Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Nghệ thuật trần thuật truyện ngắn Hồ Anh Thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.83 KB, 104 trang )

Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Hồ Anh Thái thuộc vào số “các nhà văn nổi bật của thế hệ hậu chiến ở
Việt Nam” [6;437]. Ông sinh năm 1960. Từng tham gia quân đội, viết văn, làm
báo, tiến sĩ Đông phương học, từng được mời thỉnh giảng ở một số trường Đại
học Mỹ như Đại học tổng hợp Washington, là chuyên viên ở Bộ ngoại giao đã
từng được đi nhiều nơi nhưng Hồ Anh Thái vẫn thích sáng tác hơn. Ông tâm sự
“Tôi thích sáng tác hơn, thứ ngôn ngữ văn học không bị phủi bụi kinh viện quyến
rũ tôi. Những ý tưởng táo bạo, những cảm xúc mê đắm, những nhân vật sống
động, những tình huống khác lạ. . . vẫn làm tôi say mê hơn là những trang nghiên
cứu” và “viết văn tôi được giãi bày, tâm sự nhiều hơn” [Dẫn theo 87;1]. Chính
niềm đam mê ấy đã đem đến cho Hồ Anh Thái nhiều thành công trong sự nghiệp
sáng tác. Hồ Anh Thái được coi là một trong những cây bút trẻ xuất sắc của văn
học hiện đại và là nhà văn tiêu biểu của thời kỳ đổi mới. Sáng tác của Hồ Anh
Thái phần nào đã đóng góp cho sự đổi mới và phát triển của nền văn học hiện
đại nước nhà.
Tác phẩm của Hồ Anh Thái, đặc biệt là các tập truyện Tiếng thở dài qua
rừng kim tước, Tự sự 265 ngày, Bốn lối vào nhà cười… đã được dịch ra nhiều
thứ tiếng trên thế giới. Nhìn chung, truyện ngắn Hồ Anh Thái luôn được độc giả
thuộc nhiều nền văn hoá khác nhau đón nhận nồng nhiệt và được đánh giá cao.
Truyện của nhà văn này, đặc biệt là những truyện ngắn quả là có sức hấp dẫn
người đọc mạnh mẽ.
1.2. Hồ Anh Thái thu hút độc giả không phải bằng những chấn động dư luận
làm thành dông bão trong đời sống văn học nước nhà như trường hợp Nguyễn
Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài. . . mà chính bằng sự thể nghiệm độc đáo các thủ pháp
trần thuật mới.
Sự độc đáo mới lạ của truyện Hồ Anh Thái nói chung, truyện ngắn nói riêng
thực tế đã được bạn đọc chú ý. Tuy nhiên, sự chú ý của dư luận cũng chỉ mới
dừng lại ở những bài viết đăng trên các báo, tạp chí, gần đây cũng có một vài luận
1
văn, khoá luận của sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Quốc gia. .


. nhưng cũng chưa thật sự xứng tầm với sáng tác của Hồ Anh Thái. Vì “Hồ Anh
Thái và những người đương thời ở Việt Nam đang tiên phong cho nền văn học
không còn bị định nghĩa bằng những thông số của cuộc đấu tranh giữa hai bên tư
bản và cộng sản. Đó là nền văn học toàn châu á và thực tế là toàn cầu, chỉ quan
tâm tới sự căng thẳng giữa một bên là sự ức chế và một bên là khát vọng tự do,
giữa khát vọng được đảm bảo về kinh tế và sự xói mòn về văn hoá cùng mối quan
hệ giữa người với người, khi mà cuộc sống chỉ còn bị thôi thúc bởi khao khát tiền
bạc và tài sản, những mối quan hệ căng thẳng in dấu trong cuộc đấu tranh quyết
liệt trên hầu khắp thế giới đang chuyển mình sang thế kỷ XXI” [8; 355].
1.3. Do tính chất thời đại, khi mà “xã hội và cả nghệ thuật là một tổ hợp bao
hàm nhiều khả năng đột biến trong chớp mắt, nhiều quan hệ khả dĩ giữa cái có thể
quan hệ và cái không thể quan hệ… tất cả đều quy tụ ở nguyên tắc: tốc độ, trò
chơi, ảo hoá… nhằm khẳng định hơn nữa quan niệm con người vừa là chủ nhân
quyền uy của xã hội, của nghệ thuật nhưng đồng thời cũng vừa là kẻ tôi tớ tội
nghiệp trước mọi cái thuộc về con người” [22;93] nên truyện ngắn là thể loại có
nhiều lợi thế xuất hiện trên văn đàn.
Mặc dù thuật ngữ truyện ngắn ra đời muộn (khoảng cuối thế kỷ XIX)
nhưng những trang tự sự tiền thân của truyện ngắn đã xuất hiện và tồn tại ngay
từ buổi bình minh của nhân loại, khi con người biết sáng tác văn chương. Trải
qua hàng ngàn năm, với bao biến cố thăng trầm của thể loại, ngày nay truyện
ngắn đã chiếm lĩnh được vị trí quan trọng trong đời sống văn học nghệ thuật,
khi con người ngày càng bị dồn ép về mặt thời gian hơn bao giờ hết, không còn
đủ thì giờ dành cho các pho tiểu thuyết đồ sộ như Những người khốn khổ,
Chiến tranh và hoà bình… Dung lượng ngắn là một thế mạnh đồng thời cũng
đòi hỏi những sáng tạo của nhà văn, nhất là sáng tạo trong nghệ thuật trần thuật
đảm bảo cho sự hấp dẫn và tác động mạnh mẽ của truyện ngắn. Rõ ràng, tìm
hiểu đặc điểm của truyện ngắn qua tác phẩm của những nhà văn thành công là
hướng đi có nhiều ý nghĩa.
2
1.4. Sự hấp dẫn của các tác phẩm Hồ Anh Thái nói chung, truyện ngắn

nói riêng chính là ở chỗ Hồ Anh Thái luôn tạo được những nét mới lạ trong
các tác phẩm của mình. Mỗi tác phẩm là một hiện thực và không gian nghệ
thuật riêng với một cách xử lý riêng, một giọng điệu riêng, một văn phong
riêng. Chính Hồ Anh Thái cũng rất năng động, mới mẻ khi bàn về phong
cách. Ông cho rằng: “Có phong cách tức là phải đa giọng điệu dù anh có đổi
giọng đến thế nào thì vẫn là trên cái nền tảng văn hoá của anh, trên tầm nhìn
của anh vào thế giới và nhân sinh. Cho rằng thay đổi giọng điệu sẽ làm loãng
phong cách của chính mình là một cách hiểu đơn giản và làm cho người sáng
tạo lười biếng, ngại làm mới mình” [7;242].
Trong sáng tác văn học nói về điều gì không quan trọng bằng việc nói
như thế nào. Chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong
truyện ngắn Hồ Anh Thái là một việc làm cần thiết để tiếp cận và đánh giá
một tác giả được khẳng định trong văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội
nhập, cũng từ đó có thể hiểu sâu sắc hơn đặc điểm thể loại truyện ngắn nói
chung.
Với tất cả những lý do nêu trên, đề tài luận văn của chúng tôi sẽ đi vào
vấn đề: “Nghệ thuật trần thuật truyện ngắn Hồ Anh Thái”.
2. Lịch sử vấn đề
Như đã nói ở phần trên, Hồ Anh Thái được dư luận trong và ngoài nước
đánh giá rất cao nhưng các bài viết chủ yếu mới điểm qua hoặc nhắc tới để
khẳng định chứ chưa thật sự đi sâu vào những vấn đề cụ thể một cách kỹ
lưỡng. Chúng tôi thấy, những bài viết đã có về Hồ Anh Thái tập trung vào
một số vấn đề sau:
2.1. Đánh giá về giá trị chủ đề tư tưởng của từng tác phẩm
Cả tiểu thuyết và truyện ngắn Hồ Anh Thái đều nhận được sự quan tâm
của các nhà nghiên cứu, phê bình trong và ngoài nước. Bàn về tiểu thuyết Hồ
Anh Thái, đáng chú ý là các ý kiến của Wayne Karlin, Nancy Pearl, Philip
3
Gambon, Michael Harris… Điểm gặp nhau của các ý kiến này là nhận định
mà như Philip Gambone trong Tạp chí Giới thiệu sách - Thời báo Newyork

(1-11-1998) đã nói: “Chủ đề của các tác phẩm này là “xung đột triền miên
qua đường biên giới” giữa các giá trị, các thời đại và các hệ tư tưởng ngổn
ngang sau chiến tranh - mà thực ra hầu hết là ở châu á” [6;435 ].
Trong nhiều tiểu thuyết như Người đàn bà trên đảo, Trong sương hồng
hiện ra, Người và xe chạy dưới ánh trăng…, có thể thấy hình ảnh xã hội Việt
Nam sau chiến tranh với những cũ mới đan xen phức tạp đã được Hồ Anh
Thái dựng dậy thành công. Wayne Karlin cho rằng những chi tiết thăng trầm
về nhân vật Hoà, về công ty xuất khẩu của Nhà nước ở vùng kinh tế mới
thuộc một hòn đảo (Người đàn bà trên đảo) “ bộc lộ sự căng thẳng ngổn
ngang trong nền kinh tế Việt Nam vào thời gian diễn ra câu chyện này. Những
nét phác họa này về sự căng thẳng mang tính xã hội ở nước Việt Nam sau
chiến tranh thật hấp dẫn và đầy thông tin cho người đọc ở phương Tây và
phản ánh những vấn đề của hầu khắp các thế giới đang vận động tới một nền
kinh tế toàn cầu” [6;394]. Các ý kiến đánh giá về tác phẩm Hồ Anh Thái
cũng chú ý đến Vấn đề cá nhân ở nước Việt Nam mới (Michael Harris -
Thời báo Los Angeles, 18-9-2001), cuộc đấu tranh với bản năng, với chính
mình của con người (Wayne Karlin - Lời giới thiệu cho bản in của Nxb Đại
học Washington, 2001), cuộc đấu tranh tư tưởng mà ngày nay thế hệ trẻ
Việt Nam đang trải qua (Dina Shilo - Tạp chí Bưu điện Jerusalem, 26-2-
1999).
ở mảng truyện ngắn, chúng tôi vẫn thấy sự thống nhất trong cách đánh
giá, nhìn nhận của các nhà nghiên cứu, phê bình về tư tưởng nghệ thuật, về
cảm hứng sáng tạo của Hồ Anh Thái.
Chẳng hạn, qua tập truyện Tiếng thở dài qua rừng kim tước. Nhà văn
Ngô Thị Kim Cúc đã cảm nhận được cái nhìn thấm đẫm yêu thương của Hồ
Anh Thái với những kiếp người, đặc biệt là người phụ nữ ấn Độ: “Anh đã đi
4
vào bên trong những u uẩn tâm hồn, những ám ảnh tâm linh của một dân tộc đã
sinh ra một tôn giáo giải thoát con người khỏi mọi ràng buộc đẳng cấp. Anh đã
nhìn được cuộc sống người ấn, và nói chung cả cuộc sống con người, theo một

nhãn quan phật giáo, nhãn quan đầy yêu thương và bình đẳng” [8;318]. Cũng
về tập truyện này, Mai Sơn phát hiện mỗi một truyện ngắn trong tập truyện
“đều ẩn chứa cái cốt lõi của vấn nạn triết học hoặc xã hội học chờ đợi được
chạm tới, đòi hỏi khám phá thêm” [8;322].
Phạm Quốc Ca gọi Hồ Anh Thái là “người hướng dẫn du lịch có văn
hoá đưa ta thám hiểm vào chiều sâu cuộc sống và con người trên đất nước ấn
Độ” [8;331]. Đây cũng là “hành trình đi vào thân phận những người bất
hạnh luôn đưa tới những tiếng thở dài sâu tận bên trong, nhất là khi những
hình ảnh được phản ánh kia dường như thấp thoáng gương mặt của chính
mình, gương mặt Việt Nam” [8;318]. Đỗ Hải Ninh đã nhận định rất xác đáng
về điều này: “ý thức về đời sống tâm linh làm nên chiều sâu triết học trong
truyện ngắn Hồ Anh Thái. Mỗi truyện ngắn của anh đều mong muốn mở ra
một nhận thức nào đó về thân phận con người, bản chất sự tồn tại, ý nghĩa
cuộc sống” [8;345].
Có thể thấy Tiếng thở dài qua rừng kim tước và Người đứng một chân
là những truyện ngắn viết về ấn Độ thành công nhất và rất đáng trân trọng
của Hồ Anh Thái. Những tác phẩm này đã gây tiếng vang lớn trong và ngoài
nước. Tiến sĩ Pandey (người ấn Độ) đã phát biểu cảm nghĩ: “Những dòng
chữ của Hồ Anh Thái là những mũi châm cứu á Đông đã điểm trúng huyệt
tính cách ấn Độ” [Dẫn theo 8;322].
Tập truyện ngắn Tự sự 265 ngày, Hồ Anh Thái đã tập trung khắc họa
chân dung kẻ sĩ thời đại và những vấn đề nổi cộm trong đời sống hiện đại:
“Tất cả một loạt truyện ngắn đều phác vẽ những chân dung trí thức, kẻ sĩ thời
đại. Nhưng chúng được nhìn gần đến mức khi được đặc tả thì không tránh khỏi
những nết thô lậu khó coi mà thông thường người khác vẫn thường lướt qua
5
bởi họ cần những chân dung trơn nhẵn, đèm đẹp, mặc kệ chúng có nhạt thếch
đến mức nào” [9;231].
Nguyễn Chí Hoan thì đánh giá: “Mỗi truyện đều bày ra một bối cảnh
phông màn khác nhau nhưng tấn bi kịch cuộc đời gần như một: đây là một

phần mặt trái của lớp thị dân hiện đại xuất thân đa dạng, nhưng cũng chia sẻ
những cố tật - hãnh tiến và gian manh, đố kị và hời hợt, khôn ngoan mà dung
tục hẹp hòi” [9;249]. Vũ Bão trong bài viết 11 ngưỡng cửa thì xác nhận: “265
ngày là thời gian trong năm các viên chức Nhà nước làm việc ở cơ quan theo
chế độ một tuần nghỉ hai ngày. 11 truyện ngắn trong tập là chân dung cái anh
công chức ấy, được ngắm nghía dưới nhiều góc độ khác nhau. Chính vì thế, có
người gọi đây là cuốn tiểu thuyết 11 chương, người khác coi là 11 truyện ngắn
liên hoàn. Nhà văn đã đưa người đọc lần lượt qua 11 ngưỡng cửa của cuộc
đời, quan sát rồi suy ngẫm về thân phận anh viên chức đang cố trườn mình
ngoi lên từng nấc thang danh vọng. Đáng buồn hơn nữa khi càng ngày càng
nhìn rõ những gương mặt quen thuộc trong trang sách lại là những tri thức
thường mạo nhận là tinh hoa của đất nước” [9;240].
Cũng có ý kiến cho rằng tập truyện này “không có truyện nào đưa đến
một cái kết có hậu” nhưng “nói cho công bằng, khi anh vạch ra một cái xấu xa
thì đã có một điều tốt lành tiềm tàng đối diện. Cái cười châm biếm vốn là một
thể hiện sự có mặt của lương tri. Nhưng, với cái phẩm chất hiện thực đầy đặn
trong tầm bao quát rộng về đời sống, với cách viết rất hiệu quả trong việc đưa
lại một ấn tượng “như thật”, những truyện ngắn ở đây vượt ra ngoài phạm vi
trào lộng. Nó khiến người ta băn khoăn: hình như tác giả chỉ mượn lấy tiếng
cười… Và nhà văn không cười” [9;249].
Tập truyện ngắn Bốn lối vào nhà cười bật lên được ý thức tự trào của
một người Việt. Tự trào từ những chuyện vặt. Nhưng khả năng phóng chiếu,
châm biếm của nó thì không “vặt” chút nào: “Bởi nó chạm đến phần nhạy
cảm (và có khi rất phổ biến) trong tính cách con người ta. Mà nếu “tự tri tự
6
ngộ” nó, thì tự cười mình cũng là cách để thoát ra khỏi nó để tiến bộ vậy.
Cũng như người ta biết đời là bể khổ, thoát ra tứ đại khổ, nhìn xuống thì thấy
nhân sinh có khi chợt thấy một nhà cười!” [11;227]; “Bốn lối vào nhà cười
khiến người ta phải suy ngẫm về guồng quay chóng mặt của cuộc đời mà chính
họ đang là nạn nhân, suy ngẫm về sự ra đi của những giá trị đích thực, sự lấn

át của thói chuộng hình thức phù phiếm, vô nghĩa. Gấp sách lại có cảm giác
như vẫn bước đi trong nhà cười và nhìn thấy chính mình trong những nhân vật
của Hồ Anh Thái” [11;230]; “Từ những câu chuyện mất còn của cuộc đời,
những câu chuyện nhân tình thế thái đầy chua xót đắng cay trong những trang
viết về cuộc sống theo kiểu như vậy, Hồ Anh Thái muốn rung tiếng chuông báo
động trước sự xuống cấp của đạo đức bởi đây là một trong những nơi cho cái
ác nương náu, gieo mầm” [11;236]. . . . Còn Hồ Anh Thái thì thừa nhận:
“Trong cuốn sách này, tôi chỉ muốn đưa ra trước người đọc một tấm gương lồi
để cho họ soi vào và tự hỏi: Đấy là ta hay không phải là ta? Tôi cũng không
muốn làm cho ai phải khóc. Chỉ vì cuộc đời nhiều khi buồn quá, thấy nhiều cái
buồn thì phải tìm cách mà cười vậy thôi” [11;214].
2.2. Đánh giá về nét độc đáo trong phong cách văn xuôi Hồ Anh Thái
Trước hết là những đánh giá về phong cách tiểu thuyết Hồ Anh Thái.
Đọc Người đàn bà trên đảo, Wayne Karlin cho rằng Hồ Anh Thái đã
“thể nghiệm với hình thức và ngôn ngữ” từ đó tạo ra một kết quả “góp phần
đưa văn học Việt Nam đương đại đi theo hướng mới” [6;392]. Còn khi đọc
Trong sương hồng hiện ra và các tiểu thuyết khác của nhà văn này, Wayne
Karlin đã chú ý đến “chất hài hước, chất lạ quyện với chất Kafka dường như
gây bất ngờ cho người phương Tây khi họ tìm hiểu văn học Việt Nam” [6;425].
Khá nhiều người chú ý đến chất huyền thoại trong sáng tác của Hồ Anh
Thái. Tạp chí Kirkus Revié, 15-9-1998 đã viết về Trong sương hồng hiện ra:
“Nhà văn đã khám phá đời sống sau chiến tranh ở đất nước Việt Nam của
mình, hoà trộn ở tầm cao giữa chủ nghĩa hiện thực nghiệt ngã và yếu tố kì ảo
7
mang tính biểu tượng” [6;441]. Tuần báo Nhà xuất bản Publishers Weekly,
28-9-1998 cũng khẳng định: “những yếu tố siêu thực tràn đầy trong cuốn hợp
tuyển. Giọng điệu chuyển từ châm biếm sang xúc động thấm thía, từ hài hước
sang đau xót. Việc sử dụng tinh tế các huyền thoại và sự phản ánh hập dẫn đời
sống Việt Nam sau chiến tranh của Hồ Anh Thái đã mang đến những tác phẩm
tao nhã và đầy sức lay động” [6;455].

Những nết độc đó của truyện ngắn Hồ Anh Thái cũng tạo ấn tượng mạnh
với các nhà nghiên cứu.
Về tập Tiếng thở dài qua rừng kim tước các nhà nghiên cứu đã nhận
định: “Thủ pháp nghệ thuật thường được Hồ Anh Thái sử dụng là xây dựng
huyền thoại, mỗi câu chuyện có nguồn gốc từ một huyền thoại và nhà văn dựa
trên trí tưởng tượng làm sống lại những huyền thoại” [8;342].
Nhà văn Lê Minh Khuê cũng nhận xét về tập truyện ngắn này: “Cách
hành văn trong sáng, mỗi câu đều chứa đựng những tình tiết mới mẻ và tràn
đầy chi tiết vừa xác thực vừa ẩn dụ… cả tập truyện thoát ra một phong cách
mới mẻ, cốt truyện hay cộng với cách dựng truyện độc đáo, ngôn ngữ truyện
ngắn giản dị… nên đã tạo ra sức lôi cuốn mạnh mẽ” và gọi đó là “một vẻ đẹp
cổ điển” [8;348].
Về tập Tự sự 265 ngày, Vân Long trong bài viết Một giọng văn khác
đã nhận xét: “ở tập truyện ngắn này, nhà văn hình thành một giọng văn
hoàn toàn khác thời kỳ đầu: trào lộng, châm biếm hóm hỉnh và sắc sảo
những câu truyện, những thói tật đáng cười trong xã hội”, “nhiều chỗ phải
bật cười thành tiếng như đọc Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan hay Azit Nêxin của Thổ Nhĩ Kỳ” [9;245]…
Đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tập truyện, Vũ Bão
đưa ra nhận định: “Anh không vẽ truyền thần mà dùng ngòi bút sắc sảo
dựng những chân dung công chức với đầy đủ mảng sáng tối” [9;240].
Còn đây là ý kiến của Nguyễn Chí Hoan: “Một điều dễ nhận thấy là
hầu hết các nhân vật trong những truyện của Tự sự 265 ngày đều mang
8
một cái tên thậm xưng chẳng hạn, truyện Chín Triệu, Ba Triệu, Hai Triệu
và Bóng Rổ mang tên cả bốn nhân vật mà rốt cục chẳng ai có tên” [9;248].
Trong một bài viết khác, nhà văn Lê Minh Khuê đã phát hiện ra cái
duyên kể chuyện cũng như sự làm việc nghiêm túc của Hồ Anh Thái trong
tập Tự sự 265 ngày: “Tập truyện tự sự 265 ngày là một phong cách như
trình bày sự hóm hỉnh, có duyên, cười vào thói hư tật xấu thời hiện đại của

người Việt, và những trang viết là sự nhào nặn tiếng Việt, trân trọng tiếng
Việt. Đối với tác giả, một dấu phẩy cũng đáng để nhà văn phải trăn trở”
[7;281].
Lê Hồng Lâm thì nhận thấy sự chuyển biến rất rõ rệt về giọng điệu
của Tự sự 265 ngày so với những tác phẩm trước đó, tác giả cho rằng:
“Hồ Anh Thái rất dụng công để tạo ra giọng điệu mới. Câu cú đã vượt qua
cấu trúc ngữ pháp thông thường, những dấu phẩy, dấu chấm được đặt vào
vị trí mới một cách sáng tạo” [9;223].
Đọc tập truyện Bốn lối vào nhà cười, các ý kiến gần như thống nhất
và đều cho rằng: giọng điệu hài hước đang trở thành căn tính viết của Hồ
Anh Thái và nó rất nhất quán với Tự sự 265 ngày. Khi được phỏng vấn,
Hồ Anh Thái cũng xác nhận: “Tôi thích nhại giọng thị dân, đúng hơn là
giọng tiểu thị dân bởi vì hầu như người ta đang bê nguyên lối sống kiểu thị
dân và quê mùa vào đô thị. Đáo để, chua chát, ác khẩu, kiểu tiểu thị dân
đang trở thành giọng điệu lấn át” [11;213].
Một số ý kiến khác cũng đều cho rằng Hồ Anh Thái thuộc diện
“gừng càng già càng cay, vì có một nền tảng văn hoá được chuẩn bị và tạo
lập vững chắc. Bằng chứng là những cuốn sách viết rất có nghề, thông
minh, hài hước, tinh quái và ngày càng hiện đại” [11;213].
2.3. Nghiên cứu về nghệ thuật trần thuật của Hồ Anh Thái
Tập truyện Tiếng thở dài qua rừng kim tước đã sử dụng một cách khéo léo
lối trần thuật khách quan với điểm nhìn bên ngoài và lối trần thuật tham dự với vai
9
trò nhân vật trong truyện. Đặc biệt, sự di chuyển linh hoạt điểm nhìn đã giúp cho
nhà văn khám phá được vẻ đẹp kì diệu tiềm ẩn và những nỗi đau do những hủ tục
nghiệt ngã của con người ấn.
Tác giả Nguyễn Đăng Điệp chỉ ra những yếu tố tạo nên sức hẫp dẫn trong
sáng tác của Hồ Anh Thái: “Sức hút của văn phong Hồ Anh Thái còn nằm ở chỗ
anh biết phủ lên thế giới nghệ thuật của mình những màu sắc tượng trưng, siêu
thực và gắn nó là khả năng tổ chức nhiều kiểu giọng điệu khác nhau: khi hài

hước, khi châm biếm, khi lạnh lùng soi xét, khi u uất trĩu buồn… vượt qua cái lối
miêu tả hiện thực giản đơn, Hồ Anh Thái đã tạo được nhiều biểu tượng, nhiều ẩn
dụ nghệ thuật nhiều sức gợi. Cũng bởi thế văn anh có độ mở, gây được dư âm lâu
dài trong lòng người đọc” [8;337].
Về điểm nhìn trần thuật của Hồ Anh Thái trong Tự sự 265 ngày, Lê Quang
Toản trong bài Che giấu sự cô đơn đã nhận xét: “Hồ Anh Thái ẩn mình khéo léo
vào mạch truyện và nhập vai ngọt quá nên độc giả hiền lành có thể vừa đọc vừa
cười mà nhíu mày tự nhủ: Bình tĩnh, cẩn thận, coi chừng nguy hiểm…”, “cách viết
thông minh đến lồ lộ của tác giả làm tôi thường giật mình, có lẽ cái ông tác giả tinh
quái kia đang đâu đó trong truyện để vừa dẫn dắt nhân vật vừa chằm chằm quan
sát độc giả” [9;237].
Ngoài ra, Nguyễn Chí Hoan còn chỉ ra “thủ thuật gây gián cách nửa nạc,
nửa mỡ của Hồ Anh Thái khi tảc giả nhảy bổ vào giữa câu chuyện cho nhân vật
gọi mình là nhà văn Hồ Anh Thái” [9;248].
ở tập Bốn lối vào nhà cười tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên trong bài Chợt gặp
trong nhà cười nhận xét về Hồ Anh Thái: “Đủ gan đánh đu với văn chương cao
cấp”, tác giả tập truyện chứng tỏ ý thức thể nghiệm cao trong tập truyện ngắn
này. Truyện khó đọc vì pha lẫn thứ văn phong khi thông tin báo chí, lắm lúc là thứ
văn loé xoé “tán chuyện” theo những mạch ý thức riêng, phóng túng, tự do, chồng
10
lắp liên tưởng” [11;227]. Một độc giả của báo Lao động, ngày 14-5-2004 đã nhận
xét về tập truyện này là có “một kết cấu thông minh”.
Một số ý kiến đăng rải rác trên báo Vietnamnet thì cho rằng “Bốn lối vào
nhà cười anh viết để giảm stress, bởi bốn con đường vào nhà cười của anh đều lát
đá hoạt kê. Cái giọng văn hài hước, ngôn ngữ đường phố chợ búa của đầu thế kỷ
21 đọc để giải sầu”. Trong bài Giễu nhại ngôn ngữ thị dân của tác giả Ngọc Hà
về nghệ thuật trần thuật ở tập truyện này: “những dòng thác ngôn từ tràn lên
trang giấy ồ ạt, không bị giới hạn bởi những quy chuẩn, mực thước…”, “ở đây,
chúng tôi muốn chỉ ra nét độc đáo, đặc sắc đậm chất Hồ Anh Thái trong việc lạ
hoá cách diễn đạt trên ba phương diện: lối nói liệt kê, bổ sung tăng cấp, lối nói

nhấn mạnh và lối nói bình dân thông tục” [11;230].
Ngoài ra, còn một số luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư Phạm
Hà Nội cũng đề cập đến truyện ngắn Hồ Anh Thái như: Nghệ thuật trần thuật
trong truyện ngắn Hồ Anh Thái (Khoá luận tốt nghiệp của Phạm Thị My năm
2004), Nghệ thuật truyện ngắn Hồ Anh Thái (Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ
văn của Nguyễn Thị Vân năm 2005). Những khoá luận, luận văn này đã đề cập
đến nghệ thuật trần thuật truyện ngắn Hồ Anh Thái. Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn
chọn vấn đề trần thuật truyện ngắn Hồ Anh Thái làm đối tượng nghiên cứu với lý
do những khoá luận, luận văn này đã tìm hiểu nghệ thuật trần thuật truyện ngắn
Hồ Anh Thái dưới góc độ văn học sử. Còn luận văn của chúng tôi nghiên cứu vấn
đề này dưới góc nhìn của chuyên ngành lý luận văn học. Sự khác biệt chuyên
ngành đó đã quy định những khác biệt cơ bản về mục đích nghiên cứu (các khoá
luận, luận văn trên hướng tới tìm hiểu phương diện “nghĩa”, chúng tôi lại hướng
tới tìm hiểu “cách tạo nghĩa” trong trần thuật truyện ngắn Hồ Anh Thái). Do mục
đích nghiên cứu khác nhau nên đối tượng, phạm vi nghiên cứu khác nhau (dù
cùng chung tên đề tài), cấu trúc luận văn khác nhau và các phần mục cũng khác
nhau.
11
Như vậy, qua thống kê, phân tích những bài viết, những công trình nghiên
cứu trên, chúng tôi thấy các ý kiến đánh giá tập trung vào hai mảng sáng tác tiểu
thuyết và truyện ngắn Hồ Anh Thái. Riêng ở thể loại truyện ngắn, các ý kiến
đều có chung những đánh giá sau:
thứ nhất, Hồ Anh Thái biết phủ lên thế giới nghệ thuật của mình nhiều
mầu sắc tượng trưng, siêu thực, sử dụng nhiều hình ảnh biểu tượng, ẩn dụ
(Tiêu biểu là tập truyện Tiếng thở dài qua rừng kim tước). đây cũng là đặc
điểm mà Hồ Anh Thái đã sử dụng trong sáng tác tiểu thuyết.
Thứ hai, truyện ngắn thể hiện khả năng tổ chức nhiều giọng điệu khác
nhau, dụng công tạo ra giọng điệu mới của tác giả. Câu cú vượt qua cấu trúc
ngữ pháp thông thường với lối viết tràn câu, tràn dòng. đọc tác phẩm Hồ
Anh Thái, người đọc dễ dàng nhận ra “sự tái hiện ngôn ngữ đường phố đầu

thế kỷ hai mốt. Sự chuẩn mực, hoa mĩ của văn chương bị phá vỡ hoàn toàn,
thay vào đó là cả một hệ thống lời nói hoạt kê, khẩu ngữ, mô phỏng lời bài
hát…” [11;234]. Điều này chứng tỏ nhà văn phải có một kho từ vựng phong
phú mới có thể tổ chức được nhiều kiểu giọng điệu khác nhau, nhiều lối nói
khác nhau.
Tóm lại, những bài viết, những công trình nghiên cứu trên đã là một cơ
sở khoa học để chúng tôi tiếp tục đi sâu vào nghiên cứu nghệ thuật trần thuật
trong truyện ngắn Hồ Anh Thái. Tiếp thu những thành tựu của những người
đi trước, chúng tôi muốn tiếp tục đi sâu tìm hiểu một cách cụ thể hơn về nghệ
thuật trần thuật trong truyện ngắn của ông.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
*Một số tiểu thuyết tiêu biểu của Hồ Anh Thái ( để so sánh với truyện
ngắn Hồ Anh Thái)
12
- người đàn bà trên đảo và Trong sương hồng hiện ra (Nxb Phụ nữ, tái
bản 2005).
- Người và xe chạy dưới ánh trăng (Nxb hội nhà văn, tái bản 2005).
- cõi người rung chuông tận thế (Nxb hội nhà văn, tái bản 2004).
* Truyện ngắn của Hồ Anh Thái
- Mảnh vỡ của đàn ông - Tập truyện (Nxb Hội nhà văn 2006).
- Tiếng thở dài qua rừng kim tước - Tập truyện (Nxb Hội nhà văn
2003).
- Tự sự 265 ngày - Tập truyện (Nxb Hội nhà văn 2005).
- Bốn lối vào nhà cười - Tập truyện (Nxb Đà Nẵng, tái bản 2006).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn hướng tới nhiệm vụ là đưa ra được những nhận định, kết luận
mang tính khái quát về đặc điểm của nghệ thuật trần thuât trong truyện ngắn

Hồ Anh Thái.
5. Đóng góp của luận văn
Hi vọng đây là công trình nghiên cứu có hệ thống, cụ thể, tỉ mỉ hơn về
nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái dưới góc độ thi pháp học
để vừa làm sáng tỏ những vấn đề về lý thuyết nghệ thuật trần thuật vừa có cái
nhìn sâu sắc cụ thể hơn về thể tài truyện ngắn, về phong cách nhà văn. Qua
đó, hiểu sâu hơn về những đổi mới trong nghệ thuật trần thuật của truyện
ngắn Việt Nam đương đại, một thể tài đã chiếm lĩnh được vị trí quan trọng
trong đời sống văn học Việt Nam hiện nay
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp hệ thống
- Hệ thống các tác phẩm của Hồ Anh Thái để rút ra những vấn đề có tính quy
luật, tính hệ thống, từ đó phân tích để khái quát thành đặc điểm về nghệ thuật trần
thuật trong sáng tác của Hồ Anh Thái nói chung, truyện ngắn nói riêng.
13
- Hệ thống với những người cùng thời: muốn nghiên cứu Hồ Anh Thái
thì chí ít cũng phải đặt trong tương quan với các nhà văn cùng thời, với xu
hướng sáng tác chung của văn học.
6.2. Phương pháp so sánh
Phương pháp này nhằm làm rõ những nét đặc trưng khác biệt của nghệ
thuật trần thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái so với các tác giả khác (so
sánh lịch đại, so sánh đồng đại); so sánh giữa truyện ngắn với tiểu thuyết Hồ
Anh Thái.
6.3. Phương pháp thống kê, phân loại
Phương pháp này giúp chúng tôi tiến hành khảo sát toàn bộ các truyện
ngắn và thống kê phân loại theo phạm vi đề tài, chủ đề, theo phương thức trần
thuật, giọng điệu trần thuật…
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, nội dung luận văn
gồm ba chương như sau:

Chương 1: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Hồ Anh
Thái
Chương 2: Nghệ thuật tổ chức không gian - thời gian trong truyện ngắn
Hồ Anh Thái
Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Hồ Anh Thái
14
Phần nội dung
Chương 1
nghệ thuật xây dựng nhân vật
trong truyện ngắn Hồ Anh Thái

1.1. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái
1.1.1. Nhân vật văn học và nhân vật trong truyện ngắn
Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được miêu tả, thể hiện
trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Đó có thể là những nhân vật có tên
hoặc không có tên. Đó có thể còn là những con vật, những đồ vật mang nội
dung, ý nghĩa con người.
Nhân vật văn học có thể là những con người được miêu tả “đầy đặn” cả về
ngoại hình lẫn nội tâm, có tính cách, có tiểu sử … (như trong tác phẩm tự sự).
Song nhân vật cũng có thể chỉ hiện ra qua những tiếng nói, giọng điệu, cảm
xúc, nỗi niềm…(như trong tác phẩm trữ tình).
Văn học không thể thiếu nhân vật, vì đó chính là phương tiện cơ bản để
nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng. Bản chất văn học là một
quan hệ đối với đời sống, nó chỉ tái hiện được đời sống qua những chủ thể
nhất định, đóng vai trò như những tấm gương của cuộc đời. Do vậy, nhân vật
còn là hình thức thể hiện những quan niệm của nhà văn về con người và cuộc
sống. Giáo sư Hà Minh Đức lưu ý: “Nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện
nhận thức của mình về một cá nhân nào đó, về một loại người nào đó, về một
vấn đề nào đó của hiện thực” [31;126].
như vậy, nhân vật không chỉ là hình thức đơn thuần mà còn bao hàm cả

nội dung, tư tưởng và quan niệm của nhà văn về con người, về thế giới: “nhân
vật văn học nào cũng biểu hiện cách hiểu của nhà văn về con người theo một
quan điểm nhất định và qua các đặc điểm mà anh ta lựa chọn. Nhân vật văn
học chính là mô hình về con người của tác giả” [Dẫn theo 87;43].
15
“Nhân vật là đơn vị cơ bản khi tìm hiểu truyện ngắn, truyện ngắn sống
bằng nhân vật” [62;30]. Do đó, nhân vật đóng vai trò quan trọng trong truyện
ngắn. về vấn đề này, Nguyễn Tuân cho rằng qua nhân vật, nhà văn thể hiện
suy nghĩ của mình về cuộc sống “và cũng dựa vào nhân vật để biểu hiện tư
tưởng của mình. Nhân vật là sứ giả truyền đi cái thế giới quan, nhân sinh quan
của mình” [Dẫn theo 87;43].
Trong truyện ngắn, nhân vật là đơn vị cơ bản để người đọc tìm hiểu
truyện và truyện ngắn sống được cũng bằng nhân vật.
Nguyễn Minh Châu cho rằng, ở truyện ngắn điều cốt yếu là “qua nhân
vật mà người viết đàm luận với người đọc về vai trò và số phận con người
sống giữa xã hội và cuộc đời” (Trang giấy trước đèn, tập phê bình tiểu luận -
Tôn Phương Lan tuyển chọn và giới thiệu, Nxb KH, 1994). Qua nhân vật,
truyện ngắn có thể miêu tả, khắc họa sắc nét, đầy ấn tượng chiều sâu tính
cách, tâm hồn và số phận con người. Nhà văn sáng tạo nhân vật là để thể hiện
những cá nhân xã hội nhất định và quan niệm về các cá nhân đó. nói cách
khác, nhân vật là phương tiện khái quát những tính cách, số phận con người
và các quan niệm về chúng.
Truyện ngắn có thể kể về cả một cuộc đời hay một đoạn đời, một sự kiện
hay một “chốc lát” trong cuộc sống nhân vật, nhưng cái chính của truyện
ngắn không phải ở hệ thống sự kiện, mà ở cái nhìn tự sự đối với cuộc đời.
Truyện ngắn nói chung không phải vì “truyện” của nó “ngắn”, mà vì cách
nắm bắt cuộc sống của thể loại. Tác giả truyện ngắn thường hướng tới khắc
hoạ một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay
đời sống tâm hồn con người. Chính vì vậy trong truyện ngắn thường rất ít
nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Chỗ khác biệt quan trọng giữa tiểu thuyết và

truyện ngắn là, nếu nhân vật chính của tiểu thuyết thường là một thế giới, thì
nhân vật truyện ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới. Truyện ngắn thường
không nhằm tới việc khắc hoạ những tính cách điển hình có cá tính đầy đặn,
16
nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh. Nhân vật truyện ngắn thường là
hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn
tại của con người. Mặt khác, truyện ngắn lại có thể mở rộng diện nắm bắt các
kiểu loại nhân vật đa dạng của cuộc sống, chẳng hạn như chức nghiệp, xuất
thân, gia hệ, bạn bè…những kiểu loại mà trong tiểu thuyết thường hiện ra
thấp thoáng trong các nhân vật phụ.
Cốt truyện của truyện ngắn có thể là nổi bật, hấp dẫn, nhưng chức năng
của nó là để nhận ra một điều gì. Cái chính của truyện ngắn là gây một ấn
tượng sâu đậm về cuộc đời và tình người. Kết cấu của truyện ngắn thường là
một sự tương phản, liên tưởng. Bút pháp trần thuật thường là chấm phá. Yếu
tố có ý nghĩa quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là chi tiết có dung lượng
lớn và hành văn mang ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết.
Ngoài ra, giọng điệu, cái nhìn cũng hết sức quan trọng, làm nên cái hay của
truyện ngắn. Truyện ngắn là một thể loại dân chủ, gần gũi với đời sống hàng
ngày, lại súc tích, dễ đọc, gắn liền với hoạt động báo chí, có tác dụng, ảnh
hưởng kịp thời trong đời sống.
1.1.2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái
ý thức rất rõ vai trò của nhân vật trong tác phẩm nên trong sáng tác của
mình, ngay từ những tác phẩm đầu tay cho đến những tác phẩm gần đây nhất,
Hồ Anh Thái đều tạo được những nhân vật sắc nét. Thế giới nhân vật trong
truyện ngắn Hồ Anh Thái rất đa dạng, phong phú và phức tạp như chính bản
thân cuộc sống. Nếu như Mác nói: “Con người là sự tổng hoà của các mối
quan hệ trong xã hội” thì điều đó cũng đúng với con người (nhân vật) trong
sáng tác của Hồ Anh Thái. Nhu cầu phản ánh chân thực hiện thực, đòi hỏi nhà
văn phải đưa vào trang viết những bức chân dung sinh động của nhiều kiểu
người, nhiều dáng dấp người trong nhiều không gian và thời gian khác nhau.

Thế giới nhân vật trong những sáng tác đầu tay (Tập truyện ngắn Mảnh
vỡ của đàn ông) chủ yếu là tầng lớp thanh niên trí thức có nhu cầu cá nhân
17
muốn thể hiện cái tôi cá tính. Họ là những cá thể độc lập, một mặt muốn thể
hiện nhân cách, tạo lập sự khác biệt về cá tính của mình, một mặt lại khao
khát hoà nhập vào tập thể, vào cộng đồng. Đó là những người dám nghĩ, dám
làm, luôn thể hiện mình dù có thể phải bất chấp nguyên tắc và luật lệ như
Hiếu (Nằm ngủ trên ghế băng), như Biên (Cuộc săn đuổi)… Đó là những
người biết tự nhận thức, phán xét hành động của mình để có thể hoàn thiện
mình hơn như Khải (Chàng trai ở bãi đỗ xe). Đó còn là những người sống có
nội tâm sâu sắc dưới cái vẻ bề ngoài nhiều khi vụng về, lập bập như Long
(Nói bằng lời của mình) hoặc của nhân vật tôi (Mảnh vỡ đàn ông)…
Đọc truyện Nằm ngủ trên ghế băng, người đọc thật ấn tượng với nhân vật
Hiếu, một nhân vật đầy cá tính. Trong vòng kỷ cương của ông bố, Hiếu cảm
thấy mình như con mãnh thú bị nhốt trong chuồng, nó phá phách, hòng sổng ra.
Một lần, toàn trường tham gia Hội tổng kết hoạt động thể thao của quận,
Hiếu và hai đứa bạn đã bí mật đổi tấm biển của Công ty gia cầm thành Công
ty giả câm. Bộ phận diễu hành của công ty này không biết, lúc diễu hành cứ
trương tấm biển lên hàng đầu, rồi diễu qua lễ đài. đám trẻ con cười phá lên,
làm nhộn nhạo cả một góc sân. Bị phát hiện, Hiếu lần mò ra người tố giác
mình. Nó tìm cậu bạn lớp trên, bàn tay như cái càng cua bóp tay cậu kia đau
ứa nước mắt “Dám giở trò ton hót hả?”. Rồi nắm tay đứa bạn, dắt đi như hai
người bạn thân. Tới bên hồ nước, Hiếu cởi quần áo ngoài bảo cậu kia làm
theo. Cả hai xuống nước, Hiếu dìm cho cậu ta một trận “lấp đầy dạ dày”.
Trước khi ra về, Hiếu kẻ cả nói: “Từ giờ mày sẽ biết căm ghét trò tố giác. Một
thằng con trai phải sống cho đàng hoàng, nghe chưa?” [3;30].
Đến khi vào bộ đội, Hiếu không chịu được khi thấy tiểu đội trưởng chỉ là
một thanh niên sức vóc thuộc loại “thấp bé nhẹ cân”, văn hoá mới hết lớp bảy,
nghĩa là nhiều mặt đều không bằng Hiếu, chỉ vì hơn một tuổi và nhập ngũ
trước một năm mà có quyền hò hét, điều khiển mười mấy chiến sĩ. Sáng chủ

nhật, Hiếu xin tạt về nhà nhưng không được, liền bỏ trốn, gần sáu giờ sau mới
18
quay trở lại doanh trại… Bị kỷ luật, Hiếu dám chịu trách nhiệm với hành
động của mình.
Biên (Cuộc săn đuổi), một người muốn được làm điều mình thích (mặc
quần bò, áo đuôi tôm, để đầu đít vịt) dù có bị phản đối. Rồi vượt biên không
thành (hai lần) và phải sống bằng nghề mánh mung chỉ trỏ. Tài sản đã bị tiêu
tán vào những chuyến đi. Nhân vật Biên trong truyện đã mất rất nhiều trong
cuộc rượt đuổi ấy. Những định kiến xã hội đã khiến cậu không có được nhận
xét tốt của khu phố, không được tin tưởng giao cho bất kỳ công việc gì. Biên
đã phải sống lạc lõng giữa cộng đồng ấy. ánh mắt vô hồn và vẻ mặt bất động,
vô cảm của Biên ở cuối truyện gợi lên cho người đọc bao suy nghĩ xót xa.
Truyện muốn nói đến vấn đề mối quan hệ giữa những nguyên tắc, luật lệ
xã hội đối với từng công dân cụ thể cần phải được đảm bảo một cách hài hoà,
đúng mức. Một khi những quy tắc cộng đồng được áp dụng một cách máy móc
thì có thể dẫn đến những hành động phi đạo đức, thiếu nhân văn, xâm phạm
đến quyền tự do cá nhân của con người.
Còn Khải (Chàng trai ở bến đợi xe), bố mất sớm, được mẹ và chị cưng
chiều nên sinh ra ỷ lại và sinh ra cái tật “dễ làm khó bỏ”. Khải giống như cái
đèn phản quang đỏ lừ gắn sau cái chắn bùn xe “cái đèn ấy không tự sáng. Nó
chỉ sáng lên khi có ánh sáng từ nơi khác chiếu vào” [1;98]. Nhưng rồi nhờ có
Hoàn, cậu em sinh đôi lại có tính tự lập cao đã dần giúp Khải hoàn thiện mình
hơn. Và lần đầu tiên, Khải nhớ tới tấm ảnh Hoàn chụp ở công trường sông Đà,
anh bỗng thấy “cái cảnh ấy có vẻ đẹp riêng của nó” [1;98].
Điểm qua một số nhân vật của tập truyện nêu trên, người đọc dễ dàng
nhận thấy đây là cái nhìn mới mẻ của văn học sau đổi mới mà những cây bút
như Nguyễn Minh Châu đã làm được trong Phiên chợ Giát, Ma Văn Kháng ở
Mùa lá rụng trong vườn, Nguyễn Huy Thiệp ở Tướng về hưu, Bảo Ninh ở
Nỗi buồn chiến tranh… Là cây bút nhạy bén và tỉnh táo, Hồ Anh Thái cũng
tạo được cái nhìn riêng về thế giới. Độ sắc trong những trang viết của Hồ Anh

19
Thái lộ ra ở chỗ ông dám nhìn thẳng vào những “mảnh vỡ”, những bi kịch
nhân sinh, mổ xẻ nó bằng cái nhìn trung thực, táo bạo. Con người được quan
niệm toàn diện hơn, không đơn giản một chiều. Nhà văn đã nhìn thấy con
người phi chuẩn, nhưng đó lại đúng như nó tồn tại trong thực tế. Tác giả không
bái vọng đối tượng mà như đang trò chuyện cùng nhân vật. Nhà văn đã “nhập”
vào đời sống bên trong phức tạp, đa chiều của các nhân vật để hiểu và cảm
thông, chia sẻ với các nhân vật đó. Đằng sau những bi kich nhân sinh, nhà văn
không mất đi niềm hy vong vào con người. Đây cũng là sự thể hiện của một
cách nghĩ, cách nhìn giàu tính nhân văn của Hồ Anh Thái mà người đọc rất trân
trọng.
Thế giới nhân vật trong tập truyện Tiếng thở dài qua rừng kim tước, là
những con người của một ấn Độ xa xôi, xứ sở của nền văn minh sông Hằng
nhiều tôn giáo. Trong thời gian sống, học tập và làm việc tại đây, Hồ Anh Thái
có điều kiện tiếp xúc, khám phá, phát hiện ra cái thế giới tâm linh sâu thẳm của
con người. Đây cũng là bình diện mà văn xuôi sau 75 rất chú ý khi xây dựng
nhân vật. Đọc các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Bảo
Ninh, Nguyễn Huy Thiệp…ta thấy rất rõ biểu hiện này. Chiều sâu tâm linh
tiềm ẩn trong mỗi con người ấy được khai thác để thể hiện quan niệm mới mẻ
về hiện thực và con người. Từ những con người đã đi vào huyền thoại như
Đức Phật (Chuyện cuộc đời Đức Phật), tên cướp Ahimsaka (Kiếp người đi
qua), thi sĩ Kalidasa (Thi nhân), Ananda (Người đứng một chân)… đều được
nối kết với nhau bằng niềm tin tín ngưỡng tâm linh. Người đọc không khỏi giật
mình ngạc nhiên trước ý chí quyết tâm và sức chịu đựng đáng kinh ngạc của
Ananda cũng như trước quan hệ huyết thống thiêng liênng mang tính tâm linh
của Navin. Cái gì có thể làm nên điều đó ngoài niềm tin bất diệt của họ trước
sức mạnh huyền bí của thần linh.
Thế giới tâm linh sâu thẳm của con người được Hồ Anh Thái tái hiện
bằng quan niệm mới mẻ: đó là niềm tin. Niềm tin cho con người sức mạnh để
20

chiến thắng. Niềm tin giúp con người có thể vượt qua những thử thách, cám dỗ.
Nếu không có niềm tin thiêng liêng, cao cả thì hoàng tử Siddhartha sao có thể
từ bỏ tất cả: của cải, quyền lực, giang sơn…để đến với Chân Lý Diệu Kỳ.
Trên đường đi tìm Bốn Chân Lý Diệu Kỳ, hoàng tử đã đi qua kinh thành
Rajagriha của xứ Magadha. Vị vua Bimbisara của xứ này đã phải kinh ngạc
trước sự uyên bác, thái độ khiêm nhường của vị giáo sĩ hoàng tử, tha thiết mời
chàng ở lại và hứa chia cho chàng một nửa giang sơn. Hoàng tử đã khẳng khái
từ chối: “Ta có cả một giang sơn chứ không phải chỉ có một nửa, nhưng ta đã
ra đi. Ta không thích của cải và quyền lực, mà chỉ muốn tìm đường đi tới chân
lý” [8;196]. Chỉ khi tìm được chân lý, vị giáo sĩ hoang tử mới thật sự thấy
thanh thản, hạnh phúc: “Nếu như mọi người đều nhìn thấy chân lý như chàng
thấy đêm nay, thì trong đầu óc họ không còn chỗ cho lòng tham và hận thù.
Người ta sẽ không gây thiệt hại cho người khác, và vì thế sẽ không cảm thấy bất
hạnh. Một khi không còn hận thù, trái tim con người chỉ còn tràn đầy lòng yêu
thương. Và chính lòng từ bi này sẽ đem đến bình yên và hạnh phúc” [8;201].
Chuyện cuộc đời Đức Phật đã giúp cho con người “ngộ” ra một điều:
“Mọi người trên đời này đều chăm lo quá nhiều cho thân xác mình” [8;197]. Và
đây chính là nguyên nhân gây ra những đau khổ. Nếu “chúng ta học được cách
chế ngự nỗi đau đớn thì chắc chắn sẽ tìm ra con đường loại bỏ đau khổ nơi trần
thế” [8;197].
ở tập truyện Tiếng thở dài qua rừng kim tước, ngoài thế giới những con
người đã đi vào huyền thoại, người đọc còn thấy ở đây hầu hết những thân
phận bất hạnh. Từ cuộc đời của cô bé Kamla (Đàn kiến) bị đem bán, cho đến
cuộc đày ải kéo dài cho đến hết đời cô thiếu nữ xinh đẹp Nilam (Tiếng thở dài
qua rừng kim tước) đã làm ám ảnh người đọc bằng một cảm giác: “Tiếng thở
dài qua rừng kim tước cứ hun hút luồn sâu vào trái tim người đọc một nỗi đau
không chịu đựng nổi và một câu hỏi không thể rời khỏi trí óc: có lẽ nào mọi
chuyện lại vẫn tiếp tục như thế được?” [8;320].
21
Sang đến Tự sự 265 ngày và Bốn lối vào nhà cười, hiện thực thay đổi

khiến cách nhìn, cảm hứng và sự thể hiện con người cũng thay đổi. Xuất hiện
chủ yếu trong sáng tác của Hồ Anh Thái giai đoạn này là những loại người hám
danh lợi, cơ hội và hãnh tiến (Phòng khách, Sân bay, Bóng ma trên hành
lang, Chim anh chim em…), những loại người nhỏ nhen, ích kỷ, đố kỵ (Mây
mưa mau tạnh, Tự truyện…), những loại người luôn ảo tưởng, kỳ vọng về tài
năng, nhan sắc của mình (Trại cá sấu, Tin thật lòng…), những loại người tha
hoá, biến chất, giả dối, đơm đặt (Cây hoàng lan hoá thành cây si, Chợ, Cả một
dây theo nhau đi…).
Sự xuất hiện với mật độ dày đặc kiểu loại nhân vật trên đã cho thấy Hồ
Anh Thái rất quan tâm đến thực trạng xuống cấp của đạo đức, nhân cách con
người trong xã hội hiện đại. Cái xã hội với nhiều người giàu lên nhanh chóng
nhưng cũng sa sút về đạo đức nhanh chóng, vì thế đã xảy ra bao chuyện bi hài.
Đây quả là vấn đề đáng lo ngại. Để có thể đạt được mục đích cá nhân, mà mục
đích đó nhiều khi tương phản với lợi ích xã hội, thậm chí còn là đối trọng với
những người gần gũi mình, con người sẵn sàng làm mọi việc. Sự nhố nhăng
của những kiểu người đó gợi cho chúng ta nhớ đến ngòi bút hoạt kê của Vũ
Trọng Phụng trong Số đỏ. Những Xuân tóc đỏ thời nay không phải tiến thân
bắt đầu từ việc nhặt banh ở sân quần vợt. Có trong mình phẩm chất du xuân
cho nên họ có thể thể hiện mình một cách xuất sắc ở hội hoạ, điện ảnh, ở việc
ham đi nước ngoài để tìm miền đất hứa, ở phòng khách, ở sân bay…
Chua xót đau đớn trong tiếng cười sắc lạnh, cười ra nước mắt. Song toát
lên từ những câu chuyện mất còn của cuộc đời, những câu chuyện nhân tình
thế thái dưới cái vỏ phê phán giễu cợt kia là niềm tin của tác giả vào cuộc đời.
Đó là điều Hồ Anh Thái muốn gửi gắm và cũng muốn gợi lên từ phía người
đọc.
Như vậy có thể thấy rằng, truyện ngắn của Hồ Anh Thái có một thế giới
nhân vật phong phú, đa dạng, trải ra trong một không gian rộng lớn, trên một
trục thời gian khá dài: có nhân vật thật của cuộc sống đời thường, có nhân vật
22
kỳ ảo; có nhân vật thuộc về quá khứ lịch sử, có nhân vật thuộc hiện tại hôm

nay; có nhân vật thuộc không gian đất nước dân tộc mình, có nhân vật thuộc
không gian đất nước khác, dân tộc khác. . .
Thế giới nhân vật đông đúc, sinh động ấy thể hiện quan niệm sống, cách
nhìn nhận, đánh giá con người cũng như tài năng nghệ thuật của Hồ Anh Thái.
Mỗi nhân vật là một cuộc đời, một số phận trong cuộc sống xã hội muôn màu,
muôn vẻ mà soi ngắm vào đó ta sẽ thấy những triết lý nhân sinh sâu sắc của nhà
văn .
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái thể hiện khả năng diễn tả
vừa cụ thể, vừa bao quát xã hội của tác giả. Nhà văn đã “hình dung cuộc sống
như những mảnh vỡ và nhận thấy ở đó sự xen cài của cái ác và cái thiện, cái cao
cả và thấp hèn, cái sang trọng đi liền với cái nhếch nhác, cái trong suốt xen lẫn
cái phàm tục” [7; 348]. Đây là cái nhìn “suồng sã” của tư duy nghệ thuật hiện
đại. Cho nên, Hồ Anh Thái không nhìn đời bằng cảm hứng lãng mạn thuần tuý
màu hồng mà nhìn nó như những mảnh vỡ. Đây có thể coi là yếu tố đầu tiên tạo
nên bản giao hưởng đời sống trong văn chương Hồ Anh Thái. Chân dung của
hiện thực trong văn Hồ Anh Thái vì thế bề bộn, nhiều góc khuất, nhiều trạng
thái, nhiều giá trị xấu tốt đan cài chứ không đơn điệu theo đúng quy phạm nghệ
thuật trong văn học một thời. Đó là hiện thực “phân mảnh” như các nhà văn hiện
đại vẫn thường nói đến. Đó vừa là cơ sở, vừa là kết quả của những sáng tạo nghệ
thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái. Nếu đem so sánh truyện ngắn với tiểu
thuyết (Người đàn bà trên đảo, Trong sương hồng hiện ra, Cõi người rung
chuông tận thế…), chúng ta có thể thấy tiểu thuyết dài nhưng phạm vi miêu tả
chưa hẳn đã đa dạng, linh hoạt như truyện ngắn. Đây là thế mạnh của truyện
ngắn hiện đại nói chung, truyện ngắn Hồ Anh Thái nói riêng. Có ý kiến có thể
còn chủ quan nhưng cơ bản đã khẳng định được thế mạnh của truyện ngắn: “Thế
kỷ XXI là thế kỷ của truyện ngắn, vì thơ, tiểu thuyết và kịch ngày một không thể
bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng trong đời sống tinh thần, vật chất của nhân
loại?” [22;3]. Raymond Carver- một trong những bậc thầy truyện ngắn thế giới
23
ghi nhận: “Ngày nay, ắt hẳn tác phẩm hay nhất, tác phẩm hấp dẫn và thoả mãn

nhất về nhiều mặt, thậm chí có lẽ tác phẩm có cơ hội lớn nhất để trường tồn,
chính là tác phẩm được viết dưới dạng truyện ngắn” [Dẫn theo 22;3].
1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái
Khi được hỏi :“Người ta cho rằng cái cuối cùng còn lại của văn xuôi là
nhân vật. Anh thấy có vấn đề gì không trước quan niệm phải có nhân vật “ở
lại” với người đọc…”, Hồ Anh Thái trả lời: “Nếu ta vẫn tiếp tục sử dụng
phương pháp truyền thống thì quan niệm phải có nhân vật là rất đúng. Nhưng
nhiều kiệt tác của văn xuôi hiện đại không có nhân vật theo đúng quan niệm
truyền thống… đâu còn “nhân vật đáng nhớ” theo kiểu cổ điển nữa… có
những cuốn chỉ khiến người ta nhớ một cảm giác: lang thang vô định, hoặc
ngột ngạt hoặc trong trẻo tuyệt vời. Có cuốn lại phảng phất một hương vị,
cuốn khác thì văn chương thay cho nhân vật…” [11;215].
Từ câu trả lời phỏng vấn trên, chúng ta có thể thấy được quan niệm của
Hồ Anh Thái về vấn đề xây dựng nhân vật trong tác phẩm có rất nhiều mới
mẻ. Xây dựng nhân vật là một quá trình tìm tòi và sáng tạo của nhà văn. Để
có được những nhân vật ấn tượng, có được chỗ đứng trong trái tim khối óc
của bạn đọc không phải dễ. M. Gorki có lần đã khuyên một nhà văn trẻ: “Anh
hãy bỏ nghề viết đi. Đấy không phải là việc của anh, có thể thấy rõ như thế.
Anh hoàn toàn không có khả năng miêu tả con người cho sinh động, mà đấy
lại là điều chủ yếu” [88;6].
Để xây dựng được một thế giới nhân vật sinh động, phong phú, hấp dẫn,
Hồ Anh Thái đã sử dụng nhiều phương tiện, nhiều thủ pháp nghệ thuật và tất
nhiên có một phần là năng khiếu (tài năng) nữa. Sau đây là những thủ pháp
tiêu biểu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của truyện ngắn Hồ Anh Thái.
1.2.1. Xây dựng nhân vật qua miêu tả ngoại hình, diện mạo và tên
gọi của nhân vật.
1.2.1.1. Xây dựng nhân vật qua miêu tả ngoại hình, diện mạo.
24
Chân dung- ngoại hình nhân vật là diện mạo của con người được miêu tả qua
trang phục và các yếu tố thể chất có tính đặc thù biểu hiện ra bên ngoài, như dáng

vẻ, màu da, khuôn mặt, ánh mắt, mái tóc, mũi, miệng, chân, tay. Chân dung- ngoại
hình nhân vật giúp người đọc phân biệt, nhận dạng bề ngoài con người nhân vật,
đồng thời là yếu tố nghệ thuật cần thiết để bước đầu xây dựng hình tượng nhân vật
trong tác phẩm. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình còn góp phần thể hiện tính cách
nhân vật mà như người xưa vẫn nói: “trông mặt mà bắt hình dong”, đồng thời
thể hiện quan niệm nghệ thuật của tác giả.. ở một số nhà văn như Ma Văn
Kháng, Nguyễn Minh Châu.., miêu tả ngoại hình, diện mạo được coi là một
trong những thủ pháp quan trọng để thể hiện tính cách và số phận nhân vật.
Nhưng, với Hồ Anh Thái việc miêu tả ngoại hình không phải là thủ pháp
chính, đắc địa. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, ngoại hình nhân vật lại
thể hiện được cái hồn, tính cách cũng như dự báo về số phận nhân vật.
ở tập truyện Tiếng thở dài qua rừng kim tước, những nhân vật người ấn
thường được Hồ Anh Thái chú ý miêu tả đó là cặp mắt. Bởi vì cặp mắt là nơi
ẩn chứa bao điều u uẩn, sâu lắng, phản ánh thế giới tâm hồn sâu thẳm của
người ấn. Bắt đầu từ những “cặp mắt biết nói” ấy, nhà văn đi vào khám phá
đời sống bên trong của nhân vật, thường là chất chứa bao uẩn khúc của những
số phận bất hạnh.
Trong truyện Đàn kiến, qua lời kể của cô tiếp viên hàng hàng không,
tên không tặc Gokhale có “gương mặt đẹp và u uất” như là dự báo về một
điều gì đó không bình thường: “Tôi đã thấy anh ta nhìn mình chăm chú.
Song lúc này tôi có cảm giác run rẩy rất lạ như đang bị đưa vào đầu ruồi
của một khẩu súng… Anh ta tiến tới, vẻ mặt như sắp sửa thực thi một nhiệm
vụ quan trọng, ánh mắt vu vơ hướng đi đâu đó, lảng tránh cái nhìn của tôi.
Lúc không lảng tránh được hai cái nhìn đụng vào nhau, thì hình như có một
cái gì giập vỡ, rơi loảng xoảng trong anh. Anh ta cụp mắt xuống, lúng túng
lách qua tôi để đi tiếp. ” [8;76].
25

×