Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Phân biệt hộ kinh doanh và doanh nghiệp tư nhân.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.47 KB, 4 trang )

Phân biệt hộ kinh doanh và doanh nghiệp tư nhân.
Bài làm :
Doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh là loại hình kinh tế đơn giản trong
các loại hình kinh tế, Giữa chúng, ngoài những điểm tương đồng như : không có tư
cách pháp nhân,tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình bằng toàn bộ tài
sản, không được phép phát hành chứng khoán…còn có những khác biệt. Phân biệt
2 loại hình kinh tế này có ý nghĩa to lớn trong cả lí luận và thực tiễn.
Doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh được điều chỉnh chính bởi 2 văn
bản khác nhau là Luật doanh nghiệp và Nghị định chính phủ số 43/ 2010. Định
nghĩa hai loại hình này như sau :
Điều 141 luật Doanh nghiệp 2005 định nghĩa về doanh nghiệp tư nhân:
“1. Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
2. Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
3. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.”
Điều 49, Nghị định chính phủ số 43/ 2010/ NĐ-CP ngày 15/04/2010 về đăng
kí doanh nghiệp quy định về hộ kinh doanh :
“1. Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người
hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử
dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.
2. Hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối và những người bán hàng
rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, làm dịch vụ có thu nhập thấp
không phải đăng ký, trừ trường hợp kinh doanh các ngành, nghề có điều kiện. Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định mức thu nhập thấp
áp dụng trên phạm vi địa phương.
3. Hộ kinh doanh có sử dụng thường xuyên hơn mười lao động phải chuyển đổi
sang hoạt động theo hình thức doanh nghiệp.”
Qua các định nghĩa trên, những đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân và hộ
gia đình ta có thể thấy sự khác biệt giữa 2 đơn vị kinh tế này thể hiện ở những khía
cạnh sau :


- Thứ nhất là về chủ thể :
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ còn hộ
kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một
hộ gia đình làm chủ. Như vậy, về chủ sở hữu giữa 2 loại hình có sự khác nhau về
số lượng. Một bên là doanh nghiệp 1 chủ, góp toàn bộ vốn, tự chịu toàn bộ lợi ích
và trách nhiệm, một bên là không nhất thiết 1 chủ mà có thể là 1 nhóm người, 1 hộ
gia đình cùng góp vốn quản lí, phát triển và chịu trách nhiệm.
Chủ thể của loại hình hộ kinh doanh phải là công dân Việt Nam, còn chủ
thể trong doanh nghiệp tư nhân ngoài là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi (Điều 50
Nghị định chính phủ số 43/ 2010/ NĐ-CP) còn có thể là người nước ngoài, thỏa
mãn các điều kiện về hành vi thương mại do pháp luật đất nước đó quy định.
- Thứ 2, về quy mô kinh doanh :
Thường quy mô kinh doanh của hộ kinh doanh nhỏ hơn của doanh nghiệp tư
nhân. Theo những quy định của pháp luật hiện hành, doanh nghiệp tư nhân không
giới hạn quy mô vốn, không giới hạn địa điểm kinh doanh trong khi “đối với hộ
kinh doanh buôn chuyến, kinh doanh lưu động thì phải chọn một địa điểm cố định
để đăng ký hộ kinh doanh. Địa điểm này có thể là nơi đăng ký hộ khẩu thường trú,
nơi đăng ký tạm trú hoặc địa điểm thường xuyên kinh doanh nhất, nơi đặt địa điểm
thu mua giao dịch. Hộ kinh doanh buôn chuyến, kinh doanh lưu động được phép
kinh doanh ngoài địa điểm đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh nhưng phải
thông báo cho cơ quan thuế, cơ quan quản lý thị trường nơi đăng ký trụ sở và nơi
tiến hành hoạt động kinh doanh”.( Điều 54 Nghị định chính phủ số 43/ 2010/ NĐ-
CP ngày 15/04/2010 về đăng kí doanh nghiệp quy định về hộ kinh doanh). Về địa
điểm kinh doanh, hộ kinh doanh có nhiều hạn chế hơn doanh nghiệp tư nhân.
Ngoài ra, doanh nghiệp tư nhân được phép Kinh doanh xuất khẩu, nhập
khẩu (khoản 4, Điều 8, luật doanh nghiệp) còn hộ kinh doanh thì không có quyền
này. Hộ kinh doanh chỉ được giới hạn số nhân công không được quá 10 người
trong khi doanh nghiệp tư nhân thì không hạn chế số nhân công.
Thứ 3, về đăng kí kinh doanh. Đã là doanh nghiệp tư nhân thì bắt buộc phải
đăng kí kinh doanh, còn hộ kinh doanh thì chỉ một số trường hợp nhất định .Cơ

quan đăng kí kinh doanh của hộ gia đình là cấp huyện(phòng tài chính kế hoạch
hoặc phòng kinh tế) và không có con dấu . Doanh nghiệp tư nhân thì phải đăng kí
tại cơ quan đăng kí kinh doanh cấp tỉnh để được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh
doanh . Doanh nghiệp tư nhân phải có con dấu chính thức trong quản lí, được cơ
quan công an cấp.
Đây chỉ là những khác biệt cơ bản giữa doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh
doanh. Mặc dù vậy, ta vẫn dễ dàng nhận thấy so với hộ kinh doanh thì hình thức
doanh nghiệp tư nhân hiện đại và chặt chẽ hơn. Hiện nay, ở Việt Nam có 1,3 triệu
hộ kinh doanh và hơn 500.000 doanh nghiệp. Nhà nước tạo điều kiện cho người
dân chuyển đổi loại hình hộ kinh doanh sang doanh nghiệp để dễ quản lý và thực
hiện tốt hơn các chính sách kinh tế. Việc nghiên cứu và phân tích sự khác nhau
giữa các loại hình này là một bước tất yếu để nhà nước có thể quản lý kinh tế theo
đúng ý chí của mình.
Tài liệu tham khảo :
1. Luật Doanh nghiệp 2005
2. Nghị định chính phủ số 43/ 2010/ NĐ-CP ngày 15/04/2010 về đăng kí doanh
nghiệp quy định về hộ kinh doanh
3. “Giáo trình luật Thương mại” tập 1, trường Đại học Luật Hà Nội, NXB CAND,
Hà Nội, 2006.
4. Nghị định số 139/2007/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh
Nghiệp.

×