CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ TÌNH HÌNH
XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TẠI VIỆT NAM
I – Khái quát về xuất khẩu lao động
Để thuận tiện cho quá trình nghiên cứu, trước hết em xin được đề cập
các khái niệm liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động.
1, Khái niệm :
1.1 Lao động : Là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người
nhằm thay đổi những vật thể tự nhiên, để phù hợp với lợi ích của mình. Lao
động là sự vận động của sức lao động, là quá trình kết hợp giữa sức lao động
và tư liệu sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Thành quả do con người tạo ra trong quá trình lao động để nuôi sống
bản thân họ, gia đình họ và đảm bảo sự tồn tại của xã hội. Lao động có năng
suất, chất lượng đem lại hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của
đất nước. Vì vậy lao động có một vị trí vô cùng quan trọng và không thể
thiếu được trong bất kỳ một chế độ xã hội nào, một quốc gia nào. Mỗi con
người đến độ tuổi lao động, có khả năng lao động đều mong muốn và có
quyền được lao động để nuôi sống bản thân, giúp đỡ gia đình và làm giàu
cho xã hội.
1.2 Sức lao động : Là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong
quá trình tạo ra của cải xã hội, phản ánh khả năng lao động của con người, là
điều kiện đầu tiên cần thiết trong quá trình lao động xã hội.
1.3 Nguồn lao động : Là một bộ phận của dân cư bao gồm những
người trong độ tuổi lao động, không kể số người mất khả năng lao động và
những người ngoài độ tuổi lao động (trên hoặc dưới tuổi lao động) nhưng
thực tế có tham gia lao động. (Nước ta độ tuổi lao động quy định từ 15-55
đối với nữ và 15-60 đối với nam).
3
1.4 Thị trường lao động : Thị trường là một phạm trù riêng của kinh tế
hàng hoá. Thị trường là nơi diễn ra trao đổi hàng hoá dịch vụ. Nội dung của
thị trường được biểu hiện qua hai nhân tố có quan hệ mật thiết với nhau :
cung và cầu hàng hoá.
Thị trường lao động là một lĩnh vực của nền kinh tế mà ở đó diễn ra
quá trình mua bán, trao đổi, thuê mướn sức lao động. Ở nơi nào có nhu cầu
sử dụng lao động và có nguồn cung cấp lao động thì ở đó sẽ hình thành nên
thị trường lao động. Đối tượng tham gia thị trường lao động gồm những
người lao động và người sử dụng lao động. Giá cả sức lao động chinh là tiền
công mà người sử dụng lao động trả cho người lao động.
Khi cung và cầu lao động gặp nhau và hoạt động mua bán, trao đổi
hay thuê mướn sức lao động diễn ra trong phạm vi biên giới một quốc gia thì
ta có thị trường lao động nội địa, khi diễn ra ngoài biên giới quốc gia một
nước thì ta có thị trường lao động quốc tế.
1.5 Xuất khẩu sức lao động : Là hoạt động trao đổi, mua bán hay thuê
mướn hàng hoá sức lao động giữa chính phủ một quốc gia hay tổ chức, cá
nhân cung ứng sức lao động của nước đó với chính phủ, tổ chức, cá nhân sử
dung sức lao động nước ngoài trên cơ sở hiệp định hay hợp đồng cung ứng
lao động.
Như vậy. khi hoạt động xuất khẩu lao động được thực hiện sẽ có sự di
chuyển lao động có thời hạn và có kế hoạch từ một nước sang một nước
khác. Trong hành vi trao đổi này, nước đưa lao động đi được coi là nước
xuất khẩu lao động, nước tiếp nhận sức lao động được coi là nước nhập khẩu
lao động. Trên thực tế có trường hợp xuất hiện vai trò của nước thứ ba làm
nhiệm vụ trung gian, môi giới hoặc kinh doanh.
Đặc trưng cơ bản của hoạt động xuất khẩu lao động, khác so với các
loại hàng hoá khác xuất phát từ tính đặc thù của loại hàng hoá này. Sức lao
động là một loại hàng hoá đặc biệt vì con người là chủ thể lao động, có tư
duy và khả năng làm chủ bản thân. Cho nên trong hiệp đinh hay hợp đồng
cung ứng lao động, ngoài những điều khoản quy định như đối với các loại
hàng hoá bình thường còn phải có những điều khoản đề cập đến đời sống
chính trị, văn hoá, tinh thần, sinh hoạt của người lao động. Những điều này
bị chi phối phong tục, tập quán, tôn giáo, văn hoá của các quốc gia tham gia
vào lĩnh vực này.
4
Có hai hình thức xuất khẩu lao động là :
- Đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (LHQ dùng khái
niệm di dân quốc tế) : là hình thức đầu tư lao động sống ra nước ngoài nhằm
thu hút thu nhập quốc dân từ nước ngoài về cho đất nước.
- Xuất khẩu lao động tại chỗ: Theo luật Đầu tư nước ngoài của nước
ta, là hình thức đầu tư lao động sống ở trong nước để thực hiện giá trị sức
lao động cho mình đối với nước ngoài.
Trong nội dung khoá luận này, em chỉ xin đề cập đến hình thức
xuất khẩu lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
2, Nguyên nhân hình thành và phát triển xuất khẩu lao động
Trong tác phẩm "Phép biện chứng tự nhiên", F. Ăng - ghen viết :
"Con người sống lan rộng ra tất cả những nơi nào có thể được và người là
loại động vật duy nhất làm được điều đó một cách độc lập, tự chủ". Ngay từ
buổi bình minh của loài người đã xuất hiện sự di chuyển của nguồn lao động
đến những miền đất tốt đẹp hơn. Như vậy, sự di cư lao động quốc tế thể hiện
tính tất yếu và tác dụng tiến bộ của lịch sử. Chính sự phân bố không đồng
đều về dân cư, về điều kiện tự nhiên (tài nguyên, khí hậu) và sự bùng nổ dân
số trên thế giới đã hình thành luồng di cư lao động ở những nước kinh tế
chậm phát triển di cư đến những nước có đời sống kinh tế khá hơn, lao động
ở nước nghèo tài nguyên di chuyển đến những nước có điều kiện thiên nhiên
thuận lợi, dân cư ở nước có mật độ cao di chuyển đến những nước có mật độ
dan cư thấp. Như vậy việc di chuyển lao động trước hết là một hiện tương
khách quan trong quá trình làm việc của bản thân người lao động.
Ngoài ra, xuất khẩu lao động còn bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan
khác như : chính sách của quốc gia, ý chí của nhà nước, của các tổ chức
cung ứng và tiếp nhận lao động...
Phân tích cụ thể, ta thấy có những nguyên nhân sau đây :
Thứ nhất, do có sự mất cân đối vê số lượng lao động, khi nguồn lao
động một nước không đáp ứng đủ hoặc vượt quá nhu cầu sử dụng trong
nước.
5
Sự dư thừa lao động, vượt quá nhu cầu sử dụng trong nước của một
nước có thể là do nước dó có tỷ lệ phát triển dân số cao nền sản xuất trong
nước lạc hậu, kém phát triển nên nhu cầu sử dụng thấp hoặc do nước đó có
sự chuyển đổi cơ chế kinh tế mà trong giai đọan chuyển tiếp nền kinh tế
chưa thể phù hợp ngay với cơ chế mới nên đã giảm sút nghiêm trọng, sản
xuất bấp bênh, số lao động dôi thừa tăng nhanh.
Trong khi đó, nhiều nước có nền kinh tế phát triển nhanh, nhu cầu sử
dụng lao động lớn trong khi tốc độ tăng dân số lại quá thấp nên đã xảy ra
hiện tượng thiếu lao động.
Thứ hai, do có sự mất cân đối về cơ cấu ngành nghề nhất định mà
trong nước không có hoặc không đủ. Ví dụ : ở một số nước phát triển rất
thiếu lao động trong các ngành nặng nhọc, độc hại còn ở nước nghèo lại
thiếu các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật có trình độ cao.
Trình độ phát triển kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật của mỗi quốc
gia không thể giải quyết hết sự mất cân bằng này, đòi hỏi phải có sự trao đổi
lao động với các quốc gia khác. Hành vi trao đổi này dẫn đến sự ra đời và
phát triển của xuất khẩu lao động.
Thứ ba, do có sự chênh lệch giá cả sức lao động trong nước và sức
lao động nước ngoài. Nhiều nước mặc dù không dư thừa lao động cũng tiến
hành xuất khẩu lao động vì có lợi cho cán cân thanh toán do họ có được
những hợp đồng xuất khẩu lao động có giá cao và bù lại họ nhập khẩu lao
động tự những nước có giá cả thấp hơn. Điều này lý giải vì sao có những
nước vừa nhập khẩu lại vừa xuất khẩu lao động như : Cuba, Malaysia,
Bungari...
Thứ tư, do có sự chênh lệch về mức thu nhập và mức sống giữa
người lao động trong nước và người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Vì
lý do này mà nhiều người dù không thuộc đội quân thất nghiệp nhưng vẫn
muốn đi xuất khẩu lao động để tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống bản
thân và gia đình.
Thứ năm, do xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, lực lượng sản
xuất phát triển, nền sản xuất lớn không thể bó hẹp trong phạm vi biên giới
quốc gia mà mở rộng ra nhiều nước, việc sử dụng lao động mang tính quốc
tế. Hơn nữa, việc tăng cường xuất khẩu công nghệ, bao thầu công trình quốc
tế sẽ tất yếu kèm theo việc phát triển xuất khẩu lao động
6
II – Tình hình xuất khẩu lao động tại Việt Nam
1, Sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu lao động tại Việt Nam
Cùng với việc giải quyết việc làm trong nước, hoạt động xuất khẩu lao
động có vị trí quan trọng. Nó là hoạt động đặc thù nhằm đạt kết quả tổng
hợp về kinh tế xã hội. Nhà nước ta đã xác định : "Đưa lao động đi làm việc
có thời hạn ở nước ngoài là một hướng giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho
người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách và góp phần tăng
cường quan hệ hợp tác kinh tế - văn hoá, khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam
với các nước sử dụng lao động Việt Nam.
a, Xuất phát từ vấn đề kinh tế.
Các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu thị trường lao động khu vực
và quốc tế đều nhận thấy một điều nổi bật, rõ ràng là: Một số nước công
nghiệp phát triển cao như Nhật Bản, Hàn Quốc, Italia... lẫn một số nước mới
phát triển như Thailand, Malaisia, Philipine... ngay từ đầu, khi nền kinh tế
còn chưa phát triển đều biết sử dụng một phương tiện đầy hiệu quả, đó là
xuất khẩu lao động. Theo thống kê của Tổ chức lao động quốc tế (ILO),
khoản thu nhập của người lao đông của nước ngoài mỗi năm đạt tới 65,5
USD, trong khi đó hàng năm tổng các khoản viện trợ chính thức (ODA) chỉ
đạt mức 51 tỷ USD. Người đi làm việc ở nước ngoài thường có mức thu
nhập bình quân cao hơn trong nước từ 6 đến 10 lần. Chênh lệch về thu nhập
là nguyên nhân khiến nhiều nước tận dụng mọi thời cơ đưa lao động đi làm
việc ở nước ngoài. Tại Việt Nam cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị
trường, trong hơn 10 năm (1991 - hết tháng 6/2003) theo cơ chế mới đã đưa
được gần 250.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, đem lại
thu nhập hàng năm 1 -1,5 tỷ USD. Tuy còn khiêm tốn trên thị trường lao
động thế giới nhưng về mặt kinh tế đã góp phần đáng kể làm tăng trưởng
ngân sách quốc gia, tăng thu nhập cho người lao động và góp phần giải
quyết việc làm trong nước giữa hoàn cảnh nước ta còn đang chắt chiu từng
đồng ngoại tệ mạnh. Có thể sử dụng một so sánh : Để có được 800 triệu
USD do xuất khẩu hàng dệt may chúng ta phải đầu tư rất nhiều cơ sở vật
chất, xây dựng nhà máy, trang bị máy móc thiết bị, đảm bảo cơ sở hạ tầng...
Nhưng với gần 20.000 lao động xuất khẩu hàng năm, chúng ta thu được
lượng ngoại tệ gần gấp đôi mà số vốn đầu tư lại ít hơn nhiều lần.
7
Về lâu dài xuất khẩu lao động nước ta có khả năng đóng góp cao cho
thu nhập quốc dân khi phạm vi xuất khẩu lao động được mở rộng, số lượng
người đưa đi lớn, ngành nghề hình thức đa dạng, chính sách và thủ tục đưa
lao động đi thông thoáng.
b, Xuất phát từ vấn đề dân số và giải quyết việc làm
Sự gia tăng dân số, lao động ở Việt Nam là yêu cầu bức xúc phải phát
triển xuất khẩu lao động.
Sự phát triển dân số, lao động đối với Việt Nam hiện nay là một trong
những vấn đề kinh tế, xã hội phức tạp và gay gắt chẳng những trong giai
đoạn hiện nay mà còn trong những năm tới. Trong dân số có lực lượng lao
động - yếu tố quyết định của sản xuất, đồng thời dân số lại là lực lượng tiêu
dùng của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Mối quan hệ này được cụ thể
hoá thành quan hệ giữa dân số và phát triển là nội dung quan trọng của chiến
lược kinh tế xã hội.
Với tốc độ tăng dân số ở mức trên dưới 2% như hiện nay tạo nên áp
lực đối với đời sống và việc làm. Hàng năm, Việt Nam phải tạo ra hơn 1
triệu việc làm mới, khoảng gần 8 triệu lao động thiếu việc làm, hàng chục
vạn bộ đội phục viên, lao động dôi dư ở khu vực Nhà nước... Trong những
năm qua, nhờ chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước
ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, trong đó có việc giải quyết việc làm
trong nước; tuy nhiên so với số lượng lao động cần giải quyết việc làm hàng
năm cũng chỉ đạt 35% nhu cầu. Chính vì vậy, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu
lao động là một trong những giải pháp vô cùng quan trọng, không chỉ trước
mắt mà còn có ý nghĩa chiến lược lâu dài.
Nhu cầu việc làm càng ngày càng lớn mà khả năng giải quyết còn rất
hạn chế trong khi tiềm năng phát triển kinh tế, tạo việc làm lớn song lại chưa
được khai thác và phát huy, chưa gắn được lao động với tiềm năng đất đai và
tài nguyên.
Mâu thuẫn giữa lao động và việc làm càng gay gắt khi đổi mới cơ cấu
kinh tế, tổ chức lại lao động cho phù hợp với cơ cấu mới của nền kinh tế tất
yếu dẫn đến việc đẩy lao động tách khỏi việc làm cho một bộ phận lớn lao
động trở nên dư thừa, trước hết ở khu vực Nhà nước, các hợp tác xã tiểu thủ
công nghiệp... Trong các năm qua, lao động khu vực Nhà nước dư thừa
khoảng 30%-50%, tương đương 1 triệu người. Mâu thuẫn trong bản thân vấn
đề việc làm vừa là vấn đề kinh tế xã hội cơ bản lâu dài có tính chiến lược, lại
8
vừa là vấn đề cấp bách trước mắt như đối tượng thanh niên mới lớn, lao
động thôi việc từ khu vực Nhà nước, bộ đội xuất ngũ, gia đình chính sách xã
hội... Không giải quyết được vấn đề việc làm thì sẽ nảy sinh các vấn đề xã
hội trầm trọng dẫn đến mất an toàn xã hội, thậm chí mất ổn định chính trị.
Chính từ những mâu thuẫn trên chúng ta thấy việc phát triển xuất
khẩu lao động như là một trong các hướng giải quyết việc làm, có tầm quan
trọng to lớn và cần thiết đối với đất nước ta hiện nay.
c, Xuất phát từ vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xuất khẩu lao động mang lại một nguồn ngoại tệ mạnh cho đất nước
góp phần tăng nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại
hoá.
Người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc sẽ học tập được tác
phong làm việc công nghiệp sản xuất lớn, thái độ đúng đắn trong công việc...
cùng với một tay nghề vững chắc khi về nước họ sẽ là nguồn nhân lực đáng
quý tham gia vào công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Người Việt Nam ra nước ngoài lao động tốt sẽ góp phần tăng thêm uy
tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế, tăng cường sự hiểu biết và góp
phần thúc đẩy quan hệ hơp tác giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. Đó
là điều quan trọng không thể thiếu được nếu muốn tiến hành thành công sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
d, Lợi thế của lao động xuất khẩu Việt Nam.
Thứ nhất, xuất khẩu lao động đã trở thành chủ trương lớn của Đảng
và Nhà nước. Đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định :
"Phải đẩy mạnh xuất khẩu lao động", hoạt động xuất khẩu lao động trong
những năm gần đây đã được sự quan tâm chú ý của các ngành, các cấp và
các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Thứ hai, nguồn lao động nước ta dồi dào, theo thống kê số lượng
người trong độ tuổi lao động tính đến tháng 7/2002 là 40.694.360 người,
mỗi năm bình quân có thêm hơn 1 triệu người bổ sung vào lực lượng lao
động đó.
Thứ ba, cơ cấu dân số nước ta thuộc loại trẻ, đại bộ phận (53%) ở độ
tuổi dưới 30, dưới 40 là 78%, chỉ có 22% dân số ở độ tuổi trên 40.
9
Thứ tư, giá nhân công Việt Nam rẻ hơn nhiều so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới, có sức cạnh tranh trên thị trường lao động
quốc tế.
Thứ năm, Việt Nam đang không ngừng tiến xa hơn trên con đường
hội nhập với thế giới, trong khi thị trường lao động quốc tế cũng không
ngừng tăng trưởng và đa dạng. Đây là cơ hội quan trọng để Việt Nam tham
gia và phát huy lợi thế của mình trong lĩnh vực xuất khẩu lao động.
2. Tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam
Việt Nam bắt đầu đưa chuyên gia và lao động đi làm việc có thời hạn
ở nước ngoài từ năm 1980. Từ đó đến nay, cùng với sự đổi mới về cơ chế
quản lý kinh tế chung của đất nước, cơ chế xuất khẩu lao động của ta cũng
đã qua nhiều lần thay đổi, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước và
quan hệ quốc tế của ta trong từng thời kỳ. Đánh giá chung, có thể nói công
tác xuất khẩu lao động của ta đã đạt được những yêu cầu cơ bản trong mục
tiêu đặt ra và góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam có thể chia thành hai thời
kỳ.
a, Thời kỳ hợp tác lao động quốc tế theo cơ chế bao cấp (1980-1990).
Thời kỳ này, lao động Việt Nam chủ yếu được đưa sang các nước xã
hội chủ nghĩa Đông Âu, gồm : Liên Xô (cũ), Cộng hoà dân chủ Đức (cũ),
Tiệp Khắc (cũ) và Bungari. Một bộ phận công nhân xây dựng với số lượng
đáng kể được đưa đi làm việc ở Irăc, Liby, Angiêri cùng với một số chuyên
gia trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và nông nghiệp sang làm việc tại nhưng
nước Châu Phi khác (Ăng - gô - la, Mô - zăm – bich, Công – gô, Y- ê –men,
Madagasca...).
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, khi đó nước ta là thành viên của
Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) nên hoạt động xuất khẩu lao động mang
tính chất hợp tác lao động, giúp đỡ lẫn nhau : bạn cần lao động để bù đắp sự
thiếu hụt lao động trong phát triển kinh tế đất nước; ta cần bạn giúp đào tạo
và nâng cao tay nghề cho người lao động và giải quyết việc làm cho bộ phận
lao động này. Nền kinh tế nước ta, đặc biệt là kinh tế đối ngoại, liên kết chặt
chẽ với các nước thành viên khác của SEV, cơ chế quản lý kinh tế của ta
cũng tương tự như cơ chế quản lý của các nước đó mang tính quản lý tập
trung, bao cấp.
10
Các nước như Irăc, Liby và các nước Châu Phi đón nhận lao động và
chuyên gia của Việt Nam cũng đều có cơ chế quản lý tương tự.
Vì vậy, cũng như các quan hệ kinh tế khác, quan hệ hợp tác sử dụng
lao động giữa ta và các nước nay đều thông qua các Hiệp định chính phủ,
thpả thuận giữa ngành với ngành. Trong bối cảnh đó, cơ chế hợp tác sử dụng
lao động và chuyên gia theo mô hình nhà nước trực tiếp ký kết và tổ chức
thực hiện đưa người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài.
Số lượng lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
trong thời kỳ này là gần 300.000 người, trong đó đi lao động ở 4 nước xã hội
chủ nghĩa (Liên Xô cũ, Cộng hoà dân chủ Đức cũ, Tiệp Khắc cũ và Bungari)
là 261.605 người; đi làm chuyên gia ở các nước Châu Phi là 7.200 người, đi
làm công nhân xây dựng ở Trung Đông khoảng 18.000 người, ngoài ra còn
có 23.713 thực tập sinh và học sinh học nghề tại các nước Đông Âu đã
chuyển sang lao động trong những năm 80.
Bảng 1. Số lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
(1980-1990)
LAO ĐỘNG PHÂN CHIA THEO KHU VỰC VÀ
NGÀNH NGHỀ
SỐ LƯỢNG
(người)
Tổng số 288.106
Bao gồm :
* Chuyên gia
* Lao động
Chia theo khu vực :
* Đi các nước XHCN
* Đi các nước ngoài XHCN
Chia theo ngành nghề :
* Cơ khí
* Công nghiệp nhẹ
* Hoá chất
* Công nghiệp thực phẩm
* Xây dựng và sản xuất vật liệu XD
* Nông, lâm nghiệp
* Các ngành khác
7.200
280.906
261.605
19.301
71.077
117.432
8.329
3.542
64.247
6.160
10.119
( Nguồn : Bản tin Việc làm ngoài nước - Số 6/1999)
11
Như vậy, hơn 10 năm hợp tác lao động với nước ngoài (1980 -1990)
ta đã thu được những kết quả đáng kể, song cũng còn một số tồn tại do hoàn
cảnh lịch sử lúc bấy giờ, do sự thiếu kinh nghiệm cũng như chưa có nghiệp
vụ chuyên môn và đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động này. Nhưng
chính từ đây chúng ta đã rút ra được những bài học kinh nghiệm vô cùng
quý báu để phát triển hoạt động xuất khẩu lao động cho giai đoạn sau.
b, Thời kỳ xuất khẩu lao động theo cơ chế thị trường (1991 – 6/2003)
Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu tiếp nhận lao động của ta đều xảy ra những biến động chính
trị lớn, dẫn đến sự thay đổi về thể chế chính trị và cơ chế kinh tế; ở nhiều
nước Châu Phi có chuyên gia ta làm việc cũng có khủng hoảng kinh tế,
chính trị; ở Irăc xảy ra chiến tranh. Vì vậy, phần lớn các nước này không còn
nhu cầu nhận tiếp lao động và chuyên gia Việt Nam, hoặc nếu có nhu cầu thì
cũng không nhận lao động và chuyên gia theo cơ chế như trước đây nữa.
Đồng thời, cơ chế quản lý kinh tế cua nước ta thời kỳ này đang từng bước
đổi mới chuyển dần sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước. Trước tình hình đó, nếu chúng ta không đổi mới cơ chế xuất khẩu thì
sẽ không đưa được lao động sang làm việc tại các khu vực mới, trong lúc ở
khu vực truyền thống ta có nguy cơ phải đưa về nước hàng loạt lao động và
chuyên gia khi vẫn chưa chuẩn bị được các điều kiện tiếp nhận và bố trí việc
làm, gây khó khăn và mất ổn định cho tình hình trong nước. Thực tiến khách
quan và chủ quan đặt ra yêu cầu bức bách là phải đổi mới cơ chế xuất khẩu
lao động và chuyên gia cho phù hợp với bối cảnh trong nước và quốc tế.
Một cơ chế mới về hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia được
hình thành, trong đó phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng
kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động. Nhà nước thống nhất quản lý xuất
khẩu lao động bằng các chính sách và quy định pháp lý. Các tổ chức kinh tế
thực hiện hoạt động kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động thông qua các
hợp đồng cung ứng lao động ký với bên nước ngoài.
Trong thời gian đầu chuyển đổi sang cơ chế mới, do các doanh nghiệp
mới thoát ra khỏi sự bao cấp của Nhà nước nên gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ
trong việc tìm kiếm thị trường lao động ngoài nước; đôi khi thậm chí trông
chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước, chưa có sự chủ động
trong việc khai thác hợp đồng. Các thị trường chủ yếu tiếp nhận lao động
của ta lâu nay do những bíên động về chính trị, kinh tế, xã hội đã không còn
khả năng tiếp nhận lao động Việt Nam như trước đây. Đối với thị trường
mới, ta còn chưa quen, thiếu nhiều thông tin, kinh nghiệm và kiến thức. Hơn
12
nữa, quan hệ đối ngoại trong môi trường quốc tế những năm đầu thập niên
90 (1991 -1993) chưa thuận lợi đối với ta. Trong tình hình đó, chỉ có một số
ít doanh nghiệp là ký hợp đồng đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài với số
lượng nhỏ, khoảng hơn 5000 lao động cho cả 3 năm này.
Những năm sau đó, các doanh nghiệp đã bước đầu có sự chủ động
trong nghiên cứu, tiếp thị và học tập kinh nghiệm từ các nước có truyền
thống xuất khẩu lao động và từng bước hoà nhập thị trường lao động quốc
tế. Cho đến nay, chúng ta đã tiếp cận và thâm nhập được vào thị trường lao
động thuộc trên 40 nước và khu vực trên thế giới như khu vực Đông và
Đông Nam Á, Trung Đông, Bắc Phi; ngoài ra ta đang từng bước mở rộng thị
trường lao động đến một số đảo Nam Thái Bình Dương và khu vực Bắc Mỹ.
Số lượng lao động Việt Nam được đưa đi làm việc ở nước ngoài tăng
nhanh qua các năm kể từ năm 1994, có giảm đáng kể vào năm 1998 do ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á nhưng lại đặc biệt
tăng mạnh từ thời điểm năm 1999 trở lại đây. Trong vòng hơn 12 năm qua,
Việt Nam có xấp xỉ 1/4 triệu người đi xuất khẩu lao động. Đặc biệt trong 6
tháng đầu năm 2003 ta đã đưa được 43.000 người đi xuất khẩu lao động, gần
bằng con số 46.122 người của cả năm 2002. Dự kiến trong năm nay ta sẽ
đưa được 5 vạn lao động và chuyên gia ra nước ngoài làm việc.
Bảng 2. Số liệu lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
(1991 - 06/2003)
Năm Số lượng (người)
1991 1.022
1992 816
1993 3.960
1994 9.230
1995 10.050
1996 12.660
1997 18.470
1998 12.240
1999 21.810
2000 31.500
2001 37.000
2002 46.122
06/2003 43.000
Tổng số 247.880
13
( Nguồn : Số liệu lưu trữ của Cục quản lý lao động với nước ngoài )
Thời kỳ này, số lượng người đi xuất khẩu lao động tăng mạnh qua
từng năm cho thấy sự đi lên về chất lượng cũng như nhận thức của người lao
động, sự cố gắng của Nhà nước cùng với sự vươn lên của các doanh nghiệp
xuất khẩu lao động. Hiện có gần 200 doanh nghiệp đã được Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội cấp giấy phép hoạt động xuất khẩu lao động và đa
phần các doanh nghiệp này hoạt động khá hiệu quả. Các doanh nghiệp lớn
như : VINACONEX, LOD, VIETRACIMEX, SIMCO, SOVILACO ... bình
quân hàng năm đưa được 1000 – 2000 lao động ra nước ngoài làm việc.
Ngành nghề xuất khẩu lao động cũng rất đa dạng, có đến trên 30 ngành nghề
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như : xây dựng, cơ khí, giúp việc gia đình và
khán hộ công, điện tử, dệt may, chế biến thuỷ sản, dịch vụ, vận tải biển,
đánh bắt chế biến hải sản, chuyên gia y tế, giáo dục, nông nghiệp, tin học
v.v.. Số lao động nữ hiện nay chiếm khoảng hơn 25%, tập trung chiếm ưu
thế ở các lĩnh vực : dệt, may (69%), điện tử (80%), chăm sóc người bệnh và
giúp việc gia đình (94%). Xuất khẩu lao động của Việt Nam đang không
ngừng vươn lên ngang tầm các nước có truyền thống xuất khẩu lao động ở
Châu Á như Philippines, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Bangladesh.... Tuy
nhiên, cần nhận thấy đây vẫn chỉ là những bước đi khởi đầu để tạo đà cho
các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam tiếp tục phấn đấu, mở rộng
thêm thị trường lao động và tăng số lượng cũng như chất lượng lao động
xuất khẩu trong thời gian tới.
Trong giai đoạn qua, bên cạnh việc góp phần giải quyết vấn đề việc
làm trong nước, xuất khẩu lao động còn mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể
cho đất nước. Lao động đi làm việc ở nước ngoài có thu nhập bằng ngoại tệ
có khả năng chuyển đổi thành ngoại tệ mạnh. Nguồn ngoại tệ này rất cần
thiết để xây dựng đất nước. Mức thu nhập của người lao động làm việc ở
nước ngoài thường cao hơn từ 6 – 10 lần thu nhập của người làm việc trong
nước. Mức thu nhập ròng hàng tháng (kể cả làm thêm giờ, sau khi đã trừ đi
chi phí sinh hoạt ngoài nước) bình quân đầu người khoảng 350USD/người.
Như vậy, với gần 250.000 lao động đã đưa đi, trung bình mỗi hợp đồng làm
việc là là 2 năm thì tổng số tiền được chuyển về cho đất nước ước tính
khoảng 2,8 tỷ USD. Chỉ tính riêng trong năm 2001, tổng số tiền lao động
Việt Nam làm việc ở nước ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau gửi về
nước đã đạt 1,3 tỷ USD. Đó là khoản thu lớn góp phần tăng nguồn thu ngoại
tệ cho đất nước, phục vụ thiết thực cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại
hoá nước nhà.
14
Tuy nhiên cần nhận thấy hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta
cũng còn nhiều bất cập, nhiều tồn tại cần khắc phục. Đầu tiên phải kể đến
công tác quản lý xuất khẩu lao động chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu
thực tế. Chưa tạo được sự phối hợp đồng bộ giữa các doanh nghiệp xuất
khẩu lao động với các cơ quan chức năng trong việc quản lý và chỉ đạo triển
khai thực hiện các hợp đồng lao động. Việc tuyển chọn và làm thủ tục cho
lao động dù đã có sự cải thiện nhiều trong những năm qua nhưng hiện vẫn
còn qua rất nhiều khâu trung gian nên người lao động phải mất nhiều thời
gian và chi phí bất hợp lý. Cá biệt vẫn có tình trạng lừa đảo, thu tiền bất
chính từ người lao động. Thêm vào đó, công tác đào tạo chuẩn bị nguồn lao
động trước khi đi cũng như quản lý lao động tại nước đến chưa được sự
quan tâm đúng mức từ phía doanh nghiệp, lao động trình độ tay nghề, trình
độ ngoại ngữ còn yếu, ý thức chấp hành nội quy và pháp luật nước sở tại rất
kém, dẫn đến tình trạng tỷ lệ lao động phá hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm
việc hay bị trả về nước do không đạt yêu cầu còn cao. Đây là những vấn đề
bức thiết mà chúng ta cần phải khắc phục và phải khắc phục nhanh để hoạt
động xuất khẩu lao động của nước ta thực sự đạt đến hiệu quả kinh tế - xã
hội tương xứng với tiềm năng và cơ hội của mình.
III – Vị trí, vai trò của khu vực thị trường các nước Đông và Đông Nam Á
đối với hoạt động xuất khẩu lao động nước ta.
1, Các thị trường xuất khẩu lao động hiện nay của nước ta.
Bước sang thời kỳ xuất khẩu lao động theo cơ chế thị trường, chúng ta
đã mất hầu hết các thị trường hợp tác lao động truyền thống trước đây, song
bằng nỗ lực của chính mình, ta đã tiếp cận mở thêm và phát triển được nhiều
thị trường xuất khẩu lao động mới. Trong vòng hơn 10 năm qua, ngành xuất
khẩu lao động nước ta đã đưa lao động Việt Nam đi làm việc tại trên 30 thị
trường thuộc nhiều khu vực khác nhau trên thế giới.
Các thị trường tiếp nhận lao động chủ yếu của nước ta hiện nay có thể
phân thành bốn khu vực thị trường bao gồm : khu vực thị trường Trung
Đông, khu vực thị trường Châu Phi, khu vực thị trường trên biển và khu vực
thị trường Đông và Đông Nam Á.
a, Khu vực thị trường Trung Đông :
15
Trung Đông là một trong những khu vực thu hút số lượng lao động
lớn nhất trên thế giới thường xuyên có khoảng 9 -10 triệu lao động ngoại
quốc làm việc tại các thị trường này) với các ngành nghề đa dạng : xây
dựng,
dầu khí, cơ khí, dệt may, giúp việc gia đình và chuyên gia các ngành. Khu
vực này có điều kiện làm việc rất khó khăn, khí hậu và môi trường sinh hoạt
rất khắc nghiệt, công việc chủ yếu làm ngoài trời nắng nóng, tiền lương thấp
(100 – 150 USD/tháng đối với lao động tay nghề thấp và 200 – 300
USD/tháng đối với công nhân kỹ thuật, kỹ sư, cán bộ quản lý) nhưng phải
chịu nhiều loại thuế, phong tục tập quán đạo Hồi nghiêm ngặt.
Thời gian vừa qua, một số doanh nghiệp Việt Nam đã đưa lao động
xây dựng, dệt may sang Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) với
số lượng không nhiều (tổng cộng khoảng gần 2000 người). Ngoài ra, một vài
doanh nghiệp khác đã nhận thầu công trình xây dựng ở Kuwait cũng đã đưa
lao động sang đây nhưng do chưa có kinh nghiệm tổ chức thi công và quản
lý lao động ở nước ngoài nên hoạt động chưa có mấy hiệu quả.
Tổng số lao động ta đã đưa sang thị trường Trung Đông từ năm 1991
– 2001 là 2.927 người, nhưng từ đầu năm 2002 đến nay ta không có thêm
lao động nào tại thị trường này.
b, Khu vực thị trường Châu Phi :
Ở Châu Phi có một số quốc gia có nhu cầu nhận lao động nước ngoài.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ta chủ yếu chỉ đưa lao động sang
Libya. Đây là thị trường tiếp nhận lao động tương đối ổn định của ta. Cho
đến nay, bằng hình thức cung ứng trực tiếp và cung ứng qua nước thứ ba, ta
đã đưa được trên 10.000 lượt lao động sang Libya làm việc trong lĩnh vực
xây dựng. Song do mức lương ở đây không cao (150 -200 USD/tháng), điều
kiện làm việc và sinh hoạt lại hết sức khắc nghiệt nên thị trường gần đây
không tỏ ra hấp dẫn người lao động.
Ngoài ra, tại một số nước Châu Phi khác tuy có tỷ lệ lao động cao
nhưng vẫn có nhu cầu nhận nhiều lao động nước ngoài cho các công trình
xây dựng. Các doanh nghiệp ta có khả năng đưa được số lượng lớn lao động
thông qua các công ty quốc tế thắng thầu ở khu vực này.
16
Bên cạnh đó, ta còn đưa một số chuyên gia nông nghiệp, y tế và giáo
dục sang các nước như Angola, Mozambique... nhưng với số lượng không
nhiều và không thường xuyên.
c, Khu vực thị trường trên biển :
Hiện nay, nhu cầu của thị trường thế giới đối với lao động trên biển
còn rất lớn. Trong thời gian qua, ta đã đưa được trên 26 nghìn lượt sĩ quan,
thuyền viên tàu vận tải, thuỷ thủ đánh bắt cá đi làm việc trên biển. Trong đó
hiện có trên 2.000 người đang làm việc trong các đội tàu của Hàn Quốc,
Nhật Bản, Na Uy, Đài Loan, Singapore và các nước khác. Tuy nhiên trên
thực tế lao động của ta vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của các chủ tàu cả về
số lượng và chất lượng.
d, Khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á :
Đây là khu vực thị trường chính mà em muốn đề cập đến trong khoá
luận tốt nghiệp này. Khu vực này chính xác hơn có thể chia thành hai nhóm
thị trường nhỏ hơn là : nhóm thị trường Đông Á (bao gồm Hàn Quốc, Nhật
Bản, Đài Loan) và nhóm thị trường Đông Nam Á (bao gồm Lào và
Malaysia). Vượt trên các khu vực thị trường đã kể trên, Đông và Đông Nam
Á là khu vực thị trường tiếp nhận lao động đi xuất khẩu chủ yếu nhất của
nước ta hiện nay. Khu vực này đồng thời cũng bao gồm những thị trường
tiếp nhận lao động có quy mô lớn nhất ở Châu Á với tổng số lao động nước
ngoài đi theo con đường hợp pháp lên đến trên 2.000.000 người, chưa kể
hàng triệu lao động nước ngoài nhập cư bất hợp pháp khác. Không chỉ lớn
mạnh về số lượng lao động nước ngoài tiếp nhận hàng năm, khu vực thị
trường Đông và Đông Nam Á còn rất đa dạng về ngành nghề tiếp nhận lao
động nước ngoài (gồm hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế), hình thức tiếp
nhận (hợp dồng tu nghiệp sinh hoặc lao động), trình độ lao động (lao động
phổ thông, công nhân kỹ thuật, chuyên gia)...
2, Vị trí, vai trò của khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á đối với hoạt
động xuất khẩu lao động nước ta.
17
Có thể nói không ngần ngại rằng khu vực Đông và Đông Nam Á là
khu vực thị trường xuất khẩu lao động có tầm quan trọng bậc nhất đối với
nước ta hiện nay và theo dự báo của các chuyên gia trong lĩnh vực xuất khẩu
lao động, khu vực thị trường này vẫn tiếp tục giữ vai trò chủ chốt cả trong
những năm tới đây.
Thứ nhất, khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á là khu vực thị
trường tiếp nhận lao động đi xuất khẩu chủ yếu nhất của nước ta hiện nay.
Ta có thể dễ dàng nhận thấy điều này khi xem Bảng 3 thống kê về số lượng
người Việt Nam đi xuất khẩu lao động theo từng khu vực thị trường trong
thời gian qua dưới đây.
Bảng 3. Số người đi xuất khẩu lao động theo từng khu vực thị trường
(1991 – 6/2003)
Khu vực thị trường Số lượng (người) Tỷ lệ (%)
Đông và Đông Nam Á 193.540 78,08
Trên biển 26.563 10,72
Châu Phi 12.695 5,12
Trung Đông 2.927 1,18
Các thị trường khác 12.156 4,9
Tổng số 247.880 100
(Nguồn : Tổng hợp số liệu báo cáo Cục Quản lý lao động với nước ngoài)
Số lao động Việt Nam đã và đang làm việc tại các thị trường thuộc
khu vực này chiếm đến 78,08% trong tổng số 247.880 lao động ta đã đưa đi
làm việc ở nước ngoài trong vòng hơn 10 năm qua; trong khi đó, các khu
vực thị trường khác nhiều nhất cũng chỉ chiếm đến trên dưới 10%. Có thể
thấy rõ đây là khu vực thị trường tập trung lao động đi xuất khẩu số một của
nước ta hiện nay.
Là khu vực thị trường có nhiều lao động Việt Nam sinh sống và làm
việc nhất, đây cũng đồng thời là khu vực cung cấp nguồn kiều hối lớn nhất
của ta. Năm 2002, lao động Việt Nam tại các thị trường này chuyển về nước
khoảng 1,2 tỷ USD, chiếm 80% trong tổng số 1,5 tỷ USD kiều hối mà ta
nhận được trong cả năm.
Thứ hai, khu vực thị trường này tiếp nhận lao động của ta với cơ cấu
rất đa dạng, bao gồm cả lao động phổ thông, công nhân kỹ thuật và chuyên
gia trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế. Chính khu vực thị trường này
18
đã giữ vai trò chủ yếu tạo nên tính đa dạng trong lĩnh vực xuất khẩu lao
động của ta.
Trong số lao động Việt Nam đưa sang các nước Đông và Đông Nam
Á, lượng lao động phổ thông chiếm tỷ lệ cao, lên đến 70%, chủ yếu là lao
động tại các vùng nông thôn. Trong bối cảnh tình trạng thất nghiệp ở nông
thôn Việt Nam còn tương đối phổ biến như hiện nay, như vậy khu vực thị
trường Đông và Đông Nam Á đã góp phần quan trọng để giải quyết vấn đề
trên thông qua con đường xuất khẩu lao động. Nhiều lao động phổ thông qua
quá trình làm việc tại đây, ngoài việc có được thu nhập đáng kể còn có điều
kiện học hỏi để trở thành lao động có nghề.
Thứ ba, trong số các khu vực thị trường xuất khẩu lao động của Việt
Nam, khu vực Đông và Đông Nam Á có điều kiện gần gũi nhất về địa lý,
điều kiện tự nhiên, nền văn hoá cũng như phong tục tập quán với ta. Đó là
những điều kiện vô cùng thuận lợi cho việc đưa lao động của ta sang làm
việc tại những thị trường này. Sự gần gũi về địa lý làm cho các chi phí đi lại,
liên lạc của lao động cũng như của doanh nghiệp xuất khẩu lao động thấp
hơn rất nhiều so với các khu vực thị trường khác. Trong khi sự gần gũi về
điều kiện tự nhiên, nền văn hoá, phong tục tập quán lại khiến giới chủ sử
dụng dễ dàng chấp nhận lao động Việt Nam vào làm việc, hai bên dễ dàng
tìm được tiếng nói chung trong công việc cũng như trong sinh hoạt hàng
ngày. Lao động Việt Nam có được nhiều thuận lợi hơn so với các khu vực
thị trường khác trong việc hoà nhập vào đời sống kinh tế xã hội của nước sở
tại. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng để Đông và Đông Nam
Á trở thành khu vực thị trường xuất khẩu lao động chủ chốt của nước ta.
Thứ tư, khu vực thị trường này tập trung những quốc gia có trình độ
khoa học kỹ thuật vào loại phát triển nhất trong khu vực và trên thế giới.
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan là những con rồng Châu Á với nền kinh tế
có hàm lượng khoa học công nghệ cao, Malaysia cũng có nền khoa học kỹ
thuật rất phát triển. Xuất khẩu lao động sang những thị trường là cơ hội quan
trong cho phép lao động ta tiếp cận với những thành tựu khoa học kỹ thuật
tiên tiến nhất.
Thứ năm, đây đồng thời là khu vực thị trường xuất khẩu lao động rất
có triển vọng trong tương lai. Một mặt, triển vọng thể hiện rõ ở nhu cầu lao
động nước ngoài còn rất lớn của những thị trường mà ta đã đưa lao động
sang làm việc. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Lào và đặc biệt là Malaysia
- thị trường mới mở gần đây đều có nhu câu rất lớn về lao động nước ngoài
mà lượng lao động đã tiếp nhận mới chỉ đáp ứng được một phần. Hơn nữa,
19
với đà phát triển kinh tế của những nước trên, dự báo nhu cầu này còn tăng
lên nhiều trong thời gian tới.
Ngoài ra, triển vọng còn thể hiện ở một số thị trường tiếp nhận lao
động nước ngoài có tiếng khác trong khu vực Đông và Đông Nam Á như
Singapore hay Bruney. Tuy trước mắt những thị trường này vẫn chưa chính
thức tiếp nhận lao động của ta (trừ một số ít y tá sang Singapore) song chính
phủ ta đang nỗ lực tiến hành nhiều hoạt động tích cực nhằm xúc tiến tiếp cận
tìm cách đưa lao động của ta sang đây.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM SANG
THỊ TRƯỜNG CÁC NƯỚC ĐÔNG VÀ ĐÔNG NAM Á
I – Vài nét về thị trường các nước Đông và Đông Nam Á
1, Thị trường Nhật Bản :
Nhật Bản là một quốc đảo với diện tích 377.682 km2, dân số
127.100.000 người, nền kinh tế đứng thứ ba trên thế giới. Với dân số có tỷ lệ
người già đã quá tuổi lao động chiếm đến 30% dân số và một nền kinh tế
phát triển như vậy, nhu cầu về lao động nước ngoài của Nhật Bản là rất lớn.
Tuy nhiên, Nhật Bản lại được các chuyên gia quốc tế nghiên cứu về xuất
khẩu lao động coi là một nước có chính sách đóng cửa với lao động nước
ngoài. Trong Luật kiểm tra về người nhập cư và di tản của Nhật Bản được
phê chuẩn năm 1990 đã quy định không được tuyển dụng lao động người
nước ngoài không nghề vào Nhật Bản, chỉ cho phép tuyển dụng những
chuyên gia có trình độ và những lao động đặc biệt lành nghề từ các quốc gia
khác. Song cũng từ đầu những năm 90, Nhật Bản đã đưa ra chính sách tiếp
nhận lao động từ các nước đang phát triển sang Nhật Bản tu nghiệp nâng
cao tay nghề theo "Chương trình tu nghiệp và thực tập kỹ thuật" tại các xí
nghiệp vừa và nhỏ với số lượng hàng năm khoảng 50.000 người, người lao
động được gọi là "tu nghiệp sinh". Theo quan điểm của các nhà hoạch định
20
chính sách Nhật Bản, đây là một biện pháp chuyển giao công nghệ cho các
nước đang phát triển, cũng là giảm số lượng lao động nước ngoài bất hợp
pháp tại đây, đồng thời đáp ứng nhu cầu lao động của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ đang thiếu lao động trầm trọng. Đối với các nước xuất khẩu lao động,
đây cũng là một biện pháp được hoan nghênh vì nó mở ra một kênh để đưa
lao động sang Nhật Bản. Tuy người lao động chỉ được hưởng quy chế tu
nghiệp sinh (ít quyền lợi hơn so với quy chế các lao động thông thường tại
Nhật Bản) và hưởng trợ cấp tu nghiệp, nhưng mức thu nhập này vẫn cao hơn
nhiều so với mức lương của người lao động ở nhiều thị trường khác, thông
thường đạt 670 – 780 USD/ tháng.
Nhật Bản tiếp nhận tu nghiệp sinh trong các ngành công nghiệp, nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và cả các ngành thủ công truyền thống.
Theo quy định, tu nghiệp sinh nước ngoài phải là người lao động đang làm
việc trong các doanh nghiệp của nước phái cử có nghề chuyên môn sẽ tu
nghiệp tại Nhật Bản. Họ được doanh nghiệp cử đi cam kết sẽ sẽ tiếp nhận lại
làm việc sau khi hết hạn tu nghiệp. Thời hạn tu nghiệp tại Nhật Bản từ 2 – 3
năm, tuỳ theo từng ngành nghề. Trong năm đầu tiên, tu nghiệp sinh vừa học
lý thuyết vừa được đào tạo thực hành trong sản xuất, hưởng quy chế trợ cấp
tu nghiệp. Từ năm 1994 đến nay, chính sách đối với lao động nước ngoài
của Nhật Bản được mở rộng thêm một bước : Sau khi kết thúc giai đoạn 1,
tu nghiệp sinh phải qua kỳ thi sát hạch tay nghề để chuyển qua giai đoạn 2,
nếu đạt, tu nghiệp sinh sẽ được hưởng quy chế nhận tiền công theo công việc
gần giống lao động thông thường.
Tham gia vào chương trình này của Nhật Bản có rất nhiều nước Châu
Á, chủ yếu là Trung Quốc, Thái Lan, Philippnines, Indonesia, Việt Nam,
Malaysia, Đài Loan và một số nước khác. Hiện có tổng cộng gần 320.000 tu
nghiệp sinh người nước ngoài hiện đang làm việc tại Nhật Bản, trong đó,
Trung Quốc là nước có số lượng tu nghiệp sinh lớn nhất với 123.117 người,
chiếm đến trên 40% tổng số tu nghiệp sinh nước ngoài tại Nhật Bản.
Nhật Bản bắt đầu tiếp nhận tu nghiệp sinh của Việt Nam từ năm 1992,
là một trong những thị trường xuất khẩu lao động sớm nhất của nước ta tại
khu vực Đông và Đông Nam Á. Thị trường Nhật Bản tương đối khó tính, chỉ
tiếp nhận lao động có nghề, lao động phải có trình độ tiếng Nhật cơ sở, đặc
biệt yêu cầu rất cao về tính kỷ luật của lao động; thêm vào đó thủ tục xin
visa nhập cảnh rất phức tạp và tốn nhiều thời gian, chi phí cho các khâu
trung gian, đặt cọc... rất cao (từ 8.000 – 10.000 USD). Do vậy, việc đưa tu
nghiệp sinh Việt Nam sang làm việc tại Nhật Bản cần có sự nỗ lực rất cao
cả từ phía người lao động và doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
21
Tuy nhiên, ở thị trường Nhật Bản cũng giống như ở thị trường Hàn
Quốc, phát sinh vấn đề tu nghiệp sinh nước ngoài tự ý bỏ hợp đồng, đi làm
việc tại doanh nghiệp khác có mức lương cao hơn và tu nghiệp sinh các
nước sau khi hết thời hạn làm việc không chịu về nước, trốn ở lại Nhật Bản
làm việc bất hợp pháp. Hiện tượng này tạo nên rất nhiều phức tạp về mặt xã
hội ở Nhật Bản. Tỷ lệ tu nghiệp sinh nước ngoài bỏ hợp đồng và trốn ở lại
làm việc cao là vấn đề đau đầu của cả giới chức Nhật Bản lẫn các nước phái
cử. Áp dụng các biện pháp hữu hiệu để giảm được tỷ lệ này chính là một
trong những vấn đề mấu chốt để nâng cao sức cạnh tranh của lao động nước
ta tại thị trường này.
2, Thị trường Hàn Quốc :
Hàn Quốc nằm ở khu vực Đông Á mà chính xác hơn là ở Đông Bắc
Á, diện tích 99.600 km2, dân số 48.800.000 người. Hàn Quốc là một nước
công nghiệp phát triển với nền công nghệ điện tử cao dựa trên hàm lượng
cao về khoa học và công nghệ. Nền kinh tế Hàn Quốc đạt tỷ lệ tăng trưởng
cao bắt đầu từ thập niên 60 và trong vòng 25 năm kể từ năm 1967 đến 1991,
giá trị GNP của Hàn Quốc đã tăng 7,3 lần.
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế cao, nhu cầu sử dụng lao động cũng
ngày một tăng mạnh. Hơn thế nữa mức tiền lương của người lao động Hàn
Quốc cũng tăng cao nhanh chóng. Những điều này đã khiến cho lao động
Hàn Quốc có sự lựa chọn chỗ làm việc. Họ từ chối làm việc ở những chỗ
lương thấp hoặc trong những ngành thuộc khu vực 3D (dangerous, dificult,
dirty – nguy hiểm, khó khăn và độc hại) mà chuyển sang các ngành dịch vụ,
văn phòng hay kỹ thuật cao. Tình hình đó đã khiến Hàn Quốc phải đối phó
với sự mất cân đối về cung và cầu lao động, tỷ lệ thất nghiệp ở Hàn Quốc dù
rất cao nhưng những công việc có mức lương thấp hoặc thuộc khu vực 3D
nói trên thì vẫn rất thiếu nhân công. Để bù đắp sự thiếu hụt đó, Hàn Quốc
buộc phải nhập khẩu lao động nước ngoài. Tháng 11/1993, chính phủ Hàn
Quốc đã triển khai hệ thống tu nghiệp sinh công nghiệp, cho phép các doanh
nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất tiếp nhận người nước
ngoài với danh nghĩa tu nghiệp sinh. Năm 1996, chủ trương này đã được mở
rộng ra các lĩnh vực đánh cá, nông nghiệp và xây dựng.
Chương trình tu nghiệp sinh của Hàn Quốc có nhiều điểm giống với
chương trình này tại Nhật Bản. Nhưng khác với Nhật Bản - các chủ sử dụng
trực tiếp tuyển chọn và tiếp nhận lao động - tại Hàn Quốc, chính phủ giao
cho 4 hiệp hội bao gồm Hiệp hội các doanh nghiệp vừa và nhỏ Hàn Quốc
22
(KFSB), Hiệp hội xây dựng Hàn Quốc (CAK), Hiệp hội các tổ hợp nông
nghiệp Hàn Quốc, Hiệp hội các tổ hợp ngư nghiệp Hàn Quốc, đứng ra làm
đầu mối tiếp nhận tu nghiệp sinh nước ngoài về giao cho các doanh nghiệp.
Chi tiêu tu nghiệp sinh nước ngoài được phép tiếp nhận được phân bổ cho
các doanh nghiệp theo từng khu vực ngành nghề với phần lớn chỉ tiêu thuộc
về KFSB. Ví dụ như : năm 2003, Hàn Quốc chủ trương tiếp nhận 145.500 tu
nghiệp sinh nước ngoài, trong đó khu vực các doanh nghiệp sản xuất vừa và
nhỏ được tiếp nhận 130.000 người, ngành đánh bắt cá : 3.000 người, nông
nghiệp : 5.000 người và xây dựng 7.500 người.
Thời hạn làm việc của tu nghiệp sinh tại Hàn Quốc là 3 năm, trong đó
thời gian học việc là 1 năm. Từ 17/7/2002, Cục phát triển nhân lực Hàn
Quốc (HRDS) quy định : hết năm thứ nhất nếu tu nghiệp sinh qua khoá học
kéo dài 3 ngày tại các trung tâm của HRDS sẽ được gia hạn visa 2 năm,
chuyển qua chế độ lao động (được hưởng lương và bảo hiểm như người lao
động thông thường), nếu làm việc tốt họ còn có thể được gia hạn hợp đồng
thêm 1 năm. Trước đây, sau giai đoan học nghề, tu nghiệp sinh nước ngoài
vẫn phải trải qua kỳ sát hạch để được cấp giấy phép lao động 2 năm. Nhưng
từ năm 2000 – 2002, có đến 23,2% thí sinh tham dự kỳ thi sát hạch này
không đỗ, nhiều người đã trốn khỏi hợp đồng, ở lại bất hợp pháp ở Hàn
Quốc. Chính sách mới đưa ra một mặt để bảo vệ quyền lợi của người lao
động nước ngoài, mặt khác cũng để phần nào ngăn ngừa tình trạng tu nghiệp
sinh trốn bỏ hợp đồng vốn đã quá nghiêm trọng ở Hàn Quốc.
Về thu nhập của tu nghiệp sinh kỹ thuật tại Hàn Quốc, trong thời kỳ
đầu, KFSB quy định mức lương cho tu nghiệp sinh nước ngoài theo từng
quốc tịch (cao nhất là tu nghiệp sinh Trung Quốc, sau đó đến Phillipines,
Việt Nam đứng thứ 3). Nhưng sau này, do nhiều vấn đề phát sinh, chính phủ
Hàn Quốc quy định cho mọi tu nghiệp sinh nước ngoài được hưởng mức
lương tối thiểu của Hàn Quốc. Mức lương tối thiểu này thường xuyên được
điều chỉnh qua từng thời kỳ, hiện nay vào khoảng 480 USD/tháng. Khi
chuyển qua chế độ lao động, lương bình quân của người lao động có thể đạt
từ 600 – 700 USD/tháng, trên thực tế người lao động còn có mức thu nhập
cao hơn thế nhiều do có thời gian làm thêm giờ.
Chương trình tu nghiệp sinh kỹ thuật thực hiện từ năm 1993 đến nay
với tổng chỉ tiêu 130.000 người được phân bổ cho các quốc gia phái cử.
Hiện nay có tất cả 15 nước Châu Á tham gia vào chương trình này của Hàn
Quốc, trong đó nước có số lượng tu nghiệp sinh lớn nhất là Trung Quốc với
chỉ tiêu 30.790 người, chiếm 23,7%; thứ hai là Indonesia với chỉ tiêu 22.480
23
người, chiếm 17,3%; Việt Nam đứng thứ 3 với chỉ tiêu 18.770 người chiếm
14,4%.
Vấn đề nổi cộm nhất với thị trường Hàn Quốc hiện nay là tình trạng
lao động bất hợp pháp. Số lao động bất hợp pháp này - bao gồm những lao
động nước ngoài nhập cư bất hợp pháp vào Hàn Quốc và các tu nghiệp sinh,
lao động trong khuôn khổ Chương trình tu nghiệp sinh kỹ thuật bỏ hợp đồng
trốn ra ngoài tìm việc làm có thu nhập cao hơn trở thành lao động nước
ngoài bất hợp pháp – đã gia tăng đến con số báo động. Theo công bố của
chính phủ Hàn Quốc, đến cuối tháng 10/2002, trong số 603.294 người nước
ngoài sinh sống ở Hàn Quốc thì đã có đến 287.639 người là lao động bất hợp
pháp (chiếm 47,7%). Tỷ lệ tu nghiệp sinh nước ngoài tự ý phá hợp đồng,
trốn ra ngoài làm việc trung bình vào khoảng 56%, trong đó cao nhất là
Bangladesh : 78,60%, thứ hai là Myanmar : 72,90% và Việt Nam – đứng thứ
ba với 59,25%.
Việt Nam tham gia vào Chương trình tu nghiệp sinh sinh kỹ thuật của
Hàn Quốc ngay từ thời kỳ đầu. Thị trường Hàn Quốc không khó tính như thị
trường Nhật Bản. Tiêu chuẩn đối với lao động đi làm việc tại Hàn Quốc là
có sức khoẻ tốt và chăm chỉ làm việc. Phía Hàn Quốc chỉ yêu cầu tuyển lao
động phổ thông, không cần có nghề, do vậy đây là một thị trường đầy tiềm
năng với lao động Việt Nam. Tuy nhiên, muốn duy trì và tiếp tục phát triển
thị trường này thì chúng ta nhất định cần phải giải quyết dứt điểm tình trạng
tu nghiệp sinh Việt Nam bỏ hợp đồng ra ngoài làm việc bất hợp pháp và bỏ
trốn không chịu về nước sau khi đã kết thúc thời hạn hợp đồng.
3, Thị trường Đài Loan :
Đài Loan nằm cách bờ biển Đông Nam lục địa Trung Hoa khoảng 150
km, ngăn cách với lục địa Trung Hoa bởi eo biển Đài Loan. Đài Loan bao
gồm 64 đảo lớn nhỏ thuộc quần đảo Bành Hồ và trên 20 đảo khác với tổng
diện tích trên 53.960 km2. Đài Loan cách Philippnes 350 km và Nhật Bản
1090 km, dân số có trên 22 triệu người. Thủ phủ Đài Bắc là nơi có mật độ
dân số cao nhất, tiếp sau đó là thành phố Cao Hùng ở phía Nam. Gần 60%
dân số Đài Loan tập trung ở 4 thành phố lớn : Đài Bắc, Cao Hùng, Đài
Trung và Đài Nam. Đó cũng là những địa phương tiếp nhận lao động nước
ngoài chủ yếu, đa phần lao động nước ngoài tập trung tại 4 thành phố này và
các khu vực phụ cận.
Từ năm 1989, do sức ép của vệc nâng lương trong nước cũng như cần
tiến hành nhiều dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, để giải quyết tình trạng thiếu
24
nhân lực, chính quyền Đài Loan đã mở cửa cho phép nhận lao động nước
ngoài vào làm việc.
Không giống như Nhật Bản, Hàn Quốc tuyển dụng lao động nước
ngoài theo quy chế tu nghiệp sinh, Đài Loan có chính sách nhận lao động
nước ngoài chính thức (ký hợp đồng lao động chính thức), có hệ thống luật
lệ và quy chế tương đối rõ ràng và chặt chẽ với lao động nước ngoài. Từ đầu
những năm 90, Đài Loan đã nhận lao động từ 4 nước Thái Lan, Philippines,
Malaysia và Indonesia, đến cuối năm 1999 tiếp nhận thêm lao động Việt
Nam. Khởi đầu quy mô lao động nước ngoài bị chính quyền giới hạn khoảng
15.000 người/năm. Những năm gần đây, con số này được nâng lên và dao
động trong khoảng 240.000 đến trên dưới 300.000 người/năm. Theo số liệu
của Uỷ ban lao động Đài Loan (CLA), tính đến cuối tháng 5/2003 số lượng
lao động nước ngoài làm việc tại Đài Loan là 301.780 người, trong đó : Thái
Lan : 110.782 người (chiếm 36.7%); Indonesia : 79.777 người (chiếm
26,44%); Philippines : 71.516 người (chiếm 23,7%); Việt Nam : 36.675
người (chiếm 13,15%), Malaysia : 30 người (chiếm xấp xỉ 1%)
Trong số lao động nước ngoài làm việc tại Đài Loan, có khoảng
140.000 lao động (chiếm 46%) làm nghề giúp việc gia đình, chủ yếu là chăm
sóc người già và trẻ em; 92.035 lao động làm việc trong các doanh nghiệp
sản xuất chế tạo (chiếm 36,8%); 47.803 người làm việc trong các dự án đầu
tư lớn của nước ngoài (chiếm 16%); 573 lao động làm việc trong các dự án
xây dựng của tư nhân (chiếm 0.2%) và 3156 lao động làm thuỷ thủ tàu cá
(chiếm 1%).
Lao động nước ngoài làm việc tại Đài Loan được điều chỉnh bởi một
hệ thống luật pháp tương đối đầy đủ và thống nhất cho mọi nước có lao động
đi làm việc tại Đài Loan. Hợp đồng lao động thường có thời hạn là 2 năm,
sau khi hết hạn được gia hạn một lần và thời gian gia hạn không được quá 1
năm. Đài Loan vẫn duy trì chế độ ngày làm việc 8h/ngày và 6 ngày/tuần, từ
tháng 1/2001 là 5,5 ngày/tuần(trừ một số ngành nghề đặc thù như giúp việc
gia đình và khán hộ công). Nếu có nhu cầu làm thêm giờ thì doanh nghiệp
và người lao động phải có sự thoả thuận trên cơ sở tuân thủ các quy định của
Luật lao động tiêu chuẩn Đài Loan. Tiền lương cơ bản cho mỗi lao động là
15840 Đài tệ/tháng (khoảng 450 USD), nếu cộng thêm tiền làm thêm giờ
mức lương bình quân là 20.000 Đài tệ/tháng. Riêng trong ngành điện tử, nếu
25
1 ngày làm việc 12 giờ thì tiền lương đạt 30.000 Đài tệ, nhưng cũng có
trường hợp không làm thêm giờ thì tiền lương chỉ được 15.840 Đài tệ.
Đương nhiên lương cơ bản của lao động nước ngoài và của người bản xứ là
không giống nhau và cũng khác nhau khi làm ở các lĩnh vưc khác nhau. Mức
lương này có thể được điều chỉnh tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh
tế. Người lao động được tham gia bảo hiểm lao động, bảo hiểm y tế và phải
nộp thuế thu nhập (6% thu nhập chịu thuế nếu số ngày làm việc trong năm
lớn hơn 183 ngày và 20% nếu số ngày làm việc trong năm không đủ 183
ngày).
Việc cung ứng lao động nước ngoài sang Đài Loan có thể qua một
trong hai kênh sau :
Kênh thứ nhất, chủ sử dụng trực tiếp tuyển dụng người lao động nước
ngoài và trực tiếp thuê chuyên gia đến làm nhiệm vụ quản lý lao động. Đi
theo kênh này là các xí nghiệp lớn hoặc các chủ công trình bao thầu lớn và
thực tế cho thấy đi qua kênh này cũng chỉ có khoảng gần 10% số lao động
nước ngoài làm việc tai Đài Loan, với lao động Việt Nam hầu như hoàn toàn
không sử dụng kênh này.
Kênh thứ hai, các hợp đồng được ký thông qua các công ty môi giới,
các công ty có chức năng tìm kiếm các quota nhận lao động, tuyển dụng lao
động theo sự uỷ quyền của chủ sử dụng lao động và tham gia vào quá trình
quản lý lao động nước ngoài tại Đài Loan. Trên 90% số lao động nước ngoài
làm việc tại Đài Loan đã đi theo kênh này. Phí môi giới do người lao động
phải chịu, mức phí này thường khá cao. Mặc dù chính phủ Đài Loan đã quy
định rõ : " Công ty môi giới không được thu phí môi giới của người lao động
nước ngoài làm việc trong mọi lĩnh vực" nhưng trên thực tế, các công ty môi
giới Đài Loan vẫn thường thu của người lao động từ 56.000 Đài tệ (1750
USD) cho đến 90.000 Đài tệ (2810 USD) cho mỗi hợp đồng, khoản phí môi
giới này - được nguỵ trang dưới nhiều tên gọi khác nhau để "lách luật" -
thậm chí còn cao hơn thế do các công ty cung ứng lao động nước ngoài đã
không ngừng tăng cao chi phí môi giới trả cho các công ty môi giới Đài
Loan nhằm tranh giành các quota lao động. Ngoài chi phí môi giới, người
lao động còn phải chi thêm một khoản tiền phục vụ cho công tác quản lý,
mức phí này dao động trong khoảng 1500 - 1800 Đài tệ/ tháng.
Thị trường Đài Loan cũng là một thị trường tương đối khó tính, Đài
Loan chủ yếu nhận lao động có nghề, phải biết tiếng Hoa ở mức độ cơ sở và
có những quy đinh rất ngặt nghèo về sức khoẻ. Đồng thời, đây cũng là một
thị trường có tính cạnh tranh cao. Cho đến hiện nay số lượng lao động của
26
chúng ta tại thị trường này vẫn đứng sau Thái Lan, Indonesia và Philippines.
Những nước này đã có mặt tại thị trường Đài Loan từ những năm 1990
-1991, trong khi nước ta mới bắt đầu từ năm 1999. Lao động Thái Lan
chiếm số lượng đông nhất trong số lao động nước ngoài làm việc tại Đài
Loan, được đánh giá là cần cù, chịu khó, có sức khoẻ và dẻo dai. Số lao
động Indonesia đứng thứ hai, chăm chỉ, nhẫn nại, hơi yếu về tiếng Hoa
nhưng bù lại có sức khoẻ và tính kỷ luật cao. Lao động Phippines thì khá
tiếng Hoa, đặc biệt là tiếng Anh, có trình độ, chuyên môn tốt, tuy có nhược
điểm là hay cãi chủ và hay xin nghỉ. Trong khi đó, các công ty cung ứng lao
động của Thái Lan và Indonesia sẵn sàng chấp nhận mức phí môi giới cao
để kéo các đơn hàng về mình. Chi phí vé máy bay của nước ta đến Đài Loan
lại cao hơn mặt bằng chung trong khu vực rất nhiều khiến các chủ sử dụng
phải tính toán, lựa chọn giữa việc tuyển mộ lao động nước ta với lao động
các nước khác để giảm tiền vé máy bay. Nói chung, những "đối thủ" của
chúng ta rất mạnh và cạnh tranh tìm được chỗ đứng trong một thị trường như
vậy là một điều hoàn toàn không dễ dàng. Tuy Philippines và Indonesia hiện
nay đều đã bị "đông kết" không được phép đưa lao động vào thị trường Đài
Loan nữa nhưng khả năng mở cửa lại với các nước cung ứng lao động này
vẫn còn, nghĩa là nguy cơ cạnh tranh với lao động Việt Nam là rất lớn. Vấn
đề chủ yếu đặt ra với chúng ta khi đưa lao động sang làm việc tại thị trường
này là phải tổ chức đào tạo, giáo dục định hướng cho người lao động thật tốt,
đảm bảo trang bị đầy đủ cho người lao động những kiến thức về công việc,
ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Hoa) và pháp luật, phong tục, tập quán Đài Loan
nhằm nâng cao chất lượng lao động. Ngoài ra, chúng ta cần chú ý khắc phục
và ngăn chặn tình trạng lao động tự ý phá bỏ hợp đồng, trốn ra ngoài làm
việc bất hợp pháp, tránh dẫm lại "vết xe đổ" của Indonesia (đã bị "đông kết"
ngừng tiếp nhận lao động từ tháng 8/2002 do có tỷ lệ lao động bỏ trốn quá
cao). Điều này chỉ có thể làm được khi các công ty cung ứng làm tốt công
tác tuyển chọn, thực hiện chế độ tài chính rõ ràng với người lao động, tiến
hành công tác giáo dục đào tạo tốt đồng thời quản lý theo dõi sát xao tình
hình sinh hoạt và làm việc của người lao động. Người lao động cũng phải tự
nhận thức được quyền lợi và trách nhiệm của mình khi làm việc tại thị
trường này, quyền lợi của bản thân phải gắn liền với quyền lợi của cộng
đồng và của xã hội.
4, Thị trường Malaysia :
Malaysia nằm ở khu vực Đông Nam Á, diện tích khoảng 330.417
km2. Nước này có 13 bang, mỗi bang có đặc điểm và tính chất khác nhau.
Dân số malaysia là 23,7 triệu người, trong đó người Mã Lai chiếm hơn 50%,
27