Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Phương pháp luận nghiên cứu khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.57 KB, 8 trang )

TiÓu luËn m«n PPNC khoa häc MÉn Hoµng Huy
Bài kiểm tra
Môn: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học
Câu hỏi
Câu 1: Anh (chị ) hãy xây dựng một đề cương cho một đề tài chuyên ngành mà anh
( chị ) dự kiến nghiên cứu ?
Câu 2: Từ đề tài nghiên cứu của anh (chị) đã chọn, hãy đề xuất một ý tưởng khoa
học ? Chỉ rõ luận đề, luận cứ và luận chứng ?
Câu 3. Nội dung nghiên cứu này được rút ra từ luận đề, luận cứ hay luận chứng ?
Bài làm
Câu 1: Anh (chị) hãy xây dựng một đề cương nghiên cứu cho một đề tài
chuyên nghành mà anh chị dự kiến nghiên cứu.
Trả lời:
Đề tài:
NGHIÊN CỨU HÀM LƯỢNG DIỆP LỤC TỔNG SỐ VÀ HÀM LƯỢNG
PROLIN CỦA LÁ CÂY ĐẬU TƯƠNG TRONG ĐIỀU KIỆN GÂY HẠN
1. Tính cấp thiết của để tài
Ngày nay, ngành nông nghiệp của chúng ta đang rất phát triển, nó đã đóng
góp cho xã hội một lượng sản phẩm khổng lồ dùng làm lương thực , thực phẩm
cho con người, thức ăn cho gia súc, nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất.
Chúng ta cũng đang rất quan tâm tới việc phát triển những cây lương thực
thực phẩm có giá trị kinh tế cao.
Đâu tương (Glycine max) thuộc họ Đậu (Fabaceae) bộ Đậu (Fabales). Là
một cây thực phẩm có giá trị kinh tế cao, đồng thời cây đậu tương còn có tác
1
TiÓu luËn m«n PPNC khoa häc MÉn Hoµng Huy
dụng cải tạo đất rất tốt. Nó được coi là cây công nghiệp ngắn ngày đang được
trồng rất rộng rãi trên nhiều loại đất ở các địa phương và đem lại hiệu quả kinh tế
khá cao. Ở cây đậu tương, bộ phận được sử dụng chủ yếu là hạt. Hạt đậu tương
chứa hàm lượng protein cao (40% - 60%), chứa lượng lipit khá cao và một số
vitamin như B


1
, B
2
, PP, E… Ngoài ra, thân, là cây đậu tương cũng được sử dụng
làm phân xanh hay làm thức ăn cho gia súc, đặc biệt rễ cây đậu tương có rất
nhiều nốt sần có tác dụng trong việc cải tạo đất.
Đậu tương là câu trồng có khả năng tích ứng với nhiều phương thức canh
tác như luân canh, xen canh… nên có tác dụng nâng cao hệ số sử dụng đất trồng
và tăng hiệu quả kinh tế.
Với cây đậu tương, ngoài giá trị về dinh dưỡng và kinh tế, nó còn có tác
dụng quan trọng trong việc cải tạo đất trồng. Cũng như các cây họ đậu khác, rễ
của cây đậu tương cộng sinh với vi khuẩn cố định đạm Rhizobium. Nhờ vậy, mà
hàm lượng protein trong hạt và các bộ phận khác của cây cao hơn các loại cây
trồng khác. Sau khi thu hoạch đậu tương, thành phần hóa tích của đất được cải
thiện rất nhiều, đất được bổ sung một lượng đạm có lới cho cây trồng vụ sau.
Vì vậy, cây đậu tương hiện nay đang được trồng rất nhiều ở các quốc gia,
đặc biệt là những nước nghèo vùng nhiệt đới. Diện tích gieo trồng đậu tương trên
thế giới ngày càng tăng. Theo thống kê của tổ chức lương thực thế giới FAO năm
1992, diện tích đất trồng đậu tương đạt 54 – 56 triệu ha và sản lượng đạt 103 –
114 triệu tấn.
Ở Việt Nam, đậu tương được gieo trồng từ rất lâu, song với vai trò là cây
trồng phụ nhằm tận dụng đất đại, lao động. Đậu tương thường được trồng ở trên
các giải đất bạc màu trung du, nhưng do độ dốc và khả năng giữ nước kém cùng
với trở ngại trong việc tưới tiêu, hạn hán lại thường xuyên xảy ra nên năng suất
còn thấp và chỉ đạt 9,6 tạ/ha.
2
TiÓu luËn m«n PPNC khoa häc MÉn Hoµng Huy
Cho đến nay, có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về cây
đậu tương như: Nguyễn Văn Mã, Chu Hoàng Mậu, Nguyễn Huy Hoàng, Trần
Đình Long [3], [4], [5], [7] các nghiên cứu này chủ yếu về khả năng chịu hạn,

chọn tạo giống cho vùng núi. Tuy nhiên, hướng nghiên cứu về khả năng chịu hạn
của cây đậu tương trong điều kiện gây hạn nhân tạo, nhất là với một số giống mới
còn là vấn đề chưa được quan tâm đầy đủ.
Việc nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh hóa, liên quan đến khả năng chịu hạn
của cây trồng, đặc biệt là nghiên cứu chúng trong điều kiện gây hạn nhân tạo có
thể giúp đnh giá, tuyển chọn giống cây trồng có sức chống chịu tốt cho các vùng
đất khô hạn, bạc màu có tầm quan trọng và ý nghĩa thực tiễn to lớn.
Với những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn và tiến hành đề tài: “Nghiên
cứu hàm lượng diệp lục tổng số và hàm lượng prolin của lá cây đậu tương
trong điều kiện gây hạn”.
2. Mục tiêu của đề tài
Tìm hiểu sự tác động của điều kiện gây hạn nhân tạo tới sự biến đổi hàm
lượng axit amin prolin và hàm lượng diệp lục của cây đậu tương.
3. Nhiệm vụ của đề tài
Nghiên cứu sự biến đổi hàm lượng prolin trong lá cây đậu tương khi bị
hạn.
Nghiên cứu sự biến đổi hàm lượng diệp lục tổng số trong lá cây đậu tương
khi bị hạn.
4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Góp phần bổ sung nguồn tài liệu về việc nghiên cứu hàm lượng diệp lục
tổng số và hàm lượng prolin của lá cây đậu tương trong điều kiện gây hạn.
Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng để đánh giá khả năng chịu hạn của các
giống cây đậu tương.
3
TiÓu luËn m«n PPNC khoa häc MÉn Hoµng Huy
II. Dự kiến cấu trúc luận văn
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Vai trò của nước đối với thực vật nói chung và cây đậu tương nói riêng
1.1.1. Vai trò của nước đối với cây trồng
1.1.2. Vai trò của nước đối với đậu tương

1.2. Prôlin và vai trò của Prôlin trong quá trình trao đổi nước
1.3. Tình hình nghiên cứu về ảnh hưởng của hạn hán và vai trò của prôlin đối với
đậu tương
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
2.2.2. Phương pháp xác định các chỉ tiêu nghiên cứu
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
3.1. Hàm lượng diệp lục tổng số của lá đậu tương khi gây hạn
3.2. Hàm lượng prôlin của lá đậu tương khi gây hạn
III. KẾT LUẬN
Cây đậu tương là cây họ Đậu có giá trị về dinh dưỡng và giá trị kinh tế
cao. Hiện nay, cây đậu tương được gieo trồng ở Việt Nam với diện tích khá lớn,
nó cũng là một loại lương thực, thực phẩm nhiệt đới được trồng ở nhiều quốc gia
trên thế giới là các nước đang phát triển.
Qua kết quả nghiên cứu đánh giá sự biến đổi hàm lượng diệp lục tổng số
và hàm lượng prolin trong lá của 16 giống đậu tương khi bị hạn, chúng tôi rút ra
kết luận như sau:
Việc gây hạn không làm ảnh hưởng rõ rệt đến hàm lượng diệp lục tổng số
của tất cả 16 giống đậu tương. Gây hạn chỉ làm biến động hàm lượng này trên 4
giống ở thời điểm ra hoa trong đó có 3 giống ĐT26, VX92, D140 hàm lượng diệp
4
TiÓu luËn m«n PPNC khoa häc MÉn Hoµng Huy
lục tổng số tăng. Có duy nhất giống QX số 1 hàm lượng diệp lục tổng số giảm.
Sang thời kỳ quả non hàm lượng diệp lục tổng số biến động ở 4 giống trong đó
có 3 giống VX92, DT90, MA97 hàm lượng diệp lục tăng. Duy nhất giống D140
hàm lượng này giảm. Nhìn chung đa số các giống ở cả hai thời điểm ra hoa và
quả non có hàm lượng diệp lục không biến động hoặc biến động nhỏ không đáng
kể. Chứng tỏ những giống này có thể chịu đựng khá tốt trong điều kiện thiếu

nước.
Hàm lượng prolin ở thời điểm ra hoa cao hơn thời điểm quả non. Hạn hán
chỉ làm biến động hàm lượng prolin ở một số giống đậu tương. Sự biến động hàm
lượng này trong hai thời điểm ra hoa và quả non là không đồng nhất. Ở thời điểm
ra hoa sự gia tăng hàm lượng prolin ở các giống DT90, Đ2501, QX số 1, AK06.
Bên cạnh sự gia tăng ở các giống trên có hai giống lại biểu hiện suy giảm đó là
ĐVN5, DT96. Các giống còn lại sự thay đổi hàm lượng prolin là rất nhở. Sang
thời điểm quả non sự gia tăng hàm lượng prolin so vói đối chứng biểu hiện ở 4
giống, cao nhất là V74 và ở các giống DT96, ĐT26, D912. Bên cạnh những
giống có sự gia tăng hàm lượng prolin thì có một số giống ĐVN5 lại biểu hiện
suy giảm hàm lượng này giống như ở thời điểm ra hoa. Các giống còn lại sự biến
động hàm lượng prolin là rất nhỏ hoặc biến động không có ý nghĩa về mặt thống
kê.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Đích (2002), 265 giống cây trồng mới, Nxb Nông nghiệp Hà
Nội, trang. 217 – 222.
2. Điêu Thị Mai Hoa, Nguyễn Văn Mã (1995), “Ảnh hưởng của phân vi
lượng tới khả năng chịu hạn và hoạt động quang hợp ở các thời kỳ sinh trưởng và
phát triển khác nhau của cây đậu xanh”, Tạp chí Sinh học, T17, số 3, trang. 28 –
30.
5

×