Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Ngân hàng – Tài chính
PHÂN TÍCH THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
----------------------o0o---------------------
Chủ đề: Phân tích ngành Dây – Cáp điện
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Tâm
Lớp: Tài chính doanh nghiệp VB2
Mã SV: BH212301
Hà Nội – Ngày 07/04/2010
Cùng với toàn thế giới, đất nước ta cũng đang bước vào giai đoạn tăng
tốc như vũ bão về công nghệ. Sự hiện đại hóa đang tràn ngập trong tất cả các
ngành từ sản xuất cho đến kinh doanh và không nằm ngoài tiến trình ấy ngành
sản xuất dây, cáp điện chính cũng đang ở giai đoạn phát triển nhanh và mạnh
nhất. Đi đôi với sự phát triển của sản lượng sản xuất điện năng là việc xây
dựng mạng lưới truyền tải và phân phối điện năng từ mặng lưới cao thế đến hạ
thế và tiêu dùng. Nhu cầu dây và cáp điện để xây dựng mạng lưới điện được
dự báo là sẽ tăng nhanh trong những năm tới. Ngoài ra, dây và cáp điện còn
được sử dụng vào các lĩnh vực như: sản xuất ô tô và động cơ, sản xuất môtơ
và máy biến áp, liên lạc viễn thông và truyền dữ liệu v.v…
Hiện nay Việt Nam có trên 100 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
sản xuất dây cáp điện, trong đó có khoảng 30 doanh nghiệp được xếp hạng
trong 500 doanh nghiệp lớn của Việt Nam. Có thể nêu tên một số công ty điển
hình trong ngành như: Công ty Dây và Cáp điện Việt Nam (CaDiVi), Công ty
cơ điện Trần Phú, Công ty liên doanh LG Vina Cable, Công ty TaYa Việt
Nam, Công ty cổ phần cáp và điện tử viễn thông (SaCom), …
Những năm gần đây, ngành sản xuất dây và cáp điện Việt Nam đứng
trước một cơ hội hết sức thuận lợi nhưng cũng tiềm ẩn nhiều thách thức cần
vượt qua, chúng ta sẽ tiến hành phân tích vĩ mô ngành sản xuất dây, cáp điện
Việt Nam để có được cái nhìn tổng quan nhất trên giác độ một nhà đầu tư.
1. Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế
Ngành sản xuất dây, cáp điện là ngành phát triển thuận chiều với chu kỳ
kinh tế, do đó khi đất nước đang ở trong giai đoạn phát triển mở rộng với tốc
độ phát triển nhanh thì đảm bảo ngành này sẽ có một khung cảnh phát triển
khả quan. Giai đoạn phát triển này của nền kinh tế Việt Nam có thể kéo dài
một thời gian nữa nhờ đầu tư từ nước ngoài tại Việt Nam vẫn đang tăng, sự
phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân và những cải cách đáng ghi
2
nhận của nhà nước. Khi đó những ngành công nghệ, bưu chính viễn thông,
điện lực … muốn phát triển được thì cần có một hậu phương vững chắc cung
cập mọi vật liệu cần thiết, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường ngày
càng rộng mở của ngành, từ đó đấy cao quy mô sản xuất và doanh thu cho
ngành.
Những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng doanh thu của các doanh nghiệp
sản xuất dây và cáp điện có đầu tư trang thiết bị hiện đại, sản phẩm đạt tiêu
chuênr IEC (Ủy ban điện Quốc tế) với mức tăng trưởng trên 20%/năm. Xuất
khẩu cáp điện của Việt Nam liên tục tăng mà thị trường chính là Nhật Bản
chiếm 80%, kế đến là Trung Quốc, Hàn Quốc và các nước lân cận như Lào,
Campuchia ... Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tháng 11/2009,
kim ngạch xuất khẩu mặt hàng dây và cáp điện các loại của Việt Nam đạt hơn
100,76 triệu USD, tăng 11,96% so với tháng 10/2009. Tính chung 11 tháng
đầu năm, Việt Nam đã xuất khẩu nhóm hàng này với kim ngạch 768.820.990
USD. Thị trường nội địa cũng phát triển đầy triển vọng, khả năng cung cấp
của các doanh nghiệp sản xuất chỉ đạt khoảng 80% nhu cầu, còn lại là nhập
khẩu từ nước ngoài, chủ yếu là các sản phẩm dây và cáp điện chất lượng cao.
2. Ảnh hưởng của môi trường chính sách và pháp luật
Các doanh nghiệp hoạt động trong ngành chịu sự chi phối của Luật doanh
nghiệp, Luật Chứng khoán và các văn bản luật liên quan. Do đó, bất cứ sự
thay đổi nào trong các điều luật này cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến ngành.
Ngoài ra còn có những ràng buộc về pháp luật trong ngành liên quan đến
tiêu chuẩn kỹ thuật quy định cho sản xuất dây và cáp điện tiêu thụ tại Việt
Nam, do đó những thay đổi về tiêu chuẩn kỹ thuật cũng ít nhiều ảnh hưởng
đến các doanh nghiệp hoạt động trong ngành.
Một vấn đề nghiêm trọng hơn cả đó là chính sách Thuế đối với nguyên
vật liệu nhập khẩu. Đơn cử như trường hợp năm 2005, Nhà nước quyết định
tăng mức thuế đối với thép tráng kẽm nhập khẩu từ 0% đến 5%, sự việc này
đã trở thành gánh nặng đối với ngành trong suốt một thời gian. thuế suất này
3
là gánh nặng đối với DN. Gánh nặng này càng nặng hơn khi giá loại nguyên
liệu này đã tăng vài chục phần trăm trong một năm qua, làm cho số thuế phải
nộp của DN tăng cao. Hoàn thuế chậm, làm tăng chi phí sản xuất.
Các nhà phân tích cho biết chính phủ đang từng bước cố gắng đưa các
chính sách tiền tệ về một trạng thái bình thường nhưng theo một chế độ linh
hoạt hơn, do đó chúng ta hi vọng những chính sách thuế đối với ngành sẽ tiến
triển thuận lợi.
3. Ảnh hưởng của sự thay đổi công nghệ sản xuất dây, cáp điện
Nhìn chung thì mặt bằng công nghệ của ngành so với các nước khác trên
thế giới là mới chỉ ở mức trung bình. Có một số doanh nghiệp lớn như
CaDiVi, TaYa … cũng chưa thể nói là đủ sức cạnh tranh về công nghệ mà
hơn nữa hầu hết các doanh nghiệp khác mới đang ở mức sản xuất những sản
phẩm đơn giản và phục vụ cho dân dụng là chính. Như đã nói, 20% thị trường
trong nước đang bị chiếm lĩnh bởi các nhà cung cấp nước ngoài do sản phẩm
yêu cầu có chất lượng quá cao khiến các nhà cung cấp trong nước không đủ
sức. Việc đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ sản xuất bị ngăn cản
bởi bất lợi về quy mô, vốn đầu tư và trình độ nhân lực. Do đó, có thể nói 80%
thị trường của chúng ta mang lại lợi nhuận cũng chỉ nhỉnh hơn 20% thị trường
bị chiếm lĩnh một chút mà thôi.
4
Hơn nữa sự thay đổi như vũ bão của công nghệ truyền dẫn là một thách
thức lớn cho ngành, phải làm gì để thay đổi công nghệ sản xuất theo kịp với
bước tiến của thế giới? Nếu không giải được bài toán này thì ngành sản xuất
dây, cáp điện Việt Nam sẽ gặp phải khó khăn lớn trong thời gian tới.
4. Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái
Phần lớn các nguyên liệu của ngành đều phải nhập khẩu do đó sự biến
động của tỷ giá hối đoái sẽ tác động đến giá thành nguyên liệu đầu vào của
ngành, gây ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh. Trong những năm gần đây, tỷ
giá VND/USD biến động không lớn, mức giao động tỷ giá hối đoái thấp nên
không ảnh hưởng nhiều đến việc xuất nhập khẩu.
Mặt khác, ngành cũng tự cân đối bằng cách sử dụng ngoại tệ mang lại từ
việc xuất khẩu sản phẩm, do đó cũng góp phần hạn chế thiệt hại liên quan đến
biến động của tỷ giá. Song vấn đề này cũng cần được lưu ý vì biến động của
thị trường tài chính là khó mà dự đoán được.
5. Chu kỳ kinh doanh của ngành
Ngành sản xuất cáp và dây điện Việt Nam đang ở “Giai đoạn phát triển
nhanh” có nghĩa là sản phẩm của ngành đã được thị trường đón nhận, các
doanh nghiệp trong ngành đang cố gắng gia tăng quy mô sản xuất, chất lượng
sản phẩm và mở rộng các kênh phân phối … Dự kiến giai đoạn này sẽ còn
duy trì 10 đến 15 năm nữa.
6. Rào cản gia nhập ngành
Các doanh nghiệp trong ngành hầu hết là doanh nghiệp vừa và nhỏ, phân
tán không tập trung do đó không thể dựa vào lợi thế quy mô để ngăn chặn việc
gia nhập vào ngành của các doanh nghiệp mới.
Hơn thế nữa, đây cũng là ngành sản xuất không chịu những quy định quá
khắt khe về pháp luật và vốn điều lệ, nếu doanh nghiệp chỉ xác định phục vụ
thị trường ngách, quy mô nhỏ thì với số vốn thích hợp ngay lập tức có thể gia
nhập ngành.
5