Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Khái quát về tình hình ngoại thương Đàng Trong từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.13 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
Thời kỳ từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII là một thời kỳ đặc biệt trong
lịch sử dân tộc Việt Nam. Đất nước liên tiếp bị chia cắt bởi các cuộc chiến
tranh Nam - Bắc triều kéo dài hơn nửa thế kỷ và sau đó là sự phân chia Đàng
Trong - Đàng Ngoài với cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài hơn 200
năm. Tuy nhiên, thời kỳ Đại Việt bị chia cắt thành hai lãnh thổ riêng biệt
Đàng Trong - Đàng Ngoài cũng đã mở ra một trang sử mới trong lịch sử dân
tộc. Cùng với những thành tựu to lớn trong công cuộc mở rộng lãnh thổ về
phía nam, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã thiết lập được một nền ngoại
thương phát triển cực kỳ rực rỡ, tạo nên một nền kinh tế phát triển ổn định
trong một thời gian khá dài…
Thế kỷ XVI - XVIII đã chứng kiến một thời kì phát triển khá hưng
thịnh của hoạt động thương nghiệp. Một mặt do nhu cầu thoát khỏi sự gò bó
của nông nghiệp cũng như sự phát triển tự thân của nó (chủ yếu là ở Đàng
Trong), do điều kiện giao thông đi lại thuận lợi hơn trước, do nhu cầu của
cuộc sống hàng ngày tăng lên, nên sự trao đổi hàng hóa ngày càng cần
thiết…Mặt khác, sự hình thành của luồng giao lưu buôn bán quốc tế tác
động mạnh mẽ đến các vùng lâu nay xa cách, đóng kín và làm cho nhu cầu
hàng hoá đặc sản địa phương tăng lên không ngừng, bên cạnh đó một thời
nhà Thanh đóng cửa buộc các thương nhân Trung Quốc cũng như nước
ngoài phải dồn sang Việt Nam…Tất cả những điều đó vừa làm cho việc
buôn bán với nước ngoài phát triển vừa làm cho nội thương thêm nhộn nhịp.
Theo ghi chép của sử cũ, ở các thế kỷ từ XVI - thế kỷ XVIII việc
buôn bán với thương nhân nước ngoài đã phát triển và mở rộng hơn hẳn
những thế kỷ trước. Bên cạnh những thương nhân Châu Á: Trung Quốc,
Giava, Xiêm…quen thuộc và ngày càng đông đảo, đã xuất hiện các thuyền
buôn Nhật Bản và đặc biệt là các thuyền buôn phương Tây: Bồ Đào Nha, Hà
Lan, Anh, Pháp…Có thể nói đây là một bước phát triển cực kì quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế Đại Việt nói chung và Đàng Trong nói riêng
thời bấy giờ…
NỘI DUNG


1. Khái quát về tình hình ngoại thương Đàng Trong từ thế kỉ XVI đến
thế kỉ XVIII
Năm 1558, Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ vùng đất Thuận Hoá và
được triều đình nhà Lê chấp thuận. Từ đây, một trang sử mới của dân tộc đã
được viết nên. Là người đại diện cho xu thế phát triển của đất nước, Nguyễn
Hoàng quyết chí vào nam dựng nghiệp với hàng loạt những dự định lớn lao.
Ông toàn tâm toàn ý chăm lo phát triển kinh tế, tăng cường tiềm lực về mọi
mặt chuẩn bị những bước đi xa hơn cho các thế hệ con cháu.
Ngay từ đầu, Nguyễn Hoàng đã nhận thức rõ vùng đất Thuận - Quảng
là một trung tâm kinh tế quan trọng của Đàng Trong, có tài nguyên là nguồn
lâm thổ sản phong phú, có những cảng biển nổi tiếng đã từng thu hút thương
khách nước ngoài nhiều thế kỷ trước đó. Đối với Nguyễn Hoàng, việc tận
dụng và phát huy những tiềm năng của xứ Thuận - Quảng để nó có khả năng
đảm bảo cho một tương lai chính trị mà thuở ra đi ông đã bắt đầu toan tính là
những việc làm tiên quyết.
Nhận thấy những hạn chế của điều kiện tự nhiên đối với sự phát triển
của kinh tế nông nghiệp, Nguyễn Hoàng và sau đó là các chúa Nguyễn kế vị
ông đã xác lập một chiến lược phát triển kinh tế mới với những bước đi và
hình thức khác biệt nhằm hòa nhập mạnh mẽ hơn với những bước chuyển
chung của khu vực. Cách thức lựa chọn con đường phát triển đó đã đưa
Đàng Trong hội nhập với mô hình phát triển chung của hầu hết các quốc gia
Đông Nam Á lúc bấy giờ là hướng ra biển. Phát triển ngoại thương đã trở
thành một chiến lược kinh tế liên quan đến sự sống còn của thể chế mà các
chúa Nguyễn đã ra công tạo dựng ở Đàng Trong.
Với chủ trương trọng thương, các chính sách khuyến khích kinh tế đối
ngoại của các chúa Nguyễn đã có tác dụng cổ vũ ngoại thương ở Đàng
Trong. “Vào thế kỉ XVI - XVIII, Đàng Trong đã có quan hệ buôn bán với
nhiều quốc gia, trong đó có những quốc gia có nền kinh tế hàng hóa phát
triển thuộc loại bậc nhất của thế giới. Hầu hết các cường quốc kinh tế lúc
bấy giờ, cả ở Châu Á lẫn châu Âu đền đến và thiết lập quan hệ giao thương

với chính quyền Đàng Trong”. [9; tr 102]
Buôn bán với các nước phương Đông
Với Trung Quốc: Thương nhân Trung Quốc là những người đến
buôn bán với nước ta từ rất xa xưa. Hàng năm, thuyền buôn của họ từ Quảng
Châu dong buồm xuống các cảng Vân Đồn, Vạn Ninh (thuộc Quảng Ninh)
rồi vào Phố Hiến (Hưng Yên) hay Vị Hoàng (Nam Định) hoặc vào các cảng
Đàng Trong như Hội An, Nước Mặn, Bến Nghé… Việc buôn bán giữa
thương nhân Trung Quốc với Đại Việt (nhất là với Đàng Trong) ngày càng
phát triển. Đặc biệt từ khi nhà Thanh thực hiện chính sách tạm thời đóng cửa
các cảng khẩu Trung Quốc. Thời gian này ngoài các thuyền buôn xuất phát
từ các cảng phía nam Trung Quốc còn có một số lượng đáng kể thuyền của
các thương nhân Hoa kiều đã bỏ Trung Quốc xuống định cư ở các nước
Đông Nam Á sau khi nhà Minh bị người Mãn Thanh đánh bại. Theo số liệu
thống kê; “Trong khoảng thời gian từ 1651 đến 1724 số lượt chuyến các tàu
buôn lớn (loại tàu có trọng tải từ 150 - 200 tấn) của Trung Quốc chở hàng từ
Đại Việt đến cảng Nagadaki của Nhật Bản là 251 chuyến, trong đó 52
chuyến từ các cảng Đàng Ngoài và 199 chuyến từ các cảng Đàng
Trong…”[14; tr153]. Hàng hóa do các thương nhân Trung Quốc chở đến bán
thường là các loại vải lụa cao cấp, giấy bút, các loại đồ đồng, gốm sứ, kẽm,
diêm sinh, khí giới… và mua đi hồ tiêu, đường, gỗ quý, các loại hương liệu,
yến sào, sừng tê, ngà voi…
Cuối thế kỷ XVII đầu XVIII, nhiều người Hoa đã ở hẳn các cảng thị
của Đại Việt. Theo P. Poavrơ, ở thế kỷ XVIII “Ở Hội An có đến 6000 Hoa
Kiều mà phần lớn là các lái buôn giàu có, vừa mua bán hàng hóa, vừa làm
môi giới cho khách phương Tây, giữ các chức vụ trong các tàu ti” [6; tr234].
Sự xuất hiện của phố người Hoa bên cạnh phố người Nhật tại Hội An đã nói
lên sự phát triển quan hệ giao thương giữa hai nước. Khác với người Nhật,
người Hoa từ Trung Quốc được phép buôn bán với Đàng Trong không chỉ
trong buổi đầu nền thống trị của chúa Nguyễn mà còn kéo dài suốt thời kì
sau đó.

Hoạt động ngoại thương giữa Đàng Trong với Trung Quốc có ý nghĩa
lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển nền thương mại ở vùng đất mới mẻ này,
nhất là nửa sau thế kỷ XVII và cả thế kỷ XVIII, khi chính phủ Nhật Bản đã
thực hiện lệnh tỏa quốc (1636) làm cho hoạt động của Châu ấn thuyền giảm
dần vai trò của nó tại Hội An.
Vào cuối thế kỉ XVIII, khi các thương nhân ngoại quốc khác rút đi
hầu hết thì thương nhân Trung Quốc hầu như làm chủ thị trường Đàng
Trong nói riêng và thị trường Đại Việt nói chung.
Buôn bán với người Nhật: Cùng với thương nhân Trung Quốc,
thương nhân Nhật Bản cũng có mặt khá sớm ở Đàng Trong. Ngay từ thế kỷ
XVI, người Nhật đã giong thuyền đến bờ biển Đàng Trong buôn bán rồi
chuyển dần ra Đàng Ngoài. Ở Đàng Trong, họ tập trung buôn bán ở vùng
Quảng Nam, rồi sau đó xin chúa Nguyễn cho lập phố ở cảng Hội An…
Sang thế kỉ XVII (đặc biệt là 4 thập niên đầu), mối quan hệ buôn bán
giữa Đàng Trong với Nhật Bản phát triển thịnh đạt hơn bao giờ hết. Mặc dù
thời đại Châu ấn thuyền ở Đàng Trong không kéo dài, song việc buôn bán
của người Nhật tại vùng đất này để lại nhiều dấu ấn đậm nét. Số lượng
Châu ấn thuyền hàng năm đến Đàng Trong luôn đứng đầu danh sách các
nước có quan hệ mua bán với Nhật: “Trong 13 năm (từ 1604 đến 1616) có
186 thuyền buôn Nhật đã được cấp Châu ấn đến buôn bán với các nước
Châu Á, trong đó đến Đàng Ngoài là 11 chiếc, Đàng Trong là 42 chiếc,
Chăm pa 5 chiếc, Campuchia là 25 chiếc, Xiêm là 37 chiếc, Philippin là 34
chiếc, Nam Trung Quốc là 18 chiếc, các nước khác là 18 chiếc…” [20; tr9].
Lệ thuế của chúa Nguyễn đối với thuyền buôn Nhật là “đến nộp 4000
quan, đi nộp 4000 quan” [18; tr 375]. Cũng như các lái buôn người Hoa,
người Nhật đến Việt Nam ngoài việc buôn bán còn làm phiên dịch, mối lái,
phục dịch ở các tàu ti. Đặc biệt từ sau khi chính phủ Nhật ra lệnh cấm người
Nhật ra nước ngoài hoặc đã ở ngoại quốc lâu ngày thì không được về nước;
có nhà nghiên cứu cho rằng: Bấy giờ, người Nhật giữ vai trò chủ chốt trong
buôn bán ở Việt Nam.

Thông qua các lái buôn, chúa Trịnh và chúa Nguyễn đều có thư từ
chính thức với Mạc phủ Tokugawa trao đổi về việc tăng cường buôn bán
giũa hai nước. Tuy nhiên đo chính sách cởi mở và ưu ái của chính quyền
Đàng Trong, người Nhật chủ yếu buôn bán ở Hội An. Tại đây người Nhật
được phép lập phố buôn bán riêng của mình. Sự ra đời của phố Nhật ở Hội
An bên cạnh phố của người Trung Quốc là do nhu cầu tất yếu của hoạt động
ngoại thương, nhưng đồng thời nó cũng là kết quả phát triển quan hệ thương
mại giữa hai nước. Chưa có nơi nào trên đất Châu Á mà thương điếm của
người Nhật có quy mô và năng lực hoạt động có hiệu quả như thương điếm
của họ đặt tại Hội An. Buôn bán với người Nhật đóng vai trò quan trọng
trong nền thương mại Đàng Trong. Tuy nhiên, từ giữa thế kỉ XVIII do lệnh
cấm của chính phủ Nhật, việc buôn bán của người Nhật ở Đàng Trong thưa
dần, mặc dù hàng tơ lụa của Việt vẫn được người Nhật ưa chuộng (mua lại
của thương nhân Hà Lan). Theo một nhà nghiên cứu Nhật Bản: “Thời gian
từ năm 1641 đến 1654, trong tổng số tơ mà các tàu Hà Lan chở từ các nước
đến bán ở Nhật Bản có 51% nhập từ Đại Việt…” [14; tr153 - 154]
Buôn bán với các nước phương Tây
Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp… là những nước phương Tây có
tiềm lực kinh tế lớn và có hải thương mạnh thuộc vào loại bậc nhất thế giới.
Thương nhân Bồ Đào Nha là những người Châu Âu đầu tiên tiếp xúc với
nước ta. Họ đã đến Đàng Trong sớm hơn Hà Lan, Anh nửa thế kỷ, và sớm
hơn Pháp một thế kỷ. So với thương nhân các nước phương Tây khác,
thương nhân Bồ Đào Nha gây được ảnh hưởng lớn trong nền thương mại
Đàng Trong. Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt với thương nhân Nhật Bản,
Trung Quốc và cả Hà Lan đang sung sức, lại không lập thương điếm ở Hội
An, người Bồ Đào Nha tỏ ra là những lái buôn kiên trì chịu khó. Họ là
những lái buôn phương Tây đến Đàng Trong sớm nhất và rời khỏi Đàng
Trong muộn nhất. Hà Lan là nước xông xáo trong quan hệ thương mại tại thị
trường Châu Á. Việc buôn bán của người Hà Lan xem ra thuận lợi hơn khi
Nhật Bản thực hiện chính sách tỏa cảng nhưng lại tiếp tục buôn bán với

người Hà Lan, xem đó là một cửa ngõ thông thương với nước ngoài. Những
ưu ái trong quan hệ Nhật - Hà tạo điều kiện cho công ty Đông Ấn Hà Lan
thay thế chỗ đứng của thương nhân Nhật tại Hội An. Song trên thực tế Hà
Lan không làm được điều đó, thương điếm của họ vừa mới mở lại không thể
đi vào hoạt động. Tại Đàng Trong quan hệ giao thương giữa họ với chính
quyền chúa Nguyễn tiến triển không tốt đẹp bởi sự liên minh của họ với
chúa Trịnh trong cuộc chiến tranh chống lại chúa Nguyễn. Do vậy với Hà
Lan quan hệ thương mại của họ chủ yếu phát triển mạnh ở Đàng Ngoài.
Công ty Đông Ấn Anh (thành lập năm 1600) cũng có nhu cầu thâm
nhập thị trường Đàng Trong vào đầu thế kỷ XVII, đồng thời chính quyền
chúa Nguyễn cũng muốn thiết lập quan hệ gia thương với công ty này. Điều
đó thể hiện rõ nét qua sự cố gắng của cả hai bên trong suốt gần 200 năm đặt
quan hệ buôn bán. Nhưng cả hai bên chẳng đạt được kết quả như mong
muốn với những chuyến buôn qua lại thưa thớt.
Người Pháp đến Đại Việt có phần muộn màng hơn với chuyến buôn
đầu tiên đến Đàng Ngoài vào năm 1669. Sau một thời gian hoạt động ở Phố
Hiến, đến đầu thế kỷ XVIII mới thực sự đến buôn bán với Đàng Trong. So
với các nước phương Tây khác, trong quan hệ giao thương của Pháp tại đất
Đàng Trong, Hội Truyền Giáo Nước Ngoài Pari (MEP) gần như có mặt
trong tất cả các hoạt động thương mại. Ngoại thương mang mục đích quân
sự là một trong những cản trở chính trong việc thiết lập quan hệ buôn bán
giữa Đàng Trong với Anh và Pháp.
Như vậy, việc buôn bán của người phương tây trên đất Đàng Trong
không mấy phát đạt. Số lượng thuyền buôn của họ hàng năm đến Hội An
không thực sự đều đặn, khối lượng hàng hóa được lưu thông chưa phải là
nhiều. Song sự có mặt của thương nhân phương Tây ở Đàng Trong đã góp
phần làm cho thương mại Đàng Trong nhộn nhịp hẳn lên. Hoạt động của các
đội thương thuyền Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh và Pháp… còn có ý nghĩa duy
trì vai trò trung chuyển hàng hóa của cảng thị Hội An, cũng như thúc đẩy
hoạt động thương mại của các thương cảng “vệ tinh” của nó.

Buôn bán giữa Đàng Trong với một số nước trên thế giới trong các thế
kỷ từ XVI - XVIII có tầm quan trọng đặc biệt đến độ số tàu thuyền ngoại
quốc đến Đàng Trong được xem là tiêu chuẩn để đánh giá thu nhập kinh tế
hang năm cao hay thấp. Trong một lần tiếp Thích Đại Sán, chúa Nguyễn
Phúc Chu nói: “Các năm trước thuyền ngoại dương đến buôn, một năm 6,7
chiếc, năm nay (1695) số thuyền lên đến 16,17 chiếc, trong nước nhờ đó tiêu
dùng dư dật” [19; tr134] Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Kim thì:
“Trong lịch sử Việt Nam (đến thế kỷ XVII), chưa bao giờ nền kinh tế hải
thương có quan hệ mở rộng, đa dạng và phát triển hưng thịnh như giai đoạn
thế kỷ XVI - XVIII. Hầu hết các cường quốc kinh tế lúc bấy giờ, cả ở Châu Á
và Châu Âu, đều đến và thiết lập quan hệ trao đổi, buôn bán với Đàng
Trong” [11; tr23]
Xem xét thương mại ở các khía cạnh như có những đối tác mới trong
quan hệ giao thương, mức độ nhộn nhịp của các tàu thuyền, bến cảng, khối
lượng hàng hóa tiêu thụ, lợi ích kinh tế thương mại mang lại cho chính
quyền Đàng Trong…so với các thời kỳ lịch sử trước đó thì rõ ràng, thế kỷ
XVI - XVIII được xem là thời kỳ phát triển khá thịnh đạt của của thương
mại Đàng Trong
Như vậy, có thể thấy rằng trong lịch sử Đại Việt, chưa bao giờ nền
kinh tế ngoại thương lại phát triển rực rỡ như trong thế kỉ XVI - XVIII. Đặc
biệt là sự phát triển thương mại Đàng Trong, với sự mở rộng quan hệ buôn
bán với nhiều quốc gia trên thế giới. Hầu hết các cường quốc kinh tế lúc bấy
giờ cả ở châu Á và châu Âu đều đến và thiết lập quan hệ ngoại giao với
chính quyền các chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
2. Những nhân tố tác động đến sự phát triển ngoại thương Đàng Trong
từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII.
Sự phát trển mạnh mẽ của hoạt động ngoại thương ở Đàng Trong từ
thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII là do nhiều nguyên nhân:
Thứ nhất, về mặt điều kiện tự nhiên: Đàng Trong có điều kiện tự
nhiên cực kì thuận lợi cho sự phát triển của nền ngoại thương. Đặc biệt Đàng

Trong là nơi giàu tài nguyên với nhiều loại lâm, thổ, hải sản quý hiếm…
Theo nhận xét của một lái buôn người Trung Quốc là Trần Duy thì: “Ở Sơn
Nam khi vào chỉ mua được món củ nâu, ở Thuận Hóa khi về thì mua được hồ
tiêu, còn xứ Quảng Nam thì đủ trăm thứ hóa vật, không có nơi nào sanh
kịp…đến hang trăm chiếc thuyền lớn chuyên chở một lúc cũng không hết..”
[18; tr374]. Bên cạnh đó Đàng Trong còn có tiềm năng phát triển kinh tế
biển, với nhiều sông ngòi, hải cảng thuận tiện cho việc lập cảng và ghe
thuyền cập bến. Thời kì này đã xuất hiện một số thương cảng lớn và nổi
tiếng như : Hội An (Faifo), Nước Mặn, Hà Tiên…
Mặt khác, nếu như ở Đàng Trong có “vịnh Bắc Bộ” - Một trung tâm
kinh tế lớn sớm có mối quan hệ mật thiết với các quốc gia Đông Bắc Á
(Trung Quốc, Nhật Bản..) thì Đàng Trong cũng có “vịnh Thái Lan” từ lâu đã
có mối liên hệ mật thiết với các nước Đông Nam Á và cả những nền văn
minh khác như Ấn Độ, Tây Á… “Vịnh Thái Lan” còn có tên gọi khác là
“Biển Tây”, “Biển Tây Nam” - Là một vùng biển giàu tiềm năng, đồng thời
cũng là một trong những mạch nguồn giao lưu kinh tế, văn hóa trọng yếu
đối với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Do nằm ở một vị trí
chiến lược đặc biệt, “vịnh Thái Lan” vừa là cửa ngõ giao lưu, vừa là một
trong những luồng không gian hướng ra đại dương không chỉ của Đại Việt
mà của cả Xiêm, Mã Lai, Giava…

×