Thống Kê Kinh Tế - Lp Cao hc QLKT K7
Phần I: Lời mở đầu
Việc phỏt trin kinh t-xó hi của nớc ta trong những năm qua c c nc
trin khai và tổ chức thực hiện tích cực nhằm thực hiện mục tiêu tổng quát, trong đó có
phục hồi tốc độ tng trng kinh t t mc ngày một cao hơn; tăng tính ổn định kinh tế
vĩ mơ; nâng cao chất lượng tăng trưởng; ngăn chặn lạm phát.
Tuy nhiªn, trong sản xuất và đời sống nhân dân gặp một số khó khăn do thiên tai
mưa lũ liên tiếp xảy ra; Trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức. Giá các hàng
hóa biến động phức tạp chủ yếu biến động theo chiều hướng tăng . Một số nền kinh tế
lớn mặc dù vừa phục hồi sau khủng hoảng tài chính tồn cầu nhưng đang tiềm ẩn nhiều
yếu tố rủi ro và bất ổn. Ở trong nước, lạm phát tăng cao, thời tiết diễn biến phức tạp,
dịch bệnh tiếp tục xảy ra trên cây trồng vật nuôi. Những yếu tố bất lợi trên tác động
mạnh đến hoạt động sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống dân cư.
Trước tình hình đó, Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã lãnh đạo, chỉ đạo và điều
hành quyết liệt các cấp, các ngành và địa phương tiếp tục thực hiện tốt các nhiệm vụ và
giải pháp đã đề ra, trọng tâm là các giải pháp và biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mơ. Do đó kinh tế-xã hi ca nc ta trong những năm qua nhỡn chung vn
t c nhng kt qu tớch cc.
Để có cái nhìn tỉng quan vỊ ph¸t triĨn kinh tÕ – x· héi của nớc ta trong những
năm gần đây ta sẽ nghiên cứu và phân tích tình hình kinh tế Việt Nam dựa trên một số
chỉ tiêu kinh tế nh : Tăng trởng kinh tế; Cán cân thơng mại; Thu chi ngân sách; Đầu
t, Lạm phát... của những năm gần đây. Song, vì thời gian nghiên cứu có hạn nên việc
nghiên cứu phân tích sẽ trọng tâm vào năm 2010 và định hớng năm 2011.
Phần II: Nội dung
I.Tng quan kinh t Vit Nam nm 2010 và quý 1 năm 2011
1.Tng trng kinh tế
Năm 2010, kinh tế của Việt Nam tiếp tục có sự phục hồi nhanh chóng sau tác động
của khủng hoảng kinh tế tồn cầu. Hình 1 cho thấy có cải thiện tốc độ tăng GDP theo
các quý trong năm 2010. Tốc độ tăng GDP quý I đạt 5,83%, quý II là 6,4%, quý III tăng
lên 7,14% và dự đoán quý IV sẽ đạt 7,41%. Uớc tính GDP cả năm 2010 có thể tăng
6,7%, cao hơn nhiệm vụ kế hoạch (6,5%). Trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn phục hồi
chậm chạp và trong nước gặp phải nhiều khó khăn, kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ
tăng trưởng tương đối cao như trên là một thành công. Với kết quả này tốc độ tăng
trưởng GDP cả giai đoạn 2006-2010 đạt bình qn 7%/năm và thu nhập quốc dân bình
Ngun ThÕ Ph¬ng
1
Thèng Kª Kinh TÕ - Lớp Cao học QLKT K7
quân đầu người năm 2010 ước đạt 1.160 USD.
Các chỉ số tăng trưởng cho các ngành cũng thể hiện một xu hướng phục hồi rõ rệt.
Công nghiệp tiếp tục là đầu tàu của tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Giá trị sản xuất công
nghiệp 9 tháng đầu năm tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2009 và năm 2010 ước tăng
14% so với năm 2009. So với khu vực công nghiệp thì khu vực dịch vụ cũng có sự phục
hồi sau khủng hoảng kinh tế thế giới những ở mức độ thấp hơn. Tốc độ tăng trưởng
trong 9 tháng đầu năm là 7,24% và triển vọng tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cả
năm 2010 có thể đạt 7,5%. Đối với lĩnh vực nơng nghiệp, năm 2010 gặp nhiều khó
khăn: đầu năm hạn hán nghiêm trọng, giữa năm nắng nóng gay gắt, cuối năm mưa lũ lớn
kéo dài ở miền Trung và Tây Nguyên. Những khó khăn này đã gây thiệt hại nặng nề cho
sản xuất vụ mùa, nuôi trồng thuỷ sản và chăn nuôi. Tuy nhiên, do thực hiện nhiều chính
sách và giải pháp hỗ trợ hộ nơng dân và các doanh nghiệp về vốn, vật tư, tiêu thụ kịp
thời, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 9 tháng đầu năm đã tăng 2,89% so với
cùng k nm 2009, và ớc cả năm 2010 tăng khoảng 2,8 %
Đến năm 2011 thì tng sn phm trong nc (GDP) quý I/2011 ước tính tăng
5,43% so với cùng kỳ năm 2010, bao gồm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng
2,05%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,47%; khu vực dịch vụ tăng 6,28%.
Trong tốc độ tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nơng, lâm nghiệp và
thuỷ sản đóng góp 0,24 điểm phần trăm; khu vực cơng nghiệp và xây dựng đóng góp
2,36 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ đóng góp 2,83 điểm phần trăm.
2.Đầu tư
Kinh tế phục hồi là một nguyên nhân quan trọng trong việc thúc đẩy đầu tư phát
triển. Nguồn vốn đầu tư toàn xã hội năm 2010 đã đạt được những kết quả tích cực. Ước
tính tổng đầu tư tồn xã hội năm 2010 đạt 800 nghìn tỷ đồng, tăng 12,9% so với năm
2009 và bằng 41% GDP. Trong đó, nguồn vốn đầu tư của tư nhân và của dân cư dẫn đầu
bằng 31,2% vốn đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn đầu tư nhà nước (gồm đầu tư từ ngân
sách nhà nước, nguồn trái phiếu Chính phủ, nguồn tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà
nước và nguồn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước) bằng 22,5%, tăng 4,7% so với
năm 2009. Những kết quả này cho thấy các nguồn lực trong nước được huy động tích
Ngun ThÕ Ph¬ng
2
Thèng Kª Kinh TÕ - Lớp Cao học QLKT K7
cực hơn. Về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tính đến hết tháng 11, cả nước thu
hút được 833 dự án mới với tổng số vốn đăng ký đạt 13,3 tỷ USD, bằng 60% so với
cùng kỳ năm 2009, trong đó vốn thực hiện ước đạt 10 tỷ USD, tăng 9,9%. Mặc dù vốn
FDI đăng ký có thấp hơn nhiều so với năm 2009 nhưng tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn
đăng ký lại cao hơn nhiều. Đây có thể được coi là điểm sáng trong thu hút FDI năm
2010. Điều này cũng cho thấy sự cam kết lâu dài các nhà đầu tư nước ngoài ở thị trường
Việt Nam. Tốc độ tăng vốn đầu tư cao và nhanh một mặt thể hiện quan hệ tích lũy – tiêu
dùng đã có sự chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, nhưng mặt khác lại cho thấy
những hạn chế trong hiệu quả đầu tư. Nếu như năm 1997, chúng ta đạt được tốc độ tăng
trưởng 8,2% với vốn đầu tư chỉ chiếm 28,7% GDP thì cũng với tốc độ tăng trưởng xấp
xỉ như vậy năm 2007 (8,5%) chúng ta phải đầu tư tới 43,1% GDP. Đến năm 2010, trong
khi tổng mức đầu tư tồn xã hội lên tới 41% GDP, thì tốc độ tăng trưởng lại chỉ đạt
6,7%. Chỉ số ICOR đã tăng tới mức quá cao, trên 8 so với 6,6 của năm 2008. Hệ số
ICOR của doanh nghiệp và đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân chỉ có 3-4, trong khi đó
ICOR của khu vực kinh tế nhà nước và từ đầu tư của nhà nước tới 9-10 1 . Bên cạnh đó
cịn xảy ra tình trạng chậm trễ trong giải ngân nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
và nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của
quá trình quản lý dự án đầu tư. Những đặc điểm này là đáng báo động về cả trước mắt
cũng như lâu dài.
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội theo giá thực tế thực hiện quý I năm 2011 ước
tính đạt 171,5 nghìn tỷ đồng, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm 2010, bao gồm vốn khu
vực Nhà nước 76,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 44,5% tổng vốn và tăng 15,2%; khu vực
ngồi Nhà nước 45,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 26,6% và tăng 28,5%; khu vực có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngồi 49,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 28,9% và tăng 3,8%.
Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước thực hiện quý I năm nay, vốn từ ngân
sách Nhà nước ước tính đạt 38,9 nghìn tỷ đồng, bằng 21,2% kế hoạch năm và tăng
19,6% so với cùng kỳ năm 2010, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 8148 tỷ đồng, bằng 19,5% kế hoạch năm và tăng
15,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông
Vận tải đạt 1333 tỷ đồng, bằng 18,1% và tăng 13,1%; Bộ Công thương 675 tỷ đồng,
bằng 16,5% và giảm 2,6%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 421 tỷ đồng,
bằng 11,5% và giảm 11%; Bộ Y tế 199 tỷ đồng, bằng 22,1% và tăng 2,1%; Bộ Xây
dựng 160 tỷ đồng, bằng 16,3% và giảm 8,5%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 149 tỷ đồng,
bằng 16,6% và giảm 1,8%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 101 tỷ đồng, bằng 18%
và giảm 0,9%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 30732 tỷ đồng, bằng 21,8% kế hoạch năm và tăng
20,9% so với cùng kỳ năm 2010. Một số địa phương có khối lượng vốn đầu tư thực
hiện lớn là: Hà Nội đạt 2533 tỷ đồng, bằng 12,6% kế hoạch năm và tăng 6,2% so với
cùng kỳ năm trước; Thành phố Hồ Chí Minh 2061 tỷ đồng, bằng 15,2% và tăng 6,9%;
Đà Nẵng 1579 tỷ đồng, bằng 46% và tăng 53,1%; Thanh Hóa 1260 tỷ đồng, bằng
25,9% và tăng 54,6%; Thừa Thiên-Huế 968 tỷ đồng, bằng 35,2% và tăng 23%; Bà RịaVũng Tàu 796 tỷ đồng, bằng 24,1% và tăng 12,1%; Hậu Giang 754 tỷ đồng, bằng
36,4% và tăng 50,2%.
Ngun ThÕ Ph¬ng
3
Thèng Kª Kinh TÕ - Lớp Cao học QLKT K7
Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 22/3/2011 đạt 2371,7
triệu USD, bằng 66,9% cùng kỳ năm 2010, bao gồm: Vốn đăng ký 2037,6 triệu USD
của 173 dự án được cấp phép mới (giảm 35,2% về vốn và giảm 41,4% về số dự án so
với cùng kỳ năm trước); vốn đăng ký bổ sung 334,1 triệu USD của 37 lượt dự án được
cấp phép từ các năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện quý I năm 2011
ước tính đạt 2540 triệu USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2010.
Trong quý I, cả nước có 20 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu
tư trực tiếp nước ngồi cấp phép mới, trong đó thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu về
vốn đăng ký với 1073,2 triệu USD, chiếm 52,7% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Ninh
Thuận 266 triệu USD, chiếm 13,1%; Đà Nẵng 235,7 triệu USD, chiếm 11,6%; Bình
Dương 138,5 triệu USD, chiếm 6,8%; Bà Rịa-Vũng Tàu 121,6 triệu USD, chiếm 6%.
Trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam quý I năm nay, Xinga-po là nhà đầu tư lớn nhất với 1078,9 triệu USD, chiếm 53% tổng vốn đăng ký cấp
mới; tiếp đến là Đặc khu HC Hồng Công (TQ) 326 triệu USD, chiếm 16%; Quần đảo
Virgin thuộc Anh 252,4 triệu USD, chiếm 12,4%; Hàn Quốc 168 triệu USD, chiếm
8,2%; Nhật Bản 96,9 triệu USD, chiếm 4,8%; Bru-nây 25 triệu USD, chiếm 1,2%.
3.Lạm phát và giá cả
Năm 2010 lạm phát có những diễn biến phức tạp. Từ đầu năm đến cuối tháng 8 chỉ
số giá tiêu dùng diễn biến theo chiều hướng ổn định ở mức tương đối thấp, trừ hai tháng
đầu năm CPI ở mức cao do ảnh hưởng bởi những tháng Tết. Tuy nhiên, lạm phát đã thực
sự trở thành mối lo ngại từ tháng 9 khi CPI tăng bắt đầu xu hướng tăng cao. Đến hết
tháng 11, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng tới 9,58% và mục tiêu kiềm chế lạm phát cả năm
dưới 8% mà Quốc hội đề ra sẽ không thực hiện được.
Lạm phát và giá cả của năm 2010 tăng cao xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Thứ
nhất, sự phục hồi của nền kinh tế làm cho nhu cầu các loại hàng hóa dịch vụ đều tăng
cao, cộng với thiên tai, lũ lụt ở các tỉnh miền Trung lại càng làm tăng nhu cầu về lương
thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng… Thứ hai, giá của một số mặt hàng nhập khẩu của
nước ta trên thị trường thế giới tăng lên do sự phục hồi của kinh tế tồn cầu làm tăng chi
4
Ngun ThÕ Ph¬ng
Thèng Kª Kinh TÕ - Lớp Cao học QLKT K7
phí sản xuất của nhiều doanh nhiệp. Thứ ba, việc điều chỉnh tỷ giá làm đồng tiền nội tệ
mất giá làm cho chi phí nhập khẩu tăng lên đẩy mặt bằng giá nhiều hàng hóa tăng theo.
Bên cạnh đó những nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát cao ở Việt Nam những năm
trước vẫn cịn. Đó là sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư cơng và trong hoạt động của
các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và tập đoàn lớn. Do vậy, kích cầu đầu tư thơng qua
nới lỏng tín dụng cho các DNNN và tập đồn cùng với thiếu sự thẩm định và giám sát
thận trọng cũng góp phần kích hoạt cho lạm phát trở lại. Sự điều chỉnh tăng lãi suất cơ
bản của ngân hàng nhà nước và sự gia tăng lãi suất cho vay của các ngân hàng thương
mại ở những tháng cuối năm 2010 sẽ tiếp tục gây sức ép làm tăng lạm phát không chỉ
những
tháng
cuối
năm
mà
có
thể
cả
trong
năm
2011.
4.Tỷ giá
Trong nhiều năm trở lại đây, Ngân hàng nhà nước (NHNN) kiên trì chính sách ổn
định đồng tiền Việt Nam so với đồng đô la Mỹ. Diễn biến tỷ giá trong năm 2010 là khá
phức tạp. Mặc dù NHNN đã điều chỉnh nâng tỷ giá liên ngân hàng hai lần vào tháng 2
và tháng 10, khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do ln ở
mức cao. Tỷ giá chính thức có thời điểm thấp hơn tỷ giá trên thị trường tự do tới 10%.
Đến cuối tháng 11 năm 2010, tỷ giá trên thị trường tự do đã đạt mức 21.500 đồng/USD.
Hình vÏ trªn cho thấy về cuối năm tỷ giá càng biến động và mất giá mạnh, thị
trường ngoại hối ln có biểu hiện căng thẳng. Những bất ổn về tỷ giá có nguyên nhân
sâu xa từ những bất ổn về kinh tế vĩ mơ đó là bội chi cao, nhập siêu lớn và hiệu quả đầu
tư công thấp… làm cho cầu ngoại tệ luôn lớn hơn cung ngoại tệ. Bên cạnh đó hiện tượng
đầu cơ và tâm lý cũng gây áp lực mạnh mẽ lên tỷ giá. Những bất ổn trên thị trường
ngoại hối và tỷ giá hối đoái đã tiếp tục gây ra những khó khăn cho hoạt động xuất nhập
khẩu. Hơn nữa, đồng tiền mất giá còn ảnh hưởng đến lạm phát trong nước do giá hàng
nhập khẩu tăng mạnh. Trong bối cảnh lạm phát có xu hướng gia tăng và tính khơng ổn
Ngun ThÕ Ph¬ng
5
Thèng Kª Kinh TÕ - Lớp Cao học QLKT K7
định trên thị trường tiền tệ, địi hỏi cần phải có sự lựa chọn linh hoạt cơ chế điều hành tỷ
giá để đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ.
Quý 1/2011: Chỉ số giá vàng tháng 3/2011 tăng 5,0% so với tháng 2/2011; tăng
4,58% so với tháng 12/2010; tăng 41,27% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ
tháng 3/2011 tăng 3,06% so với tháng trước; tăng 3,70% so với tháng 12/2010; tăng
12,05% so với cùng kỳ năm 2010.
5.Thu chi ngân sách
Năm 2010, tình hình kinh tế trong nước chuyển biến tích cực đã tạo điều kiện để
tăng thu ngân sách nhà nước. Thu ngân sách nhà nước năm 2010 ước đạt 520.100 tỷ
đồng, vượt 12,7% so với dự toán, tăng 17,6% so với năm 2009, và đạt tỷ lệ động viên
vào ngân sách nhà nước là 26,7%. Mặc dù tỷ trọng thu nội địa có tăng nhưng chiếm tỷ
trọng khơng lớn (khoảng 60%). Việc chấp hành kỷ luật ngân sách không nghiêm, thất
thu, gian lận, nợ đọng thuế, kể cả thuế nội địa và thuế xuất nhập khẩu còn lớn. Số nợ
thuế chờ xử lý (chiếm hơn 20% tổng số nợ thuế) tăng khá nhiều. Đây là dư địa quan
trọng để tăng thu ngân sách và giữ kỷ cương luật pháp về ngân sách nhà nước. Tổng chi
cân đối ngân sách nhà nước ước đạt 637.200 tỷ đồng, tăng 9,4% so với dự toán và tăng
9% so với thực hiện năm 2009. Bội chi ngân sách năm 2010 ước khoảng 117.100 tỷ
đồng, bằng khoảng 5,95% GDP, giảm so với năm 2009 (6,9%) và cũng giảm so với kế
hoạch đề ra (6,2%). Đó là những kết quả rất đáng khích lệ trong bối cảnh nền kinh tế
vừa trải qua cơn suy giảm. Tuy nhiên, bội chi ngân sách vẫn còn cao (chưa về mức dưới
5% như đã duy trì trong nhiều năm) và là một trong những nhân tố góp phần làm gia
tăng lạm phát. Điều này cũng cảnh báo độ an toàn của ngân sách trong các năm tiếp theo
nếu như khơng chủ động có các biện pháp cải cách để tạo nền tảng tăng nguồn thu cũng
như tăng cường kỷ luật tài chính cho ngân sách.
Ngun ThÕ Ph¬ng
6
Thống Kê Kinh Tế - Lp Cao hc QLKT K7
Năm 2011 th× tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/3/2011 ước tính bằng
21,2% dự tốn năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 22,3%; thu từ dầu thô bằng
21,4%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 18%. Trong thu nội địa,
thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 23,2%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi (khơng kể dầu thô) bằng 20,3%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài
Nhà nước bằng 22,6%; thuế thu nhập cá nhân bằng 21,5%; thu phí xăng dầu bằng 19,2%;
thu phí, lệ phí bằng 14,4%. Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/3/2011 ước
tính bằng 18,9% dự tốn năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 21,4%; chi phát triển
sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính bằng 19,8%; chi trả
nợ và viện trợ bằng 19,5%.
5.Xuất nhập khẩu và cán cân thương mại
Năm 2010, xuất nhập khẩu khẩu của Việt Nam có nhịp độ tăng trưởng đáng khích
lệ trong bối cảnh kinh tế của những nước vốn là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam
như Mỹ, Nhật Bản, EU… vẫn phục hồi chậm chạp. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm
2010 ước đạt khoảng 70,8 tỷ USD, tăng 24,9% so với năm 2009. Xuất khẩu tăng là do
sự đóng góp lớn của những mặt hàng công nghiệp chế biến cộng với sự phục hồi của
kinh tế thế giới làm cho xuất khẩu hàng nông, lâm, thủy sản được lợi về giá. Vấn đề tồn
tại lớn nhất của xuất khẩu đã bộc lộ trong nhiều năm qua là việc vẫn phụ thuộc nhiều
vào các mặt hàng khống sản, nơng, lâm, thuỷ, hải sản, dệt may, da giầy… Hơn nữa, các
mặt hàng công nghiệp ch bin vn mang tớnh cht gia cụng.
Bảng 1a: Trị giá và hàng xuất khẩu sơ bộ năm 2010
Tr giỏ và mặt hàng xuất khẩu sơ bộ năm 2010
Tên hàng
ĐVT
Sơ bộ năm 2010
Lượng
Trị giá (1000 USD)
Tổng số
T/đó: Khu vực có vốn ĐTTTNN
Kể cả dầu thơ
Khơng kể dầu thơ
Nhóm/Mặt hàng chủ yếu
Hàng hải sản
Hàng rau quả
72191879
39086498
34128918
1000 USD
"
Ngun ThÕ Ph¬ng
5016297
450543
7
Thèng Kª Kinh TÕ - Lớp Cao học QLKT K7
Hạt điều
Cà phê
Chè
Hạt tiêu
Gạo
Sắn và các sản phẩm từ sắn
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc
Than đá
Dầu thô
Xăng dầu các loại
Quặng và khống sản khác
Hóa chất
Các sản phẩm hóa chất
Chất dẻo nguyên liệu
Sản phẩm từ chất dẻo
Cao su
Sản phẩm từ cao su
Túi xách, ví, vaili, mũ & ơ dù
Sản phẩm mây, tre, cói & thảm
Gỗ và sản phẩm gỗ
Giấy và các sản phẩm từ giấy
Hàng dệt may
Giày dép các loại
Sản phẩm gốm, sứ
Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm
Sắt thép các loại
Sản phẩm từ sắt thép
Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh liện
Máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng khác
Dây điện & dây cáp điện
Phương tiện vận tải và phụ tùng
Tàu thuyền các loại
Phụ tùng ô tô
Hàng hố khác
Tấn
"
"
"
"
"
1000 USD
Tấn
"
"
"
1000 USD
"
Tấn
1000 USD
Tấn
1000 USD
"
"
"
"
"
"
"
"
"
Tấn
1000 USD
"
"
"
"
"
"
"
194622
1217868
136515
116859
6886177
1700440
19827839
7976883
1951061
2133528
148421
782213
1280107
1134740
1851358
199979
421403
3247860
564290
326128
1610692
4957580
1346378
155779
222850
416434
219080
1049295
2388225
290964
958694
203109
3435574
374477
11209676
5122259
316933
368363
2823970
1049773
827836
3590167
3056563
1311104
1577689
510148
798300
10095818
Ngn: Tỉng cơc thèng kª.
Như vậy, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa
xây dựng được các ngành cơng nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành
chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn.
Ngun ThÕ Ph¬ng
8
Thống Kê Kinh Tế - Lp Cao hc QLKT K7
Bảng 1b: Xuất nhập khẩu giai đoạn 2006 2010 (Tỷ USD)
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cán cân TM
2006
39,82
44,89
-5,06
2007
48,56
62,76
-14,2
2008
62,68
80,71
-18,02
2009
56,6
68,8
-12,2
20010
70,8
82,6
-11,8
Nguồn: Tổng cục Thống kê và Báo cáo của Bộ Công Thơng
Tng kim ngch nhp khu năm 2010 ước đạt 82,6 tỷ USD, tăng 19,8% so với năm
2009. Nguyên nhân chính của sự gia tăng nhập khẩu là do kinh tế có sự phục hồi làm gia
tăng nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất (chiếm khoảng 80% cơ cấu nhập
khẩu). Mặc dù cả kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu đều tăng, nhưng do tốc
độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao hơn tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu, nên nhập siêu
năm 2010 giảm xuống chỉ còn khoảng 11,8 tỷ USD, chiếm 16,6% tổng kim ngạch xuất
khẩu. Như vậy, so với những năm gần đây cán cân thương mại đã có sự cải thiện đáng
kể, thể hiện quyết tâm của chính phủ trong việc kiềm chế nhập khẩu những mặt hàng
không cần thiết. Song mức nhập siêu vẫn còn cao cho thấy việc phát triển các ngành
công nghiệp phụ trợ và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu vẫn còn chậm.
Quý 1 năm 2011 thì kim ngch hng húa xut khu thỏng 3/2011 ước tính đạt 7,1 tỷ
USD, tăng 45,4% so với tháng trước và tăng 26% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung
q I/2011, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 19,2 tỷ USD, tăng 33,7% so với cùng kỳ
năm trước, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 8,8 tỷ USD, tăng 40,1%; khu vực có
vốn đầu tư nước ngồi (kể cả dầu thơ) đạt 10,4 tỷ USD, tăng 28,7%. Kim ngạch hàng
hóa xuất khẩu quý I tăng cao một mặt do lượng xuất khẩu tăng, mặt khác do đơn giá
xuất khẩu một số mặt hàng tăng. Một số mặt hàng có đơn giá xuất khẩu tăng cao là: Giá
cao su tăng 70%; hạt tiêu tăng 60%; cà phê tăng %; hạt điều tăng 37,8%; than đá tăng
56%...Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì kim ngạch xuất khẩu quý I đạt 17,5 tỷ USD, tăng
21,7% so với cùng kỳ năm 2010. Trong hai tháng đầu năm, Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất
khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 2,1 tỷ USD, chiếm 16,9% tổng kim ngạch
xuất khẩu, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước, tiếp đến là các thị trường: ASEAN 1,7 tỷ
USD, tăng 15,6%; Trung Quốc 1,3 tỷ USD, tăng 60,9%; Nhật Bản 1,2 tỷ USD, tăng 17,5%.
Quý I năm nay, một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD đạt mức tăng
cao là: Hàng dệt may đạt 2,8 tỷ USD, tăng 27,9% so với cùng kỳ năm trước; dầu thô 1,6
tỷ USD, tăng 15,7%; giày dép đạt 1,3 tỷ USD, tăng 29,7%; thủy sản đạt 1,1 tỷ USD,
tăng 30,5%; cà phê đạt 1 tỷ USD, tăng 115,1%. Một số mặt hàng xuất khẩu khác có kim
ngạch tương đối lớn đạt mức tăng khá là: Gạo đạt 849 triệu USD, tăng 7,3%; gỗ và sản
phẩm gỗ đạt 816 triệu USD, tăng 9,2%; điện tử máy tính đạt 791 triệu USD, tăng 13,1%;
máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 782 triệu USD, tăng 20,1%; cao su 774 triệu
USD, tăng 134,1%.
Ngun ThÕ Ph¬ng
9
Thèng Kª Kinh TÕ - Lớp Cao học QLKT K7
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 3/2011 ước tính đạt 8,2 tỷ USD, tăng 37,6% so
với tháng trước và tăng 20,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2011, kim
ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 22,3 tỷ USD, tăng 23,8% so với cùng kỳ năm 2010, bao
gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 12,8 tỷ USD, tăng 20,7%; khu vực có vốn đầu tư nước
ngồi đạt 9,5 tỷ USD, tăng 28,4%. Nhìn chung, nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng phục vụ
sản xuất trong nước vẫn tăng cao, trong đó máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 3,4
tỷ USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm trước; xăng dầu đạt 2,4 tỷ USD tăng 53,8%;
sắt thép đạt 1,3 tỷ USD, tăng 18%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 1,3 tỷ USD, tăng
29,7%; vải đạt 1,4 tỷ USD, tăng 42%; chất dẻo đạt 1,1 tỷ USD, tăng 40,1%; nguyên phụ
liệu dệt may giày dép đạt 623 triệu USD, tăng 22,1%. Nhập khẩu ôtô quý I đạt 734 triệu
USD, tăng 20,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ơtơ ngun chiếc đạt 262 triệu
USD, tăng 62,2%.Tương tự như xuất khẩu, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu quý I tăng
do cả yếu tố lượng tăng và giá nhập khẩu một số mặt hàng trên thị trường thế giới tăng.
Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì kim ngạch hàng hóa nhập khẩu q I tăng 14,7% so với
cùng kỳ năm trước.Về thị trường nhập khẩu hàng hóa, Trung Quốc tiếp tục là thị trường
lớn nhất với kim ngạch nhập khẩu hai tháng đầu năm là 3,1 tỷ USD, tăng 25% so với
cùng kỳ năm trước; ASEAN 2,7 tỷ USD, tăng 22%; EU 935 triệu USD, tăng 5,3%; Nhật
Bản 1,4 tỷ USD, tăng 25%; Hoa Kỳ 605 triệu USD, tăng 30%. Nhập siêu tháng 3/2011
ước tính 1,15 tỷ USD, bằng 16,3% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Nhập siêu quý I là 3
tỷ USD, bằng 15,7% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.
6.Cán cân thanh tốn
Nếu như năm 2009, cán cân thanh toán tổng thể thâm hụt 8,8 tỷ USD, thì năm 2010
đã có sự cải thiện đáng kể. Phần thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai năm 2010 trên thực
tế có thể được bù đắp hoàn toàn bởi thặng dư trong cán cân tài khoản vốn. Tuy nhiên, dự
báo cán cân thanh toán năm 2010 vẫn thâm hụt khoảng trên 2 tỷ USD do phần “lỗi và
sai sót” trong cán cân tài khoản vốn gây ra. Thực tế, tình trạng căng thẳng trên thị trường
ngoại hối và việc giá vàng liên tục leo thang khiến doanh nghiệp và người dân găm giữ
đô la và vàng. Như vậy, việc bố trí lại danh mục đầu tư của doanh nghiệp và người dân
sang các loại tài sản bằng ngoại tệ và vàng sẽ tiếp tục gây ra vấn đề “lỗi và sai sót” và
thâm hụt trong cán cân thanh tốn trong năm 2010. Bên cạnh đó, mặc dù cán cân thanh
toán được cải thiện trong năm 2010, lượng dự trữ ngoại hối vẫn không tăng một mặt do
Ngân hàng nhà nước can thiệp vào thị trường để giữ ổn định tỷ giá, mặt khác có một
lượng ngoại tệ lớn đang lưu thơng ngồi hệ thống ngân hng.
Bảng 2: Cán cân thanh toán giai đoạn 2008 - 2010
Nội dung
Cán cân thơng mại vÃng lai
- Cán cân thơng mại
- Dịch vụ phi yếu tố
- Thu nhập từ đầu t
- Chuyển giao
Cán cân tài khoản vốn
2008
2009
-11,9
-14,2
-1,0
-4,9
8,1
13,7
Nguyễn Thế Phơng
2010
-8,0
-8,9
-1,2
-4,9
7,0
12,3
-9,0
-10,5
-1,6
-3,7
6,7
11,7
10
Thèng Kª Kinh TÕ - Lớp Cao học QLKT K7
- FDI (ròng)
10,3
7,4
- Vay trung và dài hạn
1,1
4,8
- Vốn khác (ròng)
2,9
-0,1
- Đầu t theo danh mục
-0,6
0,1
Lỗi và sai sót
-1,2
-13,1
Cán cân thống kê
0,5
-8,8
7,3
2,5
0,4
1,5
0,0
2,7
Nguồn: Ngân hàng thế giới (KwaKwa,2010)
7.N cụng
n nm 2010, n nước ngoài của Việt Nam ước khoảng 42,2% GDP và tổng nợ
cơng đã vượt q 50% GDP. Theo phân tích của IMF (2010), Việt Nam vẫn ở mức rủi ro
thấp của nợ nước ngoài nhưng cần lưu ý rằng khoản nợ này chưa tính đến nợ của các
doanh nghiệp nhà nước khơng được chính phủ bảo lãnh. Hơn nữa, vấn đề ở đây không
chỉ là tỷ lệ nợ so với GDP mà cả quy mô và tốc độ của nợ nước ngồi và nợ cơng của
Việt Nam gần đây đều có xu hướng tăng mạnh. Nếu năm 2001, nợ cơng đầu người là 144
USD thì đến năm 2010 lên tới 600 USD, tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 18%.
Nợ công tăng nhanh trong khi thâm hụt ngân sách lớn và hiệu quả đầu tư công thấp đặt ra
những lo ngại về tính bền vững của nợ cả trong ngắn hạn và dài hạn. Điều này cũng đặt
ra yêu cầu cấp thiết của việc cần tăng cường quản lý và giám sát nợ công một cách chẽ và
nâng cao hiệu quả vốn vay ở Việt Nam.
Ngun ThÕ Ph¬ng
11
Thèng Kª Kinh TÕ - Lớp Cao học QLKT K7
II. Những thách thức của kinh tế Việt Nam năm 2011 và khuyến nghị chính sách
1.Những thách thức của kinh tế Vit Nam nm 2011
Qua những gì đà phân tích ở trên về tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay ta có thể
khẳng định :Trin vng kinh t Vit Nam năm 2011 phụ thuộc vào ba yếu tố chính: tình
hình kinh tế thế giới, sức mạnh nội tại và ổn định kinh tế vĩ mô trong nước và sự điều
hành của Chính phủ. Tuy nhiên bên cạnh những thời cơ, thuận lợi thì cũng đặt ra nhiều
thách thức cho cả ba yếu tố trên. Trong ngắn hạn, năm 2011 sẽ tiếp tục chứng kiến sự
phục hồi ở những nền kinh tế trên thế giới. Hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế sẽ
được hồi phục nhanh hơn sau khi có sự phục hồi chậm trong năm 2010. Hơn nữa, Việt
Nam vẫn được đánh giá là một trong những thị trường đầu tư hấp dẫn và nhiều doanh
nghiệp đầu tư nước ngồi có kế hoạch mở rộng hoạt động kinh doanh trong những năm
tới. Những điều này tạo ra những ảnh hưởng tích cực trực tiếp lên nền kinh tế Việt Nam
để có thể duy trì tăng trưởng khả quan hơn trong năm 2011. Tuy nhiên, xuất khẩu của
Việt Nam sẽ chịu thách thức lớn hơn, nhất là trong bối cảnh hậu khủng hoảng những rào
cản thương mại mới ngày càng nhiều với các hành vi bảo hộ thương mại tinh vi tại các
thị trường lớn sẽ dành cho các mặt hàng xuất khẩu, nhất là các mặt hàng chủ lực của
Việt Nam như khống sản, nơng, lâm, hải sản. Đối với trong nước, những bất ổn vĩ mô
và những yếu kém trong nội tại nền kinh tế sẽ trở thành thách thức lớn cho phát triển
kinh tế năm 2011. Trước hết, những nhân tố tiềm ẩn lạm phát vẫn tiếp tục trong năm
2011. Đó là giá cả thị trường thế giới sẽ tăng khi kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi, chính
sách điều chỉnh tăng lương vào tháng 5/2011 sẽ tạo ra tâm lý và lý do để thị trường tăng
giá hàng hóa tiêu dùng, tỷ giá biến động, đầu tư công chưa hiệu quả và bội chi ngân sách
tiếp tục gây sức ép lên lạm phát…
NguyÔn ThÕ Ph¬ng
12
Thèng Kª Kinh TÕ - Lớp Cao học QLKT K7
Thứ hai, mặc dù tình trạng nhập siêu đã được cải thiện nhưng chưa tạo được nền
tảng vững chắc. Tình trạng này chắc chắn không dễ giải quyết trong ngắn hạn khi cơ cấu
kinh tế kém hiệu quả, công nghiệp phụ trợ yếu kém và nguyên phụ liệu, máy móc, thiết
bị, phụ tùng còn phụ thuộc khá nặng nề vào nước ngoài.
Thứ ba, bội chi ngân sách cũng là áp lực cần giải quyết. Với mức bội chi cao và nếu
nguồn vốn bù đắp ngân sách chủ yếu từ thị trường vốn trong nước, mặt bằng lãi suất sẽ
chịu áp lực của nhu cầu vốn, mà đầu tiên là lãi suất tiền gửi ngân hàng… Bội chi vẫn là
thách thức khi chưa có những biện pháp nghiêm khắc và cụ thể để giải quyết thông qua
việc nâng cao hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước và tiết kiệm chi thường xuyên.
Trong bối cảnh thâm hụt, cơ cấu chi, hiệu quả chi và khả năng kiểm soát chi thể hiện
dấu hiệu thiếu bền vững của ngân sách bởi các khoản chi tiêu của chính phủ khơng tạo
nên nguồn thu trong tương lai và gây sức ép cho bội chi mới.
Thứ tư, đồng nội tệ sẽ tiếp tục bị áp lực giảm giá trong thời gian tới vì lạm phát của
Việt Nam luôn ở mức cao hơn so với khu vực và thế giới và NHNN không thể dùng dự
trữ ngoại hối ít ỏi để can thiệp mạnh theo nhu cầu vì cần ngoại tệ để giải quyết các nhu
cầu thiết yếu khác. Thứ năm, những “nút thắt” của tăng trưởng kinh tế như cơ sở hạ
tầng, trình độ nguồn nhân lực và cải cách hành chính vẫn chưa có sự chuyển biến rõ rệt.
Điều này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin của các nhà đầu tư trong và ngồi
nước mà cịn cản trở lớn đến tăng trưởng kinh tế theo hướng hiệu quả và bền vững trong
năm 2011 và các năm tiếp theo.
Về điều hành kinh tế vĩ mô, hiện nay chúng ta dựa trên 3 công cụ chính để tác
động đến nền kinh tế, đó là chính sách tài khố, chính sách tiền tệ và chính sách cán cân
thanh toán. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các chính sách đó cịn lúng túng và thiếu linh hoạt.
Nhiều chính sách mang nặng tính hành chính và thiếu kết hợp với các giải pháp dựa
trên nguyên tắc thị trường. Hơn nữa, các cơ quan quản lý nhà nước cịn đưa ra các giải
pháp mang tính tình thế, giật cục, thiếu sự minh bạch và nhất quán làm giảm lòng tin của
nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp. Năng lực dự báo kém cộng với dự kiến các biện
pháp ứng phó với diễn biến kinh tế thấp kém cũng là những hạn chế quản lý vĩ mô nền kinh tế.
2.Khuyến nghị chính sách
Năm 2011 có tầm quan trọng đặc biệt đối với phát triển kinh tế – xã hội của Việt
Nam, bởi đây là năm đầu tiên thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 20112015 và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2011- 2020. Đồng thời cũng là
năm tiền đề để Việt Nam chuyển sang thực hiện chương trình tái cấu trúc và chuyển đổi
mơ hình tăng trưởng nhằm nâng cao sức cạnh tranh và chất lượng tăng trưởng của nền
kinh tế. Vì thế, cần có các giải pháp chính sách khơng chỉ cho năm 2011 mà cịn cả
trong những năm tiếp theo:
Ngun ThÕ Ph¬ng
13
Thèng Kª Kinh TÕ - Lớp Cao học QLKT K7
Thứ nhất, đặt ưu tiên vào ổn định kinh tế vĩ mô. Nhiệm vụ điều hành ổn định kinh
tế vĩ mô trong thời gian tới tiếp tục rất phức tạp và khó khăn, địi hỏi Chính phủ và các
cơ quan chức năng phải bám sát tình hình, có những chính sách, giải pháp chỉ đạo điều
hành kịp thời và linh hoạt. Các định hướng chính sách kinh tế vĩ mơ của chính phủ trong
cả năm cần được cơng bố ngay từ đầu năm để cho người dân và doanh nghiệp được biết.
Những dự kiến thay đổi cụ thể về chính sách ở từng thời điểm cụ thể trong năm chỉ nên
công bố khi chắc chắn sẽ thực hiện. Cùng với thông tin về quyết định chính sách, các
thơng tin kinh tế vĩ mô (như nhập siêu, bội chi ngân sách, dự trữ ngoại hối, cán cân
thanh toán, nợ quốc gia…) phải được công khai, minh bạch ở mức cần thiết để người
dân và doanh nghiệp tránh bị động trong sản xuất kinh doanh. Cần có cơ chế phối hợp
đồng bộ, tồn diện hơn nữa giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là sự phối kết
hợp chặt chẽ ngay từ khâu hoạch định chính sách tiền tệ, chính sách tài khố, chính sách
tỷ giá và các chính sách khác để giải quyết và đạt được các mục tiêu kiềm chế lạm phát,
ổn định thị trường ngoại tệ. Chính phủ cũng cần nâng cao năng lực dự báo và tăng
cường phối hợp trao đổi thông tin giữa các cơ quan dự báo và cơ quan giám sát để đảm
bảo thống nhất khi công bố.
Thứ hai, đảm bảo ổn định các cân đối vĩ mô. Đối với vấn đề bội chi ngân sách,
chính phủ cần xác định rõ lộ trình và giải pháp cho việc giảm bội chi và tiến tới cân đối
ngân sách một cách tích cực. Cần cải cách lại cơ chế cấp phát ngân sách và kiểm soát
chặt chẽ các khoản chi nhằm đảm bảo chi ngân sách có hiệu quả. Chi ngân sách cần gắn
liền với cơng khai, minh bạch và dân chủ. Xây dựng và áp dụng cơ chế thưởng phạt
cũng như xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong quản lý, điều hành ngân sách nhà
nước. Đối với vấn đề kiểm soát nhập siêu, cần đặt trong tổng thể của tất cả các chính
sách từ chính sách tài khóa, tiền tệ đến chính sách tỷ giá, từ việc chuyển đổi cơ cấu xuất
khẩu đến phát triển các ngành cơng nghiệp phụ trợ vì nhập siêu bản chất là vấn đề cơ
cấu kinh tế.
Thứ ba, thực hiện các giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng và hấp thụ vốn đầu tư
của nền kinh tế. Để thực hiện điều này, cần tập trung vào tái cơ cấu doanh nghiệp Việt
Nam, đặc biệt là các DNNN, theo hướng rà soát lại hệ thống doanh nghiệp DNNN, kiên
quyết cắt bỏ các DNNN làm ăn thua lỗ. Bên cạnh đó, cần nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư, đặc biệt là nguồn đầu tư từ ngân sách. Nghiên cứu lại việc phân bổ và sử
dụng nguồn lực theo hướng nguồn lực cần phải được phân bổ đến những ngành có độ
lan tỏa lớn, có giá trị gia tăng cao. Ưu tiên hỗ trợ những doanh nghiệp có phương án
kinh doanh khả thi và những doanh nghiệp có khả năng tiếp cận được với cơng nghệ
hiện đại để giúp họ trang bị lại thiết bị, cải tiến công nghệ nhằm bắt kịp với nền sản xuất
của thế giới.
Thứ tư, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh. Khi cùng chung sống
trong một môi trường kinh tế và chính sách kinh tế, các doanh nghiệp dù là doanh
nghiệp nhà nước hay ngoài nhà nước cần có được sự bình đẳng như nhau về cơ hội kinh
14
Ngun ThÕ Ph¬ng
Thèng Kª Kinh TÕ - Lớp Cao học QLKT K7
doanh. Hơn nữa, khi nền kinh tế ngày càng thị trường hóa sâu hơn địi hỏi phải tách biệt
giữa chức năng kinh doanh và chức năng hỗ trợ chính sách kinh tế của khu vực doanh
nghiệp nhà nước. Điều này sẽ vừa nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp này vừa
khơng gây ra những méo mó trong nền kinh tế. Ở khía cạnh khác, để tạo mơi trường đầu
tư minh bạch có tính cạnh tranh, cần tách biệt vai trị của chính phủ là chủ sở hữu ra
khỏi vai trị điều hành chính sách.
Thứ năm, để đảm bảo tăng trưởng trước mắt cũng như lâu dài cần giải quyết các
“nút thắt” của nền kinh tế, đó là cơ sở hạ tầng và công nghiệp phụ trợ yếu kém; chất
lượng nguồn nhân lực thấp; hệ thống tài chính cịn bất ổn và mang tính đầu cơ; bộ máy
hành chính cồng kềnh, kém hiệu quả. Thực tế cho thấy, việc thực hiện các chính sách để
giải quyết các “nút thắt” này ln mang lại những tín hiệu tốt cho dài hạn và khơng làm
méo mó tồn bộ nền kinh tế trong ngắn hạn. Do vậy, một khi nền kinh tế đã phục hồi trở
lại, cần chuyển sang ưu tiên tập trung giải ta cỏc nỳt tht trờn.
phần III: Kết luận
Nguyễn Thế Phơng
15
Thèng Kª Kinh TÕ - Lớp Cao học QLKT K7
Mặc dù đạt được một số kết quả tích cực ở một số ngành, lĩnh vực nhưng hoạt
động sản xuất kinh doanh thời gian tới sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức khi lạm phát
đang ở mức cao. Do đó, để giảm lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã
hội, các cấp, các ngành, các địa phương cần tiếp tục chỉ đạo thực hiện tốt Nghị quyết
số 11/NQ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2011 của Chính phủ, tập trung vào một số nội
dung trọng tâm sau đây:
- Tăng cường kiểm soát chặt thị trường giá cả các mặt hàng thiết yếu phục vụ
sản xuất và đời sống dân sinh như: Xi măng, sắt thép, phân bón, điện, than, sữa,
thuốc chữa bệnh… Kiểm soát và ngăn cấm tình trạng xuất khẩu lậu một số loại
hàng hóa ảnh hưởng mạnh đến biến động chỉ số giá tiêu dùng như: Xăng, dầu,
thực phẩm… gây tình trạng khan hiếm hàng hóa trên thị trường trong nước. Kiên
quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Tiếp tục mở rộng đối tượng tham gia
chương trình bình ổn giá tại các địa phương, đồng thời bổ sung các mặt hàng trong
danh mục bình ổn và thực hiện điều chỉnh giá bán linh hoạt và phù hợp với diễn biến
của thị trường.
-Tiếp tục thực hiện kiểm tra, rà sốt tồn bộ các dự án đầu tư từ nguồn vốn ngân
sách và trái phiếu Chính phủ đã được bố trí vốn năm 2011, qua đó xác định cụ thể
những cơng trình, dự án khơng cấp thiết để có hướng chỉ đạo ngừng, đình hỗn hoặc
giãn tiến độ thực hiện trong năm nay.
-Ngân hàng cần có chính sách lãi suất linh hoạt và phù hợp, vừa bảo đảm lợi ích
cho các đối tượng có tiền gửi, vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp duy trì, phát triển
sản xuất kinh doanh. Tăng cường quản lý ngoại hối và kiểm soát chặt chẽ hoạt động
kinh doanh vàng. Xử lý kiên quyết và nghiêm các trường hợp bn lậu vàng và đơ la.
Khẩn trương có quy định cụ thể về việc kinh doanh vàng miếng nhằm sớm ổn định thị
trường vàng trong nước.
-Các ngân hàng thương mại cần ưu tiên cho vay ngoại tệ nhập khẩu các mặt hàng
thiết yếu phục vụ sản xuất mà trong nước chưa có hoặc cịn thiếu; hạn chế cho vay
ngoại tệ nhập khẩu những mặt hàng xa xỉ và hàng tiêu dùng trong nước đã sản xuất được.
-Thùc hiện kịp thời và đầy đủ việc trợ giá tiền điện cho các đối tượng được
hưởng. Tăng cường huy động các nguồn lực giúp đỡ người nghèo. Đẩy mạnh việc vận
động nhân dân cả nước hưởng ứng phong trào tương trợ, chia sẻ với những hồn cảnh
khó khăn. Thực thi tốt các chính sách an sinh xã hội, gắn với thực hiện chương trình
xố đói, giảm nghèo bền vững. Tạo điều kiện để hộ nghèo và gia đình chính sách được
tiếp cận nguồn vốn vay với lãi suất hợp lý, nhất là ở các lĩnh vực cho vay phát triển
sản xuất, giải quyết vic lm v xut khu lao ng.
Khẳng định, kinh tế Việt Nam trong những năm qua không thể không gặp phải
những khó khăn nhất định do ảnh hởng từ nền kinh tế thế giới, do điều kiện khách
quan mang lại và một phần cũng là do nguyên nhân chủ quan cđa chÝnh chóng ta. Nhng kinh tÕ ViƯt Nam, nỊn kinh tế thị trờng có sự điều tiết của nhà nớc đang từng bớc,
từng bớc khắc phục những khó khăn và mặt trái của nền kinh tế thị trờng để ngày một
phát triển bền vững, ổn định và đạt tới mục tiêu là nền kinh tế Chủ Nghĩa XÃ Hội./.
Nguyễn ThÕ Ph¬ng
16