà chua. Vì phương pháp này không
cần dùng chế phẩm thuốc trừ sâu bệnh nên không ảnh hưởng đến sức khoẻ người tiêu
dùng, không làm thoái hoá đất nông nghiệp, bảo vệ môi trường.

Phần I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giới thiệu chung về thuỷ canh
1.1.1. Khái niệm [1]. [11]


Thuỷ canh (Hydroponics) là kỹ thuật trồng cây không dùng đất mà trồng trực tiếp
vào môi trường dinh dưỡng hoặc giá thể mà không phải là đất. Các giá thể có thể là cát,
trấu, vỏ sơ dừa, than bùn, vermiculite perlite…
Kỹ thuật thuỷ canh là một trong những nghề làm vườn hiện đại, chọn môi trường tự
nhiên cần thiết cho cây phát triển, là chọn lựa sử dụng những chất thích hợp cho sự
sinh trưởng và phát triển của cây, tránh được sự phát triển của côn trùng, cỏ dại, bệnh
tật từ đất.
* Lợi ích của kỹ thuật trồng thuỷ canh [3].[10]
- Có khả năng thích nghi dễ dàng với các điều kiện trồng khác nhau. Do đặc tính
không cần đất, chỉ cần không gian để đặt hệ thống. Do đó ta có thể tiến hành trồng ở
nhiều vị trí, địa hình khác nhau như hải đảo, vùng núi xa sôi, hay trên tầng thượng, ban
công, hiên nhà, sau nhà,…
- Giải phóng một lượng sức lao động. Do không phải làm đất, cày bừa, nhổ cỏ,tưới
nước,… Việc chuẩn bị cho hệ thống trồng thuỷ canh không đòi hỏi lao động nặng
nhọc, người già, trẻ em, người khuyết tật đều có thể tham gia hiệu quả.
- Năng suất cao. Vì có thể trồng nhiều vụ trong năm, ít bị ảnh hưởng bởi hiện tượng
trái mùa như phương pháp trồng thông thường. Ngoài ra thuỷ canh còn cho phép trồng
liên tục, trồng gối đầu (có thể chuẩn bị cây giống cho vụ sau khi đang trồng vụ hiện tại)
nên năng suất tổng cộng trong năm cao gấp nhiều lần so với trồng thông thường. Hệ
thống nhà lưới giúp hạn chế hầu như tối đa sâu bệnh gây hại thông thường trong mùa
trái vụ.
- Sản phẩm hoàn toàn sạch, phẩm chất cao. Do chủ động hoàn toàn về chất dinh
dưỡng cung cấp cho rau nên chất lượng rau đạt mức gần như tối ưu, cho phẩm chất rau
tươi ngon, nhiều dinh dưỡng. Ngoài ra, phương pháp thuỷ canh được trồng chủ yếu
trong hệ thống nhà lưới, nhà kính nên tránh được các tác nhân gây bệnh được sinh ra
bởi côn trùng sâu bọ. Vì vậy, ở đây hầu như rất ít sử dụng thuốc trừ sâu và hoá chất
độc hại khác, không tích luỹ chất độc, không gây ô nhiễm môi trường. Một khuynh
hướng khác đang được các nhà vườn chuyên trồng thuỷ canh rau ưu ái lựa chọn, là
việc sử dụng các thuốc trừ sâu có nguồn gốc thảo mộc, sinh học, vi sinh… Đây là các
loại thuốc có tính thân thiện với môi trường, ít gây độc với con người, đặc biệt là khả

năng phân huỷ khá nhanh, nên ít để lại dư lượng trong sản phẩm.
* Hạn chế của kỹ thuật thuỷ canh [3].[10]
- Chi phí đầu tư cho hệ thống cao.
- Hiện nay thuỷ canh chỉ mới có thể áp dụng hiệu quả cho các loại cây rau quả, hoa
ngắn ngày.
- Sâu hại và dịch bệnh có thể lây lan một cách nhanh chóng.
- Do công nghệ thuỷ canh cây trồng chưa được nghiên cứu, chuyển đổi phù hợp với
điều kiện Việt Nam, nên hiện nay giá thành sản xuất còn khá cao.
- Nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa nên các loại sâu bệnh hại cây trồng phát
triển mạnh. Mùa mưa bão cũng là vấn đề lớn đối với việc bảo vệ cây trồng thuỷ canh.
1.1.2. Sơ lược lịch sử nghiên cứu
1.1.2.1. Ngoài nước
- Kỹ thuật thuỷ canh đã có từ lâu, theo những từ ngữ ghi chép từ chữ tượng hình
của người Ai Cập trong vài năm trước công nguyên, đã mô tả lại sự trồng cây trong
nước.[2]
- Sự nghiên cứu của những niên đại gần đây cho thấy vườn treo Babilon và vườn
nổi Kashimir và tại Aztec indians của Mehico cũng còn nhiều nơi trồng cây trên vỉa hè
trong những hồ cạn. Hiện tại vẫn còn nhiều bè trồng cây được tìm thấy ở gần thành phố
Mehico.[2]
- Năm 1699, John Woodward (người Anh) đã thí nghiệm trồng cây trong nước có
chứa các loại đất khác nhau. [6]
- Những năm 60 của thế kỷ 19 Sachs & Knop (Đức) đã sản xuất ra các dung dịch để
nuôi cây. [7]
- Trong những năm 30 của thế kỷ 20 TS.W.F.Gerick (California) đã phổ biến rộng
rãi thuỷ canh ở nước Mỹ. Những nông trại thuỷ canh di động đã cung cấp thực phẩm
rau tươi cho lính Mỹ trong suốt thời gian chiến tranh quân sự tại Nam Thái Bình
Dương. [8]
Trong số đó trong trang trại lớn nhất thì trồng cho mục đích kinh doanh như hoa
Cẩm Chướng, Layon, Cúc…[2]
Ngoài ra còn có các cơ sở trồng thuỷ canh hoa ở Đức, Ý, Thụy Điển… [8]

Đa phần ở các nước Châu Mỹ latinh trồng thực phẩm phục vụ cho lương thực là
chủ yếu.
Nhật Bản đẩy nhanh kỹ thuật thuỷ canh để sản xuất rau sạch. An toàn thực phẩm là
một trong những vấn đề mà người Nhật quan tâm, họ luôn lo ngại thuốc trừ sâu, các
hoá chất phụ gia nông nghiệp. Hơn nữa vì diện tích canh tác hẹp nên kiểu trồng thuỷ
canh này lại đáp ứng nhanh nhu cầu cho tinh thần và đời sống người Nhật Bản. [1]
1.1.2.2. Ở trong nước [1]
Việc nuôi trồng thuỷ canh đã được biết đến từ khá lâu, nhưng chưa được nghiên
cứu có hệ thống và được ứng dụng để trồng cây các loại cây cảnh nhiều hơn.
Từ năm 1993, GS.Lê Đình Lương-khoa sinh học ĐHQG Hà Nội phối hợp với tổng
nghiên cứu và triển khai HôngKông đã tiến hành nghiên cứu toàn diện các khía cạnh
khoa học xã hội cho việc chuyển giao công nghệ và phát triển thuỷ canh ở Việt Nam.
Đến tháng 10/1995 mạng lưới nghiên cứu và triển khai được phát triển ở Hà Nội,
Tp Hồ Chí Minh, Côn Đảo, sở khoa học một số tỉnh thành. Công ty Gold Garden &
Gino, nhóm sinh viên ĐH Khoa Học Tự Nhiên Tp.Hồ Chí Minh với phương pháp thuỷ
canh một số loại rau thông dụng: cải xanh, xà lách, cải ngọt… phân viện công nghệ sau
thu hoạch. Viện sinh học nhiệt đới cũng nghiên cứu và sản xuất. Nội dung chủ yếu là:
+ Thiết kế và phối hợp sản xuất thử các vật liệu dùng trồng thuỷ canh.
+ Nghiên cứu trồng các loại cây khác nhau, cấy truyền từ nuôi cấy mô vào hệ
thống thuỷ canh trước khi đưa vào đất một số cây ăn quả khó trồng trực tiếp vào đất.
+ Triển khai thuỷ canh ở quy mô gia đình, thành thị và nông thôn.
+ Kết hợp thuỷ canh với dự án rau sạch ở thành phố.
Từ tháng 9/2006, phương pháp trồng rau thuỷ canh được thử nghiệm tại Phân viện
Sinh học Đà Lạt. Hệ thống này không cần công chăm sóc bởi hệ thống tự cung cấp
nước tưới, chế độ dinh dưỡng cho rau hoàn toàn tự động. Sau khi trồng thành công rau
xà lách bằng phương pháp thuỷ canh, Phân viện Sinh học Đà Lạt tiếp tục thử nghiệm
trồng khoai tây và cũng cho kết quả tốt. [4]
1.1.3. Chất dinh dưỡng-môi trường nuôi trồng thuỷ canh
1.1.3.1. Chất dinh dưỡng [1].[11]
Những nguyên tố cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển thích hợp là O, H, C, S,

Mg, Mn, Fe, Cu, Bo, Mo. Một số nguyên tố thì chỉ cần với số lượng rất ít, tuy nhiên
một trong số các nguyên tố đó có thể trở thành một nhân tố giới hạn đối với sự lành
mạnh của cây. Nhiều nguyên tố được tìm thấy trong các enzyme và co-enzyme (các
chất này là nhân tố điều chỉnh các hoạt động sinh hoá), trong khi những chất khác thì
quan trọng đối với sự tích trữ thức ăn.
Sự thiếu hụt bất kì một nguyên tố nào đều thể hiện ra với những triệu chứng và đặc
thù riêng, có thể cho ta biết là cây đang thiếu loại nguyên tố nào.
Carbon và oxy được cung cấp bởi không khí ở dạng CO
2
. Mặc dù, tỷ lệ khí CO
2
trong khí quyển thấp (0.03%) nhưng lượng này trong khí quyển cũng là rất lớn. Ngay
cả khi thực vật đã tiêu thụ một lượng lớn, nhưng lượng này vẫn luôn được giữ không
đổi. Khí CO
2
xâm nhập vào cơ thể thực vật qua quang hợp hay hoà tan trong nước.
* Oxy: O
2
đóng vai trò quan trọng đối với sinh trưởng và phát triển của cây, do
chức năng tham gia vào quá trình hô hấp. Chức năng sống có thể ngừng lại nếu như
không có quá trình hô hấp. Cây hấp thụ O
2
từ khí quyển qua lá và từ nước thông qua rễ.
Thông thường thì không có vấn đề gì xảy ra khi hấp thụ O
2
từ lá, nhưng khi hấp thụ
qua rễ có thể giảm sút nhiều nếu như rễ mọc trong nước không được thoáng khí, hoặc
ở giữa lớp cát mà không khí không vào được.
* Hydro: Cây hấp thụ H
2

hầu hết là từ nước, thông qua quá trình thẩm thấu qua rễ.
Nó rất quan trọng vì chất béo và carbonhydrat đều có thành phần chính là hydro, cùng
với oxy và cacbon.
* Các nguyên tố đa lượng: Hiện diện vài phần nghìn đến vài phần trăm (từ 0.001-
0.01 g/gr trọng lượng khô)
Bao gồm: N (1-3%), K (2-4%), Ca (1-2%), Mg (0.1-0.7%), S (0.1-0.6%), P (0.1-
0.5%)
Có thể xếp Cl, Ca, Si vào nhóm các nguyên tố đa lượng vì chúng có hàm lượng rất thay
đổi tuỳ thuộc vào loài thực vật.
Nitơ: Là thành phần bắt buộc của protid chất đặc trưng cho sự sống. Nó có trong
thành phần men, trong màng tế bào, trong diệp lục tố mang chức năng cấu trúc.
Các hợp chất Nitơ còn cung cấp năng lượng cho cơ thể, tham gia cấu tạo ADP và
ATP (ADP và ATP là các chất cao phân tử, mang vai trò chất dự trữ).
Nitơ có ý nghĩa quan trọng nhất đối với đời sống thực vật. Nitơ tồn tại dưới hai
dạng: dạng khí Nitơ tự do trong khí quyển (N
2
) và dạng hợp chất Nitơ hữu cơ, vô cơ
khác nhau. Nitơ là yếu tố dinh dưỡng đóng góp rất quan trọng trong việc điều tiết quá
trình sinh lý, trao đổi chất của cây.
Nitơ còn là thành phần của nhiều vitamin B1, B2, B6, PP… đóng vai trò là nhóm
hoạt động của nhiều hệ enzyme oxy hoá khử, trong đó có sự tạo thành adenine
(Adenine: một chất cần thiết trong cấu trúc của DNA).
Nitơ còn có tác động nhiều đến sự đồng hoá CO
2
, khi thiếu nitơ cường độ đồng hóa
CO
2
giảm, làm giảm cường độ quang hợp. Khi cung cấp đầy đủ nitơ cho cây làm quá
trình tổng hợp auxin tăng lên. Nitơ còn ảnh hưởng đến các chỉ tiêu hoá keo của chất
sống như độ ưa nước, độ nhớt… từ đó ảnh hưởng đến cường độ quang hợp, hô hấp và

các quá trình sinh lý trao đổi chất. Dạng sử dụng ure (NH
4
)
2
SO
4
, NH
4
NO
3

Nếu cây trồng hấp thu nitơ vượt quá nhu cầu thì thân sẽ mềm mỏng và khó hình
thành hoa. Tuy nhiên, nếu không cung cấp đủ lượng cần thiết, cây sẽ bị cứng do thừa
cenlulo và lignin ở thành tế bào (lignin: chất kích thích sinh trưởng thực vật).
Nitơ là nguyên tố đa lượng duy nhất, mà cây trồng có thể hấp thu ở cả dạng anion
và cation (ở dạng NO
3
-
và NH
4
+
).
Khi thiếu nitơ thì thân lá, bộ rễ kém phát triển, lá có màu xanh nhạt, phiến lá mỏng,
ảnh hưởng đến quang hợp nên sức khoẻ của cây giảm rõ rệt.
Photpho (P): P là thành phần quan trọng trong sự sinh trưởng, P cần thiết cho sự
phân chia tế bào, sự tạo hoa và trái, sự phát triển của rễ. P có liên quan lớn đến sự tổng
hợp đường, tinh bột vì P là thành phần của các hợp chất cao năng lượng (ADP, ATP)
tham gia quá trình phân giải hay tổng hợp các chất hữu cơ trong tế bào.
Sau khi P xâm nhập vào thực vật dưới dạng các hợp chất vô cơ (P
2

O
5
, KH
2
PO
4
…)
theo con đường đồng hóa sơ cấp P bởi hệ rễ đã tham gia vào hầu hết các quá trình trao
đổi chất của cây. P đóng vai trò quyết định sự biến đổi vật chất và năng lượng mà mối
liên quan tương hỗ của các biến đổi đó quy định chiều hướng, cường độ, các quá trình
sinh trưởng, phát triển của cơ thể thực vật và cuối cùng là năng suất của chúng.
Khi thiếu P cây có biểu hiện rõ rệt về hình thái bên ngoài, là năng suất giảm. Đối
với những cây họ hoà thảo (lúa) nếu thiếu P lá mềm yếu, sự sinh trưởng của rễ, sự đẻ
nhánh, phân cành kém. Lá cây có màu xanh đậm do sự thay đổi tỷ lệ diệp lục tố a và
diệp lục tố b. Ở những lá già thì đầu mút của lá và thân có màu đỏ, hàm lượng protein
trong cây giảm, hàm lượng nitơ hoà tan tăng.
Đối với cây ăn quả thì tỷ lệ đậu quả kém, quả chín chậm, hàm lượng acid trong quả
cao. Biểu hiện thiếu ở lá già trước.
Ở môi trường có pH thấp (môi trường acid) nhiều Fe thì dễ bị thiếu P vì làm P ít
linh động. Sự thiếu P thường đi đôi với sự thiếu nitơ và có triệu chứng gần tương tự
nhau vì P liên hệ đến sự biến dưỡng nitơ.
Kali (K): K làm gia tăng quá trình quang hợp và thúc đẩy sự vận chuyển Glucid từ
phiến lá vào các cơ quan. K còn tác động rõ rệt đến trao đổi protid, lipid, đến quá trình
hình thành các vitamin.
K rất dễ xâm nhập vào tế bào, làm tăng tính thấm của thành tế bào đối với các chất
khác, tăng quá trình thuỷ hoá, giảm độ nhớt, tăng lượng nước liên kết. K ảnh hưởng
đến quá trình sinh tổng hợp các sắc tố trong lá, ảnh hưởng tích cực quá trình đẻ nhánh,
hình thành bông và chất lượng hạt của các cây ngũ cốc.
Ở cây cà chua có hàm lượng K cao sẽ làm cho quả rắn chắc, phần thịt quả sẽ được
giữ cứng trong một thời gian dài, ngay cả khi hái quả vào giai đoạn chín. Với lượng K

khoảng 300ppm, thì quả bảo quản được 25 ngày, nếu lượng K khoảng 200ppm thì chỉ
bảo quản được 20 ngày.
Tuy nhiên, khi tăng hàm lượng K thì lại gây ảnh hưởng bất lợi cho việc hấp thu Mg.
Nếu K quá cao cần phun MgSO
4
trên lá.
K giúp cho việc tăng tính chống chịu của cây với nhiệt độ thấp, khô hạn và bệnh
tật.
Khi thiếu K thì sự tích tụ amoniac cao gây độc hại cho cây, là biểu hiện ở lá có màu
xanh sẫm, đọt bị cháy hay có những đốm màu nâu, có khi lá cuốn lại, thường xuất hiện
ở lá già trước. Các triệu chứng khác như chồi cằn cỗi, cây chết, không trổ hoa, rễ kém
phát triển, lóng ngắn.
Sử dụng K dưới dạng KCl, KHCO
3
, K
2
HPO
4
, KNO
3
, K
2
SO
4
,…
Canxi (Ca): Ca là thành phần muối pectat của tế bào (pectat calcium) có ảnh
hưởng trên tính thấm của màng. Trong tế bào, Ca hiện diện ở không bào, mô già, ở lá
già nhiều Ca hơn lá non.
Ca cần cho sự xâm nhập của NH
4

+
và NO
3
-
vào rễ.
Ca là ion kém linh động nên màng tế bào thực vật hấp thu dễ dàng. Khi nồng độ Ca
trong môi trường cao thì Fe bị kết tủa cho nên các chất này giảm hoặc không di chuyển
vào tế bào, kết quả là lá bị vàng (vì Fe là thành phần cấu tạo của diệp lục tố). Ca còn là
chất hoạt hoá của một số enzyme nhất là ATPase (enzyme phân cắt ATP, giải phóng
năng lượng cho cơ thể). Ca cần với một khối lượng cho thân và rễ. Ca cũng cần cho sự
hấp thụ N
2
. Ca không được hấp thu như những nguyên tố khác nên bất kỳ sự thiếu hụt
nào cũng biểu hiện rất nhanh trên những lá non.
Khi thiếu Ca, đặc biệt trong môi trường thuỷ canh thì rễ bị nhầy nhụa ngăn cản sự
hấp thụ chất dinh dưỡng, cây ngừng phát triển và chết. Biểu hiện, ngọn chồi lá non
thường bị xoắn, lá bị tua cháy bìa lá, thân cuống hoa bị gãy, sinh trưởng bị chết.Ca
2+
còn là chất đối kháng của ion K
+
.
Sử dụng Ca
2+
dưới dạng Ca(NO
3
)
2
, CaCl
2
, CaSO

4

Magie (Mg): Là thành phần cấu trúc của diệp lục tố, có tác dụng sâu sắc và nhiều
mặt đến quá trình quang hợp, phụ trợ cho nhiều enzyme đặc biệt ATPase liên quan
trong biến dưỡng carbonhydrat, sự tổng hợp acid nucleid, sự bắt cặp của ATP với các
chất phản ứng.
Khi thiếu Mg lá bị vàng, quang hợp kém.
Sử dụng Mg dưới dạng MgSO
4
.H
2
O, MgO.
* Nguyên tố vi lượng: Các nguyên tố vi lượng có vai trò quan trọng trong đời sống
thực vật. Hàm lượng các nguyên tố này trong mô thực vật biến động trong khoảng một
phần nghìn đến một trăm phần nghìn.
Các nguyên tố vi lượng tham gia vào quá trình oxy hoá khử, quang hợp, trao đổi
nitơ và Glucid của thực vật, tham gia vào các trung tâm hoạt tính của enzyme và
vitamin, tăng tính chống chịu của cơ thể thực vật đối với các điều kiện môi trường bất
lợi. Sự thiếu hụt các nguyên tố vi lượng có thể gây ra nhiều bệnh và không hiếm những
trường hợp cây bị chết ở tuổi cây non.
Các nguyên tố như Cu, Bo, Zn và Mo cần thiết nhưng chỉ cần với lượng rất nhỏ.
Những nguyên tố này có ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cây.
Kẽm (Zn): Tham gia trong quá trình tổng hợp auxin, Zn còn là chất hoạt hoá của
nhiều enzyme dehydrogenase, có thể có vai trò trong quá trình tổng hợp protein.
Zn có tác dụng phối hợp với nhóm GA3, Zn có liên quan đến sinh tổng hợp vitamin
nhóm B1, B2, B6, B12.
Zn còn thúc đẩy sự vận chuyển các sản phẩm quang hợp từ lá xuống các cơ quan dự
trữ, tăng khả năng giữ nước, độ ngậm nước của mô do làm tăng quá trình tổng hợp các
cao phân tử ưa nước như protein, acid nucleic.
Khi thiếu Zn thì cường độ tổng hợp trytophan từ indol và xerin bị kìm hãm nên rễ

không tạo được hoặc kém phát triển, lá bị bạc màu sắc tố bị huỷ hoại, lá kém phát triển
dạng lá không bình thường.
Sử dụng Zn dưới dạng ZnSO
4
.7H
2
O.
Lưu huỳnh (S): Giữ vai trò đệm trong tế bào.
S là thành phần cấu trúc của cystein, methyonin, tạo cầu nối S-S trong cấu trúc bậc
ba của protein.
S còn là thành phần của một số enzyme. Thiếu S sự sinh tổng hợp protein giảm, cây
bị hoàng hoá do không tổng hợp được diệp lục tố lá có màu xanh lục nhạt thỉnh thoảng
có chỗ có màu đỏ, thường xuất hiện ở lá non, cây chậm lớn, năng suất, phẩm chất
giảm.
Sắt (Fe):Có vai trò quan trọng trong phản ứng oxy hoá khử, là nhân của
poocphyrin, Fe tham gia trong chuỗi chuyển điện tử ở quang hợp.
Fe còn xúc tác sự khử CO
2
của OAA (oxaloacetic acid), succinic acid. Fe đóng vai
trò kết hợp giữa enzyme và cơ chất để enzyme dễ dàng hoạt động.
Sự thiếu hụt Fe nhanh chóng biểu hiện trên lá và sẽ ngăn chặn sự sinh trưởng và
phát triển. Sự thiếu hụt Fe thường dẫn đến bệnh vàng lá trầm trọng, giảm lượng
clorophin ở lá. Fe không hoạt động mạnh trong cây và tác động thiếu này sẽ biểu hiện
màu vàng trên lá non.
Lượng Fe giảm trong môi trường dung dịch dinh dưỡng khá nhanh so với những
nguyên tố khác trong môi trường do:
+ Quá trình oxy hoá Fe bởi tia UV khi mà dung dịch dinh dưỡng cung cấp cho
cây dưới dạng tia phun sương.
+ Độ pH của dung dịch dinh dưỡng vượt quá mức 6.5.
+ Sự hấp thu của cây trồng cho sự sinh trưởng và phát triển.

+ Trở thành dạng không tan bởi một số cấu phần khác trong môi trường.
- Thiếu Fe thường bị vàng hoàn toàn và bị cháy sém ở ngọn và mép lá.
- Nếu môi trường nhiều Zn, Cu, P dẫn đến thiếu Fe.
Đồng (Cu): Cũng là thành phần cấu tạo của nhiều enzyme xúc tác các phản ứng
oxy hoá khử, can thiệp vào các phản ứng oxy hoá cần O
2
phân tử. Thiếu Cu lá kém
phát triển, lá màu xanh đậm, nếu thiếu nhiều dẫn đến chết một phần của lá.
Cu còn tác dụng ngăn ngừa sự phát triển của vi sinh vật trong môi trường dinh
dưỡng nước.
Sillic (Si): Si có hai hiệu quả đáng kể sau:
- Chống lại sự tấn công của côn trùng và bệnh tật.
- Chống lại tác dụng của kim loại.
Bảng 1.1. Ảnh hưởng của một số nguyên tố khoáng đến cà chua [1]
Nguyên tố Triệu chứng thiếu hụt Triệu chứng nhiễm độc
N Lá xanh xám, rễ ốm, lá nhỏ với những
lá phía dưới có màu vàng, trái nhỏ chồi
hoa rụng.
Thân và lá tăng trưởng quá
lớn, lá có màu xanh rất đậm.
P Tán lá có màu xanh đen với những lá
dưới có màu tía, cây còi cọc, thân
cứng, hệ thống rễ nghèo nàn, sự thiếu
hụt thể hiện đầu tiên ở lá trưởng thành,
lá rụng sớm, quá trình tạo quả có thể bị
ngừng lại.
Không có dấu hiệu.
K Biểu hiện như lá bị cháy, lá cuộn lại và
thường bị rụng, sinh trưởng hạn chế,
quả chín không đều, thân mềm.

Ảnh hưởng đến hoạt động của
các nguyên tố khác.
Mg Màu vàng ở giữa các vân với các vân
vẫn có màu xanh, mép lá xoắn lại, hình
thành quả giảm nếu thiếu nghiêm
trọng.
Lá lớn có màu sáng.
Fe Lá non bị bệnh vàng lá, triệu chứng lan
dần đến những lá già hơn, sinh trưởng
kém, hoa rụng.
Không có dấu hiệu.
Mn Xuất hiện những đốm vàng trên lá,
bệnh vàng lá ít nghiêm trọng hơn so
với thiếu Fe, lá có mạng, rất ít hoa
được hình thành.
Sinh trưởng chậm và thân
nhỏ.
S Vàng lá, gân lá có màu sáng hơn
những vùng xung quanh, những lá trên
bị quăn xuống.
Giảm kích thước và tăng
trưởng của lá.
Ca Lá non bị quăn lại, cuối cùng chết ở
phía lưng từ đầu nhọn và mép lá, xuất
hiện những điểm chết, cuối cùng bị
thối rữa, thân dày và hoá gỗ, rễ phát
triển kém.
Không có dấu hiệu.
Bo Lá non có màu xanh sáng, cuống chết
từ phía lưng, lá trên nhỏ và xoắn vào

trong, thân nứt nẻ và những vùng hoá
libe phát triển, trái có màu tối và khô.
Sự chết hoại tăng lên bắt đầu
từ trên đỉnh và dịch chuyển
dần vào phía trong.
Zn Lá có kích thước nhỏ, mép lá bị vặn,
cuống hoa có lóng ngắn.
Xuất hiện bệnh vàng lá, thân
nhỏ và chậm phát triển.
Cu Lá non bị héo với những chấm và dấu
hiệu của bệnh vàng lá, rất ít hoa được
tạo thành.
Sinh trưởng chậm.
Mo Lá bị xoắn lên, những lốm đốm ở trong
gân lá phát triển đầu tiên ở những lá
già, lá bị khô hoặc cháy xém.
Lá chuyển sang vàng.
Cl Không có dấu hiệu. Nghiêm trọng thì lá cháy, mép
lá bị tưa như những mô chết
bị rời ra.
Na Không có dấu hiệu. Ngăn cản sự hấp thu K.
1.1.3.2. Dung dịch dinh dưỡng [1].[3][11]
* Sự pha chế: Trong thuỷ canh tất cả các chất cần thiết cung cấp cho cây đều được
sử dụng dưới dạng các muối khoáng vô cơ được hoà tan trong dung môi là nước.
Nếu sử dụng các môi trường dinh dưỡng với dạng nước thì phải nắm rõ nguyên tắc
pha chế để chúng không bị kết tủa làm mất tác dụng của hoá chất.
Trong thuỷ canh, các muối khoáng sử dụng phải có độ hoà tan cao, tránh lẫn các tạp
chất. Môi trường dinh dưỡng đạt yêu cầu cao khi có sự cân bằng về nồng độ ion
khoáng sử dụng trong môi trường để đảm bảo độ pH ổn định trong khoảng từ 5.5-6.0,
là độ pH mà đa số cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt.

* Độ pH: Trong môi trường dinh dưỡng, độ pH rất quan trọng cho sự sinh trưởng
và phát triển của cây.
Độ pH được tính dựa trên mức độ hoạt động của các nguyên tố khác nhau với cây
trồng. Dưới 5.5 thì khả năng hoạt động của P, K, Ca, Mg, Mo giảm đi rất nhanh, trên
6.5 thì Fe và Mn lại trở nên bất hoạt.
Việc điều khiển pH của dung dịch rất quan trọng để ngăn chặn pH tăng lên quá cao
sẽ gây ra tình trạng kết tủa của Ca
3
(PO
4
)
2
, gây ngẹt ống dẫn dung dịch và bám vào
quanh bộ rễ của cây. Để ngăn chặn pH tăng cao có thể sử dụng H
3
PO
4
, HNO
3
hoặc
cũng có thể sử dụng NH
3
.
Nếu pH xuống 5.5, KOH hay một số chất thích hợp khác có thể thêm vào dung dịch
để tăng pH lên.
Nếu pH quá cao, H
3
PO
4
hay HNO

3
có thể sử dụng. H
3
PO
4
thường được sử dụng
nhiều hơn, vì nó bổ sung thêm PO
4
vào quá trình trồng trọt, và tăng thêm lượng khoáng
chất cần thiết cho cây trồng.
Sự sinh trưởng của cây là một trong những nhân tố làm cho môi trường trở nên có
tính acid hơn, vì trong quá trình sống rễ giải phóng ra các acid hữu cơ và ion H
+
.
Sự thay đổi pH trong dung dịch dinh dưỡng thường xảy ra khá nhanh, phụ thuộc
vào độ lớn của hệ thống rễ và thể tích dinh dưỡng của một cây.
Giá thể được sử dụng càng lâu thì các chất hữu cơ đọng lại trong đó càng nhiều và
cần nhiều sự điều chỉnh cần thiết để đạt được pH như mong muốn.
Trong thuỷ canh đa số các cây trồng thích hợp với môi trường hơi acid đến gần
trung tính, pH tối ưu từ 5.8-6.5.
Trong nuôi trồng thuỷ canh, pH được cân bằng bởi hoạt động của cây. Nếu pH tăng
khi đó cây sẽ thải ra các muối acid, nếu pH giảm xuống thì cây sẽ thải ra các thành
phần ion base, có thể làm giới hạn việc hấp thu các muối gốc acid, nên rễ cây không
cần thiết hấp thu.
Nhìn chung pH của môi trường nên kiểm tra thường xuyên khi trồng thuỷ canh có
thể 2-3 lần/tuần, nên thực hiện các hình thức kiểm tra này vào thời điểm nhiệt độ giống
nhau vì pH của môi trường có thể giao động theo ánh sáng và nhiệt độ vào các thời
điểm khác nhau trong ngày.
Sự thay đổi pH của môi trường dinh dưỡng của thuỷ canh có thể do vi sinh vật gây
ra.

pH nội bào không chỉ phụ thuộc vào môi trường xung quanh mà vi sinh vật có thể
kiểm soát được một phần do tiết các ion.
pH trong tế bào không giống như môi trường ngoài, ngay trong nội tế bào cũng
không đồng nhất.
Những thí nghiệm nghiên cứu gần đây cho thấy:
- pH của tế bào do pH của môi trường quyết định
- pH tác động đến sự vận chuyển các chất dinh dưỡng qua màng tế bào.
* Nhiệt độ: Dao động nhiệt độ trong môi trường dinh dưỡng ở thuỷ canh không chỉ
tác động đến pH mà còn ảnh hưởng đến độ hoà tan của các dưỡng chất.
Nhiệt độ của nước thích hợp để hòa tan các chất khoáng là 20-22
0
C.
* Bổ sung chất dinh dưỡng:[1] Hai yếu tố cần được xét để nghiên cứu dung dịch
bổ sung là:
+ Thành phần dung dịch
+ Nồng độ dung dịch
Trong thời gian sinh trưởng và phát triển của cây, cây sẽ sử dụng các chất dinh
dưỡng theo nhu cầu đòi hỏi của chúng. Đối với các loại cây sinh trưởng tương đối dài
thì việc bổ sung dinh dưỡng là rất cần thiết.
Trong nghiên cứu, có thể dựa vào giá trị của độ dẫn điện (EC: electro-
conductivity), sự phân huỷ các muối khoáng (TDS: toatl dissolved salts) hoặc nhân tố
hoà tan (CF: conductivity factor) của các máy đo để điều chỉnh bổ sung dinh dưỡng
vào môi trường thuỷ canh.
* Độ dẫn điện (EC) để chỉ tính chất của môi trường có thể chuyển tải được dòng
điện. Độ dẫn điện của một dung dịch là sự dẫn dung dịch này được đo giữa những điện
cực có bề mặt là 1cm
2
ở khoảng cách 1cm, đơn vị tính là ms/cm, hoặc được thể hiện
đơn vị ppm (part per million) đối với những máy đo TDS.
Chỉ số EC chỉ diễn tả tổng nồng độ ion hoà tan trong dung dịch, chứ không thể hiện

được nồng độ của từng thành phần riêng biệt.
Trong suốt quá trình tăng trưởng cây hấp thu khoáng chất mà chúng cần, do vậy
duy trì EC ở một mức độ ổn định là rất quan trọng.
Nếu dung dịch có chỉ số EC cao thì sự hấp thu nước của cây diễn ra nhanh hơn sự
hấp thu khoáng chất, hậu quả là nồng độ dung dịch sẽ rất cao và gây độc cho cây, khi
đó ta phải bổ sung thêm nước vào môi trường.
Ngược lại, nếu EC thấp sẽ hấp thu khoáng chất nhanh hơn hấp thu nước và khi đó
ta phải bổ sung thêm khóang chất vào dung dịch.
Bảng 1.2. Một số giới hạn EC và TDS đối với một số loại cây trồng[1]
EC (ms/cm) TDS (ppm)
Cẩm chướng 2.4-5.0 1400-2450
Địa lan 0.6-1.5 420-560
Hoa hồng 1.5-2.4 1050-1750
Cà chua 2.4-5.0 1400-3500
Xà lách 0.6-1.5 280-1260
Xà lách xoong 0.6-1.5 280-1260
Chuối 1.5-2.4 1260-1540
Dứa 2.4-5.0 1400-1680
Dâu tây 1.5-2.4 1260-1540
Ớt 1.5-2.4 1260-1540
* DO (dissolved oxigen): DO là đơn vị dùng đo hàm lượng oxy hoà tan trong 1lít
nước, đơn vị mg/l. Đo DO để biết được độ thoáng khí của môi trường dinh dưỡng. Chỉ
số DO cao thuận lợi cho hoạt động hô hấp và biến dưỡng của hệ rễ.
DO phụ thuộc vào nhiệt độ, áp suất và độ mặn của dung dịch.
- Thành phần dung dịch (tỷ lệ chất dinh dưỡng khoáng)[1]
Được xác định bởi các chất mà cây đòi hỏi. Việc phân tích phiến lá dựa trên nồng
độ dinh dưỡng khoáng có trong mô lá, vì lá là nơi xảy ra quá trình quang hợp và do đó
lượng enzyme là cao nhất. Nồng độ dinh dưỡng khoáng trung bình trong toàn cây
thường ít hơn nồng độ trong lá, vì vậy một dung dịch bổ sung căn bản phải dựa trên
nồng độ các chất có trong mô lá mà chúng sẽ cung cấp cho thân, hạt và trái.

Thành phần dung dịch dinh dưỡng bổ sung thay đổi theo từng thời kỳ phát triển của
cây nhằm ngăn cản sự tích luỹ dinh dưỡng khoáng trong dung dịch. Chu trình sống
được chia thành 3 giai đoạn sau:
+ Giai đoạn đầu của sự phát triển cây
+ Giai đoạn phát triển: Trong suốt giai đoạn phát triển thân và lá phát triển như
nhau.
+ Giai đoạn trưởng thành: Lá phát triển tối thiểu, chất dinh dưỡng được tập trung
đưa vào trong hạt và trái.
Sự phát triển của rễ chủ yếu ở giai đoạn đầu và ít quan trọng hơn ở giai đoạn sau.
Trong suốt giai đoạn trưởng thành, rễ rất ít phát triển và gần như ngừng hẳn.
- Nồng độ ion trong dung dịch[1]
Bổ sung dung dịch được xác định bởi tỷ lệ thoát hơi nước. Sự thoát hơi nước quyết
định tỷ lệ tiêu thụ nước, sự phát triển quyết định tỷ lệ chất dinh dưỡng khoáng (sự vận
chuyển khoáng từ dung dịch sang cây). Ước lượng sự thoát hơi nước đối với sự phát
triển của cây trong môi trường thuỷ canh là 300-400kg nước/1kg sinh khối khô. Tỷ lệ
chính xác phụ thuộc vào độ ẩm không khí, độ ẩm không khí thấp sẽ làm tăng sự thoát
hơi nước nhưng không tăng sự phát triển. Lượng CO
2
cao làm đóng khẩu và tăng quá
trình quang hợp, chính vì vậy sự thoát hơi nước đến một tỷ lệ nào đó sẽ giảm xuống
còn 200kg nước/1kg sinh khối khô.
Hiểu biết về tỷ lệ này sẽ rất có lợi trong việc quyết định nồng độ tương ứng cho
dung dịch bổ sung. Tổng nồng độ ion có thể duy trì bằng cách điều chỉnh tính dẫn điện
của dung dịch. Nếu tính dẫn điện gia tăng, cần làm loãng dung dịch bổ sung, nhưng
thành phần chất dinh dưỡng vẫn giữ nguyên. Tính dẫn điện không thay đổi nhanh cho
nên chỉ cần theo dõi vài lần trong tuần.
Sự vận chuyển của dinh dưỡng khoáng trong dung dịch
Các dinh dưỡng khoáng thiết yếu có thể đặt theo 3 nhóm sau dựa trên cách mà
chúng bị loại ra khỏi môi trường dinh dưỡng (do cây hấp thụ):
+ Nhóm 1: NO

3
, NH
4
, P, K, Mn các chất này được hấp thụ một cách chủ động
nhờ rễ và bị loại khỏi môi trường trong vài giờ.
+ Nhóm 2: Mg, S, Fe, Zn, Cu, Mo, C các chất này được hấp thu ở mức trung bình
và bị loại khỏi môi trường nhanh hơn nước.
+ Nhóm 3: Ca, B các chất này được hấp thu một cách thụ động và thường tích luỹ
trong dung dịch.
Một trong những khó khăn trong việc theo dõi và điều chỉnh từng loại ion là nồng
độ nhóm 1 phải được giữ ở mức thấp nhất nhằm ngăn cản sự tích luỹ chất độc trong
mô thực vật. Tuy nhiên, nồng độ thấp thì rất khó theo dõi và điều chỉnh.
Nếu nồng độ chất dinh dưỡng cao thì điều này cho thấy cây cần thêm nước, do đó
cần thêm nước vào môi trường.
Khi nồng độ chất dinh dưỡng giảm hơn mức cho phép thì cây cần bổ sung dưỡng
chất nhiều hơn nước. Việc bổ sung muối khoáng hay nước còn phụ thuộc vào mùa vụ
gieo trồng.
Nếu chỉ bổ sung nước mà không chú ý đến bổ sung khoáng chất thì sẽ ảnh hưởng
đến chất lượng sản phẩm có thể làm giảm hương vị của rau quả.
Trong đa số các loại cây thì nồng độ tổng cộng của các chất dinh dưỡng trong
khoảng từ 500-2000ppm để không làm ảnh hưởng đến áp suất thẩm thấu của tế bào.
Tuy nhiên ở một số loại như cà chua, dâu tây cần nồng độ môi trường dinh dưỡng cao
khoảng 3500ppm, hoặc nồng độ dinh dưỡng có giá trị thấp như cải, xà lách xoong và
giá trị trung bình như dưa chuột.
Tuỳ thuộc vào giai đoạn tăng trưởng và phát triển của cây, cho nên việc thêm vào
dung dịch bổ sung theo một tần số nhất định là điều không cần thiết. Các chất dinh
dưỡng được hấp thu nhanh chóng sẽ dễ dàng biến đổi trong mô thực vật, có nghĩa là
cây có khả năng dự trữ dinh dưỡng ở rễ, thân, lá và sẽ nhanh chóng biến đổi cho nhu
cầu cần thiết của cây.
1.1.4. Ảnh hưởng của các yếu tố môi trường[1].[5]

1.1.4.1. Ảnh hưởng của nồng độ CO
2
CO
2
cùng H
2
O tham gia tổng hợp chất hữu cơ.
Thành phần CO
2
trong khí quyển tương đối ổn định khoảng 0.03% thể tích
CO
2
trong nước dạng hoà tan ở 0
0
C là 0.5 cm
3
/l
24
0
C là 0.2 cm
3
/l
Khi hàm lượng CO
2
cao hơn ngưỡng thì một phần CO
2
trở thành hoạt hoá và kết
hợp với carbonat chuyển thành dạng bicarbonat hoà tan làm tăng độ cứng của nước.
Khi hàm lượng CO
2

trong nước tăng lên ít thì làm tăng quá trình quang hợp, nhưng
lại ảnh hưởng lớn đến hô hấp của rễ.
Carbonat không chỉ là nguồn dinh dưỡng mà còn là chất đệm giữ nồng độ ion hydro
trong môi trường nước ở gần giá trị trung tính.
1.1.4.2. Ảnh hưởng của sự thoáng khí đến sự hút chất dinh dưỡng
Nguồn O
2
trong nước là do O
2
khuếch tán từ không khí (nhờ gió) sự chuyển động
của nước. Tuy nhiên lượng O
2
trong nước luôn không cao,O
2
thường bị mất do nhiều
nguyên nhân:
- Do tảo, động vật phù du hô hấp.
- Do quá trình oxy hoá các chất hữu cơ và vô cơ trong nước.
- Nguồn O
2
do tảo quang hợp thải ra là ổn định và quan trọng nhất cho nước.
Trong nước sinh vật lấy O
2
khó nhưng thải CO
2
rất dễ dàng.
Các nghiên cứu cho thấy sự hút khoáng đạt mức cao nhất ở môi trường có nồng độ
O
2
từ 2-3%. Khi nồng độ O

2
thấp hơn 2% thì tốc độ hút khoáng giảm. Nhưng nếu tăng
nồng độ O
2
từ 3-100% thì tốc độ hút khoáng cũng không thay đổi.
Ảnh hưởng của nồng độ CO
2
, N
2
, H
2
S và pH môi trường: Sự tích luỹ N
2
, H
2
S và các
khí khác trong đất úng ngập có tác động ức chế hoạt động hút khoáng của hệ rễ.
1.1.4.3. Ảnh hưởng của sự ngập úng đối với hệ rễ
Sự thiếu oxy trong vùng rễ xảy ra khi đất thoát nước kém sau cơn mưa hoặc sau khi
tưới gây giảm tăng trưởng và giảm năng suất ở cây trên cạn.
Mặc dù mọi thực vật bậc cao cần có nước tự do, nhưng nếu quá nhiều nước trong
môi trường rễ cây trên cạn có thể bị tổn hại thậm chí gây chết vì nó ngăn cản sự trao
đổi di chuyển của oxy và các khí khác, giữa đất và khí quyển.
1.1.4.4. Ảnh hưởng của nhiệt độ
Nhiệt độ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển của thực
vật trong quang hợp, hô hấp, các phản ứng biến dưỡng trên sự dinh dưỡng nước,
khoáng, sự thoát hơi nước và chuyển nhựa.
Sự nảy mầm của hạt cũng chịu nhiều ảnh hưởng của nhiệt độ. Hạt cà chua nảy mầm
ở nhiệt độ 15-18
0

C, thích hợp nhất là 25-35
0
C. Sinh trưởng ở 15-35
0
C và thích hợp
nhất là 22-24
0
C. Khi nhiệt độ cao hơn nhiệt độ tối thích quang hợp giảm dần, nhiệt độ
lớn hơn 30
0
C kéo dài kết hợp với độ ẩm không khí giảm thì cây cà chua bị rối loạn
đồng hoá, và nhiệt độ lớn hơn 35
0
C thì cây ngừng tăng trưởng.
Nhiệt độ thích hợp cho việc ra hoa, nở hoa và hạt phấn thụ tinh là 20-25
0
C.
Cơ chế ảnh hưởng của nhiệt độ lên sự hút khoáng là nhệt độ đã ảnh hưởng chủ yếu
lên quá trình trao đổi chất, quá trình liên kết giữ các phân tử trong chất nguyên sinh với
các nguyên tố khoáng.
1.1.4.5. Ảnh hưởng của ánh sáng
Ánh sáng ảnh hưởng mạnh đến sự hút khoáng. Ánh sáng còn ảnh hưởng đến khả
năng hấp thu NH
4
, SO
4
tăng mạnh, trong khi đó sự hấp thu Ca, Mg ít thay đổi. Nhìn
chung tác động của ánh sáng liên quan đến quá trình quang hợp, trao đổi nước và tính
thẩm thấu của chất nguyên sinh.
1.1.4.6. Ảnh hưởng của nồng độ và tỷ lệ các nguyên tố khoáng ở môi trường đến

sự hút khoáng
Tỷ lệ giữa các ion trong môi trường và mối liên quan giữa chúng với cường độ hút
khoáng, người ta thấy có ba hình thức tương quan giữa các ion: Đối kháng, hỗ trợ và
không ảnh hưởng lẫn nhau.
1.1.4.7. Ảnh hưởng của các giá thể nuôi trồng thuỷ canh
Giá thể để trồng cây phải có nhiều tính chất giống đất, phải là chỗ dựa cho hệ thống
rễ, tạo điều kiện cho rễ mọc dài ra để tìm nước và chất dinh dưỡng và phải là phương
tiện cung cấp O
2
, nước và dinh dưỡng cho sự sinh trưởng phát triển của cây; không
chứa các chất độc hại tới môi trường dinh dưỡng và độ pH của môi trường.
Một số giá thể hữu cơ thường được sử dụng[1]
- Than bùn: Là chất tốt nhất trong các giá thể hữu cơ có khả năng giữ nước và
chất dinh dưỡng cao hơn các loại giá thể hữu cơ khác. Than bùn có chứa nhiều khoáng
như: N, P, K, Ca, Mg và một số nguyên tố vi lượng. Trong thuỷ canh thường dùng để
trồng các loại cây cho quả như: cà chua, dưa leo, ớt tây, dâu tây… Cần thanh trùng
than bùn trước khi sử dụng.
- Mùn cưa: Mùn cưa, cát và hỗn hợp hai loại vật liệu đó đã được sử dụng có kết
quả để sản xuất dưa chuột. Một hỗn hợp có 25% cát giúp phân bổ độ ẩm đồng đều hơn

×