Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Sự du nhập, phát triển của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần ở Nhật Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.4 KB, 91 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội đặc biệt, ra đời và tồn tại hàng
vạn năm nay với nhân loại, là nhu cầu tinh thần của một bộ phận đông đảo
nhân dân ở hầu khắp các quốc gia trên hành tinh này. Với con số hàng tỷ
người trên thế giới và gần như 100% dân cư ở nhiều nước cụ thể theo các
tôn giáo khác nhau đã nói rõ nhu cầu đó. Tôn giáo đã có ảnh hưởng mạnh
mẽ đến đời sống xã hội nhiều mặt của con người.
Tuy nhiên, xung quanh hiện tượng tôn giáo đang còn nhiều ý kiến
khác nhau trong giới nghiên cứu (và có thể nói là một trong những hiện
tượng xã hội có nhiều tranh cãi nhất). Chẳng hạn, tôn giáo là một hiện
tượng tích cực hay tiêu cực, có ảnh hưởng tốt hay xấu đến đời sống con
người, xã hội và đánh giá nó trên cơ sở khoa học nào. Về mặt hình thái ý
thức xã hội, tôn giáo lâu nay được xem như đối lập với khoa học và nếu
vậy thì cắt nghĩa như thế nào về hiện tượng tôn giáo có chiều hướng gia
tăng hiện nay trong khi có sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ
trên phạm vi toàn thế giới cũng như mỗi quốc gia? vấn đề quan hệ hay tác
động, ảnh hưởng qua lại giữa tôn giáo với chính trị, văn hóa, đạo đức, khoa
học... như thế nào và bản thân tôn giáo trong nội dung các quan niệm của
mình có chứa đựng các yếu tố chính trị, văn hóa, đạo đức, khoa học không?...
Có thể nói, những vấn đề trên đây là những vấn đề có phạm vi rộng
lớn và có tính thời sự cấp thiết, nhất là vấn đề ảnh hưởng của tôn giáo đối
với xã hội, con người cần được quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học trên các lĩnh vực khác nhau.
Nhật Bản là quốc gia có trình độ phát triển cao trên nhiều lĩnh vực.
Trong những nguyên nhân tạo nên thành công chung của quốc gia này phải
1
kể đến sự tác động của một nền văn hóa rất độc đáo mang bản sắc Nhật
Bản (bao gồm văn hóa Phật giáo). Chỉ có nghiên cứu chính nền văn hóa
Nhật Bản trong đó có văn hóa Phật giáo mới giúp ta cắt nghĩa được một
phần thành công của đất nước này trong sự phát triển.


Khi nghiên cứu quá trình du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản hiện
vẫn còn nhiều ý kiến cho rằng, đó chỉ là sự bành trướng tư tưởng, văn hóa
Trung Hoa hơn là nhu cầu nội tại của nước Nhật, và mặc dù các môn phái
Bukkyo (đạo Phật) ở đây trong thế giới quan của mình còn chứa đựng những
yếu tố tiêu cực, song khách quan mà nói, đạo Phật ở Nhật Bản nói chung đã
có những đóng góp tích cực cho sự phát triển xã hội Nhật Bản trong lịch sử
cũng như hiện tại. Nghiên cứu những đóng góp đó sẽ có ý nghĩa bổ ích cho
sự chế định những chính sách kinh tế - xã hội của một quốc gia.
Trong lịch sử nhân loại, tuy giữa các nước có những khác biệt về
truyền thống thể hiện qua phong tục, tập quán, tính cách, lối ứng xử của
nhân dân và mọi đặc tính văn hóa khác do lịch sử để lại, song giữa các dân
tộc vẫn có nhiều nét tương đồng, nhất là đối với Việt Nam và Nhật Bản là
những quốc gia cùng nằm trong cộng đồng châu Á, cùng có chung một
xuất phát điểm về kinh tế là nông nghiệp lúa nước, mà điểm nổi bật nhất là
cả hai nước đều mang dấu ấn đậm nét của văn hóa Trung Hoa. Do đó,
nghiên cứu Nhật Bản nói chung, văn hóa Nhật Bản (bao gồm văn hóa Phật
giáo) nói riêng, chắc chắn Việt Nam sẽ tìm được một phần những bài học
kinh nghiệm bổ ích cho sự phát triển đất nước mình. Vì vậy, chúng tôi chọn
vấn đề "Sự du nhập, phát triển của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến
đời sống văn hóa tinh thần ở Nhật Bản" làm đề tài luận văn thạc sĩ của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
2
Mấy chục năm gần đây, do quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản
càng ngày càng thắt chặt, nhu cầu tiếp xúc, học hỏi Nhật Bản tăng lên,
nhiều tác phẩm bàn về văn hóa Nhật Bản được giới thiệu. Đáng chú ý là bộ
sách Lịch sử văn hóa Nhật Bản của G.B. Samson (Nxb Khoa học xã hội,
năm 1995) hay Chân dung văn hóa đất nước mặt trời mọc của Hữu Ngọc,
xuất bản năm 1993. Trong những tác phẩm đó, vấn đề Phật giáo ở Nhật
Bản cũng đã được đề cập. Có thể thấy, Phật giáo được xem là một trong

những nhân tố góp phần tạo nên diện mạo văn hóa đầy tính đa sắc, độc đáo
của Nhật Bản.
Ngoài những tác phẩm đã được kể trên, những công trình khoa học
khác như Nhật Bản tăng cường hiểu biết và hợp tác (1994-1995); Sổ tay
nghệ thuật Nhật Bản (dịch năm 1990) hay nhiều công trình trên tạp chí
Nghiên cứu Nhật Bản đã đưa lại một cách nhìn ngày càng đầy đủ và chân
thực về văn hóa Nhật Bản nói chung, diện mạo Phật giáo Nhật Bản nói riêng.
Mặc dù vậy, việc nghiên cứu một cách khái quát, hệ thống lịch sử
Phật giáo ở Nhật Bản cũng như những ảnh hưởng của nó đối với đời sống
xã hội vẫn rất cần được tiếp xúc. Lý do cơ bản trong nghiên cứu Phật giáo
ở Nhật Bản vẫn đang tồn tại nhiều bất đồng. Chẳng hạn những nguyên
nhân nào làm cho Phật giáo tồn tại và phát triển ở Nhật Bản hay trong đời
sống tinh thần của người Nhật hiện nay thì Phật giáo có vị thế đến đâu? Tại
sao Thiền là yếu tố trội của Phật giáo ở Nhật Bản?...
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Khái quát một số đặc điểm cơ bản của quá trình du nhập, phát triển
của Phật giáo ở Nhật Bản cũng như một số ảnh hưởng của nó đến đời sống
văn hóa tinh thần ở Nhật Bản.
3
3.2. Nhiệm vụ:
Luận văn có hai nhiệm vụ chủ yếu:
- Khái quát bối cảnh lịch sử của quá trình du nhập Phật giáo vào
Nhật Bản và một số đặc điểm cơ bản của quá trình du nhập, phát triển của
Phật giáo ở Nhật Bản.
- Làm sáng tỏ một số ảnh hưởng cơ bản của Phật giáo đến đời sống
văn hóa tinh thần ở Nhật Bản.
3.3. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn đề cập chủ yếu đến phương diện lịch sử của quá trình du
nhập và phát triển của Phật giáo ở Nhật Bản và chỉ phân tích những ảnh

hưởng cơ bản của Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần ở Nhật Bản trên
các phương diện như: Văn hóa nghệ thuật, đạo đức, phong tục và lối sống.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận:
- Những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và của Đảng ta về văn hóa và tôn giáo.
- Một số thành tựu gần đây của giới khoa học khi nghiên cứu Nhật
Bản đã được công bố.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Ngoài phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là phương pháp cấu trúc hệ thống,
lịch sử, lôgíc, luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như so sánh,
phân tích tổng hợp.
4
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn bước đầu khái quát một số đặc điểm cơ bản của quá
trình du nhập, phát triển của Phật giáo ở Nhật Bản.
- Góp phần đánh giá vai trò của Phật giáo vào kho tàng văn hóa tinh
thần của Nhật Bản.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Đề tài góp phần gợi mở một số vấn đề giúp các nhà quản lý xã hội
suy nghĩ về việc khuyến khích những đóng góp của Phật giáo vào nền văn
hóa dân tộc và vận dụng nó trong điều kiện xã hội Việt Nam.
- Kết quả của luận văn có thể sử dụng vào quá trình nghiên cứu và
giảng dạy môn khoa học về tôn giáo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương 6 tiết.
5
Chương 1

QUÁ TRÌNH DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO
Ở NHẬT BẢN
1.1. ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI NHẬT BẢN
Nhật Bản là quần đảo gồm hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ có diện tích
vào khoảng 322.000km
2
, tương đương với tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc
hay gần bằng diện tích lãnh thổ Việt Nam (329.000km
2
). Phần lớn các
đảo có diện tích không lớn và chỉ có 4 đảo lớn là: Hokkaido, Honshu,
Shikoku, Kyushu.
Quần đảo Nhật Bản nằm ở Tây Bắc lòng chảo Thái Bình Dương với
chiều dài tổng cộng 4.000km. Phần lớn lãnh thổ Nhật Bản là núi (chiếm 70%
diện tích đất đai) với nhiều ngọn núi cao. Trong số đó dãy Alpơ có nhiều
núi cao trên 3.000m, ngọn Fuji (Phú Sĩ) cao 3.776m. Điểm đặc biệt là, Nhật
Bản có rất nhiều núi lửa hoạt động, hàng năm gây ra nhiều tai họa cho con
người và xã hội. Với điều kiện núi cao, bờ biển gập ghềnh với những vách
đá thẳng đứng đã tạo cho Nhật Bản một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp.
Về mặt hình dạng của lãnh thổ, trông xa có người bảo có hình trăng
lưỡi liềm, lại có người bảo có hình con tằm, nhiều người tin rằng, Nhật Bản
muốn tồn tại phải dựa vào Trung Quốc vì hình dạng Trung Quốc giống lá
dâu. Tuy nhiên, đó chỉ là phỏng đoán nặng tính tư liệu bởi thực tế lịch sử
đã chứng minh rằng, sức tự cường của người Nhật không xô đẩy họ vào
con đường lệ thuộc, ngược lại, Nhật Bản là nước duy nhất ở Đông Bắc Á
không rơi vào họa thực dân thời kỳ thực dân hóa. Về phương diện văn hóa,
mặc dù Nhật Bản tiếp nhận nhiều giá trị văn hóa ngoại lai song họ vẫn là
quốc gia có bản sắc dân tộc độc đáo.
6
Về phương diện nhân chủng học, người Nhật Bản hiện nay là kết quả

của sự cộng hợp nhiều dòng máu của nhiều tộc người khác nhau. Theo kết
quả của các nhà nhân chủng học và khảo cổ học, đất nước Nhật Bản có vết
chân người là vào cuối thời đại đồ đá mới (cách đây khoảng 3.000 năm).
Xét về mặt địa hình nhiều người đã phát hiện thấy sự liên kết chặt chẽ giữa
lục địa Trung Hoa và quần đảo Nhật Bản. Từ đó có suy luận rằng, gốc gác
người Nhật có quan hệ với các tộc người ở đại lục. Theo sách Lịch sử Phật
giáo thế giới (tập 1, Nxb Hà Nội, 1995), cho rằng xuất xứ người Nhật từ ba
hệ lớn:
- Tộc người Hà Di cũ: gốc da trắng ở châu Âu, vượt Xibêri đến
Nhật Bản.
- Tộc người Thông Cổ Tư vốn sống ở Tây Á trong đó có tộc Thiên
Tôn lớn nhất. Tộc người này lấy đất Đại hòa làm căn cứ nên còn gọi là dân
tộc Đại hòa. Đây là nòng cốt của dân tộc Nhật Bản và là người Nhật Bản gốc.
- Một số tộc người thiểu số khác.
Những điều kiện tự nhiên khá đa dạng, khí hậu ôn đới, cây cối tốt
tươi, rậm rạp... đã có những ảnh hưởng đến tính cách, tâm lý người Nhật,
khiến cho họ có lòng dũng cảm, có tính tiến thủ mà biểu tượng được ví như
núi Fuji. Ngoài ra người Nhật cũng khá cởi mở, nặng tính thực dụng với
một bản lĩnh thép được hun đúc qua quá trình phát triển quốc gia. Đánh giá
về vấn đề này EDWIN.O.REISCMAUR trong cuốn: Nhật Bản quá khứ và
hiện tại cho rằng:
Ý thức về tinh thần liên kết trong thị tộc và niềm tin vào
tầm quan trọng của các quyền lợi và uy quyền cha truyền con
nối, chắc chắn phải là khá mạnh trong dân tộc này, vì những sức
mạnh này luôn chiếm ưu thế trong suốt lịch sử của Nhật Bản và
vẫn còn rất sống động trong nước Nhật hiện đại. Có lẽ hình ảnh
7
người chiến sĩ quý tộc, người đàn ông kỵ mã, lúc bấy giờ đã có
một vị trí quan trọng trong xã hội Nhật, bởi vì các hình ảnh mờ
ảo này của Nhật Bản thời sơ khai đã vượt qua được trận lũ của

nền văn minh vay mượn của Trung Hoa để sau này trỗi lên như
cột xương sống của Nhật Bản thời phong kiến [26, tr. 16].
Về phương diện tín ngưỡng, người Nhật cổ đại sùng kính các vị
thần tự nhiên. Từ sùng bái tự nhiên dẫn đến sùng bái tổ tiên. Theo truyền
thuyết, số lượng thần tự nhiên của người Nhật có đến tám mươi vạn vị.
Ngoài ra, nhiều hiền tướng, hào kiệt cũng được suy tôn, thiêng hóa và trở
thành các vị thần. Trong số các vị thần, Vũ Thiên Hoàng được tôn kính
nhất, Tenno (Thiên Hoàng) vì vậy là đại diện cho dòng dõi tôn quý, trở
thành lãnh tụ cả về tôn giáo và chính trị.
Những thần linh được người Nhật tôn kính thường được gọi là Kami.
Tín ngưỡng thờ Kami hay Shinto (Thần đạo) trở thành tín ngưỡng bản địa có
lịch sử tồn tại xuyên suốt lịch sử Nhật Bản, chi phối mạnh mẽ các hình thức
tín ngưỡng khác. Vì lẽ ấy, về sau, khi Phật giáo được du nhập, ta thấy lúc
đầu là sự phản ứng, sau nữa là sự kết hợp và tùy tương quan lực lượng cụ
thể, có thể có lúc Phật giáo có ưu thế song nhìn chung, Shinto vẫn đóng vai
trò trụ cột. Nguyên nhân của tình hình này chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau.
Về phương diện tổ chức xã hội ta thấy, mặc dù hai cuốn sách Kojiki
(Cổ sự ký) và Nihongi (Nhật Bản thư ký) mang nhiều tính truyền thuyết và
thần thoại nhưng là những tài liệu quan trọng để nghiên cứu xã hội Nhật
Bản cổ đại. Theo các cuốn sách trên (sách được viết từ thế kỷ thứ VIII)
Nhật Bản đã bắt đầu tiếp nhận ảnh hưởng của các tư tưởng ngoại lai
(Khổng giáo, Phật giáo) song những ảnh hưởng đó cũng không làm lu mờ
tính dân tộc và tín ngưỡng truyền thống. Qua các truyền thuyết và những
câu chuyện dân gian, có thể hình dung xã hội Nhật Bản tồn tại trên những
nguyên tắc của một nền quân chủ. Học thuyết Shinto (con đường của thần
8
thánh) không mạnh và làm say lòng người như một tôn giáo thực thụ nhưng
cũng thể hiện rõ ý thức dân tộc của người Nhật. Trong tín ngưỡng Shinto,
những ước nguyện về một cuộc sống tốt đẹp được pha quyện với lòng yêu
nước bởi người Nhật nghĩ rằng, đất nước của họ là của thần thánh. Ai được

thần thánh tin cẩn sẽ được giao quyền cai trị đất nước. Vì lẽ đó, trong đời
sống, đạo Shinto chỉ đạo ý thức cộng đồng. Theo đó, cá nhân chỉ tồn tại
được khi là thành viên của gia đình. Một gia đình chỉ tồn tại được khi là
thành viên của quốc gia. Hiện tại phải hy sinh cho truyền thống và những
khát vọng tương lai. Điều này giống ở Việt Nam với đạo Tổ, với việc thờ
vua Hùng, các Thiên tử, thành hoàng và dòng họ.
Thông qua các chuyện kể ta cũng thấy rằng, quyền lực xã hội tập
trung ở các Tenno mặc dù quyền lực đó không phải lúc nào cũng được thực
hiện suôn sẻ. Chính quyền Trung ương của Tenno có quyền lực cai quản
các tộc người khác, trong đó có những tộc người mạnh. Những tộc người
đó mặc dù thần phục Tenno nhưng vẫn có quyền lực độc lập, vẫn có khả
năng kiểm soát đất đai và cư dân của mình. Tenno thường đại diện cho một
tộc người lớn mạnh nhất và được coi là sứ giả, đại diện cho thần dân trong
mối quan hệ với thần thánh. Quyền lực đó, vì vậy mang tính tôn giáo nhiều
hơn là tính chính trị.
Các đại thần, thường là người đứng đầu các dòng họ quý tộc
Nakutomi và Imibe. Họ là các chúa đất có quyền lực, quyền lực ấy được
duy trì theo kiểu cha truyền con nối về mặt tôn giáo. Thường thì những
người đứng đầu cứ mỗi năm hai lần, làm chủ lễ đọc kinh cầu nguyện trong
các dịp lễ tẩy rửa, cầu xin thần linh trút bỏ cho dân lành ô uế và tội ác.
Tùy theo tương quan lực lượng giữa các dòng họ mà qui định dòng
họ nào được đảm nhiệm chức năng gì. Vì vậy trong xã hội Nhật Bản cổ,
cuộc tranh giành giữa các dòng họ cũng hay xảy ra. Việc chọn người đứng
9
đầu tộc người có một số tiêu chí nhất định, hoặc họ là người giàu có, hoặc
có khả năng sản xuất những đồ quý hiếm hay có tay nghề cao trong một số
ngành thủ công mỹ nghệ.
Cuối cùng, có thể nói, trong xã hội Nhật Bản cổ đại, các tầng lớp
quý tộc và chúa đất ở trung ương và địa phương với vây cánh của họ đã chi
phối quyền lực của triều đình. Họ có thể buộc triều đình có hành động theo

ý muốn của họ kể cả việc bành trướng lãnh thổ. Họ xây dựng các vây cánh
và có thể lôi kéo các thủ lĩnh địa phương đi theo mình. Chính sách của họ
là tập hợp những người thợ giỏi, cho họ quyền lợi thỏa đáng để lôi kéo họ.
Trong bối cảnh lịch sử như vậy, Phật giáo được du nhập. Lúc đầu
nó được đưa vào Nhật Bản thông qua vai trò của những người Triều Tiên,
Trung Hoa vốn là những người buôn bán hoặc như các tù binh. Sau đó, nhờ
sự nâng đỡ của chính quyền, Phật giáo chính thức được thừa nhận và phát
triển khá nhanh.
1.2. QUÁ TRÌNH DU NHẬP PHẬT GIÁO Ở NHẬT BẢN
1.2.1. Một số quan điểm khác nhau về sự du nhập của Phật giáo
vào Nhật Bản
Cho đến hiện nay cuộc tranh luận về những động cơ dẫn đến sự du
nhập, bám rễ của Phật giáo vào Nhật Bản vẫn chưa đi đến những thống
nhất cần thiết. Có thể thấy có hai loại quan điểm chính: Loại thứ nhất cho
rằng, sự du nhập Phật giáo vào Nhật Bản là do những động cơ từ phía
Trung Hoa hay đó chỉ là sự bành trướng về tư tưởng, văn hóa của Trung
Hoa; loại thứ hai cho rằng, đó là sự tiếp nhận diễn ra trên cơ sở nhu cầu nội
tại của người Nhật Bản hay người Nhật đã chủ động tiếp nhận Phật giáo.
Theo ý kiến của chúng tôi, trong sự phát triển của văn hóa Nhật Bản nói
riêng và của bất kỳ nền văn hóa nào nói chung không bao giờ là một quá
trình thuần nhất, bởi các dân tộc liên tục có những cuộc tiếp xúc văn hóa dù
10
tự giác hay tự phát. Trường hợp Nhật Bản trước khi tiếp xúc với Triều
Tiên, Trung Hoa có những đặc biệt bởi đó là xứ sở của các hòn đảo sống
gần như biệt lập so với thế giới bên ngoài, nhất là khi kỹ nghệ hàng hải
chưa phát triển. Chính sự cô độc trong những mối giao cảm văn hóa mà so
với Triều Tiên, Trung Hoa, trình độ văn minh của Nhật Bản lúc đó thấp
hơn. Về mặt xã hội, đó là sự tồn tại của chế độ thị tộc còn khá phổ biến, và
về kinh tế là trình độ của lực lượng sản xuất còn rất thấp kém. Những thấp
kém trong lĩnh vực kinh tế được biểu hiện cả trong lĩnh vực tư tưởng. Ở

Nhật Bản chưa hình thành các tư tưởng có tính hệ thống trong nghệ thuật,
tôn giáo, triết học... Khi những quan hệ đầu tiên của Nhật Bản hình thành
với lân bang qua buôn bán và nhất là chiến tranh, người Nhật đã nhận ra
rằng, bên cạnh họ là những quốc gia có trình độ phát triển cao hơn.
EDWIN.O.REIS CHAUER đã từng khẳng định: "Không có gì đáng ngạc
nhiên nếu người Nhật sơ khai trên một đất nước gồm những hòn đảo biệt
lập của họ cảm nhận được những phản quang của đế quốc Trung Hoa mới
và bừng tỉnh với một nhận thức mới về cái đất nước lớn lao ở bên kia bờ
biển" [26, tr. 23].
Tuy nhiên như lịch sử đã chứng tỏ, buổi đầu giao tiếp với Trung
Hoa, những vay mượn diễn ra rất chậm chạp và không tự giác. Mãi cho đến
gần cuối thế kỷ thứ VI thì có một sự gia tăng đột ngột trong quá trình du
nhập các yếu tố của văn hóa Trung Hoa vào Nhật Bản. Sự thật này chỉ có
thể giải thích bởi hai lý do:
- Một là: Có thể dân tộc Nhật lúc ấy mới đạt được một trình độ văn
hóa cho phép họ nhận thức ra và có đủ khả năng để tiếp nhận các nhân tố
ngoại lai một cách nhanh chóng và có ý thức.
- Hai là: Mọi giá trị văn hóa, tự nó đều có nhu cầu và khả năng lan
tỏa hay bành trướng, nhất là khi chúng đạt trình độ cao. Trong thời kỳ đó, ở
11
Trung Hoa, nhà Đường đã tạo ra một chế độ phong kiến đạt đến cực thịnh,
vì vậy khả năng lan tỏa của nó ra xung quanh dễ dàng hơn.
Những tiếp xúc, giao lưu văn hóa giữa Nhật Bản và Trung Hoa lúc
đầu thông qua vai trò của những thương gia, thợ thủ công hay tù binh dưới
dạng hành vi và nhân cách của các cá nhân đó hay qua những vật phẩm hữu
hình có được trong các cuộc trao đổi. Dần dần những kiểu tiếp xúc đó trở
nên thứ yếu và thay bằng cuộc tiếp xúc tôn giáo. Điều cần thấy ở đây là, lúc
này Phật giáo cực thịnh ở Trung Hoa và Phật giáo trở thành công cụ
chuyển tải văn hóa quan thiết nhất từ đại lục sang Nhật Bản.
Sự xâm nhập của Phật giáo vào Nhật Bản cũng vậy, lúc đầu bằng

con đường dân gian. Những ảnh hưởng của Phật giáo lớn dần, gây chấn
động đến cả tầng lớp thống trị. Những chấn động đó đã tạo nên hai xu
hướng tư tưởng chủ yếu trong thị tộc Yamato đến mức gây nên những xung
đột giữa nhóm ủng hộ Phật giáo và phản đối Phật giáo. Sự thắng lợi của
nhóm ủng hộ Phật giáo diễn ra khoảng năm 587 đã mở đường cho sự tiếp
nhận nhanh hơn các tư tưởng của Trung Hoa nói chung và tín ngưỡng Phật
giáo nói riêng. Nhờ sự nâng đỡ của chính quyền, nhiều phái đoàn người
Nhật được cử sang đại lục học hỏi tri thức và ở trong nước Phật giáo được
hỗ trợ, trở thành tôn giáo có vị thế còn lớn hơn cả Shinto.
Như vậy, có thể nói rằng, sự du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản
không thuần túy chỉ là sự bành trướng văn hóa của người Trung Hoa và
nếu giả định đó là sự bành trướng văn hóa mà thiếu sự nhiệt tình tiếp nhận
từ phía Nhật Bản thì khả năng bén rễ, tồn tại, phát triển của nó sẽ khó khăn
hơn nhiều. Điều này là có cơ sở bởi, một mặt, khi văn minh nhà Đường có
dấu hiệu suy vi thì người Nhật cũng bắt đầu suy nghĩ lại. Đó là sự tái khẳng
định ngày càng mạnh mẽ tinh thần độc lập về văn hóa được biểu hiện qua
thái độ không còn chăm chú học hỏi hay thái độ quá sùng bái đối với mọi
12
yếu tố của văn minh Trung Hoa. Mặt khác, qua lịch sử nước Nhật ta thấy,
dân tộc đó có sự khôn ngoan đặc biệt trong tiếp nhận văn hóa ngoại lai. Họ
tiếp nhận rất nhiều yếu tố ngoại lai song vẫn luôn tìm cách giữ gìn, phát
triển các nhân tố bản địa. Bằng chứng là, khi Phật giáo du nhập, có cuộc
đấu tranh giữa Thần - Phật. Cuộc đấu tranh đó tiếp tục diễn ra trong các
thời kỳ và cuối cùng Phật giáo bị bản địa hóa mặc dù có thời kỳ Phật giáo
trở thành trụ cột và chi phối mạnh mẽ các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.2.2. Một số đặc điểm chính của Phật giáo ở Nhật Bản buổi đầu
du nhập
Theo quy luật của sự tiếp biến văn hóa, khi muốn bắt rễ vào một
khu vực nào đó, các hiện tượng văn hóa ngoại lai phải biến đổi cho phù
hợp với những yêu cầu của bản địa. Quá trình du nhập của Phật giáo vào

Nhật Bản cũng không nằm ngoài quy luật chung đó. Nó đã có nhiều biến
đổi đến mức làm cho một số yếu tố của Phật giáo ở Nhật Bản đã có những
khác biệt khá căn bản với Phật giáo, Ấn Độ hay với Phật giáo Trung Hoa.
Những biến đổi đó lúc đầu được tạo nên bởi nền tảng kinh tế - xã hội cũng
như những yêu cầu của cư dân Nhật Bản, của văn hóa Nhật Bản nhưng đến
lượt nó, nhiều khi lại trở thành những định hướng cho sự phát triển của văn
hóa Nhật Bản về sau. Vì lẽ ấy, mặc dù tồn tại trong những điều kiện của
một xã hội hiện đại nhưng văn hóa Nhật Bản vẫn giữ được những yếu tố
như nhân ái, mềm mại của đạo Phật, cứng nhắc đến tàn nhẫn của võ sĩ đạo,
thực dụng như Khổng giáo và mộng mơ siêu thoát của thiền, tư tưởng trọng
lợi ích vật chất và yêu cái đẹp da diết, một tư duy khoan hòa nhưng lại chứa
đầy tính duy lý v.v...
Nghiên cứu quá trình du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản có thể
rút ra một số đặc điểm chủ yếu như sau:
13
Một là: So với các nước trong khu vực, thời điểm du nhập Phật giáo
vào Nhật Bản có muộn hơn. Theo các nguồn sử liệu còn lưu lại, khoảng thế
kỷ VI Phật giáo đã từng có mặt ở Nhật Bản. Việc du nhập Phật giáo vào
Nhật Bản chủ yếu từ hai con đường: Trung Quốc và Triều Tiên (Phật giáo
có mặt ở Triều Tiên sớm hơn ở Nhật Bản chừng 150 năm). Cuốn Lịch sử
Phật giáo thế giới (tập I) có dẫn lại sách Phù Tang lược ký cho biết: "Tháng 2
năm thứ 16 sau khi Kế Thể Thiên Hoàng tức vị (năm thứ 3 niên hiệu Phổ
Tông Vũ Đế nhà Lương, năm 522) một người Hán là Tư Mã Đạt đến Nhật
Bản làm nhà cỏ ở bản Điền Nguyên, quận Cao Thị nước Đại hòa, bày
tượng phật lễ bái". Cũng theo nguồn sử liệu trên thì vào tháng 10 năm 522
(năm thứ 13 đời Khâm Minh Thiên Hoàng) có Thánh Minh Vương ở nước
Bách Tế trên bán đảo Triều Tiên đã sai Cơ Thị Đạt dẫn đầu một đoàn người
đến tặng một pho tượng Phật Thích Ca bằng đồng và có cờ phướn, kinh
luân". Giới nghiên cứu ở Nhật Bản quen gọi hai con đường du nhập Phật
giáo: Tư truyền và Công truyền để phân biệt Phật giáo được dân gian

truyền vào và chính phủ truyền vào.
Qua nghiên cứu thời điểm và con đường du nhập Phật giáo vào
Nhật Bản có thể thấy rằng, Phật giáo được du nhập muộn hơn một số nước
trong khu vực, hơn nữa Phật giáo trên con đường truyền bá đã từng bị khúc
xạ qua nhiều nước trung gian vì vậy nó không còn nguyên vẹn như Phật
giáo chính gốc. Điều căn bản hơn là ở chỗ Phật giáo ở Nhật Bản bị chi phối
mạnh bởi các yếu tố tín ngưỡng bản địa vốn đã có truyền thống ở Nhật Bản
đó là tục thờ Kami (biểu tượng thần linh của Shinto). Điều này cũng cho
thấy trong lịch sử tồn tại của Phật giáo ở Nhật Bản luôn có sự giằng co
thậm chí là xung đột trong đời sống tín ngưỡng của cá nhân và trên bình
diện xã hội giữa một bên là Phật và bên kia là Thần. Nếu so sánh với Phật
giáo ở Việt Nam ta thấy Phật giáo được du nhập vào Việt Nam sớm hơn
vào Nhật Bản khoảng 6 thế kỷ. Ở Việt Nam ngoài con đường du nhập Phật
14
giáo trực tiếp từ phía các cao tăng Ấn Độ còn có các cao tăng của Trung
Hoa. Tuy nhiên các cao tăng của Trung Hoa khi truyền Phật giáo vào Việt
Nam thì tính chất Phật giáo Ấn Độ cũng rõ rệt hơn. Mặt khác, Phật giáo
vào Việt Nam chủ yếu bằng con đường dân gian nên sự xung đột giữa nó
và tín ngưỡng bản địa ít quyết liệt. Có thể nói, nó được du nhập một cách
tương đối hòa bình.
Thứ hai: Phật giáo du nhập vào Nhật Bản trong bối cảnh người
Nhật đã có một truyền thống tín ngưỡng khá vững chắc: tín ngưỡng về
Thần (Kami). Kami là đối tượng của sự thờ cúng trong Shinto đã tồn tại từ
thời cổ đại. "Đây là những thực thể mờ ảo, tồn tại không hình dạng, thiếu
hẳn tính người và giống với sự biểu hiện quyền lực lạnh lùng. Tất cả được
coi như là cao hơn ở bên trên con người bằng kiến thức và quyền lực, giữa
những quyền lực đời sống và nằm ngoài sự kiểm soát của con người" [2, tr.
183]. Kami có nhiều loại nhưng tựu trung có 4 đặc điểm chung:
- Kami không có hình dạng riêng nhưng có thể được mời gọi đến
với những hình thức mời thích hợp.

- Kami là thực thể trừu tượng, có thể mang phúc hay chuốc họa cho
con người tùy thuộc vào thái độ đối xử của con người đối với Kami.
- Kami có thế giới riêng nhưng vẫn có thể viếng thăm thế giới loài
người và sử dụng vào những mục đích của họ.
- Kami là thế lực ban phát cho con người những lợi ích vật chất mà
không đại diện cho một thứ chân lý tối hậu.
Nhìn nhận những đặc trưng của Kami như đã chỉ ra ta thấy, về thực
chất, Shinto có những khác biệt căn bản với Phật đạo. Điểm căn bản nhất là
ở chỗ, Kami là trừu tượng trong khi Phật là cụ thể. Tôn sùng, thờ cúng
Kami sẽ được đền đáp trong khi Phật chủ trương chính con người tự chịu
trách nhiệm về kết quả của hành động của bản thân mà không trông chờ bất
15
kỳ một sự ban phát nào nhất là trong quan niệm của Phật giáo nguyên thủy.
Kami là thế lực ban phát trong khi Phật đại diện cho chân lý tối hậu, Shinto
không đủ và được một hệ thống các giá trị đạo đức được xem là chân lý. Vì
những lẽ trên nên ở buổi đầu du nhập, Shinto và Phật giáo luôn chứng tỏ
những sự xung khắc và sự xung khắc đó kéo dài cho đến tận ngày nay. Tuy
nhiên, cũng phải thấy rằng, mặc dù xung khắc nhưng Phật giáo đã góp phần
bổ sung, bù đắp cho những lỗ hổng về nhận thức mà Shinto không thể có,
do đó xuất hiện xu hướng hỗn dung, vay mượn lẫn nhau giữa Thần và Phật
là một thực tế trong đời sống tín ngưỡng của người Nhật Bản. Bách khoa
toàn thư Nhật Bản khẳng định: "Đạo Phật đã cung cấp cho người Nhật toàn
bộ khái niệm về đạo đức... Đạo Phật đã đưa đến cho văn hóa Nhật Bản những
từ về lòng thương xót, anh minh, lòng từ bi, lòng nhân ái..." [2, tr. 191]. So
sánh vấn đề này với bối cảnh Phật giáo du nhập vào Việt Nam, ta thấy cả
hai cuộc du nhập đó có những tương đồng nhưng cũng có nhiều dị biệt. Sự
tương đồng thể hiện ở chỗ, Phật giáo là một tôn giáo ngoại lai nên tất yếu
phải có những phản ứng từ phía bản địa. Thêm nữa cả Việt Nam và Nhật
Bản đều là những quốc gia nông nghiệp và tín ngưỡng bản địa đều có
những khiếm khuyết cần phải được bổ sung. Ngoài những tương đồng trên

những dị biệt sau đây là căn bản:
- Phật giáo du nhập vào Việt Nam trong bối cảnh đất nước bị đô hộ
còn ở Nhật Bản thì nội chiến lại liên tục.
- Ở Việt Nam, Phật giáo vào sớm hơn nhưng phải 1000 năm sau kể
từ thời Đinh - Lê nó mới được phát huy tác dụng, còn ở Nhật Bản tuy được
du nhập muộn hơn nhưng nó lại có quá trình phát triển liên tục.
- Các tôn giáo ngoại nhập muốn bắt rễ vào một khu vực nào đó
không thể không dựa vào tôn giáo truyền thống nhưng vì trong giai đoạn
16
đó, Shinto đã là một tôn giáo phổ biến của người dân lại có nhiều dị biệt
với Phật giáo nên sự du nhập diễn ra khó khăn hơn.
Chính những dị biệt đó làm cho sự du nhập của Phật giáo vào
Nhật Bản có phần khó khăn và sự đụng độ của nó với Shinto thêm phần
quyết liệt.
Thứ ba: Trong bối cảnh về văn hóa, tín ngưỡng của Nhật Bản, Phật
giáo muốn bắt rễ phải tự biến đổi mà nhiều biến đổi đã trở nên khác lạ so
với Phật giáo chính gốc.
Trước hết, muốn bắt rễ, Phật giáo không thể du nhập bằng hệ thống
lý luận trừu tượng mà phải là dưới hình thức nào đó của ma thuật, về những
lời hứa sẽ bảo vệ toàn bộ xứ sở, về sự sẵn sàng cứu giúp của các Bồ tát. Do
đó một điều tự nhiên là trong hai thế kỷ tôn giáo mới này được hiểu một
cách đơn thuần như "một phương tiện có hiệu quả giúp tạo ra những ân huệ
trần tục mà chúng sinh luôn luôn tìm kiếm, mong đợi từ những vị thần
trong Shinto". Cũng vì tính chất đó mà triều đình nhanh chóng chấp nhận
Phật giáo vì nó mang lại mùa màng tốt tươi, vạn vật sinh sôi và khuyến
khích cho sự giàu có của đất nước. Để đi vào lòng người thuộc mọi đối
tượng, Phật giáo ở Nhật Bản luôn chủ trương hai khuynh hướng: Khuynh
hướng thứ nhất, đối với dân chúng chiếm số đông, nó thường xuyên cung
cấp những dịch vụ thiết thân như chữa bệnh hay là tìm ra đôi lứa hợp
nhau... hoặc chăm sóc người chết, vỗ về người sống bằng các nghi lễ cầu

hồn nhằm tạo sự an tâm về sự quấy rối của linh hồn khi có người chết.
Khuynh hướng thứ hai, phục vụ những người coi thế giới này là ảo và chất
đầy sự đau khổ. Với loại người này Phật giáo cung cấp cho họ phương tiện
để làm thay đổi nhận thức - tập Thiền. Có thể nói, vì tập tục thờ thần cũ,
cho nên Phật giáo Nhật Bản thời kỳ đầu đặc biệt coi trọng việc cầu mong
công đức. Các sử gia gọi đây là: Phật giáo cầu mong; họ không tha thiết
17
tìm hiểu kinh nghĩa mà chỉ mong mượn chú nguyện để kéo dài tuổi thọ, trừ
tai, chữa bệnh, cầu mưa, giữ nước. Họ vẫn lễ Phật với tâm lý cầu thần, cầu
xin đời sống hiện thực được bình yên như ý.
Qua đây có thể thấy rằng Phật giáo ở Nhật Bản rất đậm tính thực
dụng và có màu sắc nhập thế khá gần gũi với tính chất của Phật giáo ở
Việt Nam.
Thứ tư: Phật giáo vào Nhật Bản trong điều kiện xã hội đang ở giai
đoạn xã hội thị tộc, mỗi thị tộc chỉ thờ thần của thị tộc mình. Bởi vậy đối
với thờ cúng của Shinto hết sức đa dạng. Có những thần ngự trong các đối
tượng tự nhiên như cây cối, núi non, mặt trời, nhưng cũng có những vị thần
phụ trách một số nghề thủ công chuyên ban phát năng lực cho những ngư
dân hay những thợ săn... có những vị thần còn sống như những chuyên gia
về tôn giáo hay những người bằng sự rèn luyện khổ hạnh đã đạt đến khả
năng hòa nhập và hóa thân thành các Kami. Có những vị thần bảo hộ cho
cá nhân, gia đình, dòng tộc nhưng cũng có những Kami có khả năng sáng
tạo ra các hòn đảo hay bảo hộ cho Hoàng gia. Lại nữa. có những Kami khi
được thờ cúng có khả năng thay đổi tính chất, từ thần phá phách trở thành
thần có ích sẵn sàng giúp đỡ nhân loại...
Rõ ràng, sự đa dạng của các Kami là sự biểu hiện của lối tư duy
phong phú khá phổ biến của người phương Đông. Cố nhiên khi đối tượng
thờ cúng đa dạng, hỗn tạp thì niềm tin cũng đa dạng và hỗn tạp. Tình hình
này là sự phản ánh thực tế phân biệt giữa các thị tộc trên quần đảo Nhật Bản,
nó không tạo cơ sở tinh thần cho sự thống nhất của quốc gia. Trong bối cảnh

đó, Phật giáo du nhập nhanh chóng được Hoàng gia và người dân chấp nhận.
Sự kiện vĩ đại này đã tạo ra cơ sở cho sự thống nhất về đức tin và từ sự
thống nhất về đức tin đã tạo điều kiện cho sự thống nhất về quốc gia. Vì lẽ
ấy, các Tenno của Nhật Bản không chỉ là lãnh tụ về chính trị mà còn là
18
lãnh tụ về tôn giáo. Nơi ở của Tenno cũng là nơi ở của thần linh và chỉ sau
năm 1945 khi nước Nhật bại trận thì Tenno mới trở lại tư cách như con
người.
Đề cập đến một vài đặc điểm của Phật giáo ở Nhật Bản buổi đầu du
nhập như trên, chúng tôi muốn so sánh với quá trình du nhập của Phật giáo
vào Việt Nam. Điều dễ nhận thấy là, cũng xuất phát từ Phật giáo, song khi
vào Nhật Bản, vào Việt Nam... thì đã có những khác biệt. Nếu như ở Nhật
Bản, Phật giáo được tiếp nhận để phục vụ cho lợi ích thực dụng của người
dân, phục vụ cho sự thống nhất quốc gia và được chấp nhận từ phía thế lực
cầm quyền thì ở Việt Nam Phật giáo chủ yếu được tiếp nhận bằng con
đường dân gian. Vì lẽ ấy, tính nhập thế của Phật giáo ở Nhật Bản rõ hơn
tính nhập thế của Phật giáo ở Việt Nam. Người Nhật Bản tiếp nhận Phật
giáo không chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần mà còn tìm được sự thỏa
mãn những nhu cầu thực tế như chữa bệnh, học hành hay chí ít cũng là tìm
được sự phù hợp cho hạnh phúc đôi lứa...
Phật giáo ở Nhật Bản được tiếp nhận trên nền tảng Shinto - một tín
ngưỡng không chỉ có tính thực dụng cho người dân mà còn có tính thực
dụng cho giới cầm quyền nên có sự hỗn dung Thần - Phật, trong đó yếu tố
trội là Thần.
Người Việt Nam chấp nhận Phật giáo trên nền tảng tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên (tất nhiên có cả thờ thần tự nhiên), do đó tính quyền lực ở
phương diện chính trị có phần ít đậm đặc. Vì vậy người Nhật cũng trọng
chữ "trung" nhưng là trung với thủ lĩnh còn Việt Nam cũng trọng chữ
"trung" nhưng là trung với vua, với tổ quốc. Từ suy nghĩ như vậy, chúng
tôi đồng tình với tác giả bài Nghĩ về cấu trúc văn hóa Nhật Bản, đã viết:

Quá trình nhập ngoại của người Nhật bao giờ cũng trải qua
hai giai đoạn: sau một thời kỳ làm thợ (bắt chước) là thời kỳ làm
thầy (cải tiến). Sự phát triển rực rỡ của Shinto Nhật Bản là một
19
minh chứng. Bởi vậy, càng tiếp thu những yếu tố ngoại sinh, thì
bản sắc văn hóa Nhật càng óng chuốt và nổi thêm sâu sắc [43, tr.
506-507].
Hy vọng rằng, người Việt Nam trong quá khứ cũng đã từng làm được
như người Nhật Bản thì ngày nay cũng có thể làm được điều kỳ diệu đó sao
cho vẫn tồn tại một vóc dáng văn hóa Việt Nam trong dòng thác của toàn cầu
hóa.
1.3. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO Ở NHẬT BẢN
Kể từ khi du nhập đến nay, Phật giáo ở Nhật Bản đã có lịch sử tồn
tại khoảng 1500 năm. Trong khoảng thời gian đó, Phật giáo trải qua nhiều
biến cố, gắn chặt với sự phát triển của xã hội Nhật Bản. Theo cách phân kỳ
phổ thông, có thể chia sự phát triển đó thành 7 thời kỳ chính.
1.3.1. Phật giáo thời kỳ Asuka (300 - 710)
Phật giáo bắt đầu được truyền vào Nhật Bản dưới thời Kế Thể Thiên
Hoàng (507 - 531) nhưng mãi đến thời Thái Tử Shotoku (thế kỷ VI) mới được
truyền bá công khai nên có thể xét Phật giáo sơ kỳ bắt đầu từ thời kỳ này.
Nhiều học giả thống nhất năm Phật giáo truyền vào Nhật Bản là 538 [58, tr.
3].
Khoảng hai đến ba tông phái được truyền vào Nhật thời kỳ này:
- Tông Sanron (Tam luận tông)
Đây là tông phái do vị sa môn nước Triều Tiên tên là Huệ Quan du
nhập vào Nhật Bản năm 33 đời Suiko Tenno (Suy Cổ Thiên Hoàng). Huệ
Quan trụ trì ở chùa Nguyên Hương. Dưới trướng của Huệ Quan có nhiều
đệ tử tài giỏi như Phúc Long, Trí Tạng, Đạo Tử...
Giáo lý chủ yếu của Tông Sanron nằm trong ba bộ luận của Bồ tát
Long Thọ (những âm Hán - Việt chưa tra cứu chính xác xin được giữ

nguyên phiên âm trong luận văn) mà nổi tiếng nhất là Trung quán luận.
20
Trung quán luận là bộ sách luận về tương quan giữa các bề ngăn và thực
tướng vạn vật mà kết luận được rút ra là mọi hiện tượng (vạn pháp) là hư,
huyền và không tồn tại biệt lập. Ngược lại, chúng tồn tại trong mối "tương
quan", "tương duyên" với nhau.
Vì tập tục thờ thần cũ, nên Phật giáo thời kỳ này đặc biệt coi trọng
việc cầu mong công đức với hình thức lễ Phật nhưng cầu thần. Tư tưởng Jodo
(Tịnh độ) của Phật giáo được người Nhật chấp nhận thay đổi cho tư tưởng
huyệt mộ. Đối với người Nhật Bản, Jodo tức là sự thăng hoa của thế giới
huyệt mộ, do đó người ta cầu minh phúc bằng cách xây chùa Phật thay cho
xây mộ.
Năm 645 sau khi chiếu thư đầu tiên về phát triển Phật giáo được
ban bố, Phật giáo nhanh chóng phát triển. Đến cuối thế kỷ VII cả nước đã
có trên 540 ngôi chùa.
- Tông Hosso (Pháp Tướng tông)
Phái này truyền vào Nhật Bản do công của Dosho (Đạo Chiêu)
khoảng năm 650. Theo cuốn Lịch sử Phật giáo thế giới thì dưới trướng của
Dosho có đến 3.000 đệ tử, 70 hiền sĩ. Ngoài việc đạo, sự nghiệp của Dosho
còn được ghi nhận như là người tích cực tham gia công ích xã hội, giúp dân
đào giếng, đặt thuyền, bắc cầu...
Giáo lý chủ yếu của Hosso tông dựa trên bộ luận gọi là "Thành
dung thức luận" của Bồ Tát Thế Thân. Hosso tông chủ trương duy chỉ có
các "Thức", các tư tưởng trong tâm là thật. Nó chứa tất cả vào trong nó.
Vạn vật mà ta nhận thấy đều là sự phát luận của nó, cho nên đều là mộng
ảo. Tóm lại vạn vật do thức biểu hiện mà thành. Do đó khi tâm thức tịnh
tĩnh, vắng lặng thì đồng nghĩa với chân lý.
1.3.2. Phật giáo thời kỳ Nara (Nại Lương) (710 - 794)
21
Sau những cuộc đấu tranh quyết liệt giữa Shinto và Phật giáo, được

sự hậu thuẫn của tập đoàn do Soganoiname (Tô Ngũ Đạo Mục) và sau đó là
Thái tử Thánh Đức (Shotoku Taishi), Phật giáo bắt đầu thắng thế.
Trong thời kỳ Nara, Phật giáo phát triển mạnh mẽ và khá đa dạng.
Lúc này ở Nhật có 6 tông phái Phật giáo chủ yếu bao gồm (kể cả hai tông
Hosso và Sanron):
- Tông Jojitsu (Thánh đức tông).
- Tông Kusha (Câu xá tông).
- Tông Ritsu (Luật tông).
- Tông Kegon (Hoa Nghiêm tông).
- Tông Sanron
Trong thời kỳ Nara, Tông Sanron - một tông phái đã tồn tại từ trước -
có phần suy yếu, nhất là vào cuối thời Nara. Sự suy yếu này có lẽ, một là
do những luận lý trừu tượng, khó hiểu của nó và hai là, do tâm lý người
Nhật ưa thực dụng và ba là, do lý luận của nó khá khác biệt với tín ngưỡng
bản địa vốn rất coi trọng những điều thực tế.
- Tông Hosso
Trong thời Nara, Hosso tông là tông phái thịnh trị nhất. Nó góp
phần không chỉ tạo ra đông đảo những học giả hiền tài mà còn có ảnh
hưởng mạnh mẽ về giáo nghĩa đối với Phật giáo ở Nhật Bản.
- Tông Jojitsu
Là tông phái được du nhập vào Nhật Bản từ Triều Tiên tồn tại dưới
thời Nara. Tên của tông phái là lấy theo tên bộ kinh "Thành thực luận". Ở
Nhật Bản tông này không tồn tại độc lập mà phụ thuộc vào tông Sanron và
số lượng tín đồ quá ít ỏi.
22
Jojitsu tông được du nhập khoảng đầu thế kỷ thứ VII bởi nhà sư
Triều Tiên là: Kiếc Tạng (Ekwan) và Khuyếc Lặc (Kwanro Ku).
Giáo nghĩa của Jojitsu tông cho rằng, bản ngã và vạn pháp là hư vô.
Đời sống của con người là những chuỗi liên tiếp các hiện tượng luân
chuyển nhanh chóng đầy tính giả tạm. Nếu con người nhận ra tính giả tạm

và hư vô đó (vạn vật đều giả dối như bọt nước trên dòng sông, đều trống
rỗng như xác con ve) thì sẽ dứt bỏ được phiền não và đạt đến sự tịch tĩnh.
- Tông Kusha
Cho đến nay, các nguồn tài liệu không cho phép đưa ra một kết luận
về thời điểm Kusha tông được du nhập vào Nhật Bản.
Giáo lý của Kusha tông (kho tàng của phép siêu hình) dựa trên một
bộ luận nổi tiếng của nhà sư Vanshubac dhu là bộ "Abidharma-kasa-sastra".
Giáo lý chủ yếu của Kusha tông chủ trương "Pháp thể hữu vô
không sinh diệt" (Pháp có mặc dù những sự vật cá thể là ảo ảnh).
- Tông Kegon
Kegon tông được truyền vào Nhật Bản vào năm 736 đời Thánh Vũ
Thiên Hoàng do vị tăng người Trung Quốc là Đạo Duệ mang vào và tăng
Roben (Lương Biện), Shinjo (Thẩm Tường) hoằng pháp lấy chùa Todaiji
(Đông Đại) trụ trì.
Giáo lý của Kegon tông dựa trên căn bản của bộ hình Hoa Nghiêm.
Kegon tông cho rằng, tư tưởng của Đức Phật và lời lành của ông rọi chiếu
vạn vật. Vạn vật ở thế đều liên hệ và tiếp ứng cho nhau, đồng soi sáng cho
nhau. Phật và chúng sinh đồng một tính - tính Phật và cõi Châu như Phật
quyết đưa về cõi Giác tất cả chúng sinh. Bao giờ còn một mạng phải vớt thì
lòng Phật chưa yên. Những bậc sáng suốt phải thấu rằng, cõi đời chẳng
thật, song cái thật và không thật cùng bản tính như nhau, cho nên đắc được
23
cảnh tự nhiên ắt sẽ đắc đạo. Vì vậy ở Nhật, Kegon tông có địa vị là tôn giáo
của đế vương.
- Tông Ritsu
Ritsu tông là tông phái do nhà sư đời Đường là Gián Châu mang
vào Nhật Bản. Ông là người huyện Giang Dương đất Dương Châu. Năm 55
tuổi có ý nguyện đi Nhật và sau 6 lần trải 11 năm mới toại nguyện.
Đến đất Nhật, Gián Châu được tất thảy mọi người trong thành
ngoài nội đặc biệt sùng ngưỡng và nghênh tiếp, được Thánh Vũ Thiên

Hoàng tặng Truyền Đăng đại pháp sư. Ông đã trực tiếp thọ giới cho Tenno,
Hoàng hậu, Hoàng Thái tử và 500 người khác.
Giáo lý của Ritsu tông thừa nhận, muốn giải thoát không cần học
thuộc kinh vài quyển mà chỉ giữ tròn giới luật. Nhờ giữ giới, "trì luật" nên
sinh "định". Nhờ có Định mà phát Huệ.
Qua sự du nhập và tồn tại của 6 tông phật giáo ở Nhật thời Nara, ta
thấy các tông đó không được truyền vào Nhật theo thứ tự như nơi chúng
được sinh ra mà tùy thuộc vào sự tiếp xúc của Nhật Bản với láng giềng
Trung Hoa, Triều Tiên.
Mặc dù có những dị biệt ở các tông phái đó đều phản ánh sự khao
khát hướng tìm bản chất của vũ trụ và để hướng đến nhận thức bản chất đó
phải giải phóng tư duy khỏi mê chướng bởi ảo ảnh của giác quan. Thêm
vào đó chúng đều hướng con người tới những hoàn thiện mà trước hết về
đạo lý làm người.
Trong thời Nara, có thể nói, Phật giáo có phần phát triển nhanh hơn
ở Trung Quốc và Triều Tiên cũng thời kỳ. Sự tồn tại của nó mang lại cho
người Nhật nhiều lợi ích nhất là lợi ích tinh thần. Tuy nhiên, cũng để lại
những hậu quả xấu (sẽ bàn ở phần kết)
1.3.2. Phật giáo thời kỳ Heian (Bình An) (794 - 1185)
24
Vào cuối thời kỳ Nara, Nhật Bản diễn ra tình trạng rối loạn về xã
hội, đồi bại về chính trị do sự tranh giành quyền lực trong tầng lớp cầm
quyền.
Trong nội bộ Phật giáo, thói hư tật xấu ở tăng ni cũng tràn lan. Lý
do cơ bản là, sau thời kỳ phát triển mạnh nhờ sự nâng đỡ của chính quyền,
nhiều tăng ni đã biến chất trở thành những kẻ mượn cửa chùa để làm việc
phàm phu, ăn chơi, hưởng lạc. Nhiều kẻ có dã tâm ngoài đời, vì chuộng sự
nhàn tản và sung sướng nên cũng khoác áo sa môn.
Trước tình hình đó vào năm thứ 13 niên hiệu Diên Lịch (794 theo
Công lịch) Hoàn Vũ Thiên Hoàng đã quyết định dời đô tới Heian (Kyoto

ngày nay) với mục đích chấn chỉnh kỷ cương, thống nhất dân tâm, đổi mới
phong khí.
Ngoài những lý do trên, nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng, sở dĩ
Tenno phải thiên di kinh đô tới Heian còn vì để tránh những áp lực của các
dòng họ giàu có, cũng như áp lực ngày càng gia tăng của giới tăng lữ phật
giáo. Vì lẽ ấy, trước đây khi thiên di kinh đô, các chùa viện Phật giáo cũng
dời đi theo nhưng nay theo chỉ của Tenno, toàn bộ chùa viện vẫn ở chỗ cũ.
Duy chỉ có vài chùa viện được xây dựng nhằm tạo bộ mặt cho kinh đô mới.
Trong tình hình đó, Phật giáo xuất hiện thêm hai tông phái với hai gương
mặt đại diện. Đó là tông Tendai (Thiên Thai) với sư tổ Saicho (Tối Trừng)
và Shingon (Chân ngôn tông) với sư tổ Kukai (Không Hải).
- Tông Tendai
Là tông phái được thành lập ở Trung Hoa bởi Trì Khải Đại sư tại
núi tông Tendai vào thế kỷ thứ VI. Tông phái này tồn tại ở Nhật Bản gắn
với tên tuổi Saicho. Ông là người đã từng tu ở chùa Heian, Todaiji nhưng
vì bất mãn với hiện trạng Phật giáo chỉ chạy theo hư danh mà phát tâm kim
25

×