Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Nhật Bản trong quan hệ với các nước khu vực Đông Bắc Á thời kỳ sau chiến tranh lạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.51 KB, 71 trang )

Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi chiến tranh lạnh chấm dứt cho tới nay, hơn một thập niên đã trôi
qua. Thế giới với nhiều thay đổi lớn mà điển hình là một trật tự mới đang được
hình thành thay thế cho trật tự hai cực trước đây. Với trật tự mới này, các nước
vừa đấu tranh để tồn tại vừa hợp tác với nhau. Do đó, để có được một vị trí vững
chắc trên trường quốc tế, mỗi quốc gia đều có một phương hướng, đường lối
chính sách riêng của mình. Trong cuộc cạnh tranh gay gắt như vậy, bằng cách
điều chỉnh chính sách đối ngoại với các nước, Nhật Bản cũng là một trong nhiều
nước đang từng bước tìm kiếm vị trí phù hợp với tiềm năng kinh tế của mình.
Như chúng ta đã biết, khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản
là nước bại trận và phải chịu sự chiếm đóng của lực lượng quân Đồng minh.
Dưới sự áp đặt của Mỹ, Nhật Bản đã trở thành một nước phi quân sự trong sự
ràng buộc của điều 9 bản Hiến pháp hoà bình 1946. Và cũng trong thời gian này,
Nhật Bản đã lựa chọn theo đuổi một chính sách ngoại giao phụ thuộc vào Mỹ,
tập trung phát triển kinh tế để khôi phục lại vị trí của mình.
Khi thế giới bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, nhằm xây dựng cho mình
một đồng minh chống chủ nghĩa xã hội ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương,
Mỹ đã biến Nhật trở thành một căn cứ quân sự và một đồng minh chiến lược của
mình. Ngược lại, nhờ có Hiệp ước an ninh Mỹ- Nhật, Nhật Bản có điều kiện để
phát triển kinh tế và kết quả là Nhật Bản đã nhanh chóng trở thành nền kinh tế
lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Mỹ. Tuy vậy, trên chính trường thế giới, Nhật
Bản vẫn không có ảnh hưởng lớn, chỉ được coi như là "một bộ phận của Mỹ" với
tư thế tuy là "người khổng lồ về kinh tế nhưng lại là một chú lùn về chính trị".
Sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt, tình hình thế giới cũng như khu vực đã
có nhiều thay đổi, tạo cơ hội cho Nhật Bản có thể vươn lên trở thành một trong
nhiều cực hình thành nên trật tự thế giới mới. Nhật Bản vẫn coi mối quan hệ với
Mỹ là nền tảng trong chính sách đối ngoại của mình nhưng tỏ ra độc lập hơn,
đồng thời tích cực tăng cường quan hệ với các nước châu Á với mục đích muốn
1
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà


trở thành một cường quốc trên thế giới thì trước hết phải trở thành một cường
quốc ở khu vực.
Với vị trí nằm ở khu vực Đông Bắc Á, Nhật Bản đã và đang điều chỉnh
chính sách của mình trong quan hệ với các nước láng giềng thuộc khu vực. Tuy
nhiên, Nhật Bản gặp không ít khó khăn bởi tại khu vực này vẫn còn dấu ấn của
thời kỳ chiến tranh lạnh mà đến tận thời điểm ngày nay vẫn chưa giải quyết được
như tình trạng chia cắt Nam Bắc Triều Tiên, các vấn đề về tranh chấp lãnh thổ
giữa Nhật Bản với Nga. Bên cạnh đó, một Trung Quốc đang lớn mạnh về cả kinh
tế, chính trị và quân sự thực sự trở thành một mối lo ngại, một thách thức đối với
vai trò nước lớn của Nhật Bản.
Vậy Nhật Bản đã điều chỉnh chính sách của mình đối với các nước trong
khu vực Đông Bắc Á như thế nào trong bối cảnh như thế? Quan hệ giữa Nhật
Bản và các nước đó đã thay đổi như thế nào so với thời kỳ chiến tranh lạnh và
trong thế kỷ XXI những mối quan hệ đó sẽ phát triển theo xu hướng thế nào?
Với một sự hứng thú khi tìm hiểu về quan hệ quốc tế giữa các nước, về đường
lối chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia, bằng kiến thức có được trong bốn
năm học tập tại chuyên ngành Nhật Bản khoa Đông Phương học, tôi đã quyết
định viết khoá luận tốt nghiệp với đề tài: "Nhật Bản trong quan hệ với các nư-
ớc khu vực Đông Bắc Á thời kỳ sau chiến tranh lạnh".
Bài khoá luận gồm có ba chương:
Ch ương 1 : Nhìn lại quan hệ của Nhật Bản với các nước khu vực Đông
Bắc Á trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Nội dung của chương này là đánh giá lại
một vài nét về tình hình Nhật Bản cũng như quan hệ của Nhật Bản với các nước
ở khu vực Đông Bắc Á từ sau chiến tranh thế giới thứ hai cho tới khi chiến tranh
lạnh kết thúc.
Ch ương 2 : Nhật Bản trong quan hệ với các nước khu vực Đông Bắc Á
thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Chương này đề cập tới sự thay đổi trong đường lối
2
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
đối ngoại của Nhật Bản với các nước Đông Bắc Á kể từ khi chiến tranh lạnh kết

thúc dưới tác động của bối cảnh thế giới và khu vực.
Ch ương 3 : Triển vọng trong quan hệ của Nhật Bản với các nước khu vực
Đông Bắc Á trong thế kỷ XXI.
Bằng những nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kỳ sau
Chiến tranh lạnh, bài khoá luận này nhằm đưa ra cho người đọc một cái nhìn
khái quát nhất về quan hệ của Nhật Bản với các nước khu vực Đông Bắc Á (bao
gồm Trung Quốc, Nga, Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên và Mông Cổ) để có thể thấy
được Nhật Bản đã điều chỉnh chính sách của mình như thế nào trong bối cảnh
mới với mục tiêu trở thành một cực tạo nên trật tự thế giới mới và là nước đóng
vai trò dẫn đầu trong khu vực.
Các tài liệu tham khảo sử dụng trong bài khoá luận này chủ yếu đều là
những bài viết đăng ở các tạp chí Nghiên cứu quốc tế, tạp chí Nghiên cứu Nhật
Bản và Đông Bắc Á, Tin tham khảo đặc biệt... từ năm 1995 cho đến năm 2002,
và một số sách của các tác giả như TS. Nguyễn Duy Dũng, TS. Nguyễn Thanh
Hiền, TS. Ngô Xuân Bình…
Trong quá trình thực hiện bài khoá luận này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ,
chỉ bảo tận tình của PGS. Nguyễn Quốc Hùng, chủ nhiệm bộ môn Nhật Bản,
khoa Đông Phương học cũng như rất nhiều thầy cô giáo ở Trung tâm nghiên cứu
Nhật Bản và Đông Bắc Á. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy Hùng và các
thầy cô đã giúp tôi hoàn thành luận văn của mình.
Với sự hiểu biết và khả năng phân tích, đánh giá còn hạn chế, bài khóa
luận không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong sẽ nhận được nhiều đóng góp, ý kiến
chỉ bảo của thầy cô và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn.
3
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
Chương 1: Nhìn lại quan hệ của Nhật Bản với các nước Đông Bắc
Á
trong thời kỳ chiến tranh lạnh (1945 - 1989)
1. Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản là một nước bại trận, phải chịu
những thiệt hại to lớn về người và của cải vật chất (3 triệu người chết, bị thương
và mất tích; 2.250.000 nhà cửa, 34% máy móc và trang thiết bị công nghiệp bị
phá huỷ...). [6,24]. Do bị bại trận và đầu hàng vô điều kiện, Nhật Bản phải chịu
sự chiếm đóng của lực lượng đồng minh từ tháng 9/1945 cho đến tháng 4/1952.
Đây là lần đầu tiên quân đội nước ngoài đến chiếm đóng Nhật Bản, nhưng chính
quyền chiếm đóng không trực tiếp thống trị mà thực thi chính sách cai trị gián
tiếp qua bộ máy chính quyền Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản vẫn có những
quyền lực cần thiết để thực hiện những chính sách quan trọng do quân đội chiếm
đóng đề ra.
Những năm cuối thập kỷ 40, nền kinh tế Nhật Bản đã nhanh chóng được
phục hồi. Cũng trong khoảng thời gian này, sự lớn mạnh của Liên Xô, của phong
trào cách mạng thế giới và ở châu Á với sự ra đời của nước Cộng hoà Nhân dân
Trung Hoa là những trở ngại lớn đối với tham vọng làm bá chủ toàn cầu của Mỹ.
Trong tình thế đó, Mỹ chủ trương nhanh chóng biến Nhật Bản thành bức tường
ngăn chặn sự phát triển của phong trào cách mạng ở châu Á.
Với chiến lược này, từ năm 1946, Mỹ bắt đầu viện trợ lương thực và các
nguyên liệu phục vụ sản xuất cho Nhật. Để giúp Nhật giảm bớt khó khăn về tài
chính, Mỹ vừa tăng cường viện trợ tái thiết cho Nhật, vừa hỗ trợ Nhật Bản giữ
vững tỷ giá hối đoái giữa đồng yên và đồng đôla Mỹ, tạo điều kiện thuận lợi để
Nhật Bản tham gia tích cực vào hệ thống kinh tế tài chính của thế giới tư bản
chủ nghĩa. Nhờ đó, đến năm 1951, nền kinh tế Nhật Bản đã đạt được mức sản
xuất trước chiến tranh và bước vào thời kỳ tăng trưởng.
4
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
Với sự bảo trợ của Mỹ và với nỗ lực thuyết phục các nước trong phe đồng
minh, Hiệp ước hoà bình San Francisco được ký kết vào tháng 9/1951 với những
nội dung cơ bản sau:
- Trong chính sách đối ngoại của mình, Nhật Bản chủ trương hoà bình với
hầu hết các nước sau chiến tranh, trừ Liên Xô (cũ) và Trung Quốc.

- Cũng trong dịp này, Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật được ký kết. Hiệp ước
qui định Nhật Bản thoả thuận cho Mỹ được quyền thiết lập những căn cứ quân
sự trên lãnh thổ Nhật Bản nhằm bảo đảm an ninh cho Nhật Bản. Theo Hiệp ước
này, Nhật Bản cung cấp khoảng 130 cơ sở và căn cứ trên toàn lãnh thổ cho Mỹ.
Sau khi Hiệp ước được ký kết, đến tháng 4/1952, việc chiếm đóng Nhật
Bản của quân đội Mỹ đã chính thức chấm dứt. Và đây cũng là mốc quan trọng
đánh dấu việc Nhật Bản tiến hành các quan hệ ngoại giao trên trường quốc tế.
Cũng từ năm 1952, Nhật Bản bước vào thời kỳ tăng trưởng “thần kỳ” về kinh tế,
ổn định về chính trị - xã hội kéo dài đến năm 1973.
Mặc dù đã giành được sự kiểm soát về ngoại giao nhưng ở giai đoạn này
không thể nói Nhật Bản đã hoàn toàn độc lập trong chính sách đối ngoại của
mình. Nhật Bản vẫn theo đuổi chính sách tiếp tục phát triển quan hệ với Mỹ trên
cơ sở Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật. Lúc đầu Hiệp ước này chỉ có giá trị trong 10
năm, nhưng đến ngày 19/1/1960, một Hiệp ước bổ sung và thay thế Hiệp ước cũ
đã được ký kết. Không dừng lại đó, đến năm 1970, hai bên lại ký kết kéo dài
vĩnh viễn Hiệp ước này.
Từ năm 1952 đến đầu những năm 70 là giai đoạn phục hồi, phát triển kinh
tế mạnh mẽ của Nhật Bản. Cũng từ đây, Nhật Bản muốn hướng tới một chính
sách đối ngoại đa dạng hơn và giảm sự phụ thuộc vào Mỹ. Vì vậy, cho đến khi
chiến tranh lạnh kết thúc, Nhật Bản đã đề ra những đường lối, kế hoạch cụ thể
với ba lĩnh vực chủ yếu được nhấn mạnh trong chính sách đối ngoại của Nhật
Bản ở thời kỳ này là kinh tế, quân sự và ngoại giao với các khu vực và các quốc
gia.
Về kinh tế, Nhật Bản tiếp tục duy trì chính sách ngoai giao về kinh tế với
các khu vực trên thế giới với phương châm tìm cách xâm nhập, mở rộng thị
5
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
trường. Đặc biệt với các nước châu Á - Thái Bình Dương, Nhật Bản tìm cách
nâng cao hơn nữa quan hệ hợp tác vì đây là khu vực có nền kinh tế phát triển
năng động mà tiêu biểu là các nước và lãnh thổ có nền công nghiệp mới NIEs.

Mối quan hệ giữa Nhật Bản và các nước châu Á- Thái Bình Dương ngày càng
trở nên gần gũi và phát triển theo thời gian bởi mối quan hệ này không chỉ dựa
trên các yếu tố kinh tế, chính trị, địa lý, mà còn cả trong lĩnh vực văn hoá và lịch
sử.
Về quân sự, theo Hiến pháp hoà bình, Nhật Bản cố gắng xây dựng một lực
lượng phòng vệ có hiệu quả, không đe doạ tới an ninh của các nước khác. Ngay
từ năm 1986, Nhật Bản đã kiên quyết duy trì ba nguyên tắc phi hạt nhân: “không
tàng trữ vũ khí hạt nhân, không sản xuất vũ khí hạt nhân, không cho phép đưa vũ
khí hạt nhân vào Nhật Bản”. Nhật Bản theo đuổi một chính sách đối ngoại tích
cực nhằm củng cố hoà bình và an ninh thế giới, thông qua vai trò ngoại giao để
tăng cường môi trường an ninh của mình. Nhật Bản luôn duy trì liên minh vững
chắc và tin cậy với Mỹ trên cơ sở Hiệp ước an ninh Mỹ- Nhật để tăng cường khả
năng phòng vệ vì hoà bình, an ninh của Nhật Bản và của cả khu vực châu Á -
Thái Bình Dương.
Về chính sách ngoại giao với các khu vực và các quốc gia, trong quan hệ
với các nước châu Á, Nhật Bản luôn theo đuổi lập trường củng cố mối quan hệ
với Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Ngay trong thập niên 70, Nhật Bản đã cố
gắng tăng cường quan hệ với Trung Quốc thông qua một loạt hiệp ước về kinh tế
như hiệp ước về vận tải biển và hàng không năm 1974, hiệp ước về thương mại
và đánh cá năm 1975 và đến tháng 8/1978, Nhật Bản ký hiệp ước hoà bình và
hữu nghị với Trung Quốc. Có thể nói một trang mới đã mở ra trong quan hệ
Trung - Nhật.
Nhật Bản coi trọng mối liên hệ chặt chẽ với Hàn Quốc vốn có từ lâu và
tìm cách hạn chế mâu thuẫn từ những vấn đề của lịch sử. Với Cộng hoà dân chủ
nhân dân Triều Tiên, Nhật Bản tiến tới bình thường hoá quan hệ trong hiện tại
và tương lai. Trong những thập niên 80 - 90, vấn đề này luôn là mục tiêu hướng
tới của các chính phủ Nhật Bản. Các cuộc thăm viếng của những người đứng đầu
chính phủ Nhật Bản ở vùng này là biểu hiện rõ rệt nhất của chủ trương đó.
6
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà

Nhật Bản cũng chú trọng mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
Đông Nam Á, đặc biệt với ASEAN.
Với các nước phương Tây, Nhật Bản luôn thắt chặt quan hệ với Mỹ thông
qua những thoả thuận an ninh và chủ trương “mâu thuẫn kinh tế không làm tổn
hại đến sức mạnh quan hệ hai nước”. Thực tế là trong những năm 80 và đầu
những năm 90 đã xảy ra những bất đồng về kinh tế, thậm chí là “những cuộc
chiến tranh thương mại” đã bùng nổ giữa Mỹ và Nhật Bản nhưng hai nước vẫn
hợp tác chặt chẽ với nhau để giải quyết những vấn đề tồn tại. Mối quan hệ này
tiếp tục được phát triển trên cơ sở hợp tác hai bên trong các vấn đề chiến lược
tương lai.
Với các nước Tây Âu, Nhật Bản thực hiện nguyên tắc bảo đảm sự cân
bằng quan hệ hợp tác giữa Nhật Bản - Tây Âu - Mỹ để duy trì và tăng cường sức
mạnh của Nhật Bản. Qua đó, tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ Nhật Bản với Tây
Âu mà chủ yếu với Cộng đồng Châu Âu (EC) trước đây và Liên minh Châu Âu
(EU) ngày nay.
Nhìn chung, có thể nói nội dung cơ bản xuyên suốt trong chính sách đối
ngoại của Nhật Bản từ năm 1945 cho đến khi chiến tranh lạnh kết thúc là dựa
trên nguyên tắc mềm dẻo, chấp nhận sự an phận về vị thế an ninh, chính trị,
ngoại giao phụ thuộc vào Mỹ để tập trung tất cả cho việc phục hồi và phát triển
nền kinh tế đã bị tàn phá nặng nề sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
7
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
2. Quan hệ của Nhật Bản với các nước Đông Bắc Á trong thời kỳ chiến tranh
lạnh
Năm 1952, Nhật Bản bước ra khỏi thời kỳ bị chiếm đóng song các hoạt
động ngoại giao của Nhật bản trên vũ đài quốc tế vẫn còn rất hạn chế. Hiệp ước
an ninh Mỹ - Nhật chỉ là một biểu hiện của sự phụ thuộc đa dạng và chặt chẽ vào
Mỹ. Thời điểm này Nhật không tham gia bất kỳ tổ chức quốc tế nào, Nhật không
ký Hiệp ước hoà bình và không có quan hệ ngoại giao với cả Liên Xô và Trung
Quốc. Nhật tách rời khỏi các nước châu Á láng giềng của mình khi việc sửa chữa

những lỗi lầm thời kỳ chiến tranh với họ vẫn chưa được thực hiện. Quan hệ phụ
thuộc vào Mỹ là đặc điểm nổi bật nhất trong hoạt động đối ngoại của Nhật Bản
trong suốt thời kỳ này.
Sau cách mạng Trung Quốc thành công năm 1949 và nhất là sau khi bùng
nổ chiến tranh Triều Tiên năm 1950, chính sách của Mỹ đã nhanh chóng mang
tính chất chống cộng. Mỹ đã thúc giục Nhật Bản ký Hiệp ước San Francisco mà
không có sự tham gia của Liên Xô, Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam dân chủ cộng
hoà.
Trong những năm 50, chính sách đối ngoại của Nhật với châu Á theo đúng
chiến lược của Mỹ là phong toả phe xã hội chủ nghĩa. Nhật không quan hệ với
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Việt Nam dân chủ cộng hoà và Cộng hoà dân
chủ nhân dân Triều Tiên. Chính sách phong toả của Mỹ đã cản trở sự phát triển
các quan hệ kinh tế của Nhật Bản với Trung Quốc, song Nhật Bản được hưởng
những nguồn lợi đáng kể từ chính sách của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương. Nhờ
những đơn đặt hàng quân sự của Mỹ trong các cuộc chiến tranh ở Triều Tiên và
Đông Dương mà Nhật Bản đã thu được lợi nhuận rất lớn. Tháng giêng năm
1960, Thủ tướng Nhật Bản đã ký Hiệp định an ninh sửa đổi với Mỹ. Việc gia hạn
Hiệp ước an ninh với Mỹ cho phép Nhật Bản duy trì sự bảo hộ của Mỹ trong
điều kiện thuận lợi để bảo vệ chính quyền của mình.
Quan hệ đồng minh trung thành của Nhật với Mỹ bắt đầu có những vết
rạn nứt, điển hình là "cú sốc Nixon" lần thứ nhất. Năm 1971, Henry Kissinger bí
mật sang Bắc Kinh trong khi Mỹ vẫn còn yêu cầu Nhật Bản ủng hộ quyết định
8
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
của mình từ năm 1961 về vấn đề cản trở Trung Quốc gia nhập Liên hợp quốc
(LHQ). Đến khi Tổng thống Mỹ Nixon sang thăm Trung Quốc năm 1972 thì
Nhật Bản chỉ được biết tin này trước đó vài tiếng. Sự kiện hoà giải Trung - Mỹ
làm cho người Nhật nghĩ rằng tình hình chiến tranh lạnh của khu vực châu Á sẽ
thay đổi một cách căn bản và vấn đề hàng đầu đối với Nhật Bản lúc này là làm
thế nào kịp thời ứng phó với những diễn biến mới của khu vực do sự kiện đó

đang và sẽ gây ra. Với mục đích đổi mới chính sách châu Á, chính phủ Nhật Bản
bắt đầu một số hoạt động ngoại giao với các nước xã hội chủ nghĩa châu Á. Và
ngay sau đó, vào tháng 9/1972, Thủ tướng Tanaka tới Bắc Kinh và hai chính phủ
Trung - Nhật đã có Tuyên bố chung về thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai
nước.
Từ đó, Nhật Bản coi châu Á có tầm quan trọng hơn trong chính sách đối
ngoại của mình. Tư tưởng chủ đạo đằng sau những chính sách mới về châu Á
này là Nhật Bản cần đóng góp vào việc tạo lập một thế cân bằng mới và làm
tăng thêm sự ổn định ở châu Á. Ngoài ra, Nhật cũng muốn bảo đảm và mở rộng
những thành quả kinh tế ở khu vực cho nên muốn Đông Á và Đông Nam Á càng
ổn định càng tốt. Những sự kiện xảy ra từ cuối năm 1978 đến năm 1979 (Việt
Nam đưa quân vào Campuchia, xung đột biên giới Việt - Trung, Liên Xô đưa
quân vào Apganixtan...) làm cho quan hệ Nhật - Việt trở nên lạnh nhạt, quan hệ
Nhật - Xô bị đông cứng còn quan hệ Nhật - Trung thì được cải thiện. Cho đến
tháng 8/1978, Nhật đã ký được Hiệp ước hoà bình với Trung Quốc.
Từ giữa thập kỷ 60, sức mạnh kinh tế của Nhật Bản không ngừng được
khẳng định. Nhật Bản đã trở thành bạn hàng số một ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương, nơi mà trước đây vị trí này thuộc về các nước phương Tây như Mỹ
ở Nam Triều Tiên và Đài Loan, hay Anh ở Ôxtrâylia. Xuất khẩu của Nhật Bản
vào Đông Nam Á tăng từ 1,8 tỷ đôla (1964) lên 4,9 tỷ (1970) và mang lại cho
Nhật Bản khoản lợi nhuận 2 triệu đôla vào năm đó. [23,79]
Chính phủ Nhật Bản gặp nhiều khó khăn nhất là trường hợp thiết lập quan
hệ ngoại giao với Hàn Quốc. Mặc dù Mỹ khuyến khích hai nước sớm ký kết hiệp
định bình thường hoá quan hệ ngoại giao nhưng các cuộc đàm phán giữa hai bên
từ năm 1951 không đem lại kết quả gì. Giữa hai nước còn có nhiều vấn đề tồn tại
9
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
trong đó có vấn đề lãnh hải, vấn đề bồi thường tài sản, vấn đề địa vị pháp lý của
người Triều Tiên đang sống trên đất Nhật. Năm 1961, Hàn Quốc xảy ra cuộc đảo
chính do quân đội tổ chức. Chính quyền Lý Sung Man giữ chính sách thù Nhật

trước đây đã được thay thế bằng chính quyền mới do Park Chung Hee đứng đầu.
Chính quyền mới này muốn bình thường hoá quan hệ với Nhật Bản để đẩy mạnh
quan hệ kinh tế. Mặc dù nhiều người dân hai nước phản đối những thoả thuận
của hai chính phủ, một số hiệp định giữa hai quốc gia vẫn được ký kết vào tháng
6/1965 và trao đổi công hàm vào tháng 12/1965. Như vậy, sau 14 năm gián đoạn
Nhật Bản và Hàn Quốc mới bình thường hoá quan hệ với nhau.
Với Liên Xô là nước không ký Hiệp ước San Francisco nên Nhật Bản
không có quan hệ ngoại giao và không ký Hiệp ước hoà bình. Cuộc Chiến tranh
thế giới thứ hai đã để lại cho hai nước những vấn đề lịch sử chưa giải quyết
được. Bốn hòn đảo thuộc quần đảo Kurin mà Liên Xô chiếm đóng chỉ cách
Hokkaido vài kilômét. Song do tác động của bối cảnh quốc tế ở châu Á từ giữa
thập kỷ 50 (kết thúc chiến tranh Triều Tiên, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương
với hiệp nghị ở Giơnevơ...) cũng như do nhu cầu phát triển kinh tế của mỗi
nước, ngày 16/10/1956 Liên Xô và Nhật Bản đã cho ra Tuyên bố chung và từ đó
quan hệ kinh tế - thương mại Nhật - Xô đã phát triển theo hướng đi lên cho đến
giữa thập kỷ 70.
Từ giữa những năm 60 trở đi, Nhật Bản đã trở thành một trong những
nước tư bản phát triển và trở thành cường quốc về kinh tế. Do kinh tế phát triển,
Nhật Bản đã bắt đầu đóng vai trò tích cực hơn trong lĩnh vực kinh tế quốc tế, đặc
biệt ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Năm 1961, chính phủ Nhật Bản thành
lập Quỹ hợp tác kinh tế đối ngoại để quản lý ODA về viện trợ kỹ thuật và viện
trợ không hoàn lại. Năm 1964, Nhật Bản tham gia Tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế OECD. Tháng 12/1965, Ngân hàng phát triển châu Á được thành lập và
Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất của Ngân hàng này.
Thập kỷ 70 với nhiều biến cố đã đánh dấu sự đổi hướng quan trọng trong
chính sách đối ngoại của Nhật Bản. Nhật Bản đã nhận thức được tính dễ bị tổn
thương của mình. Cú sốc dầu mỏ chỉ ra mối nguy hiểm của sự phụ thuộc kinh tế
của Nhật đối với môi trường quốc tế. Tình thế như vậy buộc Nhật Bản phải điều
10
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà

chỉnh 3 vấn đề đối ngoại lớn của mình sao cho tự chủ hơn. Đó là quan hệ với hai
nước cộng sản láng giềng lớn, lập trường đối với Trung Đông trong việc giải
quyết những mâu thuẫn liên quan đến cung ứng năng lượng cho Nhật Bản và vị
thế của Nhật Bản ở khu vực Châu Á là nơi luôn bị đe doạ bằng sự bất ổn định
song cũng được đánh dấu bằng việc xuất hiện các nền kinh tế mới phát triển.
Phong cách ngoại giao mới của Nhật Bản thời gian này là thực hiện một chính
sách ngoại giao đa phương.
Dù khôn khéo và tỏ ra tự chủ hơn trong chính sách đối ngoại song Nhật
Bản vẫn phải hoạt động thống nhất với phương Tây. Trong quan hệ kinh tế với
Mỹ, do Nhật Bản xuất siêu nên mâu thuẫn với Mỹ là không tránh khỏi. Cú sốc
Nixơn thứ hai là bằng chứng khi Nhật Bản phải chấp nhận sự định giá lại đồng
yên (8/1971), chấp nhận ký hiệp định hạn chế các sản phẩm dệt tăng hàng năm
vào thị trường Mỹ và chịu thiệt thòi trong việc Mỹ đánh thuế phụ thu 10% đối
với hàng nhập khẩu vào Mỹ. Dù có những mâu thuẫn thì quan hệ song phương
Nhật - Mỹ vẫn rất sôi động.
Cuối thập kỷ 70, nhiều sự kiện bất ổn về an ninh diễn ra liên tục ở khu vực
châu Á - Thái Bình Dương khiến cho Nhật Bản phải đưa ra những thay đổi trong
chính sách đối ngoại. Thời kỳ này Nhật Bản đã áp dụng đường lối quay lại
phương Tây, tự xếp mình vào thế giới phương Tây.
Khi Hiệp ước hoà bình Nhật - Trung được ký kết năm 1978, Liên Xô đã
thể hiện phản ứng của mình bằng cách cho quân đội đóng trên đảo Iturup. Sự
căng thẳng giữa Nhật Bản và Liên Xô còn tăng thêm nữa khi Nhật Bản cũng tổ
chức cuộc tập trận lớn từ sau chiến tranh của lực lượng phòng vệ tại Hokkaido
và một phần đảo Honshu bên cạnh để đối phó với "mối đe doạ Liên Xô". Thời
gian này quan hệ hai nước bị đông cứng. Cho đến năm 1986, Bộ trưởng ngoại
giao hai nước không hề gặp nhau.
Sang thập kỷ 80, quan hệ chính trị của Nhật Bản với Trung Quốc cũng
xấu đi. Năm 1982 vụ sách giáo khoa Nhật Bản đã gây ra sự phản kháng của
Trung Quốc chống "chủ nghĩa quân phiệt phục sinh". Năm 1985 chuyến viếng
thăm đền Yasukuni của Thủ tướng Nakasone lại gây nên làn sóng chống Nhật

làm cho Nakasone phải huỷ bỏ dự định đi thăm Trung Quốc lần thứ hai (năm
11
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
1984 Nakasone đã sang thăm Bắc Kinh). Về vấn đề sách giáo khoa, sự căng
thẳng lên tới mức nhiều nhà chức trách Nhật Bản đã lên tiếng chống lại sự phê
phán của Trung Quốc. Tình hình khó khăn trên làm cho Nhật Bản khẳng định lại
quan hệ đoàn kết của mình với phương Tây bằng mọi biện pháp. Nhật Bản đã
chú trọng đến quân sự, tham gia diễn tập với hạm đội 7 và với hải quân Úc từ
năm 1982. Thủ tướng Suzuki tuyên bố liên minh và viện trợ tài chính cho các
nước bị ảnh hưởng "mối đe doạ Liên Xô" nhiều nhất như Pakistan và Thổ Nhĩ
Kỳ. Tại hội nghị thượng đỉnh G7 ở William Burg năm 1983, Nhật Bản đã khẳng
định lại sự nhất trí của mình với các nước phương Tây trong vấn đề an ninh.
Từ giữa thập kỷ 80 trở đi, tình hình quốc tế ngày càng có những thay đổi
sâu sắc. Khủng hoảng trầm trọng về kinh tế trong các nước xã hội chủ nghĩa, đặc
biệt là Liên Xô và Đông Âu đã dẫn tới khủng hoảng về chính trị và xã hội ở các
nước này. Đầu thập kỷ 90, từ sự kiện bức tường Berlin bị sụp đổ cho đến khi
Liên Xô tan rã chỉ diễn ra trong thời gian ngắn. Cục diện thế giới hoàn toàn đổi
khác khi chiến tranh lạnh kết thúc. Cơ chế hai cực không còn cơ sở để tồn tại
song một cơ chế thế giới mới cũng chưa được thành lập đầy đủ. Sau chiến tranh
lạnh, ảnh hưởng của Mỹ đối với các nước đồng minh bị yếu đi. Từ chỗ hoàn toàn
phụ thuộc vào Mỹ để đối phó lại với nguy cơ đe doạ của Liên Xô, đến thời điểm
này các nước đồng minh của Mỹ cho thấy sự lệ thuộc kiểu đó đã không thể hoàn
toàn chấp nhận được. Họ muốn khẳng định sự độc lập trong việc thực hiện chủ
quyền của mình. Nhật Bản cũng không phải là trường hợp ngoại lệ của xu thế
chung đó.
Tóm lại, kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ II, Nhật Bản đã thi hành một
chính sách ngoại giao thân Mỹ. Tất cả mối quan hệ của Nhật Bản với các nước
đều dựa trên thái độ của Mỹ. Cho đến thời điểm chiến tranh lạnh kết thúc thì hầu
như Nhật Bản đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với các nước trong khu vực
Đông Bắc Á. Tuy nhiên, trong mối quan hệ đó vẫn tồn tại những khó khăn, trở

ngại như vấn đề tranh chấp lãnh thổ với Nga, vấn đề bồi thường chiến tranh cho
Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên và những thái độ nghi ngờ lẫn nhau giữa các
nước vẫn còn tồn tại. Đó cũng chính là những nội dung mà các bên vẫn đang nỗ
12
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
lực tiếp tục thương lượng cùng nhau giải quyết nhằm hướng tới mục tiêu cải
thiện ngoại giao, thúc đẩy hợp tác kinh tế cùng phát triển trong tình hình mới.
13
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
Chương 2: Nhật Bản trong quan hệ với các nước Đông Bắc
Á
thời kỳ sau chiến tranh lạnh (1991 - 2001)
1. Bối cảnh quốc tế và khu vực sau chiến tranh lạnh
1.1 Bối cảnh quốc tế
1.1.1 Xu thế tiến tới đa cực hoá
Chiến tranh lạnh kết thúc kéo theo sự sụp đổ của Trật tự thế giới hai cực
đứng đầu là Liên Xô và Mỹ. Môi trường an ninh quốc tế có nhiều biến đổi sâu
sắc và rộng khắp, từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam và ở mọi phương diện.
Thế giới đang trong quá trình chuyển tiếp sang trật tự thế giới mới với xu thế nổi
trội là đa cực, đa trung tâm. Liên Xô sụp đổ, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất
với ưu thế vượt trội cả về kinh tế, quân sự, chính trị và khoa học - kỹ thuật. Hơn
nữa, thập kỷ đầu của thời kỳ sau chiến tranh lạnh lại chứng kiến một thời kỳ
kinh tế phát triển dài nhất trong lịch sử nước Mỹ. Khoảng cách giữa Mỹ và các
đối thủ đặc biệt là Nhật Bản và EU càng được mở rộng vì sự chênh lệch lớn
trong tốc độ phát triển kinh tế. Từ năm 1990 đến 1998, kinh tế Mỹ tăng tới 27%,
gần như gấp đôi so với EU 15% và Nhật Bản 9%. [5,21]. Mỹ có khả năng duy trì
được vị trí siêu cường của mình trong nhiều thập kỷ tới. Mỹ còn nắm giữ vai trò
chủ đạo trong các thiết chế tài chính, thương mại thế giới như IMF, WTO, WB…
Mỹ cũng là nước lãnh đạo khối liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO)
và qua đó duy trì sự lệ thuộc của các nước Tây Âu vào Mỹ về măt chính trị và

quân sự.
Tuy nhiên, dù là siêu cường duy nhất với sức mạnh tổng hợp vượt trội, Mỹ
không thể chi phối toàn bộ công việc của thế giới và áp đặt ý chí của mình. Sự
trỗi dậy của Trung Quốc, sức mạnh còn lại và khả năng phục hồi của Nga, tính
độc lập ngày càng cao của Nhật Bản và EU cũng như sự lớn mạnh của Ấn Độ và
đặc biệt là sự hình thành những tập hợp lực lượng chống lại xu thế đơn cực của
Mỹ, làm cho Mỹ không dễ dàng thực hiện được tham vọng của mình. Điều này
14
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
càng rõ hơn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nơi mà một trật tự khu vực đa
cực đang hình thành rõ nét.
Tuy nhiên, trật tự thế giới đang hình thành là một trật tự đa cực không
đồng đều trong đó cực Mỹ là áp đảo, không chỉ ở khía cạnh so sánh lực lượng
mà còn về phạm vi địa lý. Trong khi vai trò an ninh chính trị của Trung Quốc và
Nhật chủ yếu tập trung ở khu vực Đông Á, của Nga và Tây Âu ở Châu Âu thì
Mỹ có mặt và đóng vai trò chủ yếu trên cả hai chính trường quan trọng nhất của
thế giới là châu Âu và châu Á.
Là một bộ phận quan trọng của thế giới, châu Á- Thái Bình Dương cũng
nằm trong dòng chảy chung và không thể không chịu ảnh hưởng của những xu
thế quốc tế chủ đạo. Những xu thế này có tác động sâu sắc tới cục diện quan hệ
quốc tế ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương và đặc biệt là quan hệ giữa các
nước lớn Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga và Ấn Độ. Tuy còn nhiều điều chưa
chắc chắn trong thời kỳ chuyển tiếp nhưng có thể thấy rằng hoà bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển là xu thế chủ đạo trong quan hệ giữa các nước ở khu vực
này.
Bên cạnh đó, xu thế đa cực hoá vừa là kết quả, vừa là tác nhân của sự cạnh
tranh và kiềm chế lẫn nhau giữa các nước lớn. Sự đấu tranh giữa chủ trương xây
dựng một thế giới đơn cực của Mỹ và sự phấn đấu cho một thế giới đa cực trong
đó có Trung Quốc, Nhật Bản, Nga và Ấn Độ giành được chỗ đứng cho mình là
một cuộc ganh đua lâu dài, khó khăn và còn ẩn chứa nhiều bất trắc. Vì vậy, hai

mặt hợp tác và đấu tranh sẽ tiếp tục đan xen nhau và thể hiện với những thăng
trầm trong quan hệ của các nước ở khu vực trong nhiều thập kỷ tới.
1.1.2. Xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, các nước trên thế giới, lớn cũng như
nhỏ, đều mong muốn duy trì một môi trường quốc tế hoà bình và tăng cường
hợp tác quốc tế để phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế trở
thành ưu tiên hàng đầu trong chiến lược của mọi quốc gia. Cạnh tranh kinh tế
15
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
ngày càng chiếm ưu thế so với chạy đua vũ trang. Sức mạnh kinh tế đã và đang
trở thành nhân tố quyết định của sức mạnh quốc gia. Tuy nhiên, yếu tố kinh tế
không thể thay thế vai trò của sức mạnh quân sự trong việc đảm bảo an ninh
quốc gia, khu vực và quốc tế. Cách mạng khoa học - công nghệ, xu thế toàn cầu
hoá và khu vực hoá và phụ thuộc lẫn nhau đang phát triển mạnh mẽ, những cuộc
xung đột khu vực, cục bộ về các vấn đề sắc tộc, tôn giáo, lãnh thổ diễn ra liên
tiếp cho thấy sức mạnh quân sự vẫn đóng vai trò hết sức quan trọng trong sức
mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia.
Hầu hết các khối và các nước đều cần có môi trường bên trong và bên
ngoài ổn định, hoà bình để tập trung phát triển kinh tế. Đây là một đặc điểm có
tính chất chi phối các quan hệ kinh tế quốc tế. Với mục tiêu trọng tâm là xây
dựng tiềm lực kinh tế nên các nước đều cố gắng tránh các xung đột đối kháng và
tìm cách giải quyết bằng đối thoại, đàm phán hoà bình khi có mâu thuẫn nảy
sinh.
Sự trỗi dậy của nhiều nước đang phát triển cho thấy có hiện tượng chênh
lệch về trình độ phát triển kinh tế, xã hội và chính trị giữa các nước và các khu
vực khác nhau trong bối cảnh vừa phải phụ thuộc, hợp tác cùng nhau phát triển
vừa cạnh tranh quyết liệt. Từng nước, kể cả những nước lớn nhất, đều đứng
trước những cơ hội và thách thức vừa có tính phổ biến vừa có tính đặc thù với
mỗi quốc gia để lựa chọn và giải quyết. Chính sự phát triển không đồng đều đã
dẫn tới sự mất cân bằng và phân bố quyền lực mới.

1.1.3. Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hóa
Sự chuyển đổi công nghệ từ những năm 1970 và cuộc cách mạng tin học
đã thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình toàn cầu hoá. Một mạng lưới toàn cầu về mậu
dịch, sản xuất, thông tin, tiền tệ và kỹ thuật dần dần được hình thành. Tỷ lệ tăng
trưởng mậu dịch thế giới đã vượt quá tỷ lệ tăng trưởng sản xuất của thế giới.
Mặt khác, giá thành giao thông vận tải và thông tin ngày càng giảm, thúc đẩy
nhanh hơn tiến trình toàn cầu hoá. Và nó mang lại cơ hội cũng như hàm chứa
những thách thức to lớn đối với các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát
16
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
triển. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á là minh chứng sống động về
sức tàn phá của các lực lượng tài chính xuyên quốc gia đối với các nền kinh tế
đang phát triển chưa chuẩn bị đầy đủ để đương đầu với những thách thức của
toàn cầu hoá.
Song hành với xu thế toàn cầu hoá là xu thế khu vực hoá. Ở châu Âu, viễn
cảnh toàn châu Âu nằm trong một thực thể khu vực EU không còn là viễn cảnh
xa vời. Quá trình mở rộng được tiến hành đồng thời với quá trình tăng cường
hoà nhập, đặc biệt là hoà nhập kinh tế. Đồng tiền chung châu Âu Euro ra đời vào
tháng 1/1999 và chính thức đi vào sử dụng từ tháng 1/2002 đã đẩy tiến trình khu
vực hoá ở châu Âu lên một tầm cao mới. Ở châu Á- Thái Bình Dương, tiến trình
tự do hoá thương mại của APEC đang tiếp tục tiến triển. Liên kết tiểu khu vực
cũng được thúc đẩy. Tiến trình AFTA của ASEAN, NAFTA của Bắc Mỹ, CER
giữa Ôxtrâylia và Niu Dilân là những ví dụ điển hình về xu thế liên kết khu vực.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá không phải là hai xu thế đối nghịch nhau.
Khu vực hoá có thể được coi là một bước đệm, ở mức độ nào đó là sự tập hợp
lực lượng giữa các nền kinh tế khu vực để đối phó với những thách thức, cạnh
tranh ở tầm toàn cầu. Xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá là một nhân tố rất quan
trọng tác động đến chiều hướng chính sách của các nước và động thái phát triển
của toàn thế giới. Thực chất của quá trình này là sự gia tăng các mối quan hệ
kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá vượt qua biên giới quốc gia nhưng diễn ra

không đồng đều về cường độ và phạm vi địa lý giữa mỗi nước cũng như mỗi khu
vực. Quá trình này diễn ra ngày càng mạnh mẽ và phức tạp, một mặt do những
tiền đề, điều kiện thuận lợi như thành quả của cuộc cách mạng công nghệ tin học
đã cho phép các quan hệ quốc tế đặc biệt là các quan hệ kinh tế quốc tế được
thực hiện một cách nhanh chóng. Mặt khác, toàn cầu hoá và khu vực hoá còn là
một tất yếu khách quan do nhu cầu tăng cường quan hệ giữa các quốc gia nhằm
khai thác lợi thế so sánh của nhau. Tiến trình này đem đến kết quả là bản đồ thế
giới dần dần thay đổi theo hướng đa trung tâm, nhiều cường quốc cùng tồn tại
cạnh nhau. Đồng thời, nhiều nhóm nước đang phát triển cũng liên minh lại, hình
thành các hình thức hợp tác tiểu khu vực. Vì vậy, ngoài các liên minh khu vực
17
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
lớn như EU, NAFTA, APEC còn có hàng chục liên minh tiểu khu vực khác như
ASEAN, FTA, Thị trường chung châu Mỹ và Cộng đồng Nam Phi...
1.2. Bối cảnh khu vực
1.2.1. Nhật Bản
Bước vào thập kỷ 90, cũng là lúc nền kinh tế “bong bóng” ở Nhật Bản sụp
đổ, nền kinh tế Nhật Bản rơi vào tình trạng đình trệ kéo dài. Từ năm 1991 đến
nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản nhiều năm chỉ đạt dưới 1%. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế thực tế đã giảm từ 2,9% năm 1991 xuống còn 0,4% năm
1992 và 4 năm liền từ 1992- 1995 mức tăng trưởng trung bình chỉ đạt 0,6%. [10,
371].
Bên cạnh đó, sự tăng giá của đồng yên là một khó khăn lớn cho nền kinh
tế Nhật, là nền kinh tế ngoại thương rất nhạy cảm với mọi biến động trên thị
trường quốc tế, đặc biệt là thị trường tài chính. Trong 3 năm từ 1993- 1995 đồng
yên tăng giá liên tục (1993: 111,8 yên/USD, 1994: 94,83 yên/USD, 1995: 83,9
yên/USD). [11, 28 - 29]. Do đó, hàng xuất khẩu của Nhật Bản tính theo đôla trở
nên quá đắt và làm giảm sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đồng thời gây
cản trở cho các ngành công nghiệp xuất khẩu của Nhật Bản. Đồng yên tăng giá
cũng làm tổn hại đến lòng tin của các nhà đầu tư vào kinh doanh. Tình trạng phá

sản và đổ vỡ kinh doanh diễn ra rất nhiều, nhất là các công ty vừa và nhỏ, đặc
biệt là các công ty có tỷ lệ xuất khẩu cao thì ảnh hưởng càng rõ rệt (năm 1994
tổng số doanh nghiệp phá sản là 14.201 vụ với tổng giá trị là 6.171,5 tỷ yên). [11,
29].
Sự tăng giá liên tục của đồng yên so với đồng đôla Mỹ cũng gây ảnh
hưởng đến nền kinh tế của các nước trên thế giới, trước hết là các nước ở khu
vực châu Á, láng giềng của Nhật Bản chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Nhật Bản là
một trong những nước cho vay lớn nhất trên thế giới, đồng yên tăng giá liên tục
cũng có nghĩa là các nước sẽ phải chi nhiều tiền hơn để trả lãi số tiền vay của
18
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
Nhật, hoặc để mua cùng một lượng hàng hoá Nhật Bản mặc dù giá hàng hoá đó
tính bằng đồng yên như cũ.
Một hậu quả to lớn nữa của sự sụp đổ nền kinh tế “bong bóng” và đồng
yên tăng giá là tỷ lệ thất nghiệp cao chưa từng thấy ở Nhật Bản từ sau Chiến
tranh thế giới thứ hai. Tỷ lệ thất nghiệp năm 1995 là khoảng 3,1%, đến tháng 10
năm 1997 đã lên tới mức 3,5%, tháng 3 năm 1998 lên tới mức kỷ lục là 3,9%.
[11, 30]. So với các quốc gia công nghiệp khác thì đây là một tỷ lệ nhỏ nhưng
với Nhật Bản là một đất nước vốn tự hào có chế độ làm việc suốt đời cho nhân
công thì đây thực sự là một cú sốc mạnh, một sự tồi tệ nhất từ hơn 30 năm qua.
Một vấn đề cũng rất nghiêm trọng trong xã hội Nhật Bản là tình trạng dân
số ngày càng già đi một cách nhanh chóng. Trước chiến tranh, tuổi thọ trung
bình của người dân là 50 nhưng đến năm 1970 con số này đã nâng lên khá cao là
69,3 với nam và 74,7 đối với nữ, các số liệu tương ứng của năm 1980 là 73,4 và
78,8, năm 1992 là 76,1 và 82,2, năm 1994 là 76,6 và 83. Với mức tuổi thọ trung
bình hiện nay, Nhật Bản là quốc gia có chỉ số tuổi thọ cao nhất thế giới. Cùng
với sự kéo dài tuổi thọ trong dân cư, số lượng và tỷ lệ người già trong tổng dân
số cũng tăng lên mạnh mẽ. Tỷ lệ phần trăm số dân có độ tuổi dưới 14 đã giảm
còn khoảng 20% trong đó tỷ lệ phần trăm những người thuộc nhóm già hơn đang
tăng lên nhanh chóng (năm 1950 số người 65 tuổi trở lên là 4,95% dân số, năm

1980 là 9,05% và năm 1995 là 14,5%). [11, 39 - 40].
Xu hướng già hóa dân số ở Nhật Bản đã và đang làm thay đổi cơ cấu và
chất lượng lao động. Tỷ lệ người già trong lực lượng lao động tăng dần theo từng
năm. Hơn nữa, do tỷ lệ sinh giảm đã làm cho tốc độ bổ sung lao động trẻ cho các
lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân cũng giảm theo. Dân số ít đi và già hơn có
nghĩa là hoạt động kinh doanh thu hẹp lại, lực lượng lao động ít hơn, giá cả sức
lao động tăng cao, ảnh hưởng đến đầu tư phát triển sản xuất, số tiền tiết kiệm và
số tiền dành cho đầu tư cũng co lại nhường chỗ cho các khoản chi phí cho phúc
lợi xã hội, hưu trí và chăm sóc người già. Dân số và lực lượng lao động già đi
19
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
cũng khiến cho chế độ làm việc suốt đời và tăng lương theo thâm niên của các
công ty Nhật Bản phải thay đổi.
Bước vào những năm 90, nền kinh tế Nhật Bản bị khủng hoảng và suy
thoái kéo dài, bên cạnh đó chế độ chính trị cũng bị chao đảo và rối loạn với sự ra
đời, tách nhập nhiều đảng phái mới tranh giành quyền lãnh đạo. Ngày 18/7/1993
là mốc đánh dấu lần đầu tiên sau 38 năm, Đảng Dân chủ Tự do (LDP) đã mất vai
trò lãnh đạo độc tôn trên sân khấu chính trị Nhật Bản. Mặc dù Nhật Bản, dưới sự
lãnh đạo của LDP trong gần 4 thập kỷ, đã đạt được những tiến bộ thần kỳ nhưng
đã đến lúc hệ thống này bộc lộ những khuyết điểm lớn dẫn đến bê bối chính trị
lan tràn, tham nhũng tài chính liên tục, không còn thích hợp với Nhật Bản trong
thời kỳ sau chiến tranh lạnh nữa.
Sự thất bại của LDP bắt đầu cho sự cầm quyền của một liên minh 7 đảng
nhưng không đảng nào nắm quyền chủ đạo trong chính phủ, rồi chuyển sang
chính phủ đa đảng thiểu số, tiếp đó là chính phủ liên hiệp ba đảng trong đó một
đảng nắm vai trò chi phối, rồi lại quay trở về với chính phủ độc đảng với vai trò
độc tôn do Hashimoto làm Thủ tướng. Đây là chính phủ trụ được thời gian dài
nhất kể từ sự kiện tháng 7/1993. Cho đến tháng 7/1998 tại cuộc bầu cử thượng
viện, LDP đã thất bại nặng nề khiến Thủ tướng Hashimoto phải từ chức nhưng
đảng này vẫn chiếm đa số ghế tại hạ viện nên vẫn giữ được quyền thành lập nội

các mới đứng đầu là Thủ tướng Keizo Obuchi. Mặc dù LDP đã trở lại nắm
quyền nhưng nền chính trị Nhật Bản sau chiến tranh lạnh chứa đựng nhiều yếu
tố không ổn định, các nhân tố trong nước và quốc tế mới luôn tác động đến
chính trị Nhật Bản nên vai trò cầm quyền của LDP vẫn bấp bênh, vị trí độc tôn
luôn bị thách thức. Chính vì vậy, LDP lại phải liên minh với Đảng Tự do (LP) và
một chính phủ liên hiệp với đảng này đã được hình thành vào đầu năm 1999,
mặc dù liên minh này vẫn còn nhiều mâu thuẫn.
Nền chính trị Nhật Bản hiện nay vẫn chưa ổn định và đang trong quá trình
chuyển tiếp nhưng nhìn chung, từ sau sự kiện năm 1993, các chính phủ kế tiếp
nhau và các chính đảng dù bảo thủ hay cấp tiến đều đứng trước một yêu cầu cấp
20
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
thiết là phải tiến hành cải cách chính trị. Tuy việc thực hiện đã diễn ra với các
biện pháp, phương hướng và mức độ khác nhau nhưng mục tiêu chính của cải
cách chính trị bao gồm cải cách chế độ bầu cử và cải cách hành chính. Cải cách
hành chính nhằm phá vỡ hệ thống kết cấu tay ba của giới chính trị gia, giới quan
chức và giới doanh nghiệp và tăng cường công khai dân chủ trong chính quyền
cũng như "phi tập trung hoá" quyền lực. Nhằm phá bỏ khả năng một đảng hoặc
song đảng liên tục nắm quyền lãnh đạo, Quốc hội đã thông qua 4 dự luật vào
tháng 3/1994 gồm có luật bầu cử các quan chức nhà nước, luật kiểm soát quỹ
chính trị, luật thành lập Hội đồng giám sát phân chia đại diện cho khu vực bầu
cử và luật tài trợ cho các chính đảng. Mặc dù nhiều cuộc cải cách đã được thực
hiện nhưng nhiều dấu hiệu cho thấy nền chính trị của Nhật Bản sẽ phát triển theo
xu hướng các chính đảng lớn sẽ thay nhau cầm quyền và có nhiều khả năng hình
thành chế độ song đảng thay nhau cầm quyền như ở nhiều nước phương Tây.
1.2.2. Trung Quốc
Do tầm vóc, vị trí chiến lược, tiềm năng chính trị, quân sự và kinh tế,
Trung Quốc càng tỏ rõ là một cường quốc có ảnh hưởng sâu rộng ở khu vực
châu Á- Thái Bình Dương. Chính sách mở cửa về kinh tế của Trung Quốc thực
hiện từ năm 1979 đã tạo nên sự chuyển biến lớn lao. Nền kinh tế Trung Quốc

liên tục tăng trưởng với tốc độ 8- 9% đã làm GDP của Trung Quốc tăng lên gấp
ba lần chỉ trong vòng chưa đầy hai thập kỷ và cuối năm 2001 đạt gần 1.200 tỷ
USD. Theo nhiều dự đoán, nếu Trung Quốc tiếp tục chính sách mở cửa, nền kinh
tế Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức trên 5% mỗi năm trong vòng hàng
chục năm tới. [5, 31].
Là một cường quốc với dân số lên tới 1,3 tỷ người, Trung Quốc đang trên
đường phát triển thành một siêu cường về kinh tế và quân sự. Ảnh hưởng ngày
càng tăng của Trung Quốc ở khu vực làm cho các nước lớn khác như Mỹ, Nhật
Bản, Nga, Ấn Độ lo ngại. Hơn nữa, do Trung Quốc liên quan mật thiết đến hầu
hết các thách thức an ninh ở khu vực như Đài Loan, tranh chấp ở Biển Đông,
21
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
vấn đề Triều Tiên, nên cách thức mà Trung Quốc giải quyết những vấn đề này
như thế nào có tác động vô cùng to lớn đến cục diện an ninh ở khu vực.
Cuộc khủng hoảng ở eo biển Đài Loan năm 1996 một lần nữa cho thấy
tính chất bất ổn định và tiềm ẩn xung đột ở nơi vốn được coi là một điểm nóng
tiềm tàng ở khu vực. Cuộc tập trận và bắn tên lửa ở eo biển Đài Loan hồi tháng
3/1996 đã đẩy Mỹ và Trung Quốc tới gần một cuộc đụng độ hơn bao giờ hết. Và
ít ai tranh cãi thực tế Đài Loan là vấn đề phức tạp nhất, có tiềm năng gây xung
đột nhất trong quan hệ Mỹ - Trung. Nhân tố chính trị nội bộ Mỹ, điển hình là
cuộc tranh cãi giữa phái bảo thủ Cộng hoà thân Đài Loan và phái trung dung tôn
trọng nguyên tắc một nước Trung Quốc, làm cho quan hệ Mỹ - Trung vốn không
ổn định càng trở nên khó dự đoán. Xu hướng độc lập và tìm kiếm một vị thế
quốc tế của Đài Loan, chủ nghĩa dân tộc và quyết tâm thu hồi lãnh thổ của Trung
Quốc cùng với "sự mập mờ chiến lược" của Mỹ làm cho eo biển Đài Loan trở
thành một trong những khu vực tiềm tàng xung đột nhất ở khu vực châu Á -
Thái Bình Dương. Nếu chiến tranh xảy ra ở eo biển Đài Loan, an ninh khu vực
sẽ bị đe doạ nghiêm trọng bởi sự đụng độ khó tránh khỏi giữa Mỹ, siêu cường
duy nhất còn lại, và Trung Quốc, siêu cường trong tương lai của thế kỷ XXI.
Một điểm nóng tiềm tàng khác ở khu vực là tranh chấp chủ quyền lãnh thổ

ở biển Đông giữa Trung Quốc, Đài Loan và một số nước ASEAN. Biển Đông là
khu vực có những tuyến đường biển mà 25% số tàu biển của thế giới đi qua, bao
gồm cả tuyến đường huyết mạch cung cấp dầu mỏ cho các nền kinh tế của Nhật
Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Khoảng 90% dầu mỏ nhập khẩu của Nhật Bản đi
qua khu vực này. Bên cạnh đó, giá trị kinh tế của các đảo tranh chấp ở biển
Đông ngày càng thu hút sự chú ý của các nước trong khu vực. Mặc dù chưa có
cơ sở vững chắc, một số những dự tính về trữ lượng dầu mỏ và khí đốt thiên
nhiên ở khu vực này càng làm cho tranh chấp chủ quyền ở đây nghiêm trọng
hơn. Theo một số báo cáo của Trung Quốc năm 1989, dự trữ dầu có thể lên tới
hàng tỷ thùng. Tuy nhiên, những con số dự đoán về lượng dự trữ dầu mỏ ở biển
Đông là rất khác nhau. Dầu mỏ sẽ tiếp tục là một nhân tố quan trọng, dù không
phải là quan trọng nhất, trong tranh chấp chủ quyền ở biển Đông và cho thấy
22
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
tầm quan trọng ngày càng tăng của biển Đông trong các tính toán chiến lược và
kinh tế của các bên tranh chấp chủ quyền.
1.2.3. Nga
Mặc dù trong tình trạng bất ổn về cả kinh tế lẫn chính trị, Nga vẫn là một
trong những cường quốc chủ chốt ở châu Á- Thái Bình Dương.
Thứ nhất, do được thừa hưởng từ Liên Xô trước đây phần lớn sức mạnh
quân sự và hạt nhân, Nga vẫn là cường quốc quân sự số hai trên thế giới với kho
vũ khí chiến lược đã cắt giảm đáng kể nhưng vẫn còn đủ sức để tiêu diệt 10 lần
nước Mỹ. Nước Nga còn có tiềm năng to lớn về khoa học, công nghệ cũng như
tài nguyên thiên nhiên, kể cả những tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa chiến lược
như dầu mỏ, khí đốt.
Thứ hai, Nga là một cường quốc Âu - Á và từ giữa thập kỷ 1990, đặc biệt
gần đây dưới thời Tổng thống Putin, Nga đã điều chỉnh chính sách đối ngoại
theo hướng cân bằng Âu - Á, có những bước đi chủ động, tích cực tham dự vào
các vấn đề khu vực châu Á - Thái Bình Dương và ở mức độ nào đó đã phần nào
khôi phục ảnh hưởng của mình ở khu vực này.

Thứ ba, các nước trong khu vực cũng có lợi ích trong việc lôi kéo Nga
tham gia và có vai trò trong các vấn đề khu vực. Trung Quốc có lợi ích trong
việc thúc đẩy quan hệ với Nga nhằm đối trọng trong quan hệ với Mỹ và Nhật
Bản, Nga cũng có vai trò quan trọng ở bán đảo Triều Tiên. Sự nồng ấm trong
quan hệ Nga - Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên gần đây với chuyến thăm
Bình Nhưỡng của Putin tháng 2 năm 2001 và chuyến thăm Nga của lãnh tụ Cộng
hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên tháng 8 năm 2001 cũng cho thấy ảnh hưởng
của Nga ở khu vực này.
Với sự sụp đổ của Liên Xô, mối đe doạ quân sự lâu nay từ phía Bắc đã
giảm đi đáng kể nếu không muốn nói là hoàn toàn được gạt bỏ, trong khi việc
bình thường hoá quan hệ song phương giữa hai nước sẽ tiếp tục còn hy vọng nếu
có một giải pháp về vấn đề lãnh thổ phía Bắc. Vấn đề này, ngược lại, dường như
23
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
không có khả năng giải quyết được trong điều kiện thiếu sự ổn định chính trị ở
Nga với một tương lai có thể nhìn thấy trước được. Do đó, cả hai nước sẽ cần
phải nhận thức tới một sự chung sống trong kiên nhẫn với các mối quan hệ
không chắc chắn trong nhiều năm tới nữa.
1.2.4. Bán đảo Triều Tiên
Trong khi tâm điểm của cuộc chiến tranh lạnh kéo dài nhiều thập kỷ nằm
ở châu Âu thì chính ở châu Á đã xảy ra hai cuộc chiến tranh nóng là cuộc chiến
tranh Triều Tiên (1950- 1953) và cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam mà tàn
dư của một trong hai cuộc chiến đó giờ đây vẫn tồn tại.
Cuộc chiến tranh Triều Tiên đầu những năm 1950 và sự can thiệp của Mỹ
đánh dấu sự mở đầu của cuộc chiến tranh lạnh ở châu Á. Tuy nhiên, đã hơn một
thập kỷ trôi qua kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc, tương phản với sự thống
nhất nước Đức sau khi bức tường Béclin sụp đổ năm 1989, bán đảo Triều Tiên
vẫn trong tình trạng chia cắt. Mặc dù có một số dấu hiệu hoà giải giữa hai miền,
đặc biệt kể từ cuộc gặp thượng đỉnh Liên Triều tháng 6/2000, vấn đề thống nhất
Triều Tiên vẫn là một trong những điểm nóng hay một thách thức tiềm tàng đối

với hoà bình và ổn định ở châu Á.
Tình hình bán đảo Triều Tiên và đặc biệt những lo ngại về việc Cộng hoà
dân chủ nhân dân Triều Tiên phát triển về vũ khí hạt nhân được đánh giá là một
mối nguy cơ tiềm ẩn trong môi trường an ninh ở Đông Bắc Á. Tháng 5/1993,
Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên tiến hành vụ thử tên lửa ở vùng biển
Nhật Bản, đặt một nửa miền Tây Nhật Bản vào tầm bắn. Những sự kiện này là
khởi đầu cho cuộc khủng hoảng hạt nhân Triều Tiên 1994. Mỹ thậm chí đe doạ
thông qua LHQ tiến hành cấm vận kinh tế nếu Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều
Tiên không cho phép thanh tra quốc tế đến thanh sát một số cơ sở hạt nhân ở
nước này.
Sau một loạt các cuộc đàm phán, tháng 10/1994, Mỹ và Cộng hoà dân chủ
nhân dân Triều Tiên đã ký Hiệp định khung, theo đó Cộng hoà dân chủ nhân dân
24
Khoá luận tốt nghiệp Lại Hồng Hà
Triều Tiên đồng ý ngưng sản xuất Plutonium ở Yongbyon, và để đổi lại, giữa
năm 1995 hiệp định bốn bên, hai miền Triều Tiên, Mỹ và Nhật Bản, được ký kết
trong đó ba nước kia cam kết cung cấp lò phản ứng nước nhẹ cho Cộng hoà dân
chủ nhân dân Triều Tiên. Với hiệp định này, vấn đề hạt nhân Triều Tiên đã tạm
thời lắng xuống nhưng không phải là đã hoàn toàn được giải quyết.
Những nghi kỵ đối với các kế hoạch ngầm của Cộng hoà dân chủ nhân dân
Triều Tiên xung quanh việc phát triển tên lửa hạt nhân vẫn tiếp tục tồn tại. Sự
kiện Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên bắn thử tên lửa Teapodong hồi cuối
tháng 8/1998 lại làm dấy lên những mối lo ngại về an ninh khu vực. Và Mỹ đã sử
dụng khả năng Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên có thể chế tạo thành công
tên lửa tầm trung mang đầu đạn hạt nhân đe doạ an ninh lãnh thổ nước Mỹ trong
khoảng 5- 10 năm nữa làm cơ sở biện minh cho kế hoạch triển khai phòng thủ
tên lửa. Cho đến nay, đàm phán giữa Mỹ và Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều
Tiên về vấn đề tên lửa vẫn chưa đưa đến một bước đột phá nào.
Cuộc gặp thượng đỉnh Liên Triều tháng 6/2000 đã mở ra những hy vọng to
lớn về triển vọng hoà giải và thống nhất trên bán đảo Triều Tiên. Tuy nhiên, sự

phức tạp của những vấn đề còn chưa giải quyết làm cho bất kỳ dự đoán nào về
một kịch bản Triều Tiên thống nhất trong tương lai ngắn hạn cũng trở nên không
có cơ sở. Và cho đến khi bán đảo Triều Tiên thống nhất, có lẽ phải chờ ít nhất
trong một vài thập kỷ nữa, bán đảo Triều Tiên vẫn tiếp tục là một điểm nóng
tiềm tàng, có khả năng đe doạ an ninh khu vực.
Đối đầu quân sự vẫn tiếp tục ở hai miền. Có đến 37.000 quân Mỹ vẫn còn
đóng ở Hàn Quốc, và Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên tiếp tục tập trung
cao độ vào việc xây dựng lực lượng quân sự. Ngân sách quân sự của nước này đã
lên tới 25% GDP là tỷ lệ lớn nhất trên thế giới. Như vậy, sự có mặt quân đội Mỹ
trên bán đảo Triều Tiên là một trong những nguồn gốc gây căng thẳng và làm
cho bán đảo Triều Tiên tiếp tục là một điểm nóng ở khu vực.
2. Quan hệ của Nhật Bản với các nước Đông Bắc Á thời kỳ sau chiến tranh
lạnh.
25

×