Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

GIÁO DỤC LÀ QUỐC SÁCH HÀNG ĐẦU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.75 KB, 32 trang )

*) VÀI KHÁI NIỆM CẦN LÀM RÕ.
Trước khi phân tích bất kỳ một vấn đề nào, một thao tác không thể
thiếu là làm rõ các khái niệm liên quan. Dưới đây cách hiểu riêng của nhóm
về ba khái niệm “giáo dục”, “chính sách giáo dục”, “quốc sách hàng đầu”.
Giáo dục: khơng có một định nghĩa về giáo dục nhưng ai cũng có thể
hiểu một cách đơn giản nhất giáo dục nghĩa là dạy và học. Xét trên góc độ
lý luận, giáo dục là một bộ phận thuộc một chế định của Hiến pháp: “Văn
hóa, giáo dục, khoa học, cơng nghệ”. Giáo dục vừa là một lĩnh vực điều
chỉnh gồm nhiều quan hệ xã hội của pháp luật, vừa là một nhóm các mục
tiêu, yêu cầu mà nhà nước đặt ra để thực hiện.
Chính sách giáo dục: Là các chính sách do nhà nước đặt ra nhằm điều
chỉnh lĩnh vực giáo dục và thực hiện những mục tiêu yêu cầu của giáo dục.
Quốc sách hàng đầu: Là những chính sách trọng tâm có vai trị chính
yếu của nhà nước, ln dành dược sự ưu tiên hàng đầu, quan tâm đặc biệt
của nhà nước, được thể hiện qua một loạt các chính sách, , các biện pháp và
phạm vi thực hiện và nguồn ngân sách chi cho chính sách đó.
1. GIÁO DỤC LÀ QUỐC SÁCH HÀNG ĐẦU.
1.1. Vai trị vị trí của giáo dục.
Giáo dục đào tạo đóng vai trị quan trọng là nhân tố chìa khóa, là động
lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các
quốc gia khác trên thế giới, các chính phủ đều coi giáo dục là quốc sách
hàng đầu. Vậy tại sao giáo dục đào tạo lại có tầm quan trọng đến chiến lược
phát triển đất nước như vây?
- Thứ nhất: Giáo dục đào tạo là điều kiện tiên quyết góp phần phát
triển kinh tế.
- Thứ hai: Giáo dục đào tạo góp phần ổn định chính trị xã hội.
- Thứ ba: Và trên hết giáo dục đào tạo góp phần nâng cao chỉ số phát
triển con người.


Khơng chỉ trong giai đoạn hiện nay vị trí tầm quan trọng của giáo dục


mới được khẳng định mà tư tưởng này trải qua từng thời kỳ lịch sử đã được
một dân tộc có truyền thống hiếu học đã dày công vun trồng và củng cố. Ở
mọi thời đại giáo dục luôn luôn dành được sự quan tâm đặc biệt.
- Năm 1075 Lý Nhân Tông mở khoa thi đầu tiên tuyển nhân tài, “Năm
1086 thi lấy người có văn học trong nước sung làm quan Hàn lâm viện”. Từ
đó đến các triều đại tiếp theo Nhà Trần, nhà Hồ, nhà Lê, nhà Nguyễn...các
khoa thi lần lượt được mở ra để tuyển dụng người tài, người có trí tuệ phục
vụ cho nhân dân cho đất nước. Và Quốc Tử Giám trường đại học đầu tiên
của nước Việt Nam nơi vinh danh của những người thi cử đỗ đạt có đức có
tài, đó là một minh chứng sống cho việc ln ln coi trọng giáo dục là
quốc sách hàng đầu của dân tộc ta.
Sự nghiệp giáo dục – đào tạo có vị trí quan trọng trong chiến lược
con người, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. “Nguồn tài
ngun và sự giàu có của một quốc gia khơng phải nằm trong lịng đất mà
chính là nằm trong bản thân con người, trí tuệ con người”. Muốn tiến hành
cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải đẩy mạnh phát triển giáo dụcđào tạo vì giáo dục đào tạo có vai trị quan trọng trong lĩnh vực sản xuất vật
chất xã hội cũng như xây dựng nền văn hoá .
Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay,
hàm lượng trí tuệ khoa học kết tinh trong sản phẩm hàng hoá ngày càng
tăng; tài năng trí tuệ, năng lực và bản lĩnh trong lao động sáng tạo của con
người, không phải xuất hiện một cách ngẫu nhiên, tự phát, mà phải trải qua
quá trình đào luyện cơng phu có hệ thống. Vì vậy giáo dục hiện nay được
nhìn nhận khơng phải là yếu tố phi sản xuất mà là yếu tố bên trong cấu
thành của nền sản xuất xã hội. Thực tiễn cho thấy rằng khơng có quốc gia
nào muốn phát triển mà ít đầu tư cho giáo dục. Công cuộc chạy đua phát
triển kinh tế của thế giới hiện nay là cuộc chạy đua về khoa học và công
nghệ, chạy đua về phát triển giáo dục- đào tạo. Nghị quyết hội nghị lần thứ


II Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã nhấn mạnh: Thực sự coi giáo

dục-đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục - đào tạo
cùng với khoa học công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và
phát triển xã hội. Đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư phát triển.
Giáo dục- đào tạo khơng chỉ có vai trị quan trọng trên lĩnh vực sản
xuất vật chất mà còn là cơ sở để hình thành nền văn hố tinh thần của chủ
nghĩa xã hội. Giáo dục có tác động vơ cùng to lớn trong việc truyền bá hệ tư
tưởng chính trị xã hội chủ nghĩa, xây dựng ý thức pháp quyền và ý thức đạo
đức, xây dựng nền văn hoá, văn học nghệ thuật, góp phần cơ bản vào việc
hình thành lối sống mới, nhân cách mới của toàn bộ xã hội. Đảng ta đã chỉ
rõ: “Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng con
người và thế hệ thiết tha, gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường, xây dựng và bảo vệ tổ
quốc; thực hiện sự nghiệp công nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, giữ gìn
và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc…là những người kế thừa xây
dựng chủ nghĩa xã hội…”
Như vậy giáo dục- đào tạo có tác dụng to lớn đến tồn bộ đời sống
vật chất và đời sống tinh thần của xã hội. Phát triển giáo dục - đào tạo là cơ
sở để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, chiến lược con người
của Đảng và Nhà nước ta.
1.2 Sự ghi nhận về giáo dục đào tạo qua các bản Hiến pháp.
Trong lịch sử phát triển loài người giáo dục luôn được coi là tài sản vô
giá của mọi con người cũng như mọi dân tộc, nhân thức rõ điều đó Đảng và
Nhà nước đã được ghi nhận một cách cụ thể, rõ ràng lần lượt qua các bản
Hiến pháp.
Trong hai bản hiến pháp đầu tiên thì giáo dục chưa được quy định trong
một chế định riêng biệt nhưng đã được đề cập đến trong phần quyền và
nghĩa vụ của người công dân.
+ Hiến pháp 1946:



Ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới ra đời thì giáo dục
đã được nhắc đến như một vấn đề quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói
“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Ngay sau CMT8-1945 thành công
cùng với nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm, giặc đói. Chủ thịch Hồ Chí Minh
đã chú tâm ngay đến giặc dốt. Trong HP 1946, vấn đề GD-ĐT đã được đề
cập đến trong Điều 15:
“Nền sơ học cưỡng bách và khơng học phí ở các trường sơ học địa
phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiến của mình.
Học trị nghèo được Chính phủ giúp
Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chuong trình nhà nước”.
Tuy chưa được quy định cụ thể song nhận thức được tầm quan trọng của
GD nên Nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật như sắc lệnh
số 17 ngày 08/9/1945 đặt ra một bình dân học vụ, sắc lệnh số 19 ngày
08/9/1945 lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp bình dân buổi tối, sắc
lệnh số 20 ngày 08/9/1945 định rằng việc học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc
và không mất tiền, sắc lệnh số 146 ngày 10/8/1946 đặt những nguyên tắc
căn bản của nền giáo dục mới.
+ Hiến pháp 1959 đã có một điều luật cụ thể giành cho giáo dục Điều
33: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hịa có quyền học tập. Nhà
nước thực hiện từng bước chế độ giáo dục cưỡng bách, phát triển dần các
trường đại học và cơ quan văn hóa phát triển hình thức giáo dục bổ túc văn
hóa, kỹ thuật, nghiệp vụ, tại các cơ quan, xí nghiệp và các tổ chức khác ở
thành thị và nông thôn để bảo đảm cho công dân được hưởng quyền đó”.
+ Đến Hiến pháp 1980 giáo dục bắt đầu được tách riêng ra và đưa vào
trong một chế định cụ thể, những quy định về giáo dục cũng cụ thể và hoàn
thiện hơn, thể hiện trong điều 40 và 41.
+ Đến Hiến pháp 1992, những quy định cơ bản về giáo dục thể hiện rõ
tính kế thừa hiến pháp 1980 đồng thời là một bước phát triển tiến lên. Tuy



chỉ thể hiện trong 2 điều 35 và điều 36 những nội dung trong đó là tương
đối đầy đủ, hồn thiện và sát yêu cầu thực tế.
Qua bốn bản hiến pháp Việt Nam, ta có thể coi tư tưởng coi trọng giáo
dục đã xuất hiện ngay tử buổi đầu lập hiến nhưng chỉ đến những năm 80 thì
nó mới thực sự được thể chế hóa rõ nét. Thời kỳ hiện nay, thời kỳ hiến
pháp 1992 sửa đổi, sau một khoảng thời gian dài thực hiện các chính sách
phát triển giáo dục, thành quả có, tồn tại có, thắng lợi có, yếu kém có... ta
hồn tồn có thể khẳng định tính đúng đắn của các điều khoản ghi nhận cho
giáo dục trong các bản hiến pháp, đặc biệt hiến pháp 1992 với chính sách “
Giáo dục là quốc sách hàng đầu Việt Nam”.
2.CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC VỚI GIÁO DỤC HIỆN NAY
2.1) Nhà nước coi phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Coi giáo dục là quốc sách hàng đầu là một sự đổi mới về nhận thức
của Nhà nước và lần đầu tiên được quy định tại điều 35 Hiến pháp 1992.
đến Nghị quyết Trung ương II (Đại hội Đảng VIII. Từ thực tế của xã hội
Việt Nam cũng như các nước khác, Đảng và Nhà nước ta phải có cách nhìn
nhận mới, phải coi giáo dục là một hoạt động đặc biệt, nhờ đó hình thành và
bồi dưỡng nhân cách công dân, đào tạo những người lao động có tay nghề
cao, năng động và sáng tạo... vì vậy khơng có sự đầu tư nào mang lại nhiều
lợi ích như dầu tư cho giáo dục và khuyến khích các nguồn đầu tư khác,
đồng thời phải ban hành những chính sách phù hợp để điều chỉnh trong lĩnh
vực giáo dục. Đáp ứng địi hỏi này ngày 09/12/2000, Quốc hội khóa X đã
thông qua hai nghị quyết quan trọng: Nghị quyêt số 40 về đổi mới chương
trình giáo dục phổ thơng và Nghị quyết số 41 về thực hiện phổ cập giáo dục
trung học cơ sở.
Dưới đây bảng tập hợp lại số liệu trong bản báo cáo của bộ Giáo dục.
Số chi ngân sách từ trung ương mà nhà nước kiểm soát được.


Bảng 1: Chi ngân sách cho giáo dục (tỷ đồng)

2001
Tổng chi từ ngân sách
theo loại chi

2002

2003

2004

2005

2006

19.747 22.601 28.951 34.872 42.943 54.798

Chi thường xuyên

16.082 18.754 24.162 28.712 35.717 44.798

Chi đầu tư

3.665

Tổng chi từ ngân sách
theo cấp

3.847

4.789


6.160

7.226

10.000

19.747 22.601 28.951 34.872 42.943 54.798

Chi ở địa phương

15.452 17.471 22.535 27.412 32.063 40.458

Chi ở trung ương

4.295

5.130

6.416

7.460

10.880 14.340

Nguồn: Giáo dục Việt Nam Đầu tư và Cơ cấu Tài chính (Hà Nội, tháng 10
năm 2007)
Đảng đã đề ra sáu định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo
trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó định hướng thứ hai là
“Thực sự coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Luật Giáo dục năm

2005 cũng một lần nữa nhấn mạnh lại vấn đề này trong điều 9 “Phát triển
giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài”. Tuy có sự khác nhau về thuật ngữ và phạm vi ngoại diên
(giáo dục. giáo dục đào tạo, phát triển giáo dục) nhưng nhìn ở góc độ tổng
thể thì từ ba văn bản trên ta đều thấy rõ được ý chí của Đảng, Nhà nước coi
giáo dục (với nghĩa đầy đủ của nó) là “quốc sách hàng đầu”.
2.2) Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về
mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo
viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng.
a) Vấn đề phổ cập giáo dục.
Điều 11 Luật giáo dục quy định về phổ cập giáo dục như sau:


1. Giáo dục tiểu học và giáo dục trung học cơ sở là các cấp học phổ cập.
Nhà nước quyết định kế hoạch phổ cập giáo dục, bảo đảm các điều
kiện để thực hiện phổ cập giáo dục trong cả nước.
2. Mọi cơng dân trong độ tuổi quy định có nghĩa vụ học tập để đạt trình
độ giáo dục phổ cập.
3. Gia đình có trách nhiệm tạo điều kiện cho các thành viên trong gia
đình trong độ tuổi quy định được học tập để đạt trình độ giáo dục phổ
cập.
Trước đó nghị quyết số 41/2000/QH10 đã tán thành chủ trương thực
hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở trong cả nước từ năm 2001 đến năm
2010. Trong những năm đổi mới sự nghiệp giáo dục tiếp tục phát triển về
quy mô, đáp ứng yêu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân; cả nước đã
hoàn thành phổ cập tiểu học vào năm 2000 và đến năm học 2004-2005 đã
có 20 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương được cơng nhận hồn thành phổ
cập trung học cơ sở.
b) Vấn đề đổi mới chương trình giáo dục, mở rộng quy mô giáo dục.
Nghị quyết số 40/2000/QH10 chỉ ra rằng: Mục tiêu của việc đổi mới

chương trình giáo dục phổ thơng là xây dựng nội dung chương trình,
phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển ngồn nhân
lực phục vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn
truyền thống Việt Nam; tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước
phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Mở rộng quy mô giáo dục cũng là một nhiệm vụ cấp bách gắn với nó là
một loạt mục tiêu cụ thể:
-Mở rộng quy mô đào tạo, đạt tỷ lệ 200 sinh viên/1 vạn dân vào năm
2010 và 450 sinh viên/1 vạn dân vào năm 2020, trong đó khoảng 70-80%
tổng số sinh viên theo học các chương trình nghề nghiệp- ứng dụng vào


khoảng 40% tổng số sinh viên thuộc các cơ sở giáo dục đại học ngồi cơng
lập.
- Xây dựng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục đại học đủ về
số lượng, có phẩm chất đạo đức là lương tâm nghề nghiệp, có trình độ
chun mơn cao, phong cách giảng dạy và quản lý tiên tiến; bảo đảm tỷ lệ
sinh viên /giảng viên của hệ thống giáo dục khơng q 20. Đến năm 2020 có
ít nhất 40% giảng viên đạt trình độ thạc sỹ và 20% đạt trình độ tiến sỹ; đến
năm 2020 có ít nhất 60% giảng viên đạt trình độ thạc sỹ và 35% đạt trình độ
tiến sỹ.
Đổi mới sách giáo khoa cũng là một nhiệm vụ không kém phần quan
trọng : Việc xây dựng chương trình, biên soạn sách giáo khoa, triển khai thí
điểm, tổng kết rút kinh nghiệm phải chu đáo, khẩn trương để đạt được các
mục tiêu nêu trên; lầm lượt triển khai địa trà việc áp dụng chương trình,
sách giáo khoa mới bắt đầu ở lớp 1 và lớp 6 từ năm 2002-2003, bắt đầu lớp
10 từ năm 2004-2005; đến năm học 2006-2007 tất cả các lớp cuối cấp đều
thực hiện chương trình và sách giáo khoa mới.
1. Vấn đề đổi mới cơ chế quản lý giáo dục.

Chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề này như sau:
- Chuyển các cơ sở giáo dục đại học công lập sang hoạt động theo cơ
chế tự chủ, có pháp nhân đầy đủ, có quyền quyết định và chịu trách nhiệm
về đào tạo, nghiên cứu, tổ chức, nhân sự và tài chính.
- Quản lý nhà nước tập trung vào việc xây dựng và chỉ đạo thực hiện
chiến lược phát triển; chỉ đạo triển khai hệ thống bảo đảm chất lượng và
kiểm định giáo dục đại học; hồn thiện mơi trường pháp lý; tăng cường
công tác kiểm tra, thanh tra, điều tiết vĩ mô cơ cấu và quy mô giáo dục đại
học, đáp ứng nhu cầu nhân lực của đất nước trong từng thời kỳ.
- Xây dựng Luật Giáo dục đại học (Nghị quyết 14/2005/NQ-CP)
- Đổi mới tồn diện cơng tác quản lý nhà nước về giáo dục theo hướng
phân công, phân cấp rõ trách nhiệm, quyền hạn của Bộ Giáo dục và Đào tạo


của các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cơ sở giáo dục,lấy việc
quản lý chất lượng làm nhiệm vụ trọng tâm; củng cố, tổ chức thanh tra và
đẩy mạnh công tác thanh tra giáo dục, thực hiện kiểm định chất lượng giáo
dục hàng năm, đổi mới thi đua trong giáo dục, khắc phục bệnh thành tích
chủ nghĩa.
( Nghị quyết 37/2004/QH11)
d) Vấn đề ngân sách cho giáo dục :
Được quy định cụ thể trong mục 2 chương VII Luật giáo dục 2005.
Nghị quyết số 37/2004/QH11 về giáo dục cũng đã định ra mức đầu tư ngân
sách cho giáo dục như sau:
“Đầu tư ngân sách cho giáo dục – đào tạo đảm bảo đạt tỉ lệ 20% tổng
chi ngân sách nhà nước trước năm 2010 từ 2 đến 3 năm. Đảm bảo tỷ lệ hợp
lý giữa chi lương và chi cho các hoạt động giáo dục của cơ sở giáo dục để
thực hiện tốt nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục...”
Nghị quyết số 14/2005 NQ-CP bổ sung thêm:
“Bố trí tối thiểu 1% ngân sách nhà nước hàng năm để các cơ sở giáo

dục đại học thực hiện các nhiệm cụ khoa học và công nghệ quy định trong
Luật Khoa học và công nghệ.”
2.3 Sự đảm bảo phát triển cân đối hệ thống giáo dục từ phía Nhà nước.
Nhà nước ta phát triển đồng đều tất cả các cấp và trình độ đào tạo
trong hệ thống giáo dục quốc dân. Nhà nước đặc biệt quan tâm đến giáo dục
mầm non vì đây là độ tuổi mà trẻ em đặt nền móng đầu tiên cho tính tình
của nó với những nét tính cách mang tính ổn định lâu dài. Quan tâm đến
giáo dục phổ thơng vì tiểu học là trình độ phổ cập bắt buộc, trung học cơ sở
là mục tiêu phổ cập tiếp theo, và trung học phổ thông là bước quan trọng
bậc nhất trong việc bồi dưỡng kiến thức văn hóa và nghề nghiệp cho con
người. Nhà nước đặc biệt quan tâm đến giáo dục đại học và sau đại học vì
đây là khâu cốt yếu nhất để đào tạo và phát huy tối đa nguồn nhân lực,
nguồn vốn tri thức cho đất nước trong điều kiện hội nhập. Bên cạnh giáo


dục chính quy, nhà nước mở rộng và tạo điều kiện thuận lợi cho giáo dục
thường xuyên. Bên cạnh hệ thống các trường cơng lập, nhà nước cịn phát
triển hệ thống các trường dâh lập và tư thục, ln có những chính sách
nhằm đa dạng hóa các loại hình trường. Tuy cơ cấu về ngân sách đầu tư là
khối lượng chương trình giữa các cấp học, các trình độ đào tạo là khác nhau
nhưng nhìn chung chúng đều được cân đối và phát triển một cách đồng đều.
2.4) Giáo dục là sự nghiệp của toàn dân.
Với tư cánh là một quốc sách hàng đầu, giáo dục phải được xem là sự
nghệp của toàn dân. Điều 12 Luật giáo dục 2005 ghi nhận việc xã hội hóa
sự nghiệp giáo dục :
a) Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của nhà
nước và sự nghiệp của toàn dân.
b) Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục,
thực hiện đa dạng hóa các loại hình trường và các hình thức giáo dục,
khuyến khích , huy động và tạo điều kiện đẻ tổ chức, cá nhân tham gia

phát triển sự nghiệp giáo dục.
c) Mọi tổ chức, gia đình và cơng dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp
giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây
dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn.
Để giáo dục trở thành sự nghiệp tồn dân, phải xã hội hóa giáo dục
tức là tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội trong
sự nghiệp giáo dục; phải xây dựng một cộng đồng trách nhiệm của các
tầng lớp nhân dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế xã
hội lành mạnh và thuận lợi cho cá hoạt động giáo dục; phải đa dạng hoá
giáo dục để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội để
phát triển giáo dục...nhà nước một mặt phải ưu tiên đầu tư giáo dục mặt
khác phải khuyến khích các nguồn đầu tư khác. Nhà nước phải ban hành
các văn bản pháp luật tổ chức chỉ đạo thực hiện và phối hợp với các tổ


chức xã hội, các tổ chức kinh tế, gia đình để chống các tệ nạn xã hội tạo
ra môi trường thuận lợi cho việc giáo dục.
2.5) Các chính sách ưu tiên của Nhà nước để đảm bảo phát triển
giáo dục ở miền núi, các cùng dân tộc thiểu số, cùng đặc biệt khó
khăn.
Nhà nước có chính sách trợ cấp và miễn, giả học phí cho người học là
đối tượng được hưởng chính sách xã hội, người dân tộc thiểu số ở vùng
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, người mồ cơi khơng nơi
nương tựa. Người tàm tật, khuyết tật có khó khăn về kinh tế, người có
hồn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn vượt khó học tập.
Nhà nước thực hiện tuyển sinh vào đại học, cao đẳng, trung cấp theo
chế độ cử tuyển đối với học sinh các dân tộc ở vùng có điều kiện kinh tế
- xã hội khó khăn để đ tạo cán bộ, công chức, viên chức cho vùng này.
Nhà nước dành riêng chỉ tiêu tuyển cử đối với những dân tộc thiểu số
chưa có hoặc có rất ít cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp; có

chính sách tạo nguồn tuyển sinh trên cơ sở tọa điều kiện thuận lợi để học
sinh các dân tộc này vào học trường phổ thông dân tộc nội trú và tăng
thời gian học dự bị đại học.
Nghị quyết số 37/2004/QH11 cũng nhấn mạnh:
Thực hiện tốt hơn công bằng xã hội trong giáo dục, ưu tiên phát triển
giáo dục vùng đồng bào đân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã
hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và giáo
dục cho trẻ em khuyết tật.
3.THỰC TRẠNG NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
3.1 Thực trạng:
a) Những kết quả đạt được của nền giáo dục Việt Nam.


Việt Nam được nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế đánh giá là nước có
những thành tựu đáng kể về giáo dục, đào tạo so với nhiều nước có thu
nhập tính theo đầu người tương đương. Việt Nam hồn tồn có khả năng
hồn thành Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) về phổ cập giáo dục
tiểu học trước năm 2015. Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống giáo
dục đầy đủ các cấp học ở mọi vùng, miền với nhiều loại hình trường lớp với
số lượng học sinh đến trường ở các cấp ngày một tăng. Năm học 20042005, đã có hơn 22 triệu học sinh, sinh viên theo học trong hơn 37.000 cơ
sở giáo dục - đào tạo.
Giáo dục đại học, cao đẳng cũng ngày càng được mở rộng về quy mô
đào tạo, cơ sở vật chất ngày càng được nâng cấp, chương trình đào tạo dần
dần được đổi mới. Nền giáo dục đại học Việt Nam một mặt đã đáp ứng xu
hướng thế giới là tiến tới phổ cập giáo dục đại học, mặt khác vẫn giữ nền
tảng giáo dục tinh hoa. Việc đầu tư cho đội ngũ giáo viên đã được chú trọng
đặc biệt.
Năm 2000, Việt Nam đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập
tiểu học. Từ năm học 2002-2003, tỷ lệ biết chữ của người lớn trong độ tuổi

15-24 đã đạt gần 95%, số năm đi học trung bình của người dân đạt mức 7,3
năm. Việc dạy chữ dân tộc đã được đẩy mạnh ở các địa phương, nhờ đó tỷ
lệ người dân tộc thiểu số mù chữ giảm mạnh.
Ngành giáo dục và đào tạo đã đạt và vượt các chỉ tiêu cơ bản mà Chiến
lược phát triển giáo dục đề ra cho năm 2005 trong năm học 2003-2004. Phổ
cập giáo dục tiểu học đã đạt được thành tích đáng kể ở tất cả các vùng miền
trong cả nước. Việt Nam được đánh giá là có tiến bộ nhanh hơn so với phần
lớn các nước có thu nhập thấp khác trên thế giới trong việc khắc phục
những sự chênh lệch về giới và về tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi. Tỷ lệ học
sinh tiểu học nhập học đúng độ tuổi đã tăng từ 90% trong thập niên 1990
lên gần 98% trong năm học 2004-2005 (mục tiêu quốc gia đề ra là đạt 97%
vào năm 2005. Trong năm học 2003-2004, hầu hết các địa phương trong cả


nước đã huy động được gần 90% trẻ khuyết tật độ tuổi lớp 1 đi học hịa
nhập theo chương trình và sách giáo khoa mới.
Tất cả những con số nói trên cho thấy Việt Nam đã tạo được sự công bằng
trong tiếp cận học tập cho tất cả trẻ em gái, trai của các dân tộc, ở các vùng,
miền và đặc biệt quan tâm tới những trẻ có hồn cảnh đặc biệt khó khăn.
b)Những mặt tồn tại của nền giáo dục Việt Nam.
Công tác giáo dục và đào tạo trong những năm qua có nhiều tiến bộ. Tuy
nhiên, trước những biến đổi to lớn của nền kinh tế sự nghiệp giáo dục - đào
tạo đang gặp phải những khó khăm rất lớn. Quy mơ giáo dục - đào tạo có
chiều hướng bị thu hẹp, chất lượng giáo dục, cơ sở vật chất của các trường
học bị sút kém ở nhiều nơi, biểu hiện qua những vấn đề nổi cộm sau:
*) Vấn đề cơ sở hạ tầng giáo dục.
Cơ sở hạ tầng giáo dục hiện nay của Việt Nam còn rất yếu kém Trường ốc
đã thiếu nghiêm trọng lại cũ kỹ mục nát. Hệ thống thư viên phịng thí
nghiệm hầu như chưa có cơ sở đào tạo nào đạt chuẩn quốc tế. Các giáo cụ,
tài liệu học tập khác cũng còn rất hạn chế. Hiện nay cả nước vẫn còn

170.000 phòng học có nhu cầu để xây dựng, sửa chữa địi hỏi chi phí hơn
25.000 tỷ đồng. Cùng đó, nhà ở cơng vụ cho giáo viên ở các vùng núi, vùng
khó khăn còn thiếu gần 65.000 căn, trị giá xây dựng là 3.370 tỷ đồng...
*) Yếu kém trong chất lượng giáo dục.
Mới đây, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân có chỉ ra rằng trong bối
cảnh hiện nay, chất lượng và lương tâm của thầy cô giáo và đội ngũ cán bộ
quản lý giáo dục là yếu tố quyết định chất lượng giáo dục.Ông Nhân khẳng
định: “Chúng ta phải suy nghĩ và sáng tạo, lao động và thi đua để chất
lượng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được nâng cao. Chính vì vậy mà


năm học 2007- 2008, Cơng đồn Giáo dục Việt Nam đã phát động cuộc vận
động trong toàn ngành tới năm 2012: “Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm
gương đạo đức, tự học và sáng tạo”. Đây là điều kiện cần thiết, không thể
thiếu để nhà giáo chúng ta làm trịn trách nhiệm xã hội vơ cùng vinh quang
của mình: giáo dục cho các em học sinh từ tuổi thơ ngây trở thành con
ngoan, hiếu thảo, công dân tốt, người có ích cho gia đình, dân tộc và nhân
loại.
Tuy vậy, niềm hy vọng nâng cao chất lượng dạy và học theo cách này
của người đứng đầu ngành giáo dục đã trở nên ngày càng khó khăn hơn bởi
ngay sau khi ngành phát động cuộc vận động, các vụ việc giáo viên vi phạm
đạo đức liên tục gia tăng. Chỉ trong khoảng 2 tháng đã có tới 18 vụ bạo
hành học sinh bị phát hiện. Chất lượng dạy và học chính vì thế tiếp tục là
một bài tốn nan giải trong năm 2008. Trong một loạt bài bình luận và đánh
giá về nền khoa học ở các nước Đông Nam Á gần đây trên tờ Science (một
Tạp chí khoa học có ảnh hưởng thuộc vào loại số một trên thế giới), họ
khơng có một chút nào dành cho nền khoa học và công nghệ của Việt Nam.
Trong một cuộc diều nghiên 65 trường Đại học ở Châu Á dược công bố trên
tuần san Asia Week gần đây, Đại học Quốc gia Việt Nam được xếp hạng
62, sau cả các Đại học nhỏ của Malaixia và Philipin! Mặc dù cách xếp hạng

này chỉ là tương đối và có nhiều nghi vấn về phương pháp làm, nhưng kết
quả này cũng cho thấy tình trạng đáng ngại về chất lượng của nền giáo dục
Đại học Việt Nam khiến những ai hằng quan tâm đến nền giáo dục và khoa
học Việt Nam ăn không ngon, ngủ không yên.
*) Hệ thống giáo dục nặng về thi cử và bệnh thành tich.
Hệ thống giáo dục nước ta nặng về thi cử với những kỳ thi kéo dài
triền miên gây áp lực cho cả thí sinh lẫn phụ huynh. Mặt trái của thi cử là
tâm lý đối phó thường trực nơi người học và những cuộc chạy đua hành


lang nơi phụ huynh nhằm tìm kiếm cho con em mình những bảng điểm lấp
lánh thành tích ở những ngơi trường tốt. hiện nay căm bệnh thành tích đang
lan tràn trong giáo dục và trong xã hộ. Ông Nguyễn Thiện Nhân Bộ trưởng
Bộ giáo dục và Đào tạo khẳng định không chỉ các thầy cô, các trường mà
hàng chục triệu phụ huynh và học sinh cũng chính là đồng tác giả của căn
bệnh thành tích. Đây là căn bệnh thâm căn cố đế từ rất lâu và từ khi giáo
dục được đưa lên là quốc sách hàng đầu thì nó lại càng có chiều hướng gia
tăng nghiêm trọng. Điển hình là vụ thầy giáo Đỗ Việt Khoa tố cáo việc gian
lận trong thi cử gần đây bằng những bằng chứng hết sức trung thực mà cũng
rất đau lịng, đó chính là hồi chuông cảnh tỉnh chúng ta trước căn bệnh
thành tích và một biểu hiện cơ bản của nó là gian lận trong thi cử.
*) Vấn đề cải cách giáo dục :
Nhà nước và bộ giáo dục đã dành sự đầu tư thích đáng cho các dự án
cải tạo giáo dục. Nhưng những kết quả đạt được thì hàn tồn không được
như mong đợi. về cơ bản phương pháp đọc chép vẫn là tình trang chung của
hầu hết các cơ sở giáo dục, từ mầm non đến sau đại học. Sách giáo kho,
giáo trình sử chữa, thay đổi quá nhiều mà vẫn không đáp ứng được yêu cầu
học tập, nghiên cứu gây lên tình trạng loạn sách. Khắc phục tình trạng này
thì lại dẫn đến nguy cơ độc quyền xuất bản. Đoa là chưa kể đến vấn đề ngân
sách nhà nước được sử dụng như thế nào trong những dự án đó cũng là một

dấu hỏi lớn.
*) Mâu thuẫn giữa quy mô phát triển với đội ngũ giáo viên vừa thiếu
vừa yếu, vừa không đồng bộ.
Về số lượng theo số liệu của Vụ giáo viên đến đầu năm 2003, số giáo
viên cả nước như sau: Tiểu học : 340 ngìn (66,7% đạt chuẩn); THCS:
208.800(84,85% đạt chuẩn). Tính một cách lý thuyết thì hiện nay nước ta


còn thiếu khoảng 29000 giáo viên tiểu học, 49000 giáo viên THCS, thiếu
18800 giáo viên THPT. Có nhiều ý kiến cho rằng giáo viên đào tạo ra
không sử dụng hết mà vẫn kêu thiếu. nguyên nhân là do sự không dồng bộ
cảu đội ngũ giáo viên. Vì có những địa phương đủ về biên chế nhưng thực
chất vẫn thiếu giáo viên ngoại ngữ, âm nhạc, vẽ, kỹ thuật.
*) Nguy cơ “Chảy máu chất xám” ngày càng lớn
Sau hai năm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), riêng trong lĩnh vực giáo dục, sự có mặt của các tổ chức, cá nhân
nước ngoài cũng đã ngày càng nhiều hơn và kéo theo đó là một nguy cơ lớn
về chảy máu chất xám. Giáo dục Việt Nam đang phải đối mặt với một thách
thức giống như Trung Quốc những năm 2005, 2006. Số sinh viên, học sinh
xuất ngoại tăng nhiều, nhưng số người trở về ngày càng ít. Đây cũng là một
quốc gia bị chảy máu chất xám ra nước ngoài nghiêm trọng nhất so với bất
cứ nước nào khác. Trước thực trạng này,GS. Hà Huy Khối, Phó Chủ tịch
Hội Tốn học có nhận xét rằng: “Hầu như tất cả tài năng trẻ của Việt Nam
hiện nay đều trưởng thành nhờ được học tại các đại học nước ngoài và sau
khi học, họ tiếp tục ở lại đó làm việc. Đến nỗi, nhiều tờ báo gọi họ là “Việt
kiều”, mặc dù từ này có lẽ khơng thật chính xác. Thật đáng lo ngại, khi hầu
hết học sinh, sinh viên tài năng của Việt Nam nếu muốn trưởng thành về
khoa học đều phải trở thành “Việt kiều”. Đây là câu hỏi mà những người
hoạch định chính sách cần tìm câu trả lời”.
c) Nguyên nhân .

Đương nhiên, sự yếu kém, lạc hậu, nhiều tiêu cực của nền GD có từ
bản thân nội tại của nó, nhưng đừng quên GD bao giờ cũng phản chiếu một
cách biện chứng chính cơ chế quản lý kinh tế- xã hội mà trong đó GD là
một nguồn lực, và là một động lực, chịu sự chi phối, tác động rất mạnh của


cơ chế đó. Đến lượt nó lại góp phần tác động trở lại, ngăn cản, kìm hãm sự
phát triển của xã hội. Đây là mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ, hai chiều.
Những yếu kém, lạc hậu của nền GD chịu sự tác động mạnh của cơ
chế quản lý xã hội, phản chiếu rõ ở hai nguyên nhân khách quan:
*)Cơ chế quản lý GD bị phân tán từ cấp trung ương.
Ngồi những yếu kém, những tiêu cực do mơi trường xã hội tác động
khá mạnh tới đời sống GD, phải nói rằng cơ chế quản lý GD từ cấp vĩ mơ
cịn khá nhiều hạn chế. Việc phân cơng, phân cấp phối hợp giữa các ngành
liên quan (tài chính, nội vụ, kế hoạch đầu tư) có những bất hợp lý làm cho
công tác quản lý GD nhiều năm nay không thể tập trung và kém hiệu
quả. Việc tách rời giữa cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề, với cơ
quan quản lý nhà nước về GD và ĐT từ trung ương đến địa phương, tách
rời quản lý chuyên môn, con người và tài chính trong GD làm suy giảm tính
hệ thống trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành đối với hệ thống GD
quốc dân, hạn chế tính chủ động của GD ở cơ sở.
Cùng đó, tư duy quản lý nhà nước cứng nhắc và “bao sân”, nhất là ở
một số chủ trương lớn, lúc xa rời thực tiễn, duy ý chí, chủ quan, lúc lại lúng
túng chạy theo áp lực tâm lý xã hội, bỏ quên vai trò “điều tiết”. Điều đó,
vừa hạn chế năng lực điều hành của quản lý GD, vừa khơng tạo động lực
vai trị chủ động của bản thân quản lý GD, vì GD địi hỏi sự am hiểu đặc
thù, tính chun sâu của một lĩnh vực khoa học có sản phẩm đặc biệt- con
người.
*) Quan điểm GD là quốc sách không biến thành hiện thực.
Chúng ta thường nói “GD là quốc sách hàng đầu”, “Đầu tư cho GD

là đầu tư cho phát triển”, nhưng thực tế quan điểm này chưa biến thành hiện
thực, thành những chính sách GD hoạch định kế hoạch phát triển, và xây
dựng các điều kiện bảo đảm chất lượng. Nội hàm “Quốc sách hàng đầu” và
“Đầu tư cho phát triển” chưa được xác định một cách cụ thể, nên việc thực
hiện ở các địa phương rất khác nhau. Không ít trường hợp các địa phương


bớt xén, sử dụng ngân sách GD của địa phương mình vào những cơng việc
khác. Mặt khác, dù tỷ lệ đầu tư cho GD đã từng bước nhích lên 20% nhưng
con số tổng thu nhập còn quá thấp, nên thực chất tài chính đầu tư cho GD
cịn xa mới đáp ứng yêu cầu phát triển và bảo đảm chất lượng.
Nhưng bản thân nội tại của ngành GD, cũng mang bệnh trọng, do ba
nguyên nhân lớn:
*)Thiếu lý luận khoa học GD:
Nền GD nước ta, là sản phẩm mang nặng dấu ấn của ba nền GD
trong quá khứ: GD Nho giáo; GD thời Pháp thuộc; nhưng đặc biệt là ảnh
hưởng khá đậm GD của nước Nga xơ- viết (cũ) (nặng tính chất hàn lâm,
truyền thụ một chiều), từ lý luận đến hệ thống, mơ hình. Nói cho cơng
bằng, GD nước ta mới có những hoạt động nghiên cứu, chưa có lý luận
khoa học GD đủ mạnh làm nền tảng cho thực tiễn hình thành và phát triển,
tránh khỏi những sai lầm phải trả giá đắt, cho dù có một vài nhà khoa học
GD thực sự có tư tưởng như Hà Thế Ngữ, Hồ Ngọc Đại…
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nghiên cứu khoa học GD chỉ
đủ sức làm các đề tài ứng dụng, kiểu “mì ăn liền”. Một điểm đáng chú ý,
trong hoạt động thực tiễn, người Việt Nam còn có tâm lý coi thường lý
luận, thiên về sao chép kinh nghiệm bên ngoài. Mặt khác, dưới sự tác động
và chi phối của hoàn cảnh lịch sử đất nước với những cuộc chiến tranh
chống ngoại xâm liên miên, thiên tai địch hoạ, và “tố chất” của một nền sản
xuất nhỏ, người Việt Nam thiếu một tâm lý định kế lâu dài, mang tính chiến
lược, thiên về “ăn sổi ở thì”.

*) Tư duy GD chậm đổi mới, già cỗi, bảo thủ, khó thay đổi:
Cơng cuộc đổi mới GDPT đã làm bộc lộ rõ sự bất cập cả về tư duy
lẫn lý luận GD trong kinh tế thị trường. Mặc dù chủ trương của công cuộc
này, đổi mới phương pháp dạy học vừa là phương tiện vừa là mục đích, thế
nhưng trong hoạt động triển khai dạy và học của các nhà trường vẫn mang
đậm dấu ấn tư duy cũ với hai đặc trưng cơ bản:


- GD là thuyết giảng một chiều.
- Học sinh học nhập tâm theo kiểu thuộc lòng, tiếp thu thụ động, vâng
lời.
Mặc dù ngành đã cố gắng thay đổi bằng những giải pháp kỹ thuật
(thiết bị dạy học) nhưng do những nguyên nhân khác nhau, đổi mới phương
pháp vẫn không thể biến thành hiện thực, và vẫn là giải pháp đơn lẻ, khơng
thể có hiệu quả. Bởi nó thiếu hàng loạt các giải pháp mang tính hệ thống,
tưởng là hỗ trợ nhưng lại khá quyết định: Đó là kiểm tra, đánh giá, thi cử,
đánh giá giáo viên, quản lý…Bởi những người thầy, đối tượng tiên phong
của đổi mới phương pháp lại là sản phẩm của một cung cách đào tạo sư
phạm cũng lỗi thời, giảng viên đọc- sinh viên chép, học không gắn với thực
hành sư phạm.
*) Cơ chế quản lý GD trì trệ, yếu kém và phân tán, chưa tương thích với kinh
tế thị trường và nhu cầu phát triển nguồn nhân lực trong nước.
Đây chính là nguyên nhân sâu xa của những nguyên nhân yếu kém
khác. Quản lý nhà nước các cấp về GD nặng tính bao cấp, ơm đồm, nhưng
lại lơi lỏng thanh tra, kiểm tra, và hoàn toàn thiếu hệ thống kiểm định chất
lượng GD độc lập, khách quan. Ở các nước phát triển, quản lý GD nhằm
vào mục tiêu chất lượng để từ đó, cơ sở GD được quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm xã hội trên ba phương diện: Bảo đảm chất lượng; minh bạch tài
chính và thực hiện cơng bằng xã hội. Bên cạnh đó có hệ thống đánh giá và
kiểm định chất lượng khách quan. Nhưng ở ta, hoạt động GD tại cơ sở

nhằm vào mục tiêu nào?
Cách làm giáo dục theo kiểu hình thức, duy ý chí, vụ lợi, khơng vì
học sinh, lại gặp tâm lý thực dụng của một số các bậc cha mẹ vì những mục
đích cá nhân khác nhau. Từ đó, ngay trong trường học, mơi trường dạy trẻ
phải thật thà, trung thực lại chứa nhiều điều gian dối, “nâng điểm, cấy điểm,
xin điểm” đẻ ra những tỷ lệ lên lớp, tỷ lệ học sinh khá, giỏi cao chót vót,


nhưng thực chất chất lượng thấp tè. Từ đó, đẻ ra bệnh thành tích…Để bây
giờ ngành GD lại loay hoay chống đỡ bằng “Hai không”…
3.1) Những giải pháp cho ngành giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
Ngành giáo dục và đào tạo phải đổi mới tư duy và có quyết tâm cao
đối với công cuộc đổi mới nền giáo dục. Trước mắt, cần rà sốt lại các chủ
trương, chính sách về giáo dục và đào tạo được đề ra trong các nghị quyết
của Ðảng, trong luật và chiến lược giáo dục của Nhà nước để xác định một
kế hoạch, một lộ trình đổi mới nền giáo dục và đào tạo từ nay đến năm 2020
với yêu cầu nâng cao một bước rõ rệt chất lượng giáo dục và đào tạo. Ðể
triển khai có kết quả cơng cuộc đổi mới nền giáo dục và đào tạo, cần thực
hiện ngay một số vấn đề cơ bản và cấp bách:
Trước hết, cần tổ chức lại và kiện toàn Hội đồng giáo dục quốc gia
cho ngang tầm với nhiệm vụ.
Ðây là hội đồng khoa học, chủ yếu làm nhiệm vụ tư vấn cho Trung
ương, Quốc hội và Chính phủ trong việc hoạch định chính sách và chiến
lược phát triển giáo dục và đào tạo ở tầm vĩ mô. Hội đồng phải tập hợp
được các nhà giáo dục và khoa học có tâm huyết, những chuyên gia giỏi,
am hiểu tình hình giáo dục trong nước và thế giới, có uy tín, phần lớn khơng
phụ trách chức vụ quản lý, kể cả những người đã về hưu nhưng có năng lực,
có kinh nghiệm và cịn sức làm việc. Chủ tịch Hội đồng nên là một nhà
khoa học giáo dục có uy tín phụ trách. Hội đồng có quy chế làm việc chặt
chẽ, bảo đảm thực sự dân chủ, tôn trọng những ý kiến khác nhau, cùng nhau

thảo luận đi đến kết luận và đưa ra kiến nghị với Ðảng và Nhà nước.
Hai là, tổ chức nghiên cứu rà sốt lại hệ thống chương trình giáo
dục và sách giáo khoa.
Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện, ổn định chương trình làm cơ sở để sớm
biên soạn xong sách giáo khoa chuẩn mực cho mọi bậc học, mọi ngành học
trong một vài năm. Thay đổi cách tổ chức biên soạn chương trình, sách giáo
khoa, thực hiện dân chủ, cơng khai, tránh độc quyền, có hội đồng thẩm định


nghiêm túc, tránh sửa đi sửa lại, biên soạn kéo dài và thay đổi sách triền
miên. Một số nhà khoa học nêu ý kiến có thể giải quyết vấn đề chương trình
và sách giáo khoa chuẩn cho cả phổ thơng và đại học trong một năm với
kinh phí 100 tỷ đồng. Những ý kiến như vậy nên được trao đổi, bàn bạc.
Ba là, cần nghiên cứu tổ chức hệ thống giáo dục quốc dân cho hợp
lý. Sớm chấm dứt tình trạng "vừa thừa vừa thiếu cả thầy lẫn thợ".
Cấp đại học trước hết phải nâng cao chất lượng về mọi mặt, phấn đấu
đến năm 2020 có một số trường đại học trọng điểm đạt đẳng cấp quốc tế.
Chỉ mở thêm trường đại học khi có đủ điều kiện bảo đảm chất lượng. Sớm
khắc phục tình trạng đào tạo trên đại học tràn lan, không bảo đảm chất
lượng. Nghiên cứu biện pháp nâng cao chất lượng và thực hiện tốt việc
phân luồng ở cấp phổ thông. Phát triển mạnh hệ thống các trường dạy nghề
để đáp ứng kịp nhu cầu nhân lực có kỹ năng chun mơn cho cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Phấn đấu trong một thời gian ngắn nhất có thể được, làm
cho bằng cấp của nước ta, lao động kỹ thuật do ta đào tạo ra được thị trường
quốc tế thừa nhận.
Hết sức coi trọng phương châm gắn học với hành. Trường đại học
gắn với viện nghiên cứu và các cơ sở kinh tế lớn. Trường dạy nghề gắn với
các cơ sở sản xuất. Trường phổ thông phải tổ chức hướng nghiệp, gắn với
đời sống kinh tế xã hội ở địa phương. Tiếp tục chống gian lận trong thi cử,
chạy theo thành tích giả. Sớm chấm dứt mọi hiện tượng tiêu cực trong

ngành giáo dục.
Bốn là, cần triển khai tích cực cơng tác phát hiện, tuyển chọn nhân
tài.
Tổ chức đào tạo trong nước và ngoài nước để sớm có một đội ngũ
cán bộ khoa học có trình độ cao, bồi dưỡng thành đội ngũ giảng viên đại
học, đáp ứng yêu cầu bảo đảm chất lượng của cấp đại học. Nâng cao chất
lượng cấp đại học là cơ sở để nâng cao chất lượng cấp trung học phổ thông
và dạy nghề. Ðào tạo đội ngũ thầy giáo có trình độ quốc tế là

vấn đề


quyết định để đổi mới, hiện đại hóa nền giáo dục nước nhà. Coi trọng việc
lựa chọn đúng cán bộ quản lý giáo dục, nhất là chức Bộ trưởng, Hiệu
trưởng các trường đại học lớn và giám đốc các sở giáo dục. Những cán bộ
ấy phải là những người có tâm và có tầm, có phẩm chất đạo đức và năng lực
trí tuệ, năng động, sáng tạo, khơng bảo thủ giáo điều, có uy tín, có cách làm
việc tập hợp được nhân tài, phát huy được trí tuệ của chuyên gia giỏi, hết
lịng vì sự nghiệp giáo dục. Ðể khắc phục tình trạng thiếu hụt cán bộ đầu
đàn và sự mất cân đối về cơ cấu, trước mắt, cần có cơ chế và chính sách tiếp
tục sử dụng những cán bộ khoa học và giáo dục đã đến tuổi về hưu nhưng
cịn đủ sức khỏe, có năng lực chun mơn và có tâm huyết.
Mặt khác, cần có chủ trương, chính sách và cơ chế tạo môi trường
thuận lợi để thu hút các nhà khoa học giỏi vào đội ngũ giảng viên cao cấp
của các trường đại học và các viện nghiên cứu, thu hút các chuyên gia nước
ngoài, đặc biệt là các nhà khoa học người Việt ở nước ngoài tham gia giảng
dạy và nghiên cứu ở các trường đại học và viện nghiên cứu của Việt Nam.
Năm là, cần tăng thích đáng đầu tư, và quan trọng hơn, cần quản
lý và sử dụng có hiệu quả ngân sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo.
Mức đầu tư phải tạo điều kiện cho giáo dục và đào tạo đi trước, phục

vụ đắc lực cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Mấy năm qua, mức đầu tư
cho giáo dục và đào tạo (tính theo % GDP và % ngân sách nhà nước) đã
tăng đáng kể. Tuy nhiên, cần thấy rõ là mức đầu tư cho giáo dục và đào tạo
tính theo đầu người của nước ta cịn rất thấp so với nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới, vì vậy, cần tính tốn các mặt để có một mức tăng đáng
kể từ nay đến năm 2020, nhằm tạo nên một sự chuyển biến căn bản về chất
lượng và quy mô giáo dục và đào tạo. Ðầu tư từ ngân sách nhà nước có vai
trị quan trọng, nhưng chắc chắn không thể đáp ứng được nhu cầu ngày
càng tăng, bởi vậy, một nguồn lực quan trọng là cần xác định trách nhiệm,
cơ chế và chính sách cụ thể nhằm huy động sự đóng góp của các tổ chức
kinh tế và xã hội sử dụng nguồn nhân lực được đào tạo. Ðồng thời, đặc biệt


quan tâm việc quản lý, phân bổ và sử dụng các nguồn đầu tư cho giáo dục
và đào tạo một cách đúng hướng, hợp lý và hiệu quả, tránh gây thất thốt,
lãng phí.
Dành tỷ lệ đầu tư thích đáng cho việc nâng cấp, từng bước hiện đại
hóa kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật cho giáo dục và đào tạo, đặc biệt là
nguồn thông tin tư liệu, các trung tâm thử nghiệm, các cơ sở dạy nghề và
sản xuất thử, các trung tâm đào tạo ngoại ngữ và tin học.
Sáu là, nền giáo dục của ta là nền giáo dục của dân, vì dân, do dân.
Dân chủ và cơng bằng là tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa,
trước hết phải được thể hiện trong giáo dục và y tế, hai lĩnh vực trực tiếp
bồi dưỡng con người. Bác Hồ mong muốn "ai cũng được học hành". Vì vậy,
xu hướng đúng đắn là phải tiến tới bỏ học phí. Nhiều nước tư bản cũng đã
bỏ học phí ở cấp phổ thơng, có nước bỏ học phí ở cấp đại học. Ðất nước
Cu-ba cịn nhiều khó khăn vẫn kiên trì thực hiện học tập và chữa bệnh miễn
phí. Vì vậy, khơng lý gì ta lại chủ trương tăng học phí tràn lan. Phải kiên
quyết thực hiện khơng thu học phí đối với giáo dục phổ cập theo đúng tinh
thần của Hiến pháp. Mặt khác, cần nghiên cứu kỹ chế độ học phí theo

hướng khơng tăng mà giảm dần, tiến tới bỏ học phí ở cấp phổ thơng rồi tiến
đến bỏ học phí ở cấp đại học. Ở cấp mẫu giáo, mầm non, khơng nên hình
thành một loại trường cho các cháu con nhà giàu và một loại trường cho các
cháu con nhà nghèo. Nên nghiên cứu vận dụng cơ chế khuyến khích cạnh
tranh dạy tốt, học tốt, nhưng khơng nên phát triển tư nhân hóa trường cơng,
phát triển xu hướng thương mại hóa giáo dục, coi nhà trường là tổ chức
kinh doanh để thu lợi nhuận dưới danh nghĩa "xã hội hóa giáo dục", khơng
đúng với tinh thần chủ trương của Ðảng và Nhà nước trong sự nghiệp xây
dựng nền giáo dục của nhân dân, vì nhân dân.
Bảy là, tăng cường hội nhập quốc tế.
Xây dựng chiến lược hội nhập quốc tế, nâng cao năng lực hợp tác và
sức cạnh tranh. Triển khai việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài, trước mắt


là tiếng Anh., tiếp thu có chọn lọc các chương trình đào tạo tiên tiến của thế
giới, đạt được thỏa thuận về tương đương văn bằng. Tạo cơ chế và điều kiện
thuận lợi để các nhà đầu tư, các cơ sở giáo dục đại học có uy tín trên thế
giới mở cơ sở giáo dục đại học quốc tế tại Việt Nam hoặc liên kết đào tạo
với các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam. Ðổi mới toàn diện, sâu sắc, triệt
để có tính cách mạng nền giáo dục và đào tạo là một điều kiện tiên quyết để
đưa nước ta tiến lên nhanh và vững trên con đường hiện đại hóa đất nước,
hội nhập quốc tế và sánh vai cùng các quốc gia tiên tiến trên thế giới trong
kỷ ngun thơng tin và tồn cầu hóa.
4. LIÊN HỆ VỚI THỰC TRẠNG GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐẠI
HỌC LUẬT HÀ NỘI.
4.1. Cùng với sự nghiệp giáo dục - đào tạo của cả nước, trong những
năm qua, công tác giáo dục và đào tạo của Trường ĐH luật Hà Nội đã
đạt được những thành tựu sau:
Ngay ngày đầu thành lập trườg Đại học pháp lý Hà Nội, có thủ tướng
Phạm Văn Đồng đã đến dự lễ khai giảng và phát biểu; “Trường đại học

pháp lý Hà Nội phải phấn đấu xây dựng để trở thành trung tâm đào tạo pháp
lý, trung tâm nghiên cứu khoa học pháp lý và là Trung tâm phổ biến pháp
luật cho cả nước. Kể từ đó đến nay, Trường Đại học luật Hà Nội đã dần
từng bước đáp ứng việc sự mong mới của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng và
nhân dân cả nước.
- Công tác xây dựng đội ngũ và phát triển bộ máy tổ chức:
Hiện nay, Trường đại học luật Hà Nội có 445 cán bộ,viên chức.
Trong đó có 7 giáo sư, phó giáo sư, 47 tiến sỹ, 146 thạc sỹ, 7 nhà giáo ưu
trí 79 giảng viên chính và 166 giảng viên.
- Cơng tác đào tạo :
Trong 25 năm qua ( 1979-2004 ) trường ĐHL Hà Nội đã đào tạo cho
đất nước 51.472 cán bộ pháp luật; Trong đó có 50 tiến sỹ luật học, 500 thạc


sỹ luật học, 46.556 cử nhân luật, 417 cao đẳng luật và 4.079 Trung cấp luật
và hàng nghìn cán bộ đã được đào tạo qua các lớp luân huần, bồi dưỡng
biến thức pháp luật. Đội ngũ cán bộ do trường đào tạo đã và đang phát huy
vai trò quan trọng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó có
nhiều đồng chí hiện đang giữ những trọng trách trong các cơ quan nhà nước
và các cơ quan, tổ chức thuộc các thành phần kinh tế hơn 50% thẩm phán,
chấp hành viên, công chứng viên, luật sư, cán bộ của các cơ quan tư pháp
hiện đang công tác là cựu sinh viên học viên nghiên cứu sinh viên trường.
Bên cạnh việc đào tạo cán bộ pháp luật cho Việt Nam, Trường ĐHLHN
cũng có nhiều đóng góp cho việc đào tạo cán bộ pháp luật cho cả nước.
- Xây dựng cơ sở vật chất và hiện đại hoá nhà trường.
Với nỗ lực lớn, hiện nay, đến nay cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho
các hoạt động của nhà trường đã được tăng cường và từng bước được hiên
đại hố. Hiện nay, trường đã có các giảng đường phòng học khá khang
trang, hiện đại; điều kiện giảng dạy, học tập, nghiên cứu đã biến đổi cơ bản.
Trường đã xây dựng xong mạng tin học nội bộ, trang website kết nối

internet phục vụ cho công tác chuyên môn và quản lý. Hệ thống máy tính
với hơn 3.000 máy cùng các thiết bị hiện đại khác đã được trang bị để phục
vụ cho giảng dạy, học tập và công tác, ký túc xá sinh viên với các phòng ở
khép kín có thể phục vụ cho 1.000 sinh viên, cảnh quan, môi trường sử
phạm được cải thiện. Nguồn lực tài chính của nhà trường được tăng cường.
Bên cạnh nguồn ngân sách nhà nước cấp. Trường đã tạo được những nguồn
thu từ những hoạt động đào tạo, nghiên cứu, dịch vụ và hợp tác quốc tế để
bảo đảm cho các hoạt động của nhà trường được tiến hành một cách chủ
động, ổn định, hiệu quả; đời sống của cán bộ, giáo viên và sinh viên khơng
ngừng được cải thiện.
- Các hình thức đào tạo của trường cũng từng bước được đa dạng
hoá để phù hợp với điều kiện và nhu cầu học tập của xã hội.


×