Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

ôn thi học sinh giỏi cấp tỉnh môn địa lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.34 KB, 17 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Thực tế nhiều năm qua, để có được học sinh ôn đội tuyển học sinh giỏi
môn địa lý quả thực không hề đơn giản. Đầu vào đã khó, thế nhưng trong quá
trình ôn luyện vẫn còn rất nhiều lận đận và nhiều trăn trở, bởi vì các lý do sau:
- Thứ nhất: Nguồn học sinh để tuyển chọn rất hạn chế. Do việc dạy học bộ môn
này phải nói rằng đôi lúc vẫn chưa hấp dẫn học sinh, chưa làm cho học sinh thấy
đây là một môn khoa học rất hấp dẫn, gắn bó thực tế với con người cả về tự
nhiên và kinh tế-xã hội. Mặt khác, việc học lệch cũng như sự định hướng nghề
nghiệp của gia đình và trào lưu xã hội từ trước đến nay; sẽ có nhiều ảnh hưởng
đến việc học lệch của các môn xã hội nói chung trong đó có môn địa lí nói riêng.
Nên việc lựa chọn học sinh vào đội tuyển địa lí lại phải đợi chọn ở tốp sau khi
mà tốp đầu là những học sinh học giỏi, khá đã lựa chọn và cũng được các thầy,
cô lựa chọn vào các môn theo theo tâm lí định hướng khối thi sau này, như môn
toán, vật lí, hóa học, sinh học, Anh văn Và nếu như việc ôn luyện các môn thi
học sinh giỏi nói chung, các môn xã hội nói riêng và môn địa lí nói riêng nữa cứ
mất nhiều thời gian(mỗi tuần 2-3 buổi, kéo dài 3-4 tháng) như thế; mà không có
cách dạy và học, cũng như ôn luyện một cách khoa học, thì sẽ ảnh hưởng nhiều
đến việc học tập các môn khác của các em… Nên quá trình học tập cũng như ôn
thi học sinh giỏi của các em cũng bị ảnh hưởng chưa tốt bởi yếu tố nói trên.
- Thứ hai: Môn địa lý vẫn chưa có vị trí đáng kể trong một số nhà trường, vẫn
coi như là một môn phụ, quan niệm chỉ cần học thuộc… là một thực tế không
thể chối bỏ; cho nên cả học sinh, gia đình lẫn xã hội ít quan tâm.
- Thứ ba: Các môn thi học sinh giỏi gắn với các môn thi định hướng nghề
nghiệp sau này mới tạo nên sự hấp dẫn, gắn bó với học sinh. Tuy vậy thì môn
địa lý thuộc khối C; mà khối thi này lâu nay có xu hướng giảm sút số lượng thí
sinh đăng ký do ngành thi hạn chế, cơ hội việc làm trong tương lai cũng có phần
khó khăn hơn các ngành khác (như ngành kĩ thuật, kinh tế, dịch vụ…).
Khó khăn nhiều là vậy; tuy nhiên, môn địa lí vẫn là một trong những môn
học và là môn thi học sinh giỏi ở các cấp huyện và tỉnh Với cách ra đề có
nhiều đổi mới như hiện nay; vừa cho học sinh thể hiện được những kiến thức cơ
bản của mình; vừa có những hướng mở để học sinh thể hiện được những hiểu


biết thực tế địa lí trên cơ sở khoa học, cũng như yêu cầu các em phải thực hiện
tốt việc rèn kĩ năng địa lí của mình. Vì vậy đòi hỏi người thầy phải có nhiều thay
đổi trong dạy học - ôn luyện, cũng như trao đổi và rèn kĩ năng cho học sinh ôn
thi, thì mới có hiệu quả cao.
Là người thầy giáo cũng đã từng dạy và ôn luyện học sinh giỏi môn địa lí ở các
trường cơ sở và cấp huyện; được phòng giáo dục Thiệu Hóa giao nhiệm vụ dạy
ôn cho đội học sinh giỏi cấp huyện dự thi cấp tỉnh. Bản thân cũng chịu những
ảnh hưởng nêu trên, nên có nhiều suy nghĩ và trăn trở, làm sao để khắc phục
được những vấn đề khó khăn đó: Làm sao để hướng dẫn và cùng với các em ôn
luyện đạt kết quả cao hơn những năm trước đây? Làm sao giúp các em học ôn
với một tâm lí thoải mái nhất, vẫn có nhiều thời gian để học các môn khác theo
nhu cầu? Làm sao để môn địa lí trở thành môn học yêu thích và là định hướng
nghề nghiệp cho các em sau này?
Với suy nghĩ như trên, bằng sự học hỏi và rút kinh nghiệm của những thầy,
cô đi trước. Bản thân tôi thấy rõ ràng rằng: “Cách dạy và định hướng cách học
của người thầy trong quá trình ôn luyện cho các em là vô cùng quan trọng và
cần thiết để có thể giải quyết được những khó khăn nêu trên”. Kiên trì học hỏi
để thực hiện trong quá trình giảng dạy và ôn luyện, thầy trò chúng tôi đã nhanh
chóng có những thành công ngay từ năm đầu tiên và nối tiếp thành công trong
nhiều năm nay. Vì thế tôi xin chia sẻ “Một số kinh nghiệm trong việc ôn luyện
đội tuyển học sinh giỏi môn Địa lí 9 dự thi cấp tỉnh, ở huyện Thiệu Hóa” của
mình với các bậc chuyên môn và đồng nghiệp; để một góp phần nhỏ bé của
mình vào công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn địa lí ở các trường THCS trong
huyện Thiệu Hóa nói riêng, cũng như được giao lưu chia sẻ kinh nghiệm với các
trường huyện bạn trong tỉnh nói chung. Rất mong được sự góp ý chân thành của
các quý vị.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận:
Qua thực tế bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý khối 9 trong những năm
học qua tôi nhận thấy rằng vấn đề quan trọng là người giáo viên bồi dưỡng cần

có một quan niệm đúng về học sinh giỏi nói chung và học sinh giỏi môn Địa lý
nói riêng. Bên cạnh đó, cần trả lời cho câu hỏi: “Việc bồi dưỡng học sinh giỏi
nhằm mục tiêu gì?” để từ đó người giáo viên bồi dưỡng lựa chọn nội dung,
chương trình và phương pháp bồi dưỡng sao cho thích hợp và đạt hiệu quả cao
nhất.
Một số suy nghĩ cho rằng: Học sinh giỏi môn Địa lý chỉ cần học thuộc, là
chưa đủ, chưa chính xác. Vì: “Địa lý là môn khoa học có đối tượng nghiên cứu
phong phú, phức tạp. Các hiện tượng địa lý không chỉ phân bố trên bề mặt đất
mà cả trong không gian và trong lòng đất. Hơn nữa, các hiện tượng ấy ở đâu và
2
bao giờ cũng phát sinh, tồn tại và phát triển một cách độc lập nhưng lại luôn có
quan hệ hữu cơ với nhau. Chính vì vậy, người dạy và học Địa lý cần có phương
pháp tư duy, phân tích, xét đoán các hiện tượng địa lý theo quan điểm hệ
thống”.
Với quan niệm trên, chúng ta hiểu rằng học sinh giỏi môn Địa lý là những
học sinh phải nắm được những kiến thức cơ bản của bộ môn và phải vận dụng
được những hiểu biết; những kỹ năng địa lý để giải quyết những nội dung cơ
bản theo yêu cầu của đề bài, của thực tiễn cuộc sống và học sinh giỏi môn Địa
lý là những học sinh có năng lực độc lập suy nghĩ, vận dụng tốt nhất những kiến
thức, kỹ năng chắc chắn về địa lý.
Về mục tiêu bồi dưỡng học sinh giỏi, mặc dù có nhiều mục tiêu khác
nhau tùy theo quan niệm của mỗi giáo viên, và tùy theo môn học nhưng dù quan
niệm như thế nào chung quy lại có những điểm tương đồng:
- Bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và học sinh giỏi môn Địa lý nói riêng
nhằm phát triển tư duy ở trình độ cao phù hợp với khả năng trí tuệ của học sinh.
- Bồi dưỡng sự lao động và hợp tác làm việc một cách sáng tạo.
- Phát triển các phương pháp, kỹ năng và thái độ tự học một cách nghiêm túc,
khoa học.
- Nâng cao ý thức và khát vọng của học sinh.
- Phát triển phẩm chất lãnh đạo.

- Có ý thức trách nhiệm trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
II. Thực trạng của vấn đề:
- Qua nhiều năm tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý, bản thân nhận
thấy chất lượng giải của môn địa lí cấp huyện chưa cao. Trong số 15-20 em đạt
giải cấp huyện được lựa vào đội dự tuyển ôn thi học sinh giỏi cấp tỉnh thường
không có giải nhất(từ 18 điểm trở lên), rất ít giải nhì(khoảng 1-2 giải nhì, có
năm không có), chủ yếu là giải ba và khuyến khích; cho dù mức độ kiến thức, kĩ
năng của đề thi các năm là rất phù hợp với cấu trúc đề thi của cấp huyện . Vì
vậy, những học sinh vào đội dự tuyển chủ yếu là các em có thứ hạng giải không
cao so với các môn tự nhiên. Cho thấy, chất lượng học sinh vào đội dự tuyển địa
lí, để ôn luyện dự thi cấp tỉnh là chưa được yên tâm.
- Trong thực tế, đầu vào của các đội tuyển môn địa lí 9, ngay ở các trường cơ sở
gần như chất lượng không cao; phải lựa chọn sau cùng, và phải khéo động viên
các em thì mới có đội tuyển dự thi môn địa lí. Mặc dù, đội tuyển có thể được
lựa chọn từ lớp 8. Song, kiến thức thi chủ yếu tập trung ở lớp 9. Đó là: Địa lí
3
dân cư, địa lí kinh tế chung và địa lí vùng kinh tế Việt Nam. Như vậy, cũng khá
độc lập về kiến thức so với địa lí tự nhiên các châu lục, các khu vực và tự nhiên
Việt Nam; đồng thời kĩ năng về vẽ và phân tích biểu đồ, cũng phức tạp hơn rất
nhiều. Vì vậy, việc ôn luyện địa lí cho các em trong đội tuyển cũng gặp rất
nhiều khó khăn; cho nên, đa phần đều phải ôn luyện theo cách học thuộc theo
bài, làm nhiều đề theo cấu trúc của đề thi học sinh giỏi các năm đã từng thi…
- Khảo sát tình hình một số năm cũng như trao đổi với các thầy , cô đã đảm
nhận công việc ôn đội tuyển học sinh giỏi môn địa lí thi cấp tỉnh, trước khi tôi
được giao nhiệm vụ này, thì thấy số lượng học sinh bỏ đội dự tuyển, hoặc đi học
không đều, cũng như số lượng và chất lượng giải đạt được chưa cao, chưa xứng
tầm với sự đầu tư và sự kì vọng của lãnh đạo huyện Thiệu Hóa, cũng như từ
các gia đình, nhà trường và bản thân các em. Thống kê trong 2 năm như sau:
Bảng theo dõi học sinh ôn thi học sinh giỏi cấp tỉnh môn Địa lí từ năm học
2006-2007 đến năm học 2007-2008(huyện Thiệu Hóa).

Năm học Số học
sinh đội
dự tuyển
Số học sinh
đi học ôn
không đều.
Số học
sinh bỏ
học ôn.
Số học sinh
đội tuyển
chính thức
Loại giải và
số lượng đạt
được ở cấp
tỉnh
2006-2007 20 5 4 10 3 giải khuyến
khích
2007-2008 19 6 4 10 2 giải khuyến
khích

- Nguyên nhân:
+ Các em bị thiếu hụt về kiến thức và kĩ năng học tập, ôn luyện cũng
như sự cọ sát va chạm trong thi cử là nguyên nhân khách quan từ bên ngoài
cũng như thầy cô dạy học và ôn luyện từ các trường, và cũng là nguyên nhân
chủ quan chung của các em trong quá trình tiếp nhận và ôn luyện kiến thức với
thực trạng chung của bộ môn lâu nay.
Khi tiếp nhận đội dự tuyển môn địa lí, qua khảo sát và trao đổi với các em về
cách thức học ôn thi, thấy các em còn thiếu rất nhiều về kiến thức cũng như kĩ
năng làm bài. Về cơ bản các em chỉ nhớ hoặc thuộc theo sách và đáp án mà thầy

cô cung cấp; khi thầy hỏi kĩ về bản chất địa lí thì các em thường không hiểu sâu
về bản chất cũng như chưa biết cách phân tích kiến thức địa lí một cách khoa
4
học. Cũng vì vậy mà ít có em đạt điểm cao ở cấp huyện; hoặc có những em đạt
điểm cao ở cấp huyện, nhưng khi kiểm tra đầu vào trong đội dự tuyển với cấu
trúc đề và thời lượng làm bài như thi cấp huyện, thì điểm không cao bằng điểm
thi cấp huyện. Cá biệt có em thuộc bài, nhớ số liệu và đọc vanh vách, nhưng khi
thầy yêu cầu phân tích để hiểu và trình bầy thì bối rối không làm được.
+ Một trong những nguyên nhân cũng ảnh hưởng rất quan trọng đến tinh
thân và tâm lí học tập, ôn luyện của các em; là có sự coi nhẹ, lơ là, thậm chí
không còn tiếp tục hướng dẫn ôn tập cho các em, khi mà đã được vào đội dự
tuyển hoặc đội tuyển chính thức dự thi cấp tỉnh của các thầy cô giảng dạy và ôn
luyện cho các em ở trường cơ sở. Và ngay cả sự lãnh chỉ đạo giáo viên tiếp giúp
đỡ học sinh ôn thi tỉnh, của bộ phận chuyên môn ở nhiều nhà trường THCS vẫn
chưa nghiêm túc và quyết liệt. Vì vậy, đây cũng là vấn đề khó khăn từ các thầy
cô phụ trách đội tuyển ở các trường cơ sở; và cũng là trở ngại lớn cho giáo viên
ôn thi đội tuyển môn địa lí lớp 9, dự thi cấp tỉnh lâu nay.
III. Giải pháp và tổ chức thực hiện:
1. Xây dựng kế hoạch cụ thể trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi:
Thường vào đầu đầu tháng 1(năm mới) của năm học, sau thi học sinh giỏi cấp
huyện xong khoảng hai tuần, là huyện Thiệu Hóa thành lập ban chỉ đạo cho việc
luyện thi học sinh giỏi dự thi cấp tỉnh, và tỉnh sẽ tổ chức thi vào tuần thứ 3 trong
tháng 3. Với đặc điểm học sinh và điều kiện ôn luyện như nêu ở trên, cùng với
thời gian ôn luyện khoảng 7 tuần; các giáo viên được điều động bồi dưỡng học
sinh giỏi, phải xây dựng kế hoạch chi tiết cho việc giảng dạy của mình. Vì vậy,
bản thân cũng đã lên kế hoạch cụ thể về:
- Kế hoạch về thời gian ôn luyện đội tuyển: Theo kế hoạch của phòng giáo dục
Thiệu Hóa thường từ đầu tháng một đến khoảng tuần thứ 3 của tháng ba. Trừ
thời gian nghỉ tết nguyên đán 2 tuần, thì có khoảng gần 9 tuần ôn luyện. Thời
gian 5 tuần đầu ôn cho đội dự tuyển sẽ có 2 buổi/tuần, học sinh sẽ làm 2 đề do

giáo viên phụ trách ôn luyện ra theo đúng qui định, để lấy điểm làm cơ sở cho
việc tuyến chọn. Nghỉ tết nguyên đán song, các em sẽ làm đề số 3 do bộ phận
chuyên môn của phòng giáo dục ra đề và đáp án … Và đội tuyển chính thức 10
em được lấy theo điểm từ cao đến thấp. Khi đó sẽ ôn 3 buổi/ tuần đến khi thi
cấp tỉnh.
- Soạn nội dung dạy học theo chuyên đề, nghiên cứu kĩ kiến thức cơ bản ở sách
giáo khoa địa lí THCS hiện hành và tài liệu tham khảo khác. Tùy theo từng đối
tượng học sinh từng năm để soạn và ôn luyện(có thể phải củng cố lại kiến thức
5
quan trọng ở lớp 6, lớp 8; như hệ quả của các chuyển động của Trái Đất; khí áp
và sự hình thành các loại gió, nhất là gió mùa ở nước ta…).
- Giúp các em xây dựng kế hoạch học và ôn luyện ở nhà sao cho khoa học với
tinh thân thoải mái nhất. Thường thì với thời gian khoảng một tiếng rưỡi vào
buổi sáng sớm; với thời gian trên sẽ giúp các em học, nhớ và hiểu bài hiệu quả
nhất.
- Chủ động phối hợp và thống nhất về nội dung kiến thức – kĩ năng, những “lỗ
hổng” kiến thức của từng em với giáo viên phụ trách đội tuyển ở các trường cơ
sở, để tranh thủ sự giúp đỡ của các thầy cô đối với các em. Như vậy các em sẽ
tiến bộ nhanh và chất lượng đội dự tuyển được nâng lên rõ rệt, sẽ là nền tảng
quan trọng cho đội tuyển chính thức dự thi cấp tỉnh đạt kết quả cao.
- Động viên khuyến khích các em trong quá trình dạy học; và cùng các em xây
dựng chỉ tiêu chỉ tiêu phấn đấu đạt giải cho từng cá nhân, theo năng lực học tập
ngày càng tiến bộ của từng em một.
- Tranh thủ sự lãnh chỉ đạo của lãnh đạo và chuyên viên phụ trách bộ môn của
phòng giáo dục và đào tạo để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi của huyện đạt
được kết quả cao nhất.
2. Một số kinh nghiệm trong công tác tuyển chọn học
sinh trong đội dự
tuyển để có đội tuyển chính thức:
Phát hiện và tuyển chọn là một vấn đề rất quan trọng trong việc thành lập

đội tuyển học sinh giỏi chính thức, vì liên quan đến chất lượng và hiệu quả của
đội tuyển trong quá trình bồi dưỡng, rèn luyện và tham gia kỳ thi cấp tỉnh. Mặc
dù, nguồn tuyển chọn đã được định lượng(gồm từ 15 đến 20 em đoạt giải xếp
theo thứ tự từ giải trong kì thi học sinh giỏi khối 9 cấp huyện); vì vậy việc tuyển
chọn đổi tuyển học sinh chính thức dự thi học sinh giỏi cấp tỉnh(thường là 10 em
dự thi) phụ thuộc hoàn toàn thời gian tổ chức ôn luyện của huyện nhà, đặc biệt
phụ thuộc vào kinh nghiệm giảng dạy và bồi dưỡng của thầy, khả năng tổ chức
ôn luyện, cách thức khuyến khích thu hút học sinh ham thích, tò mò và hăng hái
học tập, nhưng không phải là sức ép với các em, trong khi các em vẫn còn phải
học các môn khác trong trường của mình. Quá trình tuyển chọn được thường
xuyên thực hiện với một số kinh nghiệm sau:
* Người thầy thu hút học sinh ngay từ buổi học ban đầu bằng những
kiến thức địa lí của mình thông qua vốn sống và thực tế giảng dạy, đặt vấn đề và
giải thích cho học sinh hiểu rõ những vấn đề địa lí mà lâu nay các em còn mơ
6
hồ, hoặc còn hiểu hay giải thích chưa thấu đáo với thực tế khoa học(Ví dụ: Giải
thích về sự thay đổi thời tiết trong ngày qua xem dự báo thời tiết trên truyền
hình; hoặc phân tích được ý nghĩa của vị trí địa lí cũng như việc khai thác thế
mạnh của vị trí địa lí trong việc phát triển kinh tế hiện nay của một vùng kinh tế
nào đó, liên hệ thực tế ở địa phương mình, gia đình mình…).
* Cùng với học sinh và tạo cho học sinh có hứng thú say mê, yêu
thích bộ môn, cần cù trong học tập, nếu không có sự ham mê thì khó đạt được
đến thành công. Cho nên giáo viên giảng dạy bộ môn rất quan trọng, cần thiết đó
là việc đồng hành đối với học sinh trong việc hình thành lòng yêu thích này. Điều
này được thực hiện từ việc thẩm định kiến thức-kĩ năng ngay từ địa lí đại cương
có liên quan như khối lớp 6; Tự nhiên khu vực Châu Á(nhất là khu vực Đông
Nam Á), tự nhiên Việt Nam khối lớp 8; Địa lí dân cư, kinh tế chung Việt Nam,
địa lí các vùng kinh tế Việt Nam ở khối 9… Thực ra đó hoàn toàn là những kiến
thức các em đã được học và ôn luyện. Tuy nhiên, qua thời gian dài(nhất là địa lí
đại cương lớp 6) với cách học thuộc, học tủ để thi như nhiều năm trước thì bản

chất của môn khoa học địa lí sẽ không có dấu ấn trong tâm trí của học sinh, chứ
chưa nói đến việc học sinh ham thích bộ môn khoa học rất gắn liền với thực tế
cuộc sống cũng như đây là một phần hành trang quan trọng để các em bước vào
đời. Qua thực tế đã dạy nhiều năm ôn luyện đội tuyển dự thi học sinh giỏi cấp
tỉnh, ban đầu trao đổi với các em về kiến thức đã học cũng như hiểu biết của các
em, thì cơ bản là các em chỉ nhớ, thuộc nhưng thể hiện cũng như giải thích còn
mơ màng….
Vì vậy, đặt ra cho người thầy trong quá trình ôn luyện vừa phải giúp cho
học sinh nắm vững kiến thức kĩ năng cơ bản, vừa phải chuyên sâu nâng cao
kiến thức và kĩ năng làm bài, không có gì hơn là cùng với học sinh và tạo cho
học sinh có hứng thú say mê, yêu thích bộ môn. Bên cạnh đó, cần có sự phối
hợp, chia sẻ, động viên cùng với giáo viên dạy bộ môn địa lí của các em ở
trường cơ sở; chính các thầy cô đã giúp và làm nền tảng cho đội tuyển dự thi
cấp tỉnh. Bằng cách như vậy, có thể vừa đạt được hiệu quả trong khi ôn luyện,
hiệu quả trong việc hợp tác của các thầy cô, vừa mở ra chân trời tươi sáng cho
các em, là một trong những hành trang hiểu biết quan trọng cho tương lai các
em trưởng thành và hội nhập.
Đó là mục đích đề ra của bản thân chúng tôi khi nhận nhiệm vụ giảng
dạy và ôn luyện đội tuyển học sinh giỏi môn Địa lí khối 9 dự thi học sinh giỏi
cấp tỉnh trong nhiêu năm nay.
7
* Tuyển chọn học sinh thông qua khả năng học tập bộ môn:
- Khả năng tích tụ kiến thức cần thiết một cách tích cực, chủ động thông minh
sáng tạo trong tư duy, có trăn trở với các bài tập, lý thuyết từ đó tìm ra mối liên
hệ của bài giảng của các quy luật vốn có mà không phải học vẹt, nhớ bài một
cách máy móc.
- Khả năng thực hiện các kỹ năng: Xử lý, phân tích bảng số liệu, thống kê, đọc
được bản đồ, biểu đồ từ đó tìm ra mối quan hệ giữa chúng với nhau. Đó là các
mối quan hệ nhân – quả giữa hiện tượng tự nhiên với kinh tế – xã hội, giữa tự
nhiên với tự nhiên, giữa kinh tế – xã hội với nhau. Khi phân tích số liệu phải

biết làm sinh động các con số đó thông qua việc so sánh, đánh giá nó để rút ra
những nhận xét cần thiết.
- Khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề, đây là khả năng quan trọng
thể hiện rõ nét để chọn học sinh giỏi địa lý.
- Học sinh có khả năng tư duy, sáng tạo và nhanh nhạy trong tiếp thu kiến thức,
phán đoán và xử lý vấn đề.
- Phải có ý thức thu thập thêm tài liệu ở sách(có cả tài liệu nâng cao cần tham
khảo như địa lí nâng cao lớp 12) báo, phương tiện thông tin đại chúng… Rồi
sau đó biết xử lý, phân tích tài liệu nhất là với các bài tập, trao đổi với thầy, với
bạn để tìm ra kết quả tốt nhất.
- Giáo viên thường xuyên chú ý bài làm kiểm tra của học sinh về cách trình
bày, phải biết cách diễn đạt cho rõ ràng, chính xác, tránh tẩy xóa, trình bày câu
chữ lộn xộn, không logic. Từ đó, giáo viên đánh giá được khả năng biết, hiểu
và vận dụng kiến thức của học sinh.
- Giáo viên chú ý đến học sinh trong quá trình giảng dạy trên lớp, qua các bài
kiểm tra. Có nhiều bài kiểm tra để kiểm điịnh chất lượng học ôn của các em.
Song, thông thường có 3 bài kiểm tra có tính chất tuyển chọn với thời gian làm
bài từ 120 phút đến 150 phút(Thường thì 2 bài đầu tiên, giáo viên tự kiểm tra,
bài cuối cùng do chuyên viên phòng giáo dục ra đề và đáp án ). Qua mỗi bài
học sinh đều được giáo viên trao đổi trực tiếp những thế mạnh cần phát huy, và
khiếm khuyết cần khắc phục để vươn lên.
- Cuối đợt tuyển chọn, dựa vào sự nổ lực cố gắng trong quá trình học tập của
các em, cùng với các con điểm đạt được qua các lần kiểm tra; giáo viên dễ dàng
lựa chọn được đội tuyển chính thức, một cách công bằng và hiệu quả cao.
3. Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi:
8
3.1. Về kiến thức:
Với tình hình thực tế về chất lượng của đội dự tuyển ôn thi học sinh giỏi
cấp tỉnh môn địa lí hằng năm của huyện nhà. Giáo viên cần phải chuẩn bị các

nội dung về kiến thức ôn luyện như sau:
* Nội dung kiến thức chủ yếu bồi dưỡng đội tuyển bao gồm kiến thức đại cương
khối lớp 6; Tự nhiên khu vực Châu Á(nhất là khu vực Đông Nam Á), tự nhiên
Việt Nam khối lớp 8; Địa lí dân cư, kinh tế chung Việt Nam, địa lí các vùng
kinh tế Việt Nam…. Đối với học sinh giỏi, cần nắm kiến thức cả theo chiều rộng
lẫn chiều sâu để đến thời điểm thi học sinh giỏi cấp tỉnh là phải hoàn thành xong
chương trình.
* Trong quá trình bồi dưỡng, cần:
- Củng cố kiến thức cơ bản, nhấn mạnh kiến thức trọng tâm, kiến thức được vận
dụng cho việc giải quyết các vấn đề mới, ngay cả những bài trong sách giáo
khoa với những vấn đề mà học sinh còn mơ hồ, chưa hiểu.
- Soạn các chuyên đề nâng cao như hệ quả các chuyển động của Trái đất, kinh
vĩ tuyến – tọa độ địa lí ở khối lớp 6; Địa lý khu vực Đông Nam Á, tự nhiên Việt
Nam ở khối lớp 8(phần địa hình, khí hậu, thủy năng sông suối, đất đai và tài
nguyên thiên nhiên); Địa lý dân cư, địa lí các ngành kinh tế chung và địa lí các
vùng kinh tế của nước ta; Cách nhận dạng biểu đồ để vẽ và phân tích…ở khối
lớp 9.
Mặc dù, những năm gần đây các đề thi học sinh giỏi cấp tỉnh ở tỉnh ta chỉ
tập trung vào nội dung của địa lí lớp 9. Tuy nhiên kiến thức cũng như kĩ năng sẽ
tổng hợp và phức tạp hơn… Vì vậy, như đã nói ở phần thực trạng của bộ môn
như trên; người thầy cần giúp học sinh nắm rõ kiến thức liên quan để để làm nền
chuyên sâu kiến thức, đồng thời cũng để học sinh thấy được giá trị hơn về môn
khoa học này. Từ đó, khi ôn đến chương trình lớp 9, học sinh sẽ hiểu bản chất
hơn, ham thích và biết cách học hơn, hiệu quả ôn luyện sẽ cao hơn nhiều.
3.2. Về kĩ năng và thái độ:
Đây là yêu cầu quan trọng khi bồi dưỡng học sinh giỏi cho đội tuyển, nó thể
hiện rõ tính đặc trưng của bộ môn. Vì thế, trong đề thi học sinh giỏi rất chú
trọng đến yêu cầu này. Cho nên giáo viên cần rèn luyện học sinh có ý thức, thái
độ tự học cũng như hợp tác trong quá trình học, và thành thạo những kĩ năng
sau:

- Kĩ năng sử dụng bản đồ, atlas.
+ Đọc và khai thác tốt các đối tượng, hiện tượng địa lý trên bản đồ(chủ yếu là
9
trong sách giáo khoa và trong atlas địa lí Việt Nam).
+ Xác định được các mối quan hệ giữa các đối tượng, hiện tượng địa lý trên
bản đồ.
+ Trong việc khai thác bản đồ, atlas cần khả năng vận dụng kiến thức đã học
với khả năng tư duy, sáng tạo để giải quyết vấn đề
* Đặc biệt là phải sử dụng thành thạo atlas địa lý Việt Nam. Trong đề thi học
sinh giỏi các năm thí sinh đều được sử dụng atlas, và có những câu trực tiếp liên
quan đến atlas địa lý Việt Nam. Ví dụ: Đề thi học sinh giỏi địa lí tỉnh Thanh
Hóa năm học 2012-2013, thi ngày 25-3-2013
+ Ghi ở cuối tờ giấy thi (Thí sinh được sử dụng Atlat Địa lí Việt Nam từ năm
2008 đến nay)
+ Hay, ý 1 câu 3 là: Về kinh tế, vùng trung du và miền núi Bắc Bộ có những
thế mạnh nào? Tại sao nói việc phát huy các thế mạnh của vùng này có ý nghĩa
kinh tế-chính trị-xã hội sâu sắc? Thì việc sử dụng thành thạo atlas địa lý Việt
Nam thí sinh có thể tìm và khai thác nhanh được các thế mạnh theo từng nhóm
ngành hay từng ngành kinh tế thể hiện trên aslat bởi các đối tượng địa lí như tên
khoáng sản, loại cây công nghiệp và địa danh có các sản phẩm này…
- Kĩ năng phân tích bảng số liệu
+ Cần phân tích bảng số liệu theo hàng ngang, hàng dọc, không bỏ sót số liệu
để rút ra được nhận xét thể hiện được bản chất của hiện tượng, đồng thời sự biến
động của đối tượng theo thời gian hoặc so sánh các đối tượng địa lý.
+ Cần cho học sinh làm nhiều bài tập với nhiều dạng khác nhau để tạo được
kĩ năng thành thạo.
- Kĩ năng vẽ và phân tích biểu đồ.
+ Học sinh qua ôn thi học sinh giỏi cấp huyện đã có kiến thức cơ bản về biểu
đồ; Giáo viên cũng phải cần kiểm tra lại và cung cấp kiến thức, cũng như rèn kĩ
năng cho học sinh phân biệt cách nhận dạng các biểu đồ mà đề cho, kĩ năng lấy

tỉ lệ, kẽ, vẽ cho chính xác, khoa học và nhanh chóng.
+ Phân biệt mỗi dạng biểu đồ đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng,
nên phải biết cách chọn thích hợp. Đồng thời, biết cách phân tích biểu đồ theo
yêu cầu của đề bài, qua số liệu đề bài đã cho, và dựa vào biểu đồ vừa được vẽ
chính xác nói trên.
- Kĩ năng tính toán.
+ Đây là kĩ năng cần thiết và phổ biến nên đối với đội tuyển học sinh giỏi
phải thành thạo kĩ năng này.
10
+ Để tính toán học sinh cần nắm vững các công thức, biến đổi các công thức.
Tất nhiên, không phải câu hỏi chỉ đơn thuần là xử lý ngay mà cần phải biết biến
đổi.
+ Các nội dung thường gặp là tính mật độ dân số, bình quân lương thực trên
đầu người, tính bán kính đường tròn(thể hiện cơ cấu qui mô năm sau so với năm
trước), xử lý lại số liệu để vẽ biểu đồ, nhận xét bảng số liệu…
- Kĩ năng làm việc với hình vẽ, tranh ảnh địa lý:
+ Thật ra thì chính bản thân hình vẽ, tranh ảnh địa lý chứa đựng nguồn tri
thức địa lý quan trọng, đồng thời phương tiện để minh họa cho đối tượng địa lý
cần làm rõ.
+ Khi rèn luyện cho học sinh cần kết hợp thường xuyên trong truyền đạt kiến
thức hoặc thông qua các bài tập cụ thể về hình ảnh, hình vẽ, hoặc dựa vào tranh
ảnh hình vẽ trong atlas để khai thác kiến thức.
- Kĩ năng thể hiện kiến thức, khai thác kiến thức cùng các bạn trong đội
tuyển và kĩ năng làm việc nhóm:
Đây là phần mà các em rất thích thể hiện, mặc dù lâu nay rất ít thầy cô giúp
các em. Tìm hiểu qua các em, thì cơ bản là các thầy cô chỉ “truyền một chiều”
đó là “hỏi - đáp, giảng giải, phân tích và học thuộc cũng như làm đề và xem đáp
án”; tìm hiểu qua các thầy, cô thì có sự trao đổi là “Nếu làm như vậy sẽ rất khó
và mất thời gian, mà không hiệu quả lắm”. Ở đây, tôi chỉ bàn đến việc là làm sao
để các em tự thể hiện được kiến thức, kĩ năng của mình trước các bạn trong đội

tuyển, để làm tăng sự tự tin về khả năng học tập của mình nói chung và bộ môn
địa lí nói riêng. Nếu như thực tế trên thì lúc đầu các em còn lúng túng, chưa đủ
tự tin về cách giao tiếp kiến thức của mình. Người thầy phải cùng với các em và
giúp các em thể hiện được kĩ năng này. Điều này rất phù hợp với tâm lí lứa tuổi
học sinh, tạo không khí học vui vẻ; kích thích được việc tự học, tự tìm hiểu và
ham học hỏi của các em. Với phương pháp như vậy, chỉ trong thời gian ngắn,
các thành viên trong đội dự tuyển địa lí đua nhau tự học, hợp tác và tự thể hiện
trước thầy và bạn. Việc phát lộ ra khả năng, năng lực cũng như sự quyết tâm của
mỗi một em. Từ đó, việc chọn đội tuyển chính thức sẽ dễ dàng, và khả năng đạt
giải với kết quả sẽ tốt hơn.
- Hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng tiếp cận đề thi và làm bài:
+ Rèn kĩ năng hiểu và phân tích đề thi, nhằm tránh lạc đề, dẫn đến việc giải
quyết các câu hỏi không trọng tâm, câu thì dài quá, câu thì sơ sài, học sinh phải
biết nhận định đề nhanh, chính xác và phát triển tư duy sáng tạo.
11
+ Khi đọc đề, học sinh cần chú ý nội dung hỏi, dung lượng kiến thức trả lời,
số điểm cho từng câu để phân phối thời gian làm bài cho phù hợp.
Thí dụ: Đề thi hàng năm thường có câu vẽ biểu đồ thích hợp nhất, câu này
thường là câu cuối cùng và chiếm khá nhiều điểm(từ 5-6 điểm trên số tổng là 20
điểm của đề cho). Vì thế, việc đầu tiên là đọc kĩ đề để xác định đúng loại biểu
đồ(thích hợp nhất); sau đó, xem xét để vẽ biểu đồ một cách khoa học, chính xác
và đẹp nhất, viết tên biểu đồ, chú thích cẩn thận…(nếu cần có thể vẽ nháp để
tránh việc “vạch” lấy số liệu ở các cột chưa được khoa học, không đẹp…). Phần
vẽ biểu đồ phải chiếm điểm tối đa(thường 2-3 điểm). Cũng như thế, phần nhận
xét biểu đồ cần nhận xét theo đúng yêu cầu của đề(qui mô hay cơ cấu) và chú ý
đến sự biến động qua số liệu đề cho và biểu đồ đã vẽ để nhận xét cho hiệu quả
để có điểm tuyệt đối. Và dĩ nhiên rằng, câu nào bản thân các em nắm tốt được
thì nên làm trước, và hãy cẩn thận để tránh sai sót… Như vậy, kĩ năng đọc kỹ đề
thi trước khi làm bài, có ý nghĩa quan trọng với kết quả bài thi.
+ Rèn kĩ năng lập đề cương sơ lược về cách ôn tập từng bài học, đề thi và

thể hiện trước thầy và bạn: Học sinh phải biết cách “vạch ý” khi học bài cũng
như nghiên cứu trả lời các câu trong đề. Kĩ năng này vô cùng quan trọng; nó
giúp cho các em học hiểu hơn, không bỏ sót kiến thức. Đặc biệt là thực hiện tốt
kế hoạch học tập một cách chủ động, làm bài thi một cách nghiêm túc, khoa học
và chính xác. Trong quá trình ôn luyện, tôi thường mời từng em thể hiện kĩ năng
này. Có sự nhận xét, góp ý, đánh giá của thầy và bạn một cách rõ ràng, nghiêm
túc và thân thiện. Các em thấy mình được tôn trọng, và càng thể hiện được sự tự
tin cũng như dần dần vững vàng về kiến thức
- Chấm và sửa bài:
+ Đối với các em học sinh giỏi, khi chấm bài giáo viên phải chỉ ra được
điểm mạnh, yếu cơ bản của mỗi bài; theo dõi và động viên kịp thời mức độ tiến
bộ của mỗi học sinh trong từng bài viết. Như đã nói ở trên là giáo viên phải lập
nhật ký chấm bài với học sinh đội tuyển; nhận xét từng câu, từng phần làm việc
đối với từng em một(có sự phản hồi từ các em). Cách làm này sẽ làm cho các em
hứng thú tìm tòi trong học tập và từ đó phát huy được năng lực của từng em.
+ Khi chấm, giáo viên phải chỉ ra các lỗi cụ thể về dùng từ, viết câu, tổ chức
ý phân tích cho học sinh hiểu nguyên nhân và định hướng cách chữa để học
sinh có thể tự sửa chữa các lỗi của mình.
+ Và để tạo hứng thú và ham thích, đồng thời cũng rèn kĩ năng hiểu cách
phân tích đề, năm kiến thức nhiều lần và sâu sắc, giáo viên thường phân tích đáp
12
án, đồng thời tổ chức hướng dẫn học sinh chấm bài cho nhau. Đây là kĩ năng rất
quan trọng vào giai đoạn ôn luyện đề thi. Đến trình độ này, ta có thể yên tâm về
kiến thức cũng như kĩ năng làm bài khi thi học sinh giỏi cấp tỉnh môn Địa lí 9
của học sinh, về số lượng cũng như chất lượng giải đạt được. Quan trọng hơn,
qua quá trình ôn thi và kết quả gặt hái được trong kì thi học sinh giỏi, học sinh
hiểu thêm nhiều về vai trò và lợi ích của môn Địa lí(môn học mà các quốc gia
phát triển rất coi trọng) trong việc định hướng phương pháp học tập và chọn
ngành nghề sau này, khi mà nước ta đang trên đà phát triển và hội nhập với thế
giới.

4. Kiểm nghiệm:
Bản thân trước đây là giáo viên, từng có học sinh tham dự đội tuyển dự thi
cấp tỉnh và đều có giải. Từ năm học 2008-2009, được lãnh đạo phòng GD&ĐT
Thiệu Hóa giao nhiệm vụ ôn luyện đội tuyển môn Địa lí, dự thi cấp tỉnh. Bằng
sáng kiến và kinh nghiệm của mình, thông qua học hỏi, tự học tự bồi dưỡng, rút
kinh nghiệm và kiểm nghiệm qua thực tế giảng dạy. Vận dụng sáng tạo những
kinh nghiệm nêu trên, đã đưa đến kết quả:
Bảng theo dõi học sinh ôn thi học sinh giỏi cấp tỉnh môn Địa lí từ năm học
2008-2009 đến năm học 2012-2013(huyện Thiệu Hóa).
Năm học
Số
học
sinh
đội dự
tuyển
Số học
sinh đi
học ôn
không
đều.
Số học
sinh bỏ
học ôn.
Số học
sinh
đội
tuyển
chính
thức
Loại giải và số lượng đạt

được ở cấp tỉnh
2008-2009 21 1 1 10 02 giải Ba; 04 giải khuyến
khích
2009-2010 20 0 0 10 02 giải Nhì; 04 giải Ba; 03
giải khuyến khích
2010-2011 18 0 0 10 03 giải Nhì; 04 giải Ba; 02
giải khuyến khích
2011-2012 20 0 0 10 01 giải Nhất; 03 giải Nhì;
04 giải Ba; 02 giải khuyến
khích
2012-2013 17 0 0 10 02 giải Nhì; 02 giải Ba; 02
giải khuyến khích
13
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT:
I. Kết luận:
Thực tế giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi trong nhiều năm qua, giúp
tôi nhận ra rằng: Học sinh có năng lực, có trình độ và năng khiếu là hết sức quan
trọng. Song trên thực tế, không có một tài năng nào tự nó có thể đi đến thành
công. Môn Địa lí, khi đang còn nhìn nhận là “môn phụ” chưa thu hút được học
trò ngay từ các trường cơ sở, thì vai trò người thầy là rất quan trọng. Những hệ
thống tri thức của môn địa lí, con đường tiếp nhận tri thức và cả những hứng
thú, không ai có thể làm thay được người thầy. Vì vậy, người thầy cần tâm
huyết, phát huy hết khả năng, năng lực, trí tuệ; để thu hút học trò đam mê học
tập một cách chủ động và sáng tạo.
Thực tế, ở đâu cũng vậy; muốn có học sinh giỏi, trước hết người thầy phải
luôn có ý thức tích luỹ tri thức và rút kinh nghiệm giảng dạy một cách nghiêm
túc,và phải là người thầy, cô dạy giỏi thực sự. Điều kiện của giáo viên địa lý
trung học cơ sở rất hạn hẹp, của học sinh càng khó khăn hơn. Chỉ có sự say mê,
nghiêm túc; những kiến thức thực sự bổ ích từ thầy, cô mới là nguồn truyền cảm
hứng đến cho học sinh, khiến học sinh cố gắng tham gia đội tuyển, rồi yêu thích

bộ môn địa lí để tự giác học, hỏi, trao đổi và đam mê, sẽ đạt thành tích. Người
giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi phải có tinh thần tự học suốt đời, không
ngừng tìm tòi, học tập, nghiên cứu tài liệu, cập nhật những kiến thức, thông tin
trên tất cả các lĩnh vực qua báo, đài, Internet, thực tiễn cuộc sống … để phục vụ
cho việc bồi dưỡng. Do đó, đòi hỏi sự nỗ lực, cố gắng của người thầy là rất lớn.
Trong đó, sự nhạy cảm trong phát hiện năng khiếu học sinh, phương pháp bồi
dưỡng luôn là yếu tố hàng đầu để có được thành công.
Tuy nhiên, với vai trò là người giáo viên bồi dưỡng bản thân chưa thật sự
hài lòng với kết quả trên. Vì tuy hàng năm có học sinh đạt giải cấp huyện, tỉnh
nhưng số lượng học sinh đạt giải tuy khá nhiều; song số lượng học sinh đạt giải
cao thì chưa nhiều. Do vậy, trong những năm học tiếp theo bản thân sẽ không
ngừng tổng kết, rút kinh nghiệm, không ngừng học hỏi để công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi ngày càng ổn định, phát triển theo hướng bền vững.
II. Đề xuất:
Việc bồi dưỡng HSG là cả quá trình lâu dài, nếu đội tuyển thành lập càng
sớm thì việc bồi dưỡng càng thuận lợi vì học sinh có thời gian mà ngấm được
kiến thức. Vì vậy, ngay từ trường cơ sở, các thầy cô phụ trách bộ môn địa lí cần
14
có kế hoạch cụ thể: Từ việc phối hợp với chuyên môn nhà trường để lựa chọn
được nhân tố đầu vào phù hợp và cần thiết theo yêu cầu chính đáng của bộ môn,
cũng như nguyện vọng của bản thân các em mong muốn được tham gia đội
tuyển. Đến việc chuẩn bị nội dung và kế hoạch thời gian ôn luyện, sao cho hài
hòa với điều kiện học tập của các em.
Việc bồi dưỡng tập trung trong thời gian ngắn, học dồn ép sẽ hạn chế
hiệu quả. Như lớp 9 đầu năm học mới chọn được vào đội tuyển thì tháng 12 thi
học sinh giỏi cấp huyện. Sau đó, những em được lựa chọn vào đội tuyển sẽ học
ôn trong 25-28 buổi tập trung. Với khoảng nửa thời gian đầu học 2 buổi trên
tuần, nửa thời gian sau học 3-4 buổi trên tuần. Và đến khoảng gần cuối tháng 3,
thì thi học sinh giỏi cấp tỉnh. Như vậy, sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc bồi
dưỡng do thời gian quá hạn hẹp; các em còn phải học các môn khác, như những

bạn của mình tại trường cơ sở. Chất lượng đội dự tuyển môn địa lí(như đã nói ở
trên) như thế, sẽ khó lựa chọn được đội tuyển chính thức một cách yên tâm, để
cho kết quả cao được.
Để có hiệu quả cao hơn, bản thân xin có một số đề nghị như sau:
* Đối với phòng GD&ĐT Thiệu Hóa:
- Có kế hoạch cho đội dự tuyển ôn thi học sinh giỏi cấp tỉnh ôn luyện sớm
hơn thường niên từ 2-3 tuần. Vừa “giản" được thời gian cho việc học tập của các
em, lại không gây sức ép trong quá trình ôn luyện, vừa ngấm được kiến thức, rèn
tốt được kĩ năng. Có như vậy, hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi dự thi cấp tỉnh
của huyện nhà sẽ cao hơn!
- Chỉ đạo hiệu quả cho các trường THCS có học sinh tham gia các lớp dự tuyển
ôn thi học sinh giỏi cấp tỉnh, để cho giáo viên tại các trường tiếp tục ôn luyện
cho học sinh của mình; trên cơ sở phối hợp, hợp tác với các giáo viên phụ trách
đội tuyển ôn thi học sinh giỏi dự thi cấp tỉnh tập trung trên huyện. Sự hợp tác
này vừa mang tính chất giao lưu về chuyên môn vừa có hiệu quả cao trong việc
giúp các em trong đội tuyển học và thi có chất lượng mong muốn.
Đây cũng là tâm sự chung của các thầy cô ôn thi đội tuyển của huyện
nhà nói chung, và cũng đã đề xuất với lãnh đạo Phòng GD&ĐT Thiệu Hóa
nhiều năm qua.
* Đối với các nhà trường THCS có học sinh tham gia ôn thi học sinh giỏi cấp
tỉnh.
15
- Thực hiện hiệu quả sự lãnh chỉ đạo của Phòng GD&ĐT Thiệu Hóa trong việc
ôn thi học sinh giỏi cấp tỉnh, thông qua việc chỉ đạo giáo viên phụ trách tiếp tục
ôn luyện, giúp đỡ, động viên các em được tham gia đội dự tuyển và đội tuyển ở
các môn học nói chung và môn Địa lí nói riêng một cách hiệu quả nhất.
- Tăng cường mọi nguồn lực có thể có được, kể cả việc xã hội hóa giáo dục; để
“khuyến dạy, khuyến học” vừa hỗ trợ về tinh thần lẫn vật chất cho các thầy, cô
cũng như các em tham gia ôn thi học sinh giỏi các cấp trong đó có việc ôn thi
học sinh giỏi cấp tỉnh. Thiết nghĩ, vấn đề này là vô cùng quan trọng. Vì vừa tạo

được phong trào giáo dục một cách bền vững cho nhà trường, cho địa phương;
và để cho “Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia” như lời của Tiến sỹ Thân Nhân
Trung thời Hậu Lê đã được lưu danh hậu thế.
Trên đây là một số kinh nghiệm phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi
của bản thân tôi được đúc kết và rút ra từ thực tế giảng dạy và bồi dưỡng học
sinh giỏi suốt trong nhiều năm qua. Có thể những điều này không còn mới mẻ
với những đồng nghiệp có bề dày kinh nghiệm, nhưng với tôi, đó là những điều
tôi tâm đắc và bước đầu đã có được những thành công. Rất mong nhận được sự
đóng góp chân thành của các đồng nghiệp, để tôi có thể tiếp tục làm tốt công
việc này trong những năm học tiếp theo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 30 tháng 3 năm 2014
“Tôi xin cam đoan: Đây là sáng kiến kinh nghiệm
của tôi. Có gì sai tôi xin chịu hoàn toàn trách
nhiệm”
Người thực hiện
ĐỖ XUÂN OÁNH
16
MỤC LỤC
Mục Nội dung Trang
A. ĐẶT VẤN ĐỀ. 1
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. 2
I. Cơ sở lí luận. 2
II. Thực trạng của vấn dề. 3
III. Giải pháp và tổ chức thực hiện. 5
1. Xây dựng kế hoạch cụ thể trong công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi:
5
2. Một số kinh nghiệm trong công tác tuyển chọn học sinh trong đội

dự tuyển để có đội tuyển chính thức:
6
3.
Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi:
8
3.1. Về kiến thức: 8
3.2. Về kĩ năng và thái độ: 9
4. Kiểm nghiệm: 13
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT; 14
I. Kết luận: 14
II. Đề xuất: 14
17

×