Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Triết học phương Tây hiện đại với những hạn chế của triết học duy lý truyền thống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.56 KB, 16 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN MỞ ĐẦU
Chúng ta đã bước sang một thiên niên kỷ mới cùng với những cơ hội và
những thách thức mới. Loài người đã và đang đạt được những thành tựu to
lớn trong mọi lĩnh vực hoạt động sống của mình. Lần dầu tiên trong lịch sử
nhân loại, con người có được những tiền đề cần thiết cho sự phát triển toàn
diện. Nhiều mơ ước ngàn năm của con người đã được thực hiện. Chúng ta cần
phải cảm ơn khoa học tư duy duy lý về tất cả những điều tuyệt vời ấy. Nhưng,
thực tiễn lịch sử cũng cho chúng ta thấy cuộc sống của con người còn đầy rẫy
những vấn đề. Có cảm tưởng là con người ngày càng trở nên khó sống hơn,
càng mất tự tin hơn, thậm chí còn phải đối mặt với một sự không tự do lớn
hơn nữa, đối mặt với chính vấn đề về sự tồn vong của bản thân và của giống
nòi. Hóa ra khoa học, tư duy duy lý là cần thiết nhưng chưa đủ để đảm bảo
cho con người một cuộc sống hạnh phúc, toàn vẹn.
Đứng trước bối cảnh tiến bộ khoa học - kỹ thuật ngày một tăng nhanh,
triết học phương Tây hiện đại đã đặt ra và giải quyết những vấn đề hoàn toàn
mới mẻ so với triết học duy lý truyền thống. Lần đầu tiên triết học phương
Tây khám phá ra được trong con người có những “lực lượng bản chất” khác,
ngoài lý tính, mà cũng chi phối con người không kém gì “lý tính” của nó, nếu
không nói là chúng chủ yếu quy đinh lối ứng xử của con người trong đa số
trường hợp. Triết học phương Tây hiện đại cũng phát hiện ra rằng sự giải
phóng bên ngoài (xã hội, chính trị, kinh tế) là cần thiết nhưng chưa đủ để con
người có được tự do. Hơn nữa tự do của con người về thực chất, chủ yếu là
vấn đề có liên quan tới thế giới nội tâm con người. Vậy, con người cần phải
suy nghĩ và làm gì để trở thành người tự do, tức trở thành “Người” theo đúng
nghĩa của từ này? Triết học phương Tây hiện đại cố gắng đưa ra câu trả lời
cho vân đề của mọi vấn đề này.
Lớp CH/2009C1
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nh trên đã trình bầy có thể nói Triết học duy lý chính là cơ sở là nền tảng


lý luận của triết học phơng Tây hiện đại trên cơ sở các lý luận về khoa học , mặt
khác văn minh phơng Tây còn thể hiện trong việc tổ chức nhà nớc ( pháp ,
quyền, dân chủ ) mà hiện nay vần đuợc thừa nhận , bên cạnh đó các học thuyết
của Mác , lý thuyết để giải phóng con ngời cũng là văn minh phơng Tây . Qua
đó có thể thấy những thành tựu và văn minh phơng Tây không thể chối cãi đợc
xong ngời phơng Tây cũng không thể tránh khỏi một số nguy cơ có thể đe doạ
loài ngời , và nó cũng đã giải quyết đợc một số hạn chế của triết học duy lý
truyền thống , đó là lý do tôi chọn đề tài :
Triết học ph ơng Tây hiện đại với
những hạn chế của triết học duy lý truyền thống
để viết tiểu luận triết học
.
PHN NI DUNG
Lp CH/2009C1
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1-Bản chất của triết học duy lý:
"Chủ nghĩa duy lý" nhấn mạnh vai trò của lý trí con người. Chủ nghĩa
duy lý cực đoan tìm mọi cách để gán tất cả kiến thức con người lên nền tảng
độc nhất là lý trí. Kiểu lý luận điển hình của chủ nghĩa duy lý bắt đầu bằng
những tiên đề không thể chối cãi rành rọt được, để từ đó, bằng các bước logic,
diễn dịch ra mọi đối tượng kiến thức có thể có.
Parmenides (sinh năm 510 TCN) được cho là nhà triết học duy lý đầu
tiên, người đã tranh luận rằng việc suy nghĩ thực sự có xảy ra là không thể hồ
nghi, mà việc suy nghĩ phải có đối tượng suy nghĩ, do đó, một sự vật phải thật
sự tồn tại. Parmenides diễn dịch rằng những gì thật sự tồn tại phải có những
tính chất nhất định– thí dụ như, nó không thể bắt đầu tồn tại hoặc chấm dứt
tồn tại, nó là một chỉnh thể trọn vẹn, nó giữ nguyên bản chất vĩnh viễn (đúng
hơn là tồn tại hoàn toàn bên ngoài thời gian). Zeno (sinh năm 489 TCN) là
học trò của Parmenides, đã tranh luận rằng sự vận động là bất khả thi, và chứa

đựng sự mâu thuẫn.
Plato (427-347) cũng bị ảnh hưởng bởi Parmenides, nhưng ông đã kết
hợp chủ nghĩa duy lý với một dạng của chủ nghĩa hiện thực. Triết gia này đã
cất công xem xét sự tồn tại và bản chất của sự vật. Ông kết luận đặc tính của
những bản chất sự vật là chúng mang tính chung trên toàn cầu. Bản chất của
một con người, của một hình tam giác, của một cái cây có thể áp dụng cho tất
cả con người, tất cả hình tam giác và tất cả các loại cây. Plato tranh luận rằng
những bản chất này là những hình thái không phụ thuộc vào trí não, rằng con
người có thể biết đến chúng bằng lý trí và bằng cách làm ngơ trước những thứ
làm phân tâm do giác quan gây ra.
Chủ nghĩa duy lý hiện đại bắt đầu với Réne Descartes(1596-1690). Nghiền
ngẫm về bản chất của trải nghiệm tri giác, cũng như những khám phá khoa
học trong sinh lý học và quang học, Descartes (và cả John Locke) đã đi đến
quan điểm rằng chúng ta trực tiếp ý thức được ý nghĩ, chứ không phải sự vật.
Quan điểm này làm nảy sinh ba vấn đề.
1. Có phải các ý nghĩ là bản sao thực thụ của những sự vật, sự việc mà
chúng đại diện? Cảm giác không phải là sự tương tác trực tiếp giữa các
vật thể và ý thức của ta, mà nó là quá trình sinh lý bao hàm sự đại diện
(thí dụ như, một hình ảnh trên võng mạc). Locke nghĩ rằng một "tính
chất phụ", như cảm giác thấy màu xanh lục, không thể nào giống sự sắp
xếp các phân tử vật chất sinh ra cảm giác đó, dù là ông cũng nghĩ
"những tính chất chính" như hình dạng, kích thước, con số, thực sự có
trong các sự vật.
2. Ta vẫn chưa rõ làm thế nào những vật thể tự nhiên như bàn, ghế hoặc
ngay cả những quá trình sinh lý trong não bộ có thể sản sinh ra những
Lớp CH/2009C1
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thứ thuộc về tinh thần như ý nghĩ. Điều này là một trong những vướng
mắc của một vấn đề triết học nổi tiếng, vấn đề tinh thần-cơ thể.

3. Nếu tất cả những gì chúng ta ý thức được chỉ là ý nghĩ, vậy làm sao ta
có thể biết được có thứ gì khác tồn tại ngoài ý nghĩ ra?
Descartes nỗ lực giải quyết vấn đề cuối cùng bằng lý luận. Ông đã bắt
đầu bằng một nguyên lý mà ông nghĩ là không thể bắt bẻ hiệu quả được: Tôi
"biết suy nghĩ", do đó tôi "tồn tại". Từ nguyên lý này, Descartes tiến hành xây
dựng một hệ thống hoàn chỉnh về kiến thức (trong đó ông chứng minh sự tồn
tại của Thượng Đế, bằng một dạng bản thể luận). Quan điểm của ông đã thu
hút được những triết gia như Baruch Spinoza, Gottfried Leibniz và Christian
Wolff.
Nói chung, chủ nghĩa duy lý thường đối lập, một học thuyết dựa trên cơ sở
kiến thức về năm giác quan của con người chúng ta. với chủ nghĩa kinh
nghiệm John Locke, một triết gia theo chủ nghĩa kinh nghiệm đầu tiên của
Anh quốc, đưa ra quan điểm chủ nghĩa kinh nghiệm cổ điển trong tác phẩm
An Essay Concerning Human Understanding vào năm 1689, phát triển một
dạng tự nhiên chủ nghĩa và kinh nghiệm chủ nghĩa trên cơ sở các nguyên tắc
gần như khoa học.
Trong suốt kỷ nguyên này, những ý tưởng tôn giáo đóng vai trò hỗn hợp trong
những nỗ lực của triết học thế tục. Bài phản bác nổi tiếng của giám mục
Berkeley bài xích Isaac Newton theo cách của chủ nghĩa lý tưởng là một thí
dụ về một triết gia trong trào lưu Khai Sáng, (một giai đoạn trong lịch sử). Họ
đúc kết khá nhiều từ những ý tưởng tôn giáo. Các triết gia tôn giáo có sức ảnh
hưởng khác gồm có Blaise Pascal, Joseph Butler và Jonathan Edwards.
Những triết gia lớn khác như Jean-Jacques Rousseau và Edmund Burke, đã
chọn con đường hơi khác. Việc nhiều triết gia thời bấy giờ chỉ tập trung quan
tâm những vấn đề được giới hạn đã dự báo cho sự phân chia ra và chuyên
môn hoá nhiều lĩnh vực triết học trong thế kỷ 20.
Trong số các nhà triết học vĩ đại nhất, không thể không kể tới Gióocgiơ
Vinhem Phriđrích Hêgen (1770-1831) - người đã cùng Lút vích Phoiơbăc và
các nhà triết học Đức đương thời khác tạo ra một trong những tiền đề lý luận
cần thiết cho việc hình thành chủ nghĩa Mác. Không chỉ là đại biểu tiêu biểu

của nền triết học cổ điển Đức, Hêgen đã đem lại cho triết học địa vị vốn có và
sứ mệnh cao cả của nó trong đời sống tinh thần nhân loại. Với những luận cứ
sâu sắc và có cơ sở khoa học, Hêgen đã làm sáng tỏ đối tượng, chức năng và
phương pháp của triết học, mối quan hệ của triết học với các khoa học khác
và qua đó, trình bày một cách khúc chiết, đúng đắn bản chất của triết học
Gần 2 thế kỷ đã trôi qua kể từ khi hệ thống triết học Hêgen ra đời, song
ảnh hưởng của nó trong đời sống tinh thần nhân loại vẫn không ngừng tăng
Lớp CH/2009C1
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lên. Bởi lẽ, như Ph.Ăngghen đã khẳng định: "Hệ thống Hêgen bao trùm một
lĩnh vực hết sức rộng hơn bất cứ hệ thống nào trước kia, và phát triển, trong
lĩnh vực đó, một sự phong phú về tư tưởng mà ngày nay người ta vẫn còn
ngạc nhiên... Vì Hêgen không những chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn là
một nhà bác học có tri thức bách khoa nên những phát biểu của ông tạo thành
thời đại... Nếu… đi sâu hơn nữa vào trong toà nhà đồ sộ, người ta sẽ thấy
trong đó có vô số những vật qúy giá đến nay vẫn còn giữ được toàn bộ giá trị
của chúng... Nói chung, với Hêgen, triết học đã đi đến điểm tận cùng, một mặt
vì trong hệ thống của ông, ông đã tổng kết một cách hết sức hùng vĩ toàn bộ
sự phát triển của triết học và mặt khác, vì Hêgen, dù không có ý thức, cũng đã
chỉ cho chúng ta con đường thoát khỏi cái mớ bòng bong những hệ thống triết
học để đi tới sự nhận thức thực sự tích cực về thế giới".
Trong suốt chiều dài lịch sử của mình, nhân loại đã lập nên biết bao
chiến công hiển hách kể từ ngày Hêgen trở về cõi vĩnh hằng. song nó cũng đã
phải hứng chịu biết bao tổn thất nặng nề. Một trong các nguyên nhân gây nên
những tôn thất ấy là do chúng ta đã hành động mà thiếu một tư duy tỉnh táo và
trước hết là thiếu một tư duy mang đậm sắc thái nhân văn - tư duy triết học, tư
duy luôn đặt con người, số phận và khát vọng về tự do của nó lên hàng đầu.
Điều đó cho thấy, nhân loại không thể sống thiếu triết học với bản chất nhân
đạo vốn có của nó. Và hơn ai hết, chính Hêgen là nhà triết học đầu tiên không

những đã ý thức được và nói rõ bản chất nhân đạo ấy của triết học, mà còn
luận chứng cho nó một cách sâu sắc và khoa học. Với Hêgen, đấu tranh cho
triết học là đấu tranh vì con người và ngược lại, phủ nhận hay khinh thường
triết học là triệu chứng của một căn bệnh hiểm nghèo - bệnh thiếu tinh thần.
Ở đây, một lần nữa, nguyên lý về sức mạnh tuyệt đối của lý tính vẫn
được Hêgen coi là nguyên lý xuất phát để giải quyết mọi vấn đề khác. Chính
lập trường duy lý cực đoan đó đã tạo ra cả ưu điểm lân khuyết điểm của triết
học Hêgen. "Lập trường triết học duy lý chủ nghĩa, đã cho phép Hêgen tạo
dựng được một quan niệm chứa đựng rất nhiều hạt nhân hợp lý về bản thân
triết học với tư cách một quá trình lịch sử có biện chứng riêng của mình.
Hêgen quan niệm hệ thống triết học của ông là sự kế thừa và "vượt bỏ " tất cả
các hệ thống triết học trước đó. Và đây là một đóng góp to lớn của Hêgen.
Nhưng tuân thủ nguyên lý vê sức mạnh tuyệt đối của lý tính với tư cách bản
nguyên của mọi tồn tại, với tư cách cái tự triển khai và tự nhận thức mình
trong tiến trình phát triển lịch sử, Hêgen đã có một quan niệm bao chứa không
ít những hạn chế về bản chất của triết học, về quá trình hình thành triết học
với tư cách một khoa học".
2-Quá trình phát triển của Triết học Phương tây hiện đại
Lớp CH/2009C1
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chúng ta có thể khái quát lại tiến trình lịch sử triết học phương Tây ở
cuối thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XX như sau:
Đây là tổng hợp những tư tưởng và khuynh hướng triết học xuất hiện
sau khi lịch sử trực tiếp của triết học kinh điển Đức đã kết thúc cùng với sự ra
đi của Hegel. Có thể nói, trường phái Hegel một thời gian đã tồn tại và có ảnh
hưởng đáng kể đến diện mạo triết học phương Tây vì nó là đỉnh cao của triết
học duy lý đã từng thống trị vài thế kỷ trong nền văn hóa phương Tây nói
chung và triết học phương Tây nói riêng. Nhưng nó đã buộc phải nhanh
chóng rời khỏi diễn đàn triết học. Điều đó diễn ra một phần do có những bất

đồng tư tưởng gay gắt ở bên trong bản thân thuyết Hegel, do có sự xuất hiện
các khuynh hướng triết học mới ở bên trong nó, lúc đầu chúng có quan hệ mật
thiết với thuyết Hegel, nhưng sau đó đã trở nên độc lập.
Còn trước khi diễn ra sự tan rã trường phái Hegel, chúng ta có thể nhận
thấy sự tan rã ấy được quy định không những và không hẳn bởi những bất
đồng ở bên trong phong trào triết học do Hegel khởi xướng. Cái đóng một vai
trò quan trọng lớn hơn ở đây là việc tích cực không chấp nhận triết học Hegel
và ở một chừng mực nhất định là việc không chấp nhận triết học duy lý truyền
thống (kinh điển) tự thân nó. Các nhà tư tưởng lớn như A.Schopenhauer
(Sôpenhaoơ) và S.Kierkegaard (Kiếckơga), đã chứng tỏ rất rõ sự không chấp
nhận ấy ngay từ khi Hegel còn sống và ngay sau khi ông mất. Muộn hơn, vào
những thập niên cuối cùng của thế kỷ XIX, F. Nietzsche (Nitsê) đã nắm lấy
ngọn cờ phê phán, cải biến căn bản tư duy triết học kinh điển, đánh giá lại giá
trị của nó. Trong quá trình phân tích, có thể coi ba nhà triết học này là những
người khuấy động triết học cuối thế kỷ XIX. Họ đã mở ra con đường cho các
hệ chuẩn (paradigma) triết học tương lai, do vậy chúng ta bắt buộc phải đề
cập tới tư tưởng triết học của họ khi xem xét hàng loạt khuynh hướng triết học
phương Tây hiện đại.
Khuynh hướng thực chứng chủ nghĩa đã mở ra một mặt trận phê phán
khác đối với triết học kinh điển, nó không bác bỏ toàn bộ di sản của tư tưởng
triết học quá khứ mà chỉ chống lại thiên hướng “tư biện” (tức siêu hình học)
trong đó. Chủ nghĩa thực chứng thứ nhất ra đời ở thế kỷ XIX, sau đó nó trở
thành người tiên phong của các phong trào thực chứng chủ nghĩa tương lai
(chủ nghĩa thực chứng thứ hai và chủ nghĩa thực chứng thứ ba). Chủ nghĩa
thực chứng có ảnh hưởng đáng kể đến triết học, đến văn hóa loài người. Nó
chủ yếu bắt nguồn từ khoa học tự nhiên và từ triết học của khoa học tự nhiên;
nơi trú ẩn của nó ở cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX là sinh lý học và tâm -
sinh lý học. Tuy nhiên, một điều thú vị là phong trào “ủng hộ” siêu hình học
đã được kiện toàn trong các lĩnh vực này vào những năm 50-60 thế kỷ XX:
hàng loạt nhà khoa học tự nhiên và nhà triết học đã góp phần hình thành

phong trào chống thực chứng và phục hồi các truyền thống triết học cổ đại và
Lớp CH/2009C1
6

×