Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

DỰ ÁN "TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CHO NGÀNH NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN - SCARDSII"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.57 KB, 69 trang )

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

DỰ ÁN "TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CHO
NGÀNH NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN - SCARDSII"
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
ĐÁNH GIÁ SỰ PHÙ HỢP CỦA CHÍNH SÁCH
NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM VỚI CÁC QUI ĐỊNH TRONG
HIỆP ĐỊNH KHU VỰC VÀ ĐA PHƯƠNG

Tháng 1, 2005
Báo cáo cuối cùng
1
MỤC LỤC
Giới thiệu ..............................................................................................................4
cHƯƠNG 1 - CÁC QUI ĐỊNH TRONG HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI KHU
VỰC VÀ đa PHƯƠNG vỀ NÔNG NGHIỆP.......................................................6
..............................................................................................................................6
I.ATFA..............................................................................................................6
II.wto.................................................................................................................7
1.Hiệp định nông nghiệp (AoA)....................................................................7
2.Hiệp định SPS và Hiệp định TBT ...........................................................13
3.Doanh nghiệp thương mại Nhà nước (STEs)...........................................16
4.Sở hữu trí tuệ trong Thương mại Nông nghệp .......................................17
CHương 2 - chính sách nông nghIỆP HIỆN HÀNH CỦA VIỆT NAM VÀ
NHỮNG MÂU THUẪN TIỀM Ẩn VỚI CÁC NGHĨA VỤ THỰC HIỆN........20
I.Tình hình thực hiện AFTA của Việt Nam ...................................................20
II.Thuế quan trong nông nghiệp .....................................................................21
III.Các biện pháp phi thuế quan .....................................................................24
IV.Hỗ trợ trong nước ......................................................................................27
V.Hỗ trợ xuất khẩu .........................................................................................30
4. Doanh nghiệp thương mại nhà nước ..........................................................32


VI.Những qui định về kiểm dịch ....................................................................34
VII.Các qui định về sở hữu trí tuệ trong nông nghiệp ....................................36
CHƯƠNG 3 – KHÓ KHĂN MÀ NHỮNG NƯỚC đang GIA NHẬP GẶP PHẢI
.............................................................................................................................38
CHƯƠNG 4 – KẾT LUẬN VÀ khuyẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH ......................49
Báo cáo cuối cùng
2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
AMS Tổng khối lượng hỗ trợ gộp
AOA Hiệp định Nông nghiệp
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CEPT Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
Codex Ủy ban An toàn thực phẩm
DCs Các nước đang phát triển
DSU Cơ quan giải quyết tranh chấp
FAO Tổ chức Nông Lương của Liên hợp quốc
GATS Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ
GATT Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
GEL Danh mục loại trừ hoàn toàn (trong khuôn khổ CEPT)
GOV Chính phủ Việt Nam
GSO Tổng cục Thống kê
HS Danh mục Hài hòa hàng hóa
IL Danh mục cắt giảm ngay (trong khuôn khổ CEPT)
IOE Văn phòng dịch tễ quốc tế
IP Sở hữu trí tuệ
IPPC Công ước Bảo vệ thực vật quốc tế
IPRs Quyền sở hữu trí tuệ
LDCs Các nước kém phát triển
MARD Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

MFN Đối xử tối huệ quốc
MPI Bộ Kế hoạch và Đầu tư
NT Đãi ngộ quốc gia
NTBs Các rào cản phi thuế
QRs Hạn chế định lượng
SCM Các biện pháp trợ cấp và đối kháng
SL Danh mục nhạy cảm (trong khuôn khổ CEPT)
SPS Vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch
SSG Tự vệ đặc biệt
STEs Doanh nghiệp thương mại Nhà nước
S&DT Đối xử đặc biệt và khác biệt
TBT Hàng rào kỹ thuật trong thương mại
TEL Danh mục loại trừ tạm thời (trong khuôn khổ CEPT)
TRIMs Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
TRIPs Các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
UAPs Các nông sản chưa qua chế biến (trong khuôn khổ CEPT)
WIPO Tổ chức về quyền sở hữu trí tuệ thế giới
WB Ngân hàng thế giới
WTO Tổ chức thương mại thế giới
WTO Agreement Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới
Báo cáo cuối cùng
3
Giới thiệu
Ngày nay, “Hội nhập”đã trở thành một khái niệm quen thuộc ở Việt Nam trong thời kỳ
đất nước đang thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu thông qua các hiệp định
thương mại khác nhau. Hội nhập với nền kinh tế thế giới đã trở thành một chiến lược trọng yếu
của Chính phủ Việt Nam khi đất nước đang từng bước nhận thức được tầm quan trọng của việc
mở cửa. Những thành tựu đạt được trong 18 năm kể từ khi thực hiện công cuộc Đổi mới đã cho
thấy rằng hội nhập kinh tế thế giới là một trong những động lực chính để thúc đẩy tăng trưởng
bền vững nền kinh tế đất nước.

Nước ta đang trong tiến trình hội nhập với khu vực và thế giới. Quá trình này đã được
đánh dấu bởi các sự kiện đáng nhớ như năm 1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức
của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và 3 năm sau vào năm 1998-là thành viên
của Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC). Cũng vào thời điểm đó, Việt
Nam đã chuẩn bị các tài liệu và tiến hành đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) từ năm 1995. Hiện nay, Hiệp định thương mại song phương với Mỹ đã có hiệu lực
trong khi đó theo cam kết thực hiện AFTA (Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN) mức thuế ở đại
đa số các dòng thuế (khoảng 95%) đối với hàng nhập khẩu ASEAN giảm xuống hầu hết là 20%
bắt đầu từ năm 2003 với mục tiêu đến năm 2006 đa số các dòng thuế ở mức 0-5%. Ngoài ra,
Việt Nam đã tích cực triển khai các vòng đàm phán đa phương cũng như song phương với các
nước thành viên của WTO. Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần khẳng định những cam kết của
mình với tất cả những nỗ lực để có thể gia nhập WTO vào cuối năm 2005.
Nằm trong phạm vi cam kết của Việt Nam về những hiệp định thương mại này, nông
nghiệp là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất và thu hút được nhiều sự quan tâm. Bằng
việc tham gia các hiệp định thương mại song phương và đa phương, Việt Nam sẽ thực hiện cam
kết các điều khoản của những hiệp định này và để ngành nông nghiệp chịu sự cạnh tranh trong
khuôn khổ các qui định về thương mại. Như vậy, các chính sách, hoạt động và thậm chí là cơ
cấu tổ chức của Chính phủ sẽ được cộng đồng quốc tế xem xét một cách kỹ lưỡng vì chúng
phải phù hợp với các nguyên tắc và qui định của WTO cũng như các tổ chức thương mại khu
vực khác.
Cùng với nỗ lực của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (MARD) về sửa đổi các
qui định và chính sách liên quan đến nông nghiệp, mục đích của báo cáo này là tăng cường sự
hiểu biết về các chính sách nông nghiệp Việt Nam từ đó xác định cụ thể những chính sách nào
có thể tạo ra mâu thuẫn với qui định trong các hiệp định thương mại khu vực và đa phương.
Mục tiêu tổng quát của báo cáo là đề xuất những sửa đổi về mặt chính sách, pháp luật phù hợp
với những nghĩa vụ mà Việt Nam sẽ phải thực hiện với các đối tác thương mại của mình và
đồng thời thúc đẩy sự phát triển bền vững cho ngành nông nghiệp của đất nước.
Chương 1 của báo cáo mô tả một bức tranh tổng thể về các nghĩa vụ Việt Nam phải
thực hiện khi gia nhập Khu vực Thương mại Mậu dịch Tự do ASEAN cũng như các qui định
Báo cáo cuối cùng

4
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) liên quan đến nông nghiệp. Chương 2 mô tả các qui
định và văn bản luật hiện hành về nông nghiệp và cố gắng chỉ ra những mâu thuẫn tiềm ẩn nào
có thể xảy ra. Chương 3 miêu tả những khó khăn mà các nước đang đàm phán gia nhập gặp
phải kể từ khi tổ chức WTO ra đời. Chương cuối cùng trình bày những khuyến nghị về sửa đổi
các qui định, chính sách ở cấp độ quốc gia nhằm thúc đẩy sự phát triển nền nông nghiệp Việt
Nam và phù hợp với cam kết quốc gia trong các hiệp định thương mại.

Báo cáo cuối cùng
5
CHƯƠNG 1 - CÁC QUI ĐỊNH TRONG HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI KHU VỰC VÀ ĐA
PHƯƠNG VỀ NÔNG NGHIỆP

I. ATFA
Tháng 7/1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các Quốc gia khu vực
Đông Nam Á (ASEAN). Cho đến nay, ASEAN vẫn là diễn đàn khu vực về hợp tác kinh tế quan
trọng nhất của Việt Nam. Lĩnh vực trọng tâm của hợp tác ASEAN là Khu vực Mậu dịch Tự do
ASEAN (AFTA). Mục tiêu chính là giảm thuế nhập khẩu trong AFTA xuống còn 0-5% và dỡ
bỏ tất cả những hạn chế về thương mại khác, đặc biệt là hàng rào phi thuế quan cho hầu hết các
nhóm hàng được trao đổi giữa các nước ASEAN đến năm 2003 đối với các nước thành viên cũ
(đối với Việt Nam là 2006, Lào và Myanmar là 2008 và Campuchia là 2009).
Nội dung cơ bản của AFTA là cam kết giảm thuế cho các mặt hàng thương mại nội khối theo
Chương trình Ưu đãi Thuế quan có Hiệu lực chung (CEPT). Hiệp định thực hiện CEPT đưa ra
một cơ chế để cắt giảm dần thuế quan theo mục tiêu này, xác định ra bốn nhóm ngành hàng như
sau:
♦ Danh mục cắt giảm thuế (IL) bao gồm các sản phẩm mà mức thuế cho những sản phẩm
này sẽ phải giảm xuống 0-5% vào tháng 1/2003 (cho Việt Nam là 2006). Để đảm bảo
một chương trình cắt giảm thuế quan diễn ra đều đặn, không dồn vào cuối giai đoạn,
các mức thuế đã được thống nhất là phải được giảm ít nhất 3 năm 1 lần và mỗi lần cắt
giảm tối thiểu là 5%;

♦ Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) bao gồm các nhóm hàng loại trừ tạm thời khỏi việc
cắt giảm thuế nhưng từng bước sẽ phải đưa vào trong IL theo 5 bước bằng nhau trong
giai đoạn 5 năm từ 1/1/1996 đến 1/1/2000 (từ năm 1999 đến 2003 áp dụng với Việt
Nam);
♦ Riêng sản phẩm Nông nghiệp chưa qua chế biến (UAPs) ngoài việc được đưa vào danh
mục IL và TEL như các sản phẩm khác thì còn có Danh mục Nhạy cảm (SL). UAPs
trong Danh mục Nhạy cảm sẽ phải tham gia vào CEPT vào năm 2010 đối với các nước
thành viên cũ. Lịch trình cụ thể vẫn tiếp tục được đàm phán;
♦ Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) bao gồm các loại hàng hoá mà cuối cùng sẽ được
loại trừ khỏi việc thực hiện cắt giảm thuế.
Một đặc điểm quan trọng khác của AFTA đó là sự tiếp cận toàn diện để giải quyết những vấn
đề thương mại khác ngoài thuế quan. Những cam kết và lĩnh vực hợp tác quan trọng là: hài hoà
hoá danh mục thuế quan; cải tiến công tác định giá hải quan; xoá bỏ các rào cản phi thuế; hài
hoà hoá các tiêu chuẩn sản phẩm và sự thừa nhận đa bên về giấy chứng nhận sản phẩm; tự do
hoá thương mại trong lĩnh vực dịch vụ, dỡ bỏ các hạn chế trong giao dịch ngoại hối gây ảnh
Báo cáo cuối cùng
6
hưởng đến trao đổi hàng hoá thuộc chương trình CEPT và tạo ra một khu vực đầu tư thông
thoáng.
Ngoài chương trình cắt giảm thuế quan, dỡ bỏ những hạn chế định lượng (QRs) và các rào cản
phi thuế (NTBs) cũng là những nội dung quan trọng trong CEPT. Hiệp định này yêu cầu ngay
lập tức phải xoá bỏ QRs đối với tất cả các sản phẩm thuộc IL ngay khi sản phẩm tham gia
CEPT. Tất cả NTBs khác, kể cả phí hải quan và những hạn chế kỹ thuật sẽ được xoá bỏ dần
trong một giai đoạn kéo dài 5 năm sau khi sản phẩm tham gia CEPT. Phí hải quan và tiêu chuẩn
kỹ thuật được ưu tiên xem xét bởi sự phổ biến của chúng trong khối ASEAN. Phí hải quan là
phí biên giới cộng với thuế hải quan thông thường được áp dụng để lấy doanh thu hoặc trong
một số trường hợp có thể tăng cường bảo hộ các ngành sản xuất trong nước. Tất cả phí hải quan
gây ảnh hưởng đến các mặt hàng trong CEPT đều được yêu cầu phải dỡ bỏ đến cuối năm 1996.
Các hàng rào kỹ thuật là những qui định và tiêu chuẩn về chất lượng, độ an toàn, kiểu dáng,
đóng gói, thử nghiệm và dán nhãn sản phẩm. Những hàng rào kỹ thuật dưới dạng các tiêu

chuẩn này sẽ được hài hoà hoá (nếu không sẽ bị xoá bỏ) không muộn hơn năm 2003.
II. WTO
Tháng 7/1994, Việt Nam trở thành quan sát viên của Hiệp định chung về thuế quan và Thương
mại (GATT) – Tổ chức tiền thân của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), và đến tháng 1/1995
đã chính thức đệ đơn xin gia nhập WTO. Việt Nam gia nhập WTO sẽ tạo nền móng cho sự phát
triển chính sách thương mại khi đất nước bước sang thế kỷ 21. Rõ ràng là, để đáp lại những lợi
ích thu được và cơ hội tiếp cận lớn hơn với thị trường của các nước thành viên WTO tạo ra cho
các nhà xuất khẩu của những nước gia nhập (nếu không là ngay lập tức thì sau đó thông qua các
vòng đàm phán), gia nhập WTO sẽ liên quan đến nhiều thay đổi về mặt chính sách sao cho phù
hợp với các qui định, cũng như một số cam kết nhằm tạo ra cơ hội tiếp cận lớn hơn cho các
thành viên WTO vào thị trường Việt Nam về hàng hoá, dịch vụ và vốn. Lĩnh vực chính mà
trong đó các chính sách về nông nghiệp của Việt Nam sẽ cần phải phù hợp với qui định và
nghĩa vụ WTO liên quan đến ba trụ cột trong Hiệp định Nông nghiệp của WTO, bao gồm
những biện pháp làm bóp méo nhập khẩu, xuất khẩu và sản xuất trong nước.
Trong các qui định của WTO, có hai nguyên tắc cơ bản nhất là Tối huệ quốc (MFN) và Đãi ngộ
Quốc gia (NT). Điều khoản MFN qui định thuế quan và các nguyên tắc khác sẽ được áp dụng
sao cho không có bất kỳ sự phân biệt nào giữa các quốc gia thành viên của WTO. Trong khi đó,
Đãi ngộ Quốc gia cấm các quốc gia có sự phân biệt giữa hàng nhập khẩu với hàng sản xuất
trong nước về thuế hải quan, phí, thuế trong nước hoặc áp dụng bất kỳ qui định nội bộ nào.
1. Hiệp định nông nghiệp (AoA)
Phạm vi chính sách trong Hiệp định nông nghiệp của WTO là rất rộng. Ngoại việc tác động đến
thương mại, nó ảnh hưởng đến chính sách quản lý sản xuất, quan hệ sản xuất, chính sách xã
hội. Và từ đó hình thành nên chính sách tổng thể về nông nghiệp và phát triển nông thôn. Các
Báo cáo cuối cùng
7
vấn đề về bảo hộ, hỗ trợ và trợ cấp trong nông nghiệp vẫn là những vẫn đề đang được bàn cãi
trong GATT trước đây và WTO. Từ đầu những năm 50, GATT đã cố gắng áp dụng những
nguyên tắc cơ bản trong nông nghiệp, nhưng rõ ràng là đã thất bại. Tại các Vòng đàm phán
thương mại đa phương Kennedy (1963-1967) và Tokyo (1973) đã mang lại những kết quả rất
hạn chế về nông nghiệp. Chỉ đến Vòng Uruguay (1986-1994) mới đạt được những bước đột

phá căn bản do các quốc gia đã cam kết mạnh mẽ việc đưa các qui tắc điều chỉnh thương mại
nông nghiệp vào trong khuôn khổ các qui tắc áp dụng cho thương mại thế giới.
Một trong những kết quả đáng kể đạt được trong Vòng đàm phán Uruguay (UR) là bắt đầu đưa
các chính sách nông nghiệp vào thành khuôn khổ các qui định của GATT tương tự như với
những chính sách áp dụng cho các sản phẩm công nghiệp. Hiệp định Nông nghiệp tại Vòng
Uruguay bao gồm 3 nội dung chính: giảm trợ cấp xuất khẩu trong nông nghiệp, tăng cường mở
cửa thị trường nhập khẩu, và cắt giảm trợ cấp cho các nhà sản xuất trong nước mang tính bóp
méo thương mại.
Mục tiêu chính của Hiệp định là cải cách lại các nguyên tắc, luật lệ, chính sách nông nghiệp
cũng như giảm bớt những bóp méo trong thương mại nông nghiệp gây ra bởi cơ chế bảo hộ
nông nghiệp và hỗ trợ trong nước. Những công cụ bảo hộ này đã được áp dụng mạnh trong
những thập kỷ gần đây, nhất là ở các quốc gia phát triển nhằm bảo hộ ngành nông nghiệp của
mình từ áp lực mở cửa thị trường.
Để làm được điều này, mục đích của Hiệp định là hạn chế những chính sách tạo bóp méo trong
sản xuất và thương mại nông nghiệp ở phạm vi toàn cầu. Những chính sách này có thể được
chia thành 3 lĩnh vực như sau: những hạn chế về tiếp cận thị trường, hỗ trợ trong nước và trợ
cấp xuất khẩu. Mỗi lĩnh vực chính sách này được trình bày lần lượt trong các Điều và Phụ lục
khác nhau trong các Hiệp định, và được đề cập trong phần nội dung Hiệp định là:
1) Tiếp cận Thị trường (Điều 4);
2) Cam kết về Hỗ trợ trong nước (Điều 6); và
3) Cam kết về Trợ cấp Xuất khẩu (Điều 9).
Những Điều khoản trên và các Điều, Phụ lục đi kèm đã xác định những chính sách nào thuộc
lĩnh vực nào, và đề ra những nguyên tắc xây dựng chính sách ở những lĩnh vực đó. Cần phải
nhấn mạnh rằng Hiệp định này là một văn bản pháp luật và như vậy những định nghĩa trong đó
là mang tính khách quan.
Tuy nhiên, cũng có những lĩnh vực đã không được định nghĩa một cách rõ ràng và như vậy có
thể gây ra sự hiểu nhầm, đặc biệt là cho những nước đang gia nhập WTO. Hiệp định Nông
nghiệp có những điều khoản ràng buộc về mặt pháp lý và là kết quả từ những nỗ lực mong đạt
được sự đồng thuận từ những quan điểm khác nhau rõ rệt của các nước thành viên. Ý nghĩa của
chúng đôi khi là không hẳn đã rõ ràng. Chính vì vậy, một chính sách hỗ trợ trong nước mà một

số nhà quan sát/chuyên gia có thể hiểu là có tác động bóp méo thương mại thì trong Hiệp định
lại có thể được định nghĩa như là không có tác động như vậy. Đơn cử như một số biện pháp hỗ
Báo cáo cuối cùng
8
trợ trong nước thuộc Hộp xanh lam mà một số nước phát triển đang áp dụng có thể gây tranh
cãi về tác động bóp méo đối với thương mại và sản xuất nông nghiệp.
Biểu nhân nhượng quốc gia
Sự tập trung và mối quan tâm nhiều nhất hiển nhiên là thuộc về ba lĩnh vực xây dựng chính
sách đã được chỉ ra, nhất là những vấn đề này được trình bày một cách cụ thể ở các phần trong
AoA. Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng Hiệp định này không phải là văn bản có tính pháp lý duy
nhất ra đời từ Vòng đàm phán Uruguay về nông nghiệp. Mặc dù AoA đưa ra những qui tắc và
định nghĩa cơ bản về xây dựng chính sách nhưng bên trong nó vẫn không bao gồm những cam
kết định lượng rõ ràng cho từng quốc gia và từng ngành hàng. Thay vào đó, những cam kết
mang tính chất định lượng này là đối tượng chính được đưa ra trong Vòng Uruguay lại được
quy định và đề ra trong Biểu nhân nhượng mà mỗi quốc gia ký kết Hiệp định phải đệ trình.
Biểu nhân nhượng gồm cam kết của chính phủ mỗi nước thành viên, trên cơ sở từng mặt hàng
về quan điểm của nước đó với các vấn đề quan tâm (thuế quan và phi thuế quan, hỗ trợ trong
nước và trợ cấp xuất khẩu) trước khi đi vào thực hiện các điều khoản trong AoA, kèm theo một
chương trình thể hiện cách thức thực hiện các điều khoản này.
Biểu nhân nhượng là một phần không thể thiếu trong Hiệp định Nông nghiệp, và các từ ngữ cụ
thể để thể hiện các cam kết cũng được bao gồm trong Biểu nhân nhượng: ví dụ như để giảm
thuế cho những mặt hàng cụ thể ở mức xác định trong một khoảng thời gian qui định. Ngay khi
những cam kết này được đưa ra, các nước thành viên có nghĩa vụ pháp lý phải thực hiện những
cam kết này.
(i) Mở cửa thị trường
Các điều khoản và cam kết được qui định trong Hiệp định Nông nghiệp và Biểu nhân nhượng
về mở cửa thị trường bao gồm một số nội dung quan trọng tạm thời được chia ra thành những
lĩnh vực dưới đây:
- Thuế hóa, là nghĩa vụ chuyển tất cả những rào cản phi thuế (NTBs) đối với thương
mại thành thuế quan tương ứng.

- Các điều khoản về mở cửa thị trường, trong đó bắt buộc các quốc gia giảm thuế
nhập khẩu và nếu cần thiết áp dụng hạn ngạch để mở cửa thị trường .
- Các điều khoản tự vệ đặc biệt và đối xử đặc biệt về những trường hợp được miễn
giảm khi thực hiện các cam kết trên.
Thuế hoá và Giảm thuế
Thuế hoá, hay nói cách khác là thay thế các NTBs bằng thuế quan, là một cơ chế quan trọng để
đưa nông nghiệp vào trong khuôn khổ của GATT.
Hành động này làm cho các chính sách thương mại nông nghiệp phù hợp với nguyên tắc của
GATT về tính minh bạch, và về lâu dài là xoá bỏ một số tác động bóp méo mà NTBs tạo ra
Báo cáo cuối cùng
9
trong thương mại. Hiệp định có những điều khoản sau đây: (i) Yêu cầu các quốc gia chuyển tất
cả NTBs hiện đang áp dụng sang thuế quan tương ứng được thiết lập trong một giai đoạn cơ sở;
(ii) Yêu cầu các quốc gia có cam kết ràng buộc thuế áp dụng cho các sản phẩm nông nghiệp,
điều này có nghĩa là mức thuế trong tương lai áp dụng cho một sản phẩm nào đó không thể
vượt quá mức cam kết trong Biểu nhân nhượng đối với sản phẩm này. Nếu một quốc gia mong
muốn tăng mức thuế cao hơn mức trần đã cam kết, quốc gia đó sẽ phải đàm phán lại với các
nước thành viên có quan tâm và có thể phải chấp nhận một nhân nhượng tương ứng; (iii)
Không khuyến khích áp dụng lại NTBs.
Từ mức thuế cam kết làm cơ sở, các nước phát triển phải giảm thuế 36% theo bình quân và
mục tiêu là giảm tối thiểu 15% của mỗi dòng thuế trong giai đoạn thực hiện là 6 năm kể từ năm
1995. Với những nước đang phát triển, các cam kết tương ứng về cắt giảm là 24% và 10%
trong vòng 10 năm.
Các cam kết khác về mở cửa Thị trường
Các điều khoản về tiếp cận thị trường được qui định nhằm khuyến khích phát triển thương mại
và duy trì các thị trường xuất khẩu hiện tại. AoA định ra những tiêu chí để giữ vững các cơ hội
tiếp cận thị trường mà các nước phải đáp ứng sau khi thay đổi thuế quan: (i) các cơ hội tiếp cận
hiện tại (được định nghĩa là khối lượng hàng nhập khẩu bằng mức nhập khẩu trung bình của
giai đoạn cơ sở 1986-1988 sẽ được duy trì); và (ii) tạo ra các cơ hội tiếp cận tối thiểu (được
định nghĩa là không được thấp hơn 3% mức tiêu thụ nội địa đối với sản phẩm đó trong giai

đoạn cơ sở vào năm 1995, sau đó tăng lên 5% vào cuối năm 2000 với những nước phát triển và
đến cuối năm 2004 cho các nước đang phát triển). Các điều khoản về tiếp cận thị trường này
không áp dụng cho hàng hoá là sản phẩm chủ lực truyền thống của một nước đang phát triển.
Những cơ hội mở cửa thị trường được đưa ra trong Vòng đàm phán Uruguay nhằm khuyến
khích nhập khẩu các sản phẩm mà trước đây được bảo hộ bằng NTBs thông qua sử dụng hạn
ngạch thuế quan (TRQs). TRQ là hệ thống thuế 2 mức tức là một mức thuế thấp sẽ được áp
dụng cho một lượng hàng nhập khẩu nhất định (trong phạm vi hạn ngạch), nếu lượng hàng
nhập khẩu vượt quá mức hạn ngạch này sẽ phải chịu mức thuế MFN thông thường.
Trong khi mục đích ban đầu của hệ thống TRQ là hỗ trợ các nhà nhập khẩu, thì nay ngày càng
có nhiều nước đang đàm phán gia nhập coi TRQs như là một biện pháp phù hợp với AoA để
kiểm soát khối lượng nhập khẩu. Nhận thức này có thể đúng phần nào khi xem xét quá trình
thực hiện TRQs không ấn tượng lắm từ năm 1995. Tỷ lệ thực hiện hạn ngạch cho các sản phẩm
nhạy cảm đã ở mức rất thấp. Trung bình khoảng 30% hạn ngạch do 36 nước thành viên ®Þnh ra
trong tổng số cam kết TRQs đã không được nhập khẩu. Gần đây, các nước thành viên WTO là
những quốc gia có nông sản là mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã không khuyến khích những nước
đang gia nhập đưa ra bất kỳ một cam kết TRQs nào thay vì cố gắng bảo vệ thị phần bằng cách
nhận phân bổ hạn ngạch song phương.
Điều khoản Tự vệ Đặc biệt (SSG)
Báo cáo cuối cùng
10
Bên cạnh quyền áp dụng các biện pháp tự vệ để hạn chế làn sóng nhập khẩu làm tổn hại đến
sản xuất trong nước theo Điều XIX của GATT-1994, Hiệp định về Nông nghiệp cho phép các
nước thành viên WTO được sử dụng các biện pháp hạn chế đặc biệt được gọi là các Biện pháp
Tự vệ Đặc biệt (SSG) mà không yêu cầu phải chỉ ra sự tổn hại nào đến sản xuất trong nước
miễn là rào cản phi thuế đối với sản phẩm đó đã được thuế hoá và đánh dấu “SSG” trong Biểu
nhân nhượng của quốc gia. Biện pháp tự vệ cho các sản phẩm nông nghiệp sẽ được áp dụng
trong những trường hợp sau: mức giá mà hàng hoá đó có thể nhập khẩu vào lãnh thổ hải quan
giảm xuống dưới mức giá lẫy và/hoặc khối lượng hàng hoá nhập khẩu đó vào lãnh thổ hải quan
của nước thành viên vượt quá mức lẫy.
(ii) Hỗ trợ trong nước

AoA chia hỗ trợ trong nước ra thành ba dạng hộp khác nhau (xanh lá cây, xanh lam và hổ
phách) trên cơ sở tác động của chúng đến sản xuất và thương mại nông nghiệp, bao gồm:
Hộp xanh lá cây. Các chính sách hộp xanh lá cây bao gồm các chương trình chi trả trực tiếp
nhằm hỗ trợ thu nhập của người nông dân nhưng được cho là không ảnh hưởng đến các quyết
định sản xuất (nói cách khác là không mang tính bóp méo thương mại). Các biện pháp hỗ trợ
này được hoàn toàn loại trừ khỏi cam kết cắt giảm. Chúng cũng bao gồm khoản hỗ trợ như:
- Các chương trình trợ cấp hồi hưu cho người sản xuất nông nghiệp;
- chương trình chuyển đổi nguồn lực;
- các chương trình bảo vệ môi trường;
- các chương trình hỗ trợ vùng;
- dự trữ quốc gia vì mục đích an ninh lương thực;
- các chương trình trợ cấp lương thực trong nước;
- một số hình thức hỗ trợ đầu tư;
- các dịch vụ chung của Nhà nước phục vụ cho: nghiên cứu, đào tạo và khuyến nông;
thông tin thị trường và cơ sở hạ tầng nông thôn.
Hộp xanh lam. Những biện pháp hỗ trợ này cũng được miễn khỏi cam kết cắt giảm mặc có thể
có ảnh hưởng bóp méo sản xuất và thương mại nhưng chỉ ở mức tối thiểu. Đó là:
- các khoản chi trả trực tiếp trong các chương trình hạn chế sản xuất nếu những khoản chi
trả này được tính trên cơ sở diện tích và sản lượng cố định; hoặc những khoản chi trả
này tính cho 85% hoặc dưới 85% mức sản lượng cơ sở; hoặc các khoản chi trả cho chăn
nuôi được tính theo số đầu gia súc, gia cầm cố định;
- với những nước đang phát triển, việc hỗ trợ được thực hiện thông qua các khoản hỗ trợ
đầu tư của chính phủ; trợ cấp đầu vào cho những người sản xuất có thu nhập thấp và
thiếu nguồn lực;
Báo cáo cuối cùng
11
- hỗ trợ để khuyến khích việc chuyển từ cây trồng thuốc phiện sang các cây trồng khác.
Hộp hổ phách. Loại hỗ trợ mang tính bóp méo thương mại rõ ràng và do vậy sẽ không được
miễn và buộc phải cắt giảm. Mức độ hỗ trợ của chính phủ cho ngành nông nghiệp trong Hộp hổ
phách được tính bằng “Tổng mức hỗ trợ gộp” (AMS). AMS được xác định bằng cách tính từ

phần chi tiêu ngân sách Nhà nước cũng phần thu ngân sách được miễn. Các quốc gia thành viên
sẽ phải cam kết không vượt quá mức Tổng AMS của họ trong mỗi năm đã được đưa ra trong
Biểu Nhân nhượng. Tính toán AMS gồm tất cả những chính sách hỗ trợ trong nước mà được
xem như là có tác động đáng kể đến sản lượng, cả ở cấp độ sản phẩm cũng như ở cấp độ ngành
nông nghiệp. Hỗ trợ giá thị trường, trừ trường hợp hỗ trợ này chỉ đạt được thông qua kiểm soát
nhập khẩu, cũng là một phần chủ yếu để tính toán AMS.
Dựa vào tính toán Tổng AMS trong giai đoạn cơ sở (1986-1988), các nước phát triển được yêu
cầu phải giảm 20% của Tổng AMS trong giai đoạn thực hiện 1995-2000. Với những nước đang
phát triển, mức giảm này là 13,3% trong giai đoạn 1995-2004.
Loại trừ mức tối thiểu
Biện pháp hỗ trợ cho một mặt hàng cụ thể (hay hỗ trợ không cụ thể) sẽ được loại trừ ra khỏi
tính toán Tổng AMS nếu hỗ trợ đó không lớn hơn mức cho phép đã được qui định, gọi là loại
trừ mức tối thiểu. Cụ thể như sau, nếu tổng giá trị các khoản hỗ trợ trong nước thuộc Hộp hổ
phách cho một mặt hàng cụ thể nào đó không lớn hơn 5% (10% cho những nước đang phát
triển) của tổng giá trị sản xuất của sản phẩm đó thì hỗ trợ này không cần phải đưa vào trong
tính toán Tổng AMS, tức là sẽ không phải cắt giảm. Cơ chế tương tự áp dụng cho hỗ trợ không
cụ thể. Như vậy, nếu tổng mức hỗ trợ không vượt quá 5% của tổng giá trị sản xuất nông nghiệp
(10% cho những nước đang phát triển), thí hỗ trợ này cũng được miễn khỏi các cam kết cắt
giảm AMS.
(iii) Trî cÊp xuÊt khÈu
Trợ cấp xuất khẩu cho nông sản là một chủ đề chính trong các tranh chấp thương mại quốc tế;
và tác động bóp méo của trợ cấp xuất khẩu trên thị trường thế giới, cả về giá và sự bất ổn định
thị trường chung, là tương đối lớn. Một phần vì những lý do như vậy mà các điều khoản của
Hiệp định Nông nghiệp về trợ cấp xuất khẩu được nhiều người coi là một trong những qui định
quan trọng nhất của AoA, và có thể có tác động lớn trực tiếp và tức thì đến các thị trường nông
sản thế giới.
Tuy vậy, không như thương mại của các mặt hàng khác, trợ cấp xuất khẩu vẫn phần nào được
cho phép áp dụng đối với hàng nông sản. AoA chỉ hạn chế của những chính sách này, mà trước
đây là không có. Bản chất của Hiệp định xét về khía cạnh trợ cấp xuất khẩu như sau:
- Trợ cấp xuất khẩu, tính theo cả khối lượng xuất khẩu được trợ cấp và chi tiêu ngân sách

cho trợ cấp này, phải được khống chế trên mức cơ sở đã cam kết.
- Các nước phải cam kết cắt giảm lượng hỗ trợ xuất khẩu dựa trên mức cơ sở đã cam kết,
theo đó các nước phát triển phải giảm khối lượng hàng hóa hưởng trợ cấp là 21% và chi
Báo cáo cuối cùng
12
tiêu cho trợ cấp là 36%, cả hai mức cắt giảm này được thực hiện trong giai đoạn 6 năm
từ 1995 đến năm 2000. Với những nước đang phát triển, mức cam kết cắt giảm là 14%
về khối lượng và 24% cho các khoản chi tiêu, trong đó giai đoạn thực hiện kéo dài là 10
năm từ 1995.
Bất kỳ một loại hình trợ cấp xuất khẩu mới mà không nằm trong Biểu cam kết đều bị cấm áp
dụng, đồng thời các nước cũng không được phép áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với bất kỳ một
mặt hàng nông sản nào không có trong Biểu cam kết.
Các loại trợ cấp xuất khẩu có trong cam kết cắt giảm gồm: trợ cấp trực tiếp cho người sản xuất
hàng xuất khẩu, nhà nước bán lượng dự trữ nông sản với giá thấp hơn giá nội địa, tài trợ các
khoản xuất khẩu nông sản, trợ cấp để giảm chi phí tiếp thị nông sản (không áp dụng với các
nước đang phát triển), ưu đãi về cước phí vận tải trong nước và quốc tế đối với hàng xuất khẩu
(không áp dụng với các nước đang phát triển), và trợ cấp cho các sản phẩm nông nghiệp nếu
chúng được sử dụng để sản xuất các sản phẩm xuất khẩu.
2. Hiệp định SPS và Hiệp định TBT
Hiệp định SPS
Các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động, thực vật (SPS) được áp dụng đối với cả hàng hoá
nhập khẩu và sản xuất trong nước nhằm bảo vệ sức khoẻ và cuộc sống của động vật, thực vật
tránh nguy cơ do sự xâm nhập, hình thành hoặc lây lan của sâu hại và dịch bệnh, sinh vật mang
bệnh hoặc sinh vật gây bệnh; bảo vệ cuộc sộng hoặc sức khỏe của người, động vật tránh khỏi
nguy cơ từ các chất phụ gia, các chất ô nhiễm, các độc tố, các sinh vật gây bệnh có trong thức
ăn, nước uống; bảo vệ cuộc sống của người khỏi nguy cơ từ động vật, thực vật hoặc sản phẩm
của chúng, hoặc sự xâm nhập, hình thành hoặc lây lan của sâu hại, bệnh dịch; và, lãnh thổ quốc
gia khỏi sự lan truyền của sâu bệnh, dịch hại. Để đạt được mục tiêu này, các biện pháp SPS bao
gồm việc xem xét các tiêu chí thành phẩm, cũng như quy trình và phương thức sản xuất, chế
biến, bảo quản và vận chuyển. Kiểm tra và chứng nhận, thanh tra, yêu cầu về kiểm dịch, cấm

nhập khẩu, và những biện pháp khác cũng được sử dụng. Các biện pháp SPS có thể áp dụng
dưới nhiều hình thức khác nhau như yêu cầu nông sản có xuất xứ từ vùng phi dịch hại, tiến
hành kiểm tra và chứng nhận kiểm dịch, quy trình xử lý, ấn định mức dư lượng thuốc tối đa
hoặc lập danh mục các chất phụ gia được phép sử dụng. Trong khi một số biện pháp thuộc SPS
có thể dẫn đến những hạn chế về thương mại, chính phủ thường cho rằng một số hạn chế là cần
thiết và thích hợp để bảo vệ sức khoẻ và cuộc sống người cũng như động, thực vật.
Do có sự lo ngại rằng các biện pháp SPS có thể được áp dụng nhằm mục đích bảo hộ, một Hiệp
định về Áp dụng các Biện pháp kiểm dịch động, thực vật đã được đàm phán tại Vòng Uruguay.
Hiệp định công nhận các quốc gia có quyền sử dụng các biện pháp SPS để bảo vệ cuộc sống và
sức khỏe của người, động thực vật. Các điều khoản SPS qui định quyền áp dụng biện pháp hạn
chế thương mại để bảo vệ sự an toàn cho con người, động vật và thực vật tuỳ thuộc vào các
điều kiện. Các quyền và điều kiện cơ bản trong Điều XX của GATT nói “không có qui định
nào trong Hiệp định này được hiểu là ngăn cản bất kỳ bên ký kết nào thi hành hay áp dụng các
Báo cáo cuối cùng
13
biện pháp: (b) cần thiết bảo vệ cuộc sống hoặc sức khỏe của người, động vật hay thực
vật”.Tuy nhiên, Hiệp định yêu cầu các quốc gia áp dụng các biện pháp SPS của mình dựa trên
những nguyên tắc khoa học và không sử dụng chúng như là những biện pháp hạn chế trá hình
đối với thương mại.
Hiệp định này tạo cơ sở cho các cơ quan quản lý nhà nước để xây dựng chính sách trong nước,
theo đó khuyến khích các quốc gia xây dựng những biện pháp SPS của mình dựa trên những
tiêu chuẩn, hướng dẫn hay khuyến nghị quốc tế; tham gia vào tất cả các hoạt động của các tổ
chức quốc tế nhằm thúc đẩy sự hài hoà hoá các qui định SPS trên cơ sở quốc tế; để thừa nhận
các biện pháp SPS của các quốc gia xuất khẩu là tương đương nếu họ đạt được mức bảo hộ
SPS như nhau; và nếu có thể, đưa ra được những hiệp định song phương và đa phương về công
nhận tính phù hợp của các biện pháp SPS đặc trưng.
Hiệp định SPS cho phép các nước được áp dụng các biện pháp kiểm dịch động, thực vật có
mức độ bảo hộ cao hơn so với các biện pháp dựa trên tiêu chuẩn quốc tế, nếu có chứng minh
khoa học hoặc nếu quốc gia đó quyết định trên cơ sở đánh giá nguy cơ rằng áp dụng mức độ
bảo hộ cao hơn của các biện pháp SPS là phù hợp.

Tuy vậy, điều cần chú ý là Hiệp định SPS không đòi hỏi các nước đang gia nhập phải chứng
minh hay khai báo rằng cơ chế kiểm dịch hiện hành của họ liệu có dựa trên những tiêu chuẩn
quốc tế hoặc những nguyên tắc khoa học hay không và những hàng rào đó được áp dụng sau
khi đánh giá mức độ nguy hại. Có thể hiểu được rằng nghĩa vụ về hài hoà với các qui định là
những cam kết với những nỗ lực cao nhất của các nước thành viên WTO.
Tương tự như yêu cầu về khai báo, tất cả các nước phải thành lập một Điểm hỏi đáp, đó là một
cơ quan chịu trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu về thông tin liên quan đến các
biện pháp SPS trong nước, bao gồm những quyết định và qui định hiện hành và mới ban hành
trên cơ sở đánh giá nguy cơ. Các quốc gia được yêu cầu phải thông báo với Ban Thư ký Tổ
chức Thương mại Thế giới về những yêu cầu SPS mới, hoặc sửa đổi những yêu cầu hiện hành
mà dự kiến sẽ được áp dụng trong nước, nếu những yêu cầu này khác với các tiêu chuẩn quốc
tế và có thể ảnh hưởng đến thương mại quốc tế. Việc thông báo được tiến hành trước khi thực
hiện các biện pháp, như vậy để tạo cho các thành viên có cơ hội tham gia ý kiến đóng góp.
Trong trường hợp khẩn cấp, chính phủ các nước có thể thực hiện một biện pháp trước khi thông
báo. Các quốc gia cũng được đề nghị công bố rộng rãi các biện pháp vệ sinh dịch tễ, kiểm dịch
động, thực vật đã được thông qua.
Hiệp định SPS cũng có những đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát triển
và kém phát triển. Với những trường hợp cụ thể, bao gồm khung thời gian áp dụng dài hơn,
những ngoại lệ có giới hạn thời gian cho một số nghĩa vụ trong Hiệp định và tạo điều kiện cho
các nước đang phát triển tham gia vào hoạt động của các tổ chức quốc tế thích hợp. Đồng thời,
Hiệp định cũng yêu cầu các nước phát triển phải có trợ giúp kỹ thuật đối với các nước đang
phát triển và các nước kém phát triển nhằm nâng cao năng lực của các nước này khi thực thi
Hiệp định SPS.
Báo cáo cuối cùng
14
Hiệp định TBT
Trong khi Hiệp định SPS là một hiệp định mới ra đời từ Vòng đàm phán Uruguay, Hiệp định
về các rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT), chỉ áp dụng cho những quốc gia đã chấp
nhận nó, được đưa ra đàm phán tại vòng Tokyo. Hiệp định TBT, mặc dù trong quá trình đàm
phán không nhắc đến các biện pháp SPS, cũng bao gồm những yêu cầu về an toàn thực phẩm,

các biện pháp đảm bảo sức khỏe và đời sống của người, động thực vật, thanh tra và dán nhãn.
Hiệp định này đã được sửa đổi tại Vòng Uruguay và là một phần không thể thiếu được trong
Vòng Uruguay, và sẽ áp dụng cho tất cả các quốc gia thành viên WTO.
Hiệp định này gồm tất cả những qui định kỹ thuật và tiêu chuẩn tự nguyện, thủ tục tiến hành để
thực thi những qui định này, ngoại trừ trường hợp liên quan đến những biện pháp vệ sinh và
kiểm dịch động, thực vật như đã được định nghĩa trong Hiệp định SPS. Hiệp định TBT cũng
bao gồm các biện pháp bảo vệ sức khoẻ và sự an toàn của con người, sức khoẻ hoặc đời sống
cây trồng và vật nuôi.
Hiệp định WTO về Hàng rào Kỹ thuật trong Thương mại có một số nghĩa vụ cam kết. Theo đó,
các nước thành viên phải cam kết:
• Tôn trọng nguyên tắc ®·i ngé quốc gia và MFN trong việc áp dụng hàng rào kỹ thuật trong
thương mại;
• Giám sát quá trình xây dựng các qui định kỹ thuật;
• Ban hành các qui định kỹ thuật;
• Thiết lập Điểm hỏi đáp;
• Nếu các qui định về kỹ thuật tác động đến thương mại quốc tế:
- thông báo cho WTO;
- tạo cơ hội cho các thành viên tham gia góp ý cho những qui định kỹ thuật này;
• Yêu cầu các cơ quan tiêu chuẩn quốc gia thông qua Quy tắc thực hành được trình bày trong
phần Phụ lục của Hiệp định về hàng rào Kỹ thuật trong Thương mại; và
• Áp dụng qui tắc đối xử quốc gia và MFN khi đánh giá tính phù hợp
Những điểm khác nhau cơ bản giữa Hiệp định SPS và TBT
Để xác định xem một biện pháp nào đó thuộc điều khoản của Hiệp định SPS hay TBT, điều cần
thiết là xem xét mục đích tại sao nó lại được áp dụng. Theo qui định chung, nếu một biện pháp
được thừa nhận là để bảo vệ đời sống con người khỏi những nguy cơ phát sinh từ những chất
phụ gia, độc tố, dịch bệnh từ động thực vật; để bảo vệ đời sống động vật từ những nguy cơ do
chất phụ gia, độc tố, dịch bệnh, các sinh vật gây bệnh; bảo vệ đời sống cây trồng từ những nguy
cơ do sâu hại, dịch bệnh, các sinh vật gây bệnh; và bảo vệ một quốc gia từ nguy cơ thiệt hại do
sự thâm nhập, hình thành hay lan truyền của sâu bệnh, biện pháp này là một biện pháp SPS.
Các biện pháp được áp dụng vì những mục đích khác nhưng cũng nhằm để bảo vệ đời sống con

Báo cáo cuối cùng
15
người, cây trồng và vật nuôi thì thuộc về Hiệp định TBT. Hay nói cách khác, các biện pháp bảo
vệ sức khỏe con người (ngoài lĩnh vực an toàn thực phẩm), các yêu cầu về dinh dưỡng, đóng
gói và chất lượng sản phẩm thuộc về Hiệp định TBT. Chẳng hạn như hạn chế dược phẩm sẽ là
một biện pháp trong Hiệp định TBT. Yêu cầu dán nhãn liên quan đến an toàn thực phẩm
thường là biện pháp SPS, trong khi đó nhãn mác liên quan đến các đặc điểm về dinh dưỡng hay
chất lượng sản phẩm lại thuộc qui định TBT.
3. Doanh nghiệp thương mại Nhà nước (STEs)
Điều XVII của GATT thừa nhận STEs là những doanh nghiệp pháp lý cũng như các loại hình
doanh nghiệp khác, nhưng yêu cầu “khi thực hiện mua bán hàng hoá thông qua xuất khẩu hay
nhập khẩu phải tuân thủ các nguyên tắc chung về không phân biệt đối xử đã nêu trongHiệp
định này liên quan đến các biện pháp của chính phủ tác động tới hoạt động xuất khẩu hay
nhập khẩu của các doanh nghiệp tư nhân” và “những doanh nghiệp này khi tiến hành mua bán
như vậy chỉ căn cứ vào các tiêu chí thương mại, và phải dành cho các doanh nghiệp của các
nước thành viên cơ hội thích hợp tham gia vào hoạt động mua bán này”.
Ngoài ra, Điều XVII cũng yêu cầu các nước thành viên thông báo các thành viên khác “về
những sản phẩm được nhập khẩu hoặc xuất khẩu từ lãnh thổ của mình” do các STE tiến hành
nhưng sự thông báo này không có nghĩa là họ phải “ tiết lộ các thông tin không phổ biến mà
nếu được tiết lộ sẽ gây khó khăn cho việc thực thi pháp luật hay đi ngược lại lợi ích của cộng
đồng hoặcgây tổn hại đến quyền lợi thương mại chính đáng của những doanh nghiệp nhất
định”.
WTO nhận thấy các biện pháp làm bóp méo thương mại có thể xảy ra như là kết quả từ thương
mại nhà nước. Hai mối quan tâm cơ bản mà WTO đang xem xét trong các Doanh nghiệp
Thương mại Nhà nước (STEs) là: (1) các ưu tiên về độc quyền dành riêng cho STEs cho phép
họ có những hành vi phi cạnh tranh từ đó góp phần bóp méo thương mại; và (2) các hoạt động
hay việc định giá của STE còn minh bạch có thể che đậy những vi phạm trong việc thực hiện
các cam kết và nghĩa vụ của một quốc gia. Khi các nước thành viên của WTO đang hướng tới
việc áp dụng thuế nhập khẩu là công cụ chính sách thương mại nông nghiệp duy nhất, thì các
thành viên WTO có thể cần phải cải thiện các qui định về hành vi phi cạnh tranh của các STE.

Việc thiếu tính minh bạch trong công tác định giá và hoạt động của STEs đã khiến một số thành
viên WTO bày tỏ mối quan ngại việc các thành viên khác có thể sử dụng STEs để lẩn tránh các
cam kết ở Vòng Uruguay về trợ cấp xuất khẩu, tiếp cận thị trường và hỗ trợ trong nước.
Thương mại nhà nước là một nội dung quan trọng trong các cuộc đàm phán gia nhập WTO của
Trung Quốc cũng như các nước có nền kinh tế phụ thuộc STE tương tự. Sự không rõ ràng về
thể chế thương mại của một số nước đang gia nhËp mà ở đó STEs đóng một vai trò chủ đạo
trong hoạt động xuất nhập khẩu có thể che giấu những hàng rào nhập khẩu và trợ cấp xuất
khẩu.
Thương mại nhà nước có vị trí quan trọng hơn đối với ngành nông nghiệp nếu so với các ngành
khác bởi vì nhiều quốc gia, bao gồm cả quốc gia phát triển và đang phát triển, coi đó là một
Báo cáo cuối cùng
16
công cụ thích hợp để đạt được các mục tiêu chính sách nông nghiệp trong nước, chẳng hạn như
trợ giá cho người nông dân, khai thác tính kinh tế theo qui mô trong thu mua và tiêu thụ các sản
phẩm nông nghiệp chính, cũng như tăng cường an ninh lương thực.
4. Sở hữu trí tuệ trong Thương mại Nông nghệp
Về truyền thống, Luật Sở hữu Trí tuệ là một luật cụ thể cho từng quốc gia. Mỗi quốc gia đều có
quyền định ra những qui định cho riêng mình liên quan đến IP. Tuy nhiên, điều này tạo ra khả
năng mâu thuẫn giữa các qui định của các quốc gia khác nhau, gây khó khăn cho hoạt động
kinh doanh quốc tế có thể vận hành được một cách trôi chảy khi mà chuyển giao công nghệ và
IP là những yếu tố không thể thiếu được trong thương mại. Nhận thức được điều này, một hiệp
định thương mại đa phương trong khuôn khổ của Tổ chức Thương mại Thế giới đã được thiết
lập nhằm tạo ra một số tiêu chuẩn quốc tế cho luật IP. Hiệp định này được gọi là Hiệp định về
các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs).
Hiệp định TRIPS nhằm mục tiêu thiết lập các tiêu chuẩn tối thiểu về quyền sở hữu trí tuệ.
TRIPs bao gồm b¶n quyền, nhãn hiÖu, chỉ dẫn địa lý, thiết kế, v¨n bằng sáng chế bao gồm
giống cây trồng và nguồn gen, vật liệu gen, thiết kế mạch và thông tin không được tiết lộ (bao
gồm bí mật thương mại và số liệu thử nghiÖm trình chính phủ) với mục tiêu là tạo ra sự cân
bằng giữa phát huy sáng kiến và phổ biến công nghệ, tạo ra những tiện ích cho cả người sản
xuất và người sử dụng, cũng như làm tăng phúc lợi kinh tế và xã hội.

Mục đích của TRIPs là đề ra những tiêu chuẩn tối thiểu bảo vệ IP cho các thành viên. Một số
lĩnh vực của TRIPs có thể có tác động nhiều nhất đến nông nghiệp được nêu ra dưới đây.
ν Chỉ dẫn địa lý. Điều 22 định nghĩa GIs là “những chỉ dẫn xác định một hàng hoá có nguồn
gốc từ lãnh thổ của một thành viên hoặc từ khu vực hay địa phương thuộc lãnh thổ đó nếu
chất lượng, uy tín hoặc đặc tính khác của hàng hoá này chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết
định”. Chúng có thể được phân biệt chỉ là từ những chỉ dẫn về nguồn gốc (mà đơn giản là
gắn sản phẩm với vùng địa lý hoặc khu vực hay nhà sản xuất), khi những chỉ dẫn này tiếp
tục chỉ ra một đặc tính điển hình của sản phẩm gắn với xuất xứ địa lý của sản phẩm đó.
Trong hệ thống quốc gia của mình, Hiệp định buộc các nước thành viên phải bảo vệ các chỉ
dẫn đã được xác định theo định nghĩa để ngăn ngừa việc sử dụng cách gọi tên tương ứng
(Điều 22.2 và 22.4
1
), nếu đang có sự hiểu nhầm về xuất xứ thực hoặc nếu việc sử dụng cấu
1
Điều 22. 2 của TRIPs yêu cầu các thành viên phải quy định những biện pháp pháp lý để các bên quan tâm ngăn
ngừa: a) Việc sử dụng bất kỳ phương tiện nào để gọi tên hoặc giới thiệu hàng hoá mà chỉ dẫn hoặc gợi ý rằng
hàng hoá có nguồn gốc từ một khu vực địa lý khác với xuất xứ thực với cách thức khiến công chúng hiểu nhầm về
xuất xứ địa lý của hàng hoá; b) Việc sử dụng mà cấu thành hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo ý nghĩa của
Điều 10bis của Công ước Paris (1967). Điều 22.4 qui định thêm những điều khoản về bảo hộ ngăn ngừa những
chỉ dẫn lầm lẫn: Việc bảo hộ theo quy định tại các đoạn 1, 2 and 3 sẽ được áp dụng để chống lại chỉ dẫn địa lý,
mặc dù đúng theo nghĩa đen về lãnh thổ, khu vực hoặc địa phương là nơi xuất xứ của hàng hoá nhưng lại làm
công chúng hiểu là hàng hoá đó bắt nguồn từ lãnh thổ khác.
Báo cáo cuối cùng
17
thành hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo ý nghĩa của Điều 10bis của Công ước
Paris
2
. Kết quả là, các nhà sản xuất được quyền bảo vệ từ việc sử dụng tên gọi sản phẩm
của mình một cách không công bằng của các đối thủ cạnh tranh, trong khi đó người tiêu
dùng được bảo vệ để ngăn ngừa việc áp dụng hành vi dối trá trong thương mại. TRIPS cũng

qui định về quyền từ chối và huỷ bỏ hiệu lực đăng ký cho những thương nhãn có chứa hoặc
được cấu thành bằng những chỉ dẫn địa lý nếu việc sử dụng đó có thể khiến công chúng
hiểu sai (Điều 22.3)
**Điều chú ý là cũng có những ngoại lệ trong phạm vi bảo hộ được định ra trong Điều 24 (tên
loài, các chỉ dẫn đã được áp dụng trên 10 năm trước khi kết thúc Vòng đàm phán Uruguay, các
quyền chính đáng đối với thương nhãn được hưởng trước khi chỉ dẫn địa lý được bảo vệ ở
nước xuất xứ, tên địa lý có tính kế thừa, GIs đã ngừng sử dụng).
ν Rượu vang và rượu mạnh. Điều 23 qui định việc áp dụng GIs đối với rượu vang và rượu
mạnh chặt chẽ hơn so với các sản phẩm khác. Một bên khác có thể không sử dụng GI thậm
chí nếu không có sự nhầm lẫn về phía người tiêu dùng như đối với nguồn gốc địa lý. Các
điều khoản cụ thể hơn và cấm sử dụng định tính GIs, như cụm từ “một loại như
champagne” cũng sẽ bị cấm. Có thể chỉ ra rằng các qui tắc qui định việc áp dụng GIs cho
rượu và rượu mạnh tạo ra những rào cản thị trường đáng kể, với sự biện hộ yếu ớt dựa vào
bảo hộ danh tiếng.
ν Giống cây trồng và công nghệ vi sinh.
Điều 27.3b qui định giống cây trồng và những vấn đề liên quan đến công nghệ vi sinh. Mục
đích của điều khoản này là yêu cầu các nước thành viên:
— phải đưa ra sự bảo hộ văn bằng sáng chế cho các chủng vi sinh (như vi khuẩn);
— bảo vệ văn bằng sáng chế cho các qui trình vi sinh và phi sinh học phục vụ sản xuất cây
trồng và vật nuôi;
— phải bảo hộ các giống cây trồng thông qua văn bằng sáng chế hoặc một hệ thống riêng
thực tế hoặc bằng sự kết hợp giữa hai hệ thống này dưới mọi hình thức; và
— có thể loại trừ các cây trồng, vật nuôi và các qui trình vi sinh cơ bản cho sản xuất cây
trồng và vật nuôi. Vấn đề nảy sinh ở điều khoản này ở sự không rõ ràng, yếu tố nào cấu
thành sự khác nhau giữa một cây trồng và giống cây trồng, hoặc quá trình sinh vật và vi
sinh. Điều này có nghĩa là còn nhiều nghĩa vụ với sự lựa chọn dành cho các nước thành
viên trong việc quyết định nghĩa vụ nào thì áp dụng cho đối tượng nào.
2
Điều 10bis nói rằng những hành vi cụ thể sau đây sẽ bị cấm: 1. tất cả những hành vi có thể tạo ra sự nhầm lẫn
bằng bất kỳ cách thức nào bất kể là cơ sở sản xuất, hàng hoá, hay các hoạt động công nghiệp hoặc thương mại

của nhà cạnh tranh; 2. những lý lẽ sai trái đối với thương mại để làm mất uy tín cơ sở sản xuất, hàng hoá, hoặc
các hoạt động thương mại hay công nghiệp của nhà cạnh tranh; 3. các chỉ dẫn hay lý lẽ cho việc sử dụng đối với
thương mại có thể làm cho công chúng hiểu nhầm về nguồn gốc, qui trình sản xuất, các đặc tính, sự phù hợp với
mục đích của họ, hoặc số lượng, của hàng hoá.
Báo cáo cuối cùng
18
Không như các hiệp định khác trong hệ thống WTO, hiệp định TRIPs đòi hỏi sự tuân thủ chặt
chẽ từ các bên tham gia ký kết, trong đó bao gồm: (i) các thủ tục rõ ràng và công bằng; (ii)
được cơ quan có thẩm quyền xem xét, nhưng không có nghĩa vụ phải thiết lập một hệ thống
phán quyết riêng để giải quyết các vấn đề về IPR; (iii) luôn sẵn có những giải pháp tình thế và
biện pháp xử lý ngay tại biên giới; và (iv) điều khoản về xử phạt (tống giam hoặc phạt tiền)
trong trường hợp vi phạm bản quyền và thương nhãn.
Báo cáo cuối cùng
19
CHƯƠNG 2 - CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP HIỆN HÀNH CỦA VIỆT NAM VÀ
NHỮNG MÂU THUẪN TIỀM ẨN VỚI CÁC NGHĨA VỤ THỰC HIỆN
I. Tình hình thực hiện AFTA của Việt Nam
Là một nước tham gia AFTA muộn hơn, Việt Nam đã được hưởng sự đối xử có phần nào khác
biệt khi thực thi Hiệp định CEPT, đó là được phép thực hiện cắt giảm thuế quan đối với hàng
nhập khẩu từ các nước ASEAN trong một giai đoạn muộn hơn.
Với hàng hoá nằm trong danh mục cắt giảm ngay, những mặt hàng có mức thuế quan trên 20%
đã bị giảm xuống còn 20% vào ngày 01/01/2001 và đến 01/01/2006 sẽ còn 0-5%. Những mặt
hàng có mức thuế quan thấp hơn 20% sẽ bị giảm xuống 0-5% vào năm 2006. Những mặt hàng
trong danh mục TEL đã được chuyển vào trong IL theo 5 giai đoạn bằng nhau từ 1999 đến
2003, với mức thuế quan sau đó giảm xuống 0-5% vào năm 2006. Danh mục nhạy cảm bao
gồm 26 nhóm hàng hoá sẽ có mức thuế quan giảm xuống 0-5% vào năm 2013, riêng đối với
trường hợp của Đường thì vào năm 2010. Danh mục UAP gồm thịt chế biến và sản phẩm chăn
nuôi khác, gia cầm, trứng, thóc và đường. Việt Nam không có sản phẩm nào nằm trong danh
mục “Nhạy cảm Cao”.
Hiện tại, danh mục loại trừ hoàn toàn của Việt Nam bao gồm 416 dòng thuế. Rõ ràng là Việt

Nam có GEL dài nhất trong số các nước ASEAN nếu so về tỷ lệ trong tổng số dòng thuế
(khoảng 3,8%). Những nước ASEAN khác có tỷ lệ khoảng 0,3-3,3% trong tổng số dòng thuế
được xếp vào trong GEL.
Cho đến nay, Việt Nam đã đang đẩy nhanh quá trình thực hiện IL. Ngày 01/01/1996 khoảng
857 mặt hàng đã được xếp vào IL. Trong tháng 01/1997 có thêm 640 dòng thuế được xác định.
Số còn lại trong IL được công bố vào tháng 3/1998 khi tỷ lệ CEPT năm 1998 đã được xác định
cho 1.716 mục thuế. Mức thuế quan CEPT trung bình cho những hàng hoá này vào năm 1998 là
6,1% trong khi đó tỷ lệ trung bình cho những hàng hoá này được nhập khẩu không bắt nguồn từ
CEPT là 7,2%, điều này cho thấy mức ưu đãi trung bình là khoảng trên 1%. Vào ngày
23/3/1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 14/1999/NĐ-CP về việc công bố danh mục IL
được áp dụng cho năm 1999. Danh mục đã quy định tỷ lệ CEPT cho 3.582 mục thuế chiếm
41,3% trong tổng số dòng thuế của Việt Nam. Năm 2000, Việt Nam cũng đã chuyển 600 dòng
thuế khác từ TEL sang IL để tăng tổng số mặt hàng được liệt kê trong IL lên khoảng 4.200.
Một năm sau, vào năm 2001 tổng số mặt hàng bao gồm trong IL đã tăng lên 5.000. Đến tháng
7/2003, Việt Nam có 10.374 dòng thuế trong IL, chiếm khoảng 95% tổng số dòng thuế của cả
nước tham gia chương trình cắt giảm, 41 vẫn nằm trong TEL cần phải được chuyển sang IL
càng sớm càng tốt để cuối cùng tất cả hàng hoá thuộc danh mục IL sẽ được hưởng mức thuế
quan là nhỏ hơn hoặc bằng 5%. Trong tổng số dòng thuế hàng nông sản, Việt Nam cũng có 89
dòng thuế SEL, 17 dòng thuộc danh mục GE, và hầu hết là trong IL. Bộ Tài chính ước tính tỷ lệ
trung bình CEPT sẽ giảm xuống 9.3% năm 2004 và khoảng 3,0% vào năm 2006.
Báo cáo cuối cùng
20
Liên quan tới NTBs, những hạn chế định lượng cần phải được dỡ bỏ cho một số hàng hoá
thuộc danh mục IL của Việt Nam đã được gửi lên ASEAN để những hàng hoá này được hưởng
qui chế áp dụng ưu đãi một cách chính thức. Vào năm 2001, Chính phủ đã ban hành cơ chế
quản lý thương mại trong giai đoạn 5 năm đến 2005. Theo cơ chế mới này, Chính phủ sẽ bãi bỏ
nhiều hàng rào phi thuế. Trong số hàng nông sản, chỉ có một sản phẩm là đường vẫn áp dụng
NTBs cho đến năm 2005. Một điều đáng lưu ý là đường nằm trong danh mục SEL như vậy,
Việt Nam sẽ không bị yêu cầu phải loại bỏ những hạn chế định lượng cho việc nhập khẩu sản
phẩm này trong những năm tới.

Tóm lại, ngoại trừ một số dòng thuế vẫn nằm trong danh mục TEL, Việt Nam đã thực hiện đầy
đủ các nghĩa vụ của mình trong AFTA.
II. Thuế quan trong nông nghiệp
Để tiến hành bất kỳ một phân tích thương mại nào thì một bức tranh tổng thể về Biểu thuế nhập
khẩu là cực kỳ cần thiết. Điều này lại càng đúng với một quốc gia đang trong tiến trình đàm
phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Tuy nhiên, mức thuế nhập khẩu ở Việt Nam
thường hay thay đổi và một Biểu thuế thống nhất chính thức được công bố lại không thường
xuyên. Vì vậy, sẽ là không dễ dàng cho các thương nhân và cán bộ hải quan theo dõi được các
mức thuế hiện hành.
Bộ Tài chính (MOF) đã ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo Quyết định số
110/2003/QĐ-BTC ngày 22/7/2003, liệt kê 10.721 danh mục. Bảng 1 của Biểu thuế nhập khẩu
mới này đã có hiệu lực từ ngày 01/9/2003 cùng với một vài dòng thuế ở Bảng 2 có hiệu lực từ
ngày 01/01/2004. Biểu thuế nhập khẩu này dựa vào Bản HS 2002 của Tổ chức Hải quan Thế
giới và Danh pháp Thuế quan Hài hoà ASEAN (AHTN). Đây là Biểu thuế nhập khẩu hiện được
áp dụng của Việt Nam và sẽ là cơ sở cho sự phân loại danh mục hàng hoá xuất-nhập khẩu và
thống kê quốc gia về ngoại thương. Biểu thuế này đã được gửi cho Nhóm Công tác của Việt
Nam vào tháng 10/2003 như là cơ sở phục vụ cho đàm phán tiếp cận thị trường.
Trong Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi hiện nay của Việt Nam có 3079 dòng thuế
3
về sản xuất nông
nghiệp với 11 mức thuế chạy từ 0% đến 100%. Tỷ lệ thuế nhập khẩu trung bình trong các sản
phẩm nông nghiệp là 29,37% so với tỷ lệ thuế nhập khẩu những sản phẩm phi nông nghiệp là
17,03%. Các dòng thuế nông nghiệp chiếm khoảng 28,8% trong tổng số dòng thuế của Việt
Nam.
Cơ cấu hàng nông sản căn cứ vào tỷ lệ thuế nhập khẩu như sau:
- Mức thuế 0%: mức thuế này được áp dụng cho giống cây trồng và giống vật nuôi, tất cả
các loại da sống, da sử dụng cho ngành công nghiệp thuộc da và dệt may. Những loại
mặt hàng này chủ yếu là nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp,
trong nước không sản xuất hoặc sản xuất không đủ.
3

Theo tính toán của Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ Tài chính.
Báo cáo cuối cùng
21
- Mức thuế 1-10%: Các loại động vật sống khác (ngoại trừ giống vật nuôi), các sản phẩm
phụ từ động vật (xương, nội tạng…), ngô, lúa mì, lúa mạch, yến mạch, ngũ cốc dạng vỡ
mảnh, bột mì thô, dầu thực vật nguyên liệu, hạt có dầu (đậu tương, vừng, hạt bông, dầu
thầu dầu), củ cải đường, mía, bánh đậu tương, bã và phế thải từ quá trình chưng cất,
thức ăn chăn nuôi, vật liệu dùng để tết, bện, tơ, mủ cao su.
- Mức thuế từ 15-30%: Thịt tươi và thịt đông lạnh, sữa, tất cả các loại rau, đường thô, gia
vị (tỏi, hành, gừng, húng quế, tiêu…), lá thuốc lá, chè, cà phê bán sơ chế. Nhóm này có
thể được sản xuất trong nước và có lợi thế cạnh tranh có xuất khẩu và không cần phải
nhập khẩu.
- Mức thuế từ 40-50%: Các loại hoa quả tươi, gạo, dầu thực vật tinh chế, đường tinh chế,
các sản phẩm chế biến (chè, cà phê, rau, thịt, bánh kẹo), các sản phẩm từ ngũ cốc (bánh
mỳ các loại, bánh). Những sản phẩm tạo ra giá trị gia tăng cao, tuy nhiên các ngành
công nghiệp chế biến trong nước của Việt Nam đã không theo kịp với tốc độ đòi hỏi
của sản xuất nông nghiệp. Chúng được đánh giá là không có tính cạnh tranh cao và vì
vậy được bảo hộ bởi thuế nhập khẩu cao.
- Mức thuế 100%: Rượu, bia, đồ uống nhẹ và các sản phẩm từ thuốc lá lá. Chúng được
sản xuất trong nước để đáp ứng nhu cầu nội địa, mang lại lợi nhuận cao và là những
hàng hoá xa xỉ không được khuyến khích sử dụng cũng như nhập khẩu.
Thuế quan ở Việt Nam phục vụ một số mục đích khác nhau, đó là:
• huy động đóng góp cho ngân sách Nhà nước;
• đưa ra định hướng dẫn về tiêu dùng trong nước;
• bảo hộ sản xuất trong nước cho những ngành công nghiệp “trẻ” và những lĩnh vực
tiềm năng; và
• đưa ra định hướng về việc cơ cấu nền kinh tế quốc dân.
Hiển nhiên là những mục tiêu này đôi khi gây nhiều khó khăn cho các nhà hoạch định chính
sách như mức độ nào là phù hợp để đáp ứng tất cả những mục tiêu này cùng lúc. Kết quả là
trong quá trình xây dựng và thực hiện các chính sách thuế nhập khẩu, những khó khăn và hạn

chế đã nảy sinh:
- Do những thay đổi thường xuyên trong quá trình cải cách lại nền kinh tế đất nước, các
chính sách thuế thường thay đổi để phù hợp với những yêu cầu của nền kinh tế. Chiến
lược phát triển cho một số ngành hàng nông nghiệp chưa được xác định rõ hay bị liên
tục chỉnh sửa, ngay cả các thị trường nông sản thế giới cũng thay đổi với một tốc độ
chóng mặt.
- Ngay trong ngành nông nghiệp nói chung, đầu ra của ngành hàng này lại là đầu vào cho
ngành hàng khác, do vậy bảo hộ một ngành hàng này sẽ có tác động trực tiếp đến ngành
hàng khác. Ví dụ, người trồng ngô và đậu tương mong muốn tăng thuế nhập khẩu để hỗ
Báo cáo cuối cùng
22
trợ sản xuất trong nước cho những mặt hàng của họ, trong khi đó những người hoạt
động trong ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi lại muốn một mức thuế nhập khẩu tối
thiểu cho những nguyên liệu thô đầu vào này, bởi vì họ muốn giảm chi phí sản xuất.
Trường hợp tương tự cũng xảy ra trong các ngành sản xuất khác, chẳng hạn như sản
xuất đường, muối, v.v.
- Trong nông nghiệp có một số lĩnh vực mặc dù có qui mô nhỏ nhưng lại là nguồn kiếm
sống chủ yếu ở một vùng nhất định nào đó. Chính phủ rất khó có thể bảo hộ được cho
tất cả các sản phẩm nhưng nếu không có sự bảo hộ, tình hình kinh tế-xã hội của cả khu
vực này sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nhất là trong ngắn hạn.
- Hiện nay đối với một số sản phẩm mặc dù có qui mô sản xuất nhỏ và mức thuế nhập
khẩu thấp nhưng chúng lại có tiềm năng cho phát triển trong tương lai. Nên có giải pháp
nào để đảm bảo rằng tiềm năng phát triển này sẽ được hiện thực hoá trong tương lai?
Rất khó có thể xây dựng được một Biểu thuế nhập khẩu để bảo vệ và hỗ trợ tất cả các lĩnh vực
trong nông nghiệp vào cùng một lúc. Chẳng hạn như trong sản xuất ngô, Việt Nam muốn sản
xuất giống ngô lai. Các nhà khoa học, nhà sản xuất mong muốn Chính phủ đánh một mức thuế
nhập khẩu cao vào loại sản phẩm này để bảo hộ ngành sản xuất trong nước. Họ cho rằng với
cách thức này sẽ làm cho ngành sản xuất giống trong nước phát triển. Tuy nhiên, những người
trồng ngô lại cần những giống ngô giá rẻ hơn với chất lượng cao mà không quan tâm đến nguồn
gốc xuất xứ của chúng (giống được sản xuất trong nước hay nhập khẩu).

Tuy vậy, Biểu thuế nhập khẩu hiện hành cũng thể hiện một số thay đổi tích cực trong các chính
sách thuế của Chính phủ. Trong những năm qua, số mức thuế đã giảm đáng kể xuống còn 11
mức hiện tại. Việt Nam cũng đang cố gắng làm đơn giản hơn cơ cấu thuế như đánh thuế theo
mức độ cả chương. Một cách cụ thể hơn, chỉ có một mức thuế được qui định cho tất cả các
dòng thuế trong một chương nào đó của hệ thống HS, chẳng hạn như 50% cho tất cả các dòng
thuế trong chương 16 và 20,5% ở chương 13 (ngoại trừ có một dòng thuế là 3%) và chương 14.
Trong các qui định của WTO được nêu ở AoA và Biểu nhân nhượng quốc gia, thì không có yêu
cầu cứng nào đối với các nước gia nhập về mức thuế nhập khẩu nông sản của họ sẽ nên ở mức
nào. Thông thường, có 3 mức cam kết:
- Các dòng thuế cam kết thấp hơn so với mức đang áp dụng, cho thấy sự quyết tâm lớn
của các Thành viên trong việc giảm thuế và mở cửa thị trường nội địa.
- Mức thuế cam kết tại mức đang áp dụng; và
- Mức thuế cam kết ở mức cao hơn mức đang áp dụng. Thông thường, nhiều quốc gia đã
có những cam kết theo cách này nhằm tạo cho Chính phủ của họ có sự linh hoạt hơn
trong xử lý tình huống khi thấy cần thiết. Cách thức này sẽ làm cho các chính phủ dễ
phải đương đầu với nguy cơ vận động hành lang của các nhà sản xuất trong nước nhằm
làm tăng mức thuế cao hơn khi sản xuất trong nước gặp khó khăn.
Báo cáo cuối cùng
23
Thông qua việc xem xét cơ cấu thuế hàng nông sản hiện hành của Việt Nam, có một vài điểm
có khả năng thu hút được sự quan tâm của nước thành viên là:
- Hàng nông sản được bảo hộ với mức thuế cao hơn so với các sản phẩm công nghiệp
(mức thuế trung bình trong nông nghiệp là 29,37%, trong khi đó mức trung bình
chung là 20,57%).
- Có sự leo thang thuế. Mức thuế cho những sản phẩm đã qua chế biến có xu hướng
cao hơn đáng kể so với mức thuế đánh vào nguyên liệu thô.
- Mức thuế nhập khẩu tối đa rất cao ở mức 100%. Các đối tác thương mại của Việt
Nam sẽ không chỉ yêu cầu hoàn thành và ràng buộc mức thuế hoá mà còn yêu cầu
hạ thấp mức ràng buộc thuế, đặc biệt trong những trường hợp có sự bảo hộ cao.
Thuế tiêu thụ đặc biệt cũng có thể gây sự quan tâm xem xét. Loại thuế này được đánh vào

những mặt hàng xa xỉ và những sản phẩm mà Chính phủ không khuyến khích người tiêu dùng
sử dụng. Có sự khác biệt về tỷ lệ thuế cho loại thuốc lá điếu đầu lọc (45%) sản xuất từ lá thuốc
lá có nguồn gốc nội địa với thuốc lá (65%) được sản xuất từ lá thuốc lá nhập khẩu. Đây có thể
là điểm mâu thuẫn với nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia của WTO.
Hơn nữa, hiện nay Việt Nam còn đánh thuế xuất khẩu vào mặt hàng nhựa mủ cao su thô (10%)
nhằm thúc đẩy giá trị gia tăng cho sản phẩm trước khi đem xuất khẩu.
Từ năm 2003, Việt Nam đã áp dụng hạn ngạch thuế quan cho việc nhập khẩu một số nông sản
hàng hoá. Ngày 10/7/2003, Bộ Thương mại ban hành Thông tư số 04/2003/TT-BTM qui định
hướng dẫn thực hiện Quyết định của Chính phủ về việc áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với
hàng hoá nhập khẩu tại Việt Nam. Theo Thông tư 04, hạn ngạch nhập khẩu sẽ được áp dụng
cho ba mặt hàng nông sản bắt đầu từ ngày 01/8/2003 là: muối, bông và lá thuốc lá. Ngày
15/12/2003, Bộ Thương mại ban hành Thông tư 09/2003/TT-BTM về việc bổ sung thêm một số
mặt hàng trong hạn ngạch thuế quan. Như vậy năm 2004, Việt Nam sẽ áp dụng hạn ngạch thuế
quan cho 7 mặt hàng nông nghiệp sau: lá thuốc lá, muối, bông, sữa cô đặc, sữa chưa cô đặc,
ngô và trứng gia cầm. Bộ Thương mại sẽ cấp giấy phép nhập khẩu cho các thương nhân đủ điều
kiện nhập khẩu hàng hoá nêu trên. Khi tiến hành các thủ tục nhập khẩu, các thương nhân phải
xuất trình giấy phép nhập khẩu hàng hoá cho cán bộ hải quan. Thương nhân được cấp giấy
phép nhập khẩu có thể uỷ thác cho thương nhân khác nhập khẩu nhưng nghiêm cấm việc mua
bán hoặc chuyển nhượng hạn ngạch thuế quan. Thương nhân nhập khẩu theo lượng nhập khẩu
do Bộ Thương mại qui định phải đóng thuế nhập khẩu như thông thường.
III. Các biện pháp phi thuế quan
Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể trong việc tạo ra một môi trường
đầu tư và kinh doanh hấp dẫn hơn phù hợp với các qui định và thông lệ quốc tế. Những lý do
cơ bản để Chính phủ Việt Nam thúc đẩy tự do hoá thương mại không chỉ nhằm đưa các qui
định quốc gia phù hợp với thể chế quốc tế mà còn để tạo điều kiện phát triển nền kinh tế đất
Báo cáo cuối cùng
24
nước. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn áp dụng những hàng rào phi thuế khác nhau trong thương mại
cho một số hàng nông sản.
Trước đây, ngay từ đầu năm, Thủ tướng Chính phủ đều ban hành Quyết định về cơ chế điều

hành xuất-nhập khẩu hàng năm. Kết quả là, thể chế thương mại của đất nước có thể bị thay đổi
đáng kể từ năm này qua năm khác, và như vậy sẽ làm cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước
rơi vào tình trạng không dự đoán trước được.
Từ 01/5/2001, các hoạt động xuất-nhập khẩu ở Việt Nam giai đoạn 2001-2005 chịu sự điều
chỉnh của Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg. Đây được coi như là một sự kiện quan trọng trong
việc giải quyết những vấn đề bất ổn trong chính sách thương mại của chính phủ. Đồng thời, qua
đó thể chế thương mại của đất nước cũng được qui định rõ ràng hơn.
Tuy nhiên, theo Quyết định số 46, vẫn còn một số NTBs được dùng để áp dụng cho hàng nông
sản:
- Cấm xuất-nhập khẩu: Có duy nhất một loại hàng nông sản, đó là thuốc lá điếu, xì gà và
các dạng thuốc lá thành phẩm khác bị cấm nhập khẩu hoàn toàn. Việc cấm nhập khẩu
các sản phẩm từ thuốc lá được giải thích căn cứ vào mục (b) Điều XX trong GATT
1994 như sau: sự cấm nhập này nhằm mục đích bảo vệ sức khoẻ con người trong toàn
xã hội. Tuy nhiên, Việt Nam khó có thể chứng minh được quan điểm này vì nó dường
như đã vi phạm nguyên tắc của WTO về đãi ngộ quốc gia. Các công ty thuốc lá vẫn
đang tồn tại ở Việt Nam, trong đó có cả một số công ty liên doanh nước ngoài, vẫn có
thể sản xuất thuốc lá điếu trong nước. Như vậy, các thành viên WTO có thể coi biện
pháp cấm này chẳng qua chỉ là một loại bảo hộ các nhà sản xuất trong nước. Do vậy,
các nước thành viên của WTO có thể yêu cầu Việt Nam dỡ bỏ lệnh cấm nhập khẩu này.
Trên thực tế, các thành viên mới của WTO gia nhập sau năm 1995 đều phải cam kết
không áp dụng các rào cản phi thuế cho những sản phẩm nông nghiệp. Do vậy, sẽ rất
khó khăn cho Việt Nam trong việc thuyết phục các nước để được duy trì lệnh cấm này.
- Hạn chế định lượng xuất-nhập khẩu: Theo Điều 6 của Quyết định, Chính phủ bãi bỏ cơ
chế giao hạn ngạch xuất khẩu gạo đã được áp dụng trong thập kỷ qua. Trước đây, hạn
ngạch xuất khẩu gạo được cấp hàng năm từ tháng 1 đến tháng 9 với mục đích cân bằng
cung cầu trong nước, điều kiện của từng thời vụ cũng như nhu cầu và giá cả quốc tế
cũng được tính đến. Việc bỏ hạn ngạch xuất khẩu gạo mở đường cho các nhà sản xuất
trong nước được tiếp cận trực tiếp với thị trường thế giới. Tuy nhiên trong Điều 6.4 của
Quyết định qui định rằng “Thủ tướng Chính phủ sẽ xem xét các biện pháp cần thiết can
thiệp có hiệu quả vào thị trường lúa gạo” nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.

Trong khi đó, nhập khẩu đường vẫn được áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng
trong giai đoạn 2001-2005. Ngoài ra, các nhà nhập khẩu phải có giấy phép nhập khẩu
do Bộ Thương mại cấp. Điều này rõ ràng là mâu thuẫn với Hiệp định Nông nghiệp của
WTO. Quyết định về hạn chế nhập khẩu đường là phục vụ cho việc thực hiện Chương
trình 1 triệu tấn đường. Khi Chương trình đạt được mục tiêu 1 triệu tấn vào năm 2000,
Báo cáo cuối cùng
25

×