Tải bản đầy đủ (.pdf) (190 trang)

Thực trạng phân tích hiệu quả kinh doanh các doanh nghiệp khai thác khoáng sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 190 trang )



i

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng và chưa từng được ai công bố trong bất cứ một công
trình khoa học nào.

Người cam đoan



Nguyễn Thị Mai Hương

















ii
LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình viết luận án tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ của
quý cô giáo, thầy giáo của Viện Sau đại học, khoa Kế toán trường Đại học
KTQD Hà Nội, Khoa Kinh tế & QTKD trường Đại học Quy Nhơn, Ban lãnh đạo
Công ty BMC, Công ty Bôxit Lâm Đồng, Công ty Liên doanh Bimal. Đặc biệt là
sự ủng hộ, động viên của gia đình và thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Văn
Công và PGS.TS Phạm Quang.
Tự đáy lòng, tôi xin chân thành biết ơn sự giúp đỡ của các cô giáo, thầy
giáo, gia đình và bạn bè, đồng nghiệp. Sự giúp đỡ này đã cổ vũ và giúp tôi nhận
thức, làm sáng tỏ thêm cả lý luận và thực tiễn về lĩnh vực mà luận án đã đề cập.
Luận án này là kết quả nghiên cứu công phu, sự làm việc khoa học và nghiêm
túc của bản thân, song do khả năng và trình độ có hạn nên không thể tránh khỏi
những khiếm khuyết nhất định.
Tôi mong muốn nhận được sự quan tâm đóng góp của các cô giáo, thầy
giáo và những ai quan tâm đến đề tài này.

Kính
Tác giả


Nguyễn Thị Mai Hương


iii
MỤC LỤC



LỜI CAM ĐOAN ..............................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN...................................................................................................................ii
MỤC LỤC .....................................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................... v
DANH MỤC SƠ ĐỒ.......................................................................................................vi
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ...........................................................................................vii
PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................................ix
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH VÀ PHÂN
TÍCH HIỆU QUẢ KINH DOANH TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP KHAI THÁC KHOÁNG SẢN.................................................. 1
1.1. Hiệu quả kinh doanh và quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh với hiệu
quả xã hội ...............................................................................................1
1.2. Nội dung, phương pháp và chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh .....16
1.3. Đặc điểm phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp
khai thác khoáng sản ở Việt Nam.........................................................31
1.4. Tổ chức phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp
khai thác khoáng sản ............................................................................50
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ KINH DOANH
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP KHAI THÁC KHOÁNG SẢN
VIỆT NAM ............................................................................................... 54
2.1. Tổng quan về các doanh nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam........54
2.2. Thực trạng phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp
khai thác khoáng sản Việt Nam............................................................70
2.3. Đánh giá thực trạng phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh
nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam................................................95
2.4. Thực trạng hiệu quả kinh doanh với các nguyên nhân chủ yếu ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
khai thác khoáng sản ..........................................................................102



iv
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH HIỆU
QUẢ KINH DOANH VỚI VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH
DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP KHAI THÁC KHOÁNG
SẢN VIỆT NAM .................................................................................... 109
3.1. Định hướng và quy hoạch phát triển ngành khai thác khoáng sản
Việt Nam ............................................................................................109
3.2. Sự cần thiết phải hoàn thiện phân tích hiệu quả kinh doanh trong
các doanh nghiệp khai thác khoáng sản .............................................115
3.3. Quan điểm hoàn thiện phân tích hiệu quả kinh doanh trong các
doanh nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam...................................121
3.4. Giải pháp hoàn thiện phân tích hiệu quả kinh doanh với việc nâng
cao hiệu quả hoạt động trong các doanh nghiệp khai thác khoáng
sản Việt Nam......................................................................................124
3.5. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh trong
các doanh nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam.............................148
3.6 Những điều kiện cần thiết để thực hiện giải pháp hoàn thiện nhằm
nâng cao hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp khai thác
khoáng sản..........................................................................................160
KẾT LUẬN.................................................................................................................. 169
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................... 171
THỐNG KÊ CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC.....................................................176
PHỤ LỤC


v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT





Viết tắt Viết đầy đủ tiếng việt Viết đầy đủ tiếng Anh
BMC Công ty cổ phần Khoáng sản Bình Định
CCDC Công cụ, dụng cụ
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TSCĐ Tài sản cố định
SSL

Sức sinh lợi của lao động
SSL
V
Sức sinh lợi của vốn
SSL
CP
Sức sinh lợi của chi phí
SSX

Sức sản xuất của lao động
SSX
V
Sức sản xuất của vốn
SSX
CP
Sức sản xuất của chi phí
ROE Lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu Return on Equity
ROA Lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản Return on Assets
TW Trung ương













vi
DANH MỤC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh với các yếu tố của quá
trình sản xuất ..................................................................................... 10
Sơ đồ 2.1: Quy trình công nghệ khai thác nguyên liệu theo phương pháp
mỏ lộ thiên......................................................................................... 59
Sơ đồ 2.2: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý kinh doanh của các công ty khai
thác khoáng sản ................................................................................. 62
Sơ đồ 2.3: Cơ cấu tổ chức bộ máy kế toán của công ty Khai thác Khoáng sản ...... 65
Sơ đồ 2.4: Trình tự hạch toán của các doanh nghiệp khai thác khoáng sản
năm 2005 ........................................................................................... 81
Sơ đồ 3.1: Quy trình tổ chức phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh
nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam........................................... 125

















vii
DANH MỤC BẢNG, BIỂU


Bảng 1.1: Mức độ ô nhiễm môi trường của ngành công nghiệp khai thác
khoáng sản Việt Nam..........................................................................39
Bảng 1.2: Hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. .................48
Bảng 2.1: Tăng trưởng bình quân giá trị sản xuất công nghiệp khai thác phân
theo ngành (giá so sánh 1994) ............................................................68
Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá cả nước 1985 - 2005.........................68
Bảng 2.3: Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty Cổ phần Khoáng sản và
Thương mại Hà Tĩnh ..........................................................................74
Bảng 2.4: Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty Cổ phần Khoáng sản
Bình Định............................................................................................75
Bảng 2.5: Báo cáo kết quả hoạt dộng kinh doanh Công ty Cổ phần Khoáng
sản và vật liệu xây dựng Lâm Đồng ...................................................76
Bảng 2.6: Phân tích hiệu quả kinh doanh thông qua tỷ suất lợi nhuận của các
doanh nghiệp khai thác khoáng sản....................................................77
Bảng 2.7: Phân tích hiệu quả kinh doanh thông qua sức sản xuất của Công ty BMC....80
Bảng 2.8: Phân tích hiệu quả kinh doanh thông qua sức sinh lợi của Công ty BMC..... 81

Bảng 2.9: Phân tích hiệu quả kinh doanh thông qua suất hao phí của Công ty
BMC....................................................................................................84
Bảng 2.10: Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản dài hạn tại Công ty Liên doanh
Bimal.................................................................................................85
Bảng 2.11: Phân tích hiệu quả kinh doanh qua tốc độ luân chuyển tài sản
ngắn hạn của Công ty BMC..............................................................87
Bảng 2.12: Phân tích hiệu quả kinh doanh qua hệ số doanh lợi của vốn chủ sở
hữu tại một số công ty khai thác khoáng sản....................................89
Bảng 2.13: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước của một số doanh
nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam ............................................92


viii
Bảng 2.14 Tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất ngành công nghiệp giai
đoạn 1996 – 2006............................................................................102
Bảng 3.1:Dự báo nhu cầu các sản phẩm chế biến sâu quặng Titan, Zircon
trong nước đến năm 2025..................................................................113
Bảng 3.2: Dự kiến sản lượng quặng tinh Ilmenit theo thời kỳ quy hoạch.........114
Bảng 3.3: Bảng phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí .......................129
Bảng 3.4: Mẫu báo cáo kết quả kinh doanh theo phương pháp trực tiếp..........130
Bảng 3.5: Mẫu báo cáo bộ phận chi tiết ............................................................131
Bảng 3.6: Sơ đồ ma trận xác định vai trò các chỉ tiêu so sánh ..........................135
Bảng 3.7: Xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tốc độ luân
chuyển tài sản ngắn hạn Công ty BMC.............................................138
Bảng 3.8: Hệ số quay vòng hàng tồn kho của Công ty Khóang sản và Thương
mại Hà Tĩnh.......................................................................................143
Bảng 3.9: Xác định lợi nhuận cho 1 tấn Ilmenit xuất khẩu đạt 52% tỷ lệ chất
lượng tại Công ty BMC .....................................................................146
Bảng 3.10: Titan là sản phẩm khai thác thuộc loại hình công nghiệp mỏ sắt ...... 149







ix
PHẦN MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Nếu tất cả các doanh nghiệp sản xuất ra lượng hàng hoá vô tận để thoả mãn
mọi nhu cầu của con người với nguồn lực của mình là vô hạn thì chắc hẳn chúng
ta không phải bận tâm nhiều. Nhưng trên thực tế thì không phải như vậy, nhu
cầu của con người vẫn ngày càng phong phú, đa dạng và luôn luôn thay đổi theo
thời gian, còn nguồn lực ngày càng trở nên khan hiếm. Như vậy, khó khăn của
doanh nghiệp là dựa vào nguồn lực hạn chế, khan hiếm cần phải tìm cho mình
loại hàng hoá thoả mãn nhu cầu của thị trường. Do đó, việc sử dụng hợp lý và
tiết kiệm các nguồn lực để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đạt
hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp đang là vấn đề được quan tâm.
Nằm ở khu vực Đông Nam Châu á, Việt Nam là nước có nguồn tài
nguyên khoáng sản phong phú, đa dạng. Công nghiệp khai thác khoáng sản ở
Việt Nam mặc dù còn kém phát triển, nhưng đã đóng góp một phần quan
trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của nước nhà, góp phần đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước và sự tăng
trưởng của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, hình thức khai
thác, chế biến khoáng sản quy mô nhỏ, tận thu đang diễn ra phổ biến ở hầu
hết các địa phương trong cả nước và tập trung chủ yếu vào các loại khoáng
sản làm vật liệu xây dựng. Điều đó dẫn đến lãng phí và cạn kiệt nguồn tài
nguyên thiên nhiên, gây ra tình trạng lãng phí, làm giảm hiệu quả kinh doanh
của các doanh nghiệp. Hơn bao giờ hết hiệu quả kinh doanh và phân tích hiệu
quả kinh doanh của các doanh nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam cần

được chú trọng hơn nữa trong giai đoạn hội nhập nền kinh tế quốc tế.
Xuất phát từ những yêu cầu đang đặt ra cần giải quyết và cùng với sự định
hướng của giáo viên hướng dẫn, tôi chọn đề tài nghiên cứu cấp tiến sĩ là: “Phân tích
hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam”.


x
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề sau đây:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả kinh doanh và
phân tích hiệu quả kinh doanh của nền sản xuất xã hội, từ đó làm rõ một số vấn
đề lý luận về phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp khai thác
khoáng sản Việt Nam;
- Giới thiệu tổng quan về các doanh nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam.
Nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc những đặc điểm thực tế về tình hình
phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp khai thác khoáng sản Việt
Nam. Trên cơ sở đó xây dựng hệ thống chỉ tiêu để phân tích, so sánh và đánh giá
hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp này;
- Luận án đã nêu lên sự cần thiết phải phân tích hiệu quả kinh doanh trong
các doanh nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam, nói rõ quan điểm hoàn thiện
phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp khoáng sản;
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện phân tích hiệu quả kinh doanh nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các doanh nghiệp khai thác khoáng
sản Việt Nam.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các vấn đề lý luận về hiệu quả kinh
doanh và phân tích hiệu quả kinh doanh, cùng với thực trạng và phương hướng
hoàn thiện, nâng cao hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp khai thác
khoáng sản Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong ngành khai thác

khoáng sản ở Việt Nam, đặc biệt tập trung vào lĩnh vực khai thác sa khoáng
Titan. Số liệu minh hoạ thực tế được lấy ở một số công ty điển hình như:
Công ty Khoáng sản và Thương mại Hà Tĩnh, Công ty cổ phần Khoáng sản
Bình Định, Công ty Liên doanh Bimal, Công ty Phát triển Khoáng sản 5,
Công ty cổ phần Khoáng sản và Vật liệu xây dựng Lâm Đồng.


xi
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quán
triệt các quan điểm, định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước đối ngành
công nghiệp khai thác khoáng sản nói riêng và ngành công nghiệp khai thác sa
khoáng Titan nói riêng. Để thực hiện đề tài Luận án đã sử dụng tổng hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu khác nhau như: Phương pháp điều tra, phân tích, hệ
thống hóa; phương pháp tổng hợp, phương pháp thực chứng để đối chiếu, trình
bày, đánh giá các vấn đề có liên quan đến hiệu quả kinh doanh và phân tích hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, nêu lên ý kiến của bản thân mình.
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Kết quả của luận án nghiên cứu sẽ tập trung giải quyết những vấn đề là:
- Hệ thống hóa và hoàn thiện những vấn đề lý luận về hiệu quả kinh doanh
và phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và các doanh
nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam nói riêng;
- Xây dựng nội dung, phương pháp và chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh
doanh trong các doanh nghiệp khai thác khoáng sản;
- Xem xét, đánh giá thực trạng và xác định các nhân tố ảnh hưởng tới việc phân
tích hiệu quả kinh doanh tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản;
- Chỉ ra những ưu điểm, nhược điểm trong phân tích hiệu quả kinh doanh
của các doanh nghiệp. Từ đó, đề xuất những giải pháp hoàn thiện phân tích hiệu
quả kinh doanh nhằm và nâng cao hiệu quả kinh doanh tại các doanh nghiệp khai
thác khoáng sản Việt Nam;

6. TỔNG QUAN VỀ CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
Hiệu quả kinh doanh và phân tích hiệu quả kinh doanh là vấn đề then chốt
trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay, vấn đề này đã
được nhiều tác giả nghiên cứu và được biểu hiện thông qua một số giáo trình
chuyên ngành Kế toán như: Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh (PGS.TS.


xii
Phạm Thị Gái (2004), Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội); Phân tích hoạt động kinh
doanh (Phạm Văn Được, Đặng Kim Cương (1999), Nhà xuất bản Thống kê);
Phân tích kinh tế doanh nghiệp - Lý thuyết và thực hành (TS.Nguyễn Năng Phúc
(2003), Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội); Giáo trình đánh giá kinh tế tài nguyên
khoáng sản của trường Đại học Mỏ - Địa chất, NXB Thống kê, 2004; …
Ngoài ra, quan tâm đến vấn đề này đã có một số đề tài nghiên cứu khoa
học, luận văn thạc sỹ và luận án tiến sỹ cũng đã nghiên cứu và được thể hiện
thông qua:
- Quan điểm nghiên cứu: hệ thống chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh
giữa các nhà kinh tế và các nhà kỹ thuật hoàn toàn tách rời nhau. Nếu các nhà kỹ
thuật nghiên cứu nặng về tính chất kỹ thuật, quan tâm đến những chỉ tiêu phản
ánh hiệu quả xã hội (dù cho nhưng nội dung đánh giá vẫn là những chỉ tiêu nặng
về định tính), thì các nhà kinh tế lại sử dụng chủ yếu các chỉ tiêu trên báo cáo tài
chính (đặc biệt là Báo cáo kết quả kinh doanh) để phân tích kết quả và hiệu quả
của doanh nghiệp nên kết quả của quá trình phân tích vẫn phản ánh rõ nét về
hiệu quả sử dụng nguồn lực đầu vào trong quá trình kinh doanh;
- Nội dung và chỉ tiêu phân tích: Hiệu quả kinh doanh và phân tích hiệu
quả kinh doanh là đề tài được nhiều tác giả nghiên cứu với những góc độ khác
nhau (có tác giả đi nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả sử dụng TSCĐ,
hiệu quả sử dụng lao động,…). Thạc sỹ Nguyễn Khắc Hán đã tiến hành nghiên
cứu đề tài luận văn Thạc sỹ của mình xét trong mối liên hệ với các doanh nghiệp

khai thác khoáng sản là: “Phân tích hiệu quả sử dụng vốn và các giải pháp nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn trong các Công ty Xăng dầu Việt Nam”; hay “Phân tích
hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp sản xuất Than thuộc Tổng công ty
Than Việt Nam” là nội dung đề tài được thể hiện qua luận văn Thạc sỹ Lê Thị Bích
Thuỷ năm 2005;…Một điểm tương đồng của các tác giả trong quá trình nghiên cứu
là đều dựa vào hệ thống chỉ tiêu phân tích hiệu quả chung cho tất cả các doanh
nghiệp chưa đưa ra hệ thống chỉ tiêu chi tiết khi phân tích hiệu quả kinh doanh của
từng ngành nghề, từng lĩnh vực.


xiii
Đồng thời, cho đến nay, tại Việt Nam và trên Thế giới chưa có công
trình nào nghiên cứu cả về hiệu quả và phân tích hiệu quả kinh doanh tại các
doanh nghiệp khai thác khoáng sản thuộc lĩnh vực khai thác sa khoáng Titan
Việt Nam ngoài Luận văn Thạc sỹ của tác giả với đề tài: “Phân tích hiệu quả
kinh doanh với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp
khai thác khoáng sản Bình Định”. Xuất phát từ ý tưởng này, cũng với định
hướng của giáo viên hướng dẫn trên cơ sở phát triển hơn nữa luận văn Thạc
sỹ của mình, tôi đã thực hiện Luận án tiến sĩ với tên đề tài: “Phân tích hiệu
quả kinh doanh trong các doanh nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam”.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Với tên đề tài: Phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp
khai thác khoáng sản Việt Nam, ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh
mục tài liệu tham khảo,… luận án được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả kinh doanh và phân tích hiệu quả kinh
doanh trong các doanh nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam;
Chương 2: Thực trạng phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh
nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam;
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện phân tích hiệu quả kinh
doanh với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh

nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam.




1
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH VÀ PHÂN TÍCH
HIỆU QUẢ KINH DOANH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
KHAI THÁC KHOÁNG SẢN


1.1. HIỆU QUẢ KINH DOANH VÀ QUAN HỆ GIỮA HIỆU QUẢ KINH
DOANH VỚI HIỆU QUẢ XÃ HỘI
1.1.1. Quan điểm về hiệu quả kinh doanh
Vấn đề hiệu quả kinh doanh đã được các nhà kinh tế học trên thế giới đi
sâu nghiên cứu từ những năm 1930, đặc biệt nó được tập trung nghiên cứu trong
những năm 1960. Thế nào là quá trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả? Những
biểu hiện của hiệu quả kinh doanh là gì?v.v... Đó là những nội dung được đặt ra
cho nhiều nhà khoa học, nhà quản lý và điều hành sản xuất quan tâm nghiên cứu.
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù của nền kinh tế hàng hoá có liên quan
trực tiếp tới các phạm trù và các quy luật kinh tế khác. Hiệu quả kinh doanh
cũng là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý, các cơ sở sản xuất kinh
doanh, bởi vì nó là tiêu chuẩn, là thước đo của mọi hoạt động. Khi bàn về vấn đề
này, một số nhà kinh tế học cho rằng hiệu quả kinh doanh chỉ nên nghiên cứu áp
dụng đối với lĩnh vực sản xuất. Một số khác cho rằng, phạm trù hiệu quả kinh
doanh được áp dụng đối với tất cả các hoạt động lao động thuộc lĩnh vực sản
xuất và phi sản xuất, hoặc hiệu quả kinh doanh chỉ áp dụng đối với khu vực sản
xuất nhưng ảnh hưởng của nó còn gây tác dụng đến hao phí lao động và mức
phát triển lĩnh vực phi sản xuất. Nhiều nước trên thế giới đã đặt mục tiêu kinh tế

trực tiếp của hệ thống quản lý là nâng cao hiệu quả của nền sản xuất xã hội.
Theo chúng tôi, phạm trù hiệu quả kinh doanh được nghiên cứu áp dụng đối với
bất kỳ một quá trình lao động sản xuất nào.
Qua nội dung được trình bày khái quát ở trên, chúng ta nhận thấy rằng
hiện nay vẫn còn khá nhiều các quan điểm khác nhau khi bàn về hiệu quả


2
kinh doanh. Mỗi một quan điểm đều đưa ra những lý lẽ nhất định về hiệu
quả kinh doanh, có thể kể ra một số trường phái quan điểm về hiệu quả kinh
doanh chủ yếu sau:
Thứ nhất, hiệu quả kinh doanh thể hiện qua các chỉ tiêu phản ánh chi phí
và kết quả của quá trình đầu tư.
Trong bản dự thảo phương pháp tính hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh
của Viện nghiên cứu khoa học thuộc Ủy ban kế hoạch Nhà nước Cộng hòa Liên
bang Nga đã xem hiệu quả kinh doanh là tốc độ tăng thu nhập quốc dân và tổng
sản phẩm xã hội [41]. Như vậy, theo quan điểm này thì hiệu quả được đồng nhất
với chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất hoặc nhịp độ tăng của các chỉ tiêu đó.
Đại diện cho trường phái thuộc quan điểm này cũng được kể đến là nhà
kinh tế học người Anh Adam Smith và nhà kinh tế học người Pháp Ogiephric.
Theo đó hiệu quả - kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế là doanh thu tiêu thụ
hàng hoá [28]. Ông đã đồng nhất hiệu quả với chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh
doanh, do đó không đánh giá chính xác hiệu quả kinh doanh.
Rõ ràng các quan điểm trên là chưa hợp lý. Kết quả sản xuất có thể tăng lên
do tăng chi phí đầu tư hoặc mở rộng việc sử dụng các nguồn dự trữ. Nếu như kết
quả sản xuất kinh doanh tăng do việc mở rộng chi phí các nguồn sản xuất thì
theo quan điểm này rất khó lý giải. Hơn nữa, nếu cùng một kết quả có hai mức
chi phí khác nhau thì theo quan điểm này chúng ta lại có cùng một hiệu quả kinh
tế nên không thể phân biệt được kỳ kinh doanh nào có hiệu quả hơn. Như vậy,
việc chọn năm gốc để so sánh sẽ ảnh hưởng lớn đến kết quả so sánh.

Ở nước ta, nhiều tác giả nghiên cứu về hiệu quả kinh doanh cũng thống
nhất với quan điểm này. Chẳng hạn, có tác giả cho rằng: “Nói một cách tổng
quát, hiệu quả kinh doanh được xem xét trong mối tương quan giữa một bên là
kết quả thu được và một bên là chi phí bỏ ra” [33]. Hay trong một công trình
nghiên cứu khác có tác giả cho rằng: “Hiệu quả của một quá trình nào đó theo
nghĩa chung nhất là quan hệ tỷ lệ giữa kết quả với những điều kiện, nhân tố chi


3
phí vật chất sử dụng để đạt được kết quả theo mục đích của quá trình đó” [27].
Ưu điểm của các quan điểm này là đã phản ánh được mối quan hệ bản chất của
hiệu quả là sự phản ánh trình độ sử dụng chi phí, song nhược điểm ở đây là họ
chỉ mới đề cập đến chi phí thực tế mà bỏ qua mối liên hệ tới nguồn lực của chi
phí đó. Ví dụ, khi tính hiệu quả sử dụng lao động thì chi phí thực tế của nó là số
ngày làm việc, số giờ làm việc, tiền lương (hoặc thù lao lao động) còn nguồn lực
lại được biểu hiện qua số người lao động.
Bên cạnh đó, hiệu quả kinh doanh còn được xét theo quan hệ so sánh tương
đối giữa kết quả đạt được bổ sung và chi phí tiêu hao bổ sung. Lúc này, hiệu quả
kinh doanh được định nghĩa là: Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa phần
tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí [66]. Quan điểm này mới
chỉ dừng lại ở mức độ xem xét sự bù đắp chi phí bỏ ra tăng thêm trong quá trình
sản xuất kinh doanh. Như vậy, nhìn theo góc độ nghiên cứu của Mác - Lênin các
sự vật hiện tượng đều có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau chứ
không tồn tại một cách riêng lẻ. Hơn nữa, sản xuất kinh doanh là một quá trình
mà trong đó các yếu tố tăng thêm có sự liên hệ mật thiết với các yếu tố sẵn có,
chúng trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên quá trình sản xuất kinh doanh và làm
thay đổi kết quả kinh doanh. Như vậy, phân tích hiệu quả kinh doanh đòi hỏi
phải xem xét sự vận động của tổng thể bao gồm yếu tố sẵn có và yếu tố tăng
thêm chứ không giống như quan điểm này chỉ xét đến yếu tố tăng thêm khi phân
tích hiệu quả kinh doanh.

Chỉ tiêu hiệu quả còn được khái niệm là hiệu số giữa kết quả và chi phí bỏ
ra để đạt được kết quả đó [50]. So với khái niệm trình bày ở trên thì khái niệm
này lại có ưu điểm là đã xem xét hiệu quả kinh doanh trong sự vận động tổng thể
của các yếu tố. Quan điểm này đã gắn kết hiệu quả với chi phí, coi hiệu quả kinh
doanh là phản ánh trình độ sử dụng chi phí của doanh nghiệp. Tuy nhiên, xét ở
khía cạnh nào đó, quan điểm này vẫn chưa biểu hiện được tương quan về lượng
và chất giữa kết quả và chi phí.


4
Thứ hai, hiệu quả kinh doanh phản ánh khả năng sử dụng các nguồn lực
của doanh nghiệp.
Quan điểm này được thể hiện qua từ điển Kinh tế Anh - Việt, họ cho rằng:
Hiệu quả (efficiency) là mối tương quan giữa đầu vào của các yếu tố khan hiếm
với đầu ra của hàng hóa, dịch vụ; mối quan hệ này có thể đo lường theo hiện vật
được gọi là hiệu quả kỹ thuật (technical efficiency) hoặc theo chi phí được gọi là
hiệu quả kinh tế (economic efficiency). Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu phản ánh
mức độ sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn lực khan hiếm [40].
Cùng với quan điểm này, TS. Nguyễn Tiến Mạnh cũng cho rằng: Hiệu quả
kinh doanh là phạm trù kinh tế khách quan phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn
lực để đạt mục tiêu xác định [54].
Hay trong cuốn “Kinh tế học” của Paul A Samuelson và Wiliam D
Nordhau viết: “Hiệu quả tức là sử dụng một cách hữu hiệu nhất các nguồn lực
của nền kinh tế để thỏa mãn nhu cầu mong muốn của con người”.
Với các khái niệm được trình bày nêu trên, hiệu quả kinh doanh theo quan
điểm này thể hiện việc đánh giá sự tiết kiệm, hay lãng phí của quá trình tổ chức
hoạt động sản xuất kinh doanh có thể xác định được. Tuy nhiên, vấn đề đang đặt
ra nên sử dụng như thế nào để được xem là hợp lý vẫn đang còn là một tiêu
chuẩn mang tính chất trừu tượng, bản thân doanh nghiệp cũng rất khó lượng hóa
được vì nó chỉ mới dừng lại ở khả năng vận dụng nguồn lực đầu vào chứ không

xét trong mối vận động tương quan của các yếu tố đầu ra.
Thứ ba, hiệu quả kinh doanh là tiêu chuẩn cao nhất của mọi sự lựa chọn cho
các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước [26].
Đây chính là quan điểm của GS.TS. Ngô Đình Giao. Ông cho rằng tối đa
hoá lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu mà doanh nghiệp hướng đến, do đó khi
nghiên cứu hiệu quả kinh doanh chúng ta cũng đã nhận thấy vai trò rất quan
trọng của tổ chức và quản lý họat động kinh doanh, có nghĩa là để đánh giá hiệu
quả kinh doanh cũng cần phải nói tới hiệu quả của hoạt động quản lý. Hiệu quả


5
của hoạt động quản lý là tỷ lệ giữa kết quả có ích của hoạt động quản lý với khối
lượng các nguồn đã sử dụng hay đã hao phí để đạt được kết quả đó. Việc hình
thành và thực hiện hiệu quả có ích của hoạt động quản lý diễn ra như một quá
trình lâu dài, đôi khi kéo dài trong nhiều năm. Vì vậy, quá trình quản lý có thể
được chia thành những giai đoạn, thao tác riêng biệt, đồng thời cũng có thể chia
thành những giai đoạn trung gian (bộ phận) và những kết quả cuối cùng có liên
hệ lẫn nhau của cơ quan quản lý nói chung và giữa các khâu quản lý nói riêng.
Việc đánh giá tổng quát hiệu quả của hoạt động quản lý biểu hiện ở kết quả cuối
cùng các hoạt động của chủ thể quản lý (doanh nghiệp, Bộ ngành, vùng). Tuy
nhiên, hiệu quả của hoạt động quản lý là kết quả tổng hợp của hiệu quả kinh tế,
hiệu quả xã hội, hiệu quả chính trị.
Thứ tư, hiệu quả kinh doanh còn được hiểu theo nhiều cách khác nhau,
chẳng hạn: Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải thể hiện cả về mặt định
tính và định lượng.
Nếu xét về tổng lượng, người ta chỉ thu được hiệu quả kinh doanh khi nào
kết quả lớn hơn chi phí, chênh lệch này càng lớn thì hiệu quả càng cao và ngược
lại [36]. Song khi đánh giá về mặt định tính, mức độ hiệu quả kinh tế cao phản
ánh sự cố gắng, nỗ lực, trình độ quản lý của mỗi khâu, mỗi cấp trong hệ thống
công nghiệp và sự gắn bó của việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu kinh tế

với những yêu cầu và mục tiêu chính trị - xã hội. Hai mặt định lượng và định
tính của phạm trù hiệu quả có quan hệ chặt chẽ với nhau, có nghĩa là trong
những biểu hiện về định lượng phải nhằm đạt được những mục tiêu chính trị - xã
hội nhất định. Nếu đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp theo quan điểm này, tức
là chỉ khi nào đạt được kết quả cao nhất trong điều kiện chi phí thấp nhất mới
được gọi là hiệu quả. Song trên thực tế, việc xác định kết quả nào là cao nhất và
chi phí nào là thấp nhất là rất khó.
Về mặt hình thức, hiệu quả kinh doanh luôn là một phạm trù so sánh thể
hiện mối tương quan giữa cái phải bỏ ra và cái thu về được. Bản chất phạm trù


6
hiệu quả cho thấy không có sự đồng nhất giữa hiệu quả và kết quả. Kết quả chỉ là
yếu tố cần thiết để tính toán và phân tích hiệu quả. Từ bản thân mình, kết quả
chưa thể hiện được nó tạo ra ở mức nào và với chi phí bao nhiêu. Hiện nay,
nhiều người vẫn còn nhầm lẫn giữa khái niệm hiệu quả, kết quả và hiệu suất,
nhiều khi chỉ thấy kết quả của mình làm ra là cao hay thấp mà chưa thấy được
việc sử dụng các yếu tố đầu vào để tạo đầu ra đã tốt hay chưa. Do vậy, để hiểu rõ
bản chất của phạm trù hiệu quả kinh doanh cần phải phân biệt ranh giới giữa
hiệu quả với kết quả và hiệu suất. Vấn đề này được trình bày cụ thể như sau:
- Kết quả chỉ là sự phản ánh kết cục cuối cùng của đối tượng nghiên cứu.
Hiểu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chính là những gì
doanh nghiệp đạt được sau một quá trình kinh doanh nhất định. Với mỗi doanh
nghiệp, sau một thời gian làm việc hoặc sau một chu kỳ kinh doanh thì kết quả
của hoạt động sản xuất kinh doanh có thể là những đại lượng cân, đong, đo, đếm
được; và cũng có thể là một khối lượng công việc hoàn thành, số lượng sản
phẩm tiêu thụ của mỗi loại, thị phần hoặc doanh thu bán hàng, lợi nhuận, ...
Trong các chỉ tiêu kết quả này chỉ có lợi nhuận là kết quả cuối cùng còn các chỉ
tiêu sản lượng, doanh thu,... chỉ là kết quả trung gian.
Như vậy, kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của cơ sở sản xuất kinh doanh.

Trong khi đó, hiệu quả là việc sử dụng cả hai chỉ tiêu phản ánh kết quả (đầu ra)
và chi phí (các nguồn lực đầu vào) để đánh giá hiệu quả. Trong lý thuyết và thực
tế quản trị kinh doanh cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí đều có thể được xác định
bằng đơn vị hiện vật hoặc giá trị . Tuy nhiên, việc sử dụng đơn vị hiện vật để xác
định hiệu quả kinh doanh sẽ vấp phải khó khăn giữa “đầu vào” và “đầu ra”
không có cùng đơn vị đo lường, còn việc sử dụng cách thức đo lường bằng giá
trị sẽ giúp quá trình tính toán, phân tích được thuận lợi hơn. Vấn đề được đặt ra
là trong thực tế, nhiều lúc chỉ tiêu hiệu quả được sử dụng như mục tiêu cần đạt
được, nhưng trong nhiều trường hợp khác người ta lại sử dụng chúng như một
công cụ để nhận biết “khả năng” tiến tới mục tiêu cần đạt được là kết quả.
- Còn hiệu suất là việc đánh giá cường độ hoạt động của đối tượng nghiên


7
cứu. Theo Từ điển Kinh tế Anh - Việt, hiệu suất (productivity) là tương quan
giữa đầu ra hay giá trị sản xuất ra trong một thời gian nhất định và số lượng yếu
tố đầu vào được sử dụng để sản xuất được đầu ra ấy [40]. Như vậy, hiệu quả hoạt
động cũng chính là quá trình khai thác hiệu suất sử dụng của các nguồn lực mà
doanh nghiệp có được. Tuy nhiên, các chỉ tiêu này chỉ dừng lại ở việc cho biết
thông tin về sự biến động quy mô tăng giảm chứ chưa giúp các nhà phân tích
nhìn thấy mức độ ảnh hưởng và sự tác động ở khía cạnh kinh tế. Trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, hiệu quả và hiệu suất là hai chỉ tiêu có quan hệ nhân
quả, hiệu quả có thể là kết quả của hiệu suất nhưng nhiều khi hiệu quả không là
kết quả của hiệu suất. Chẳng hạn, hiệu suất sử dụng tài sản dài hạn là so sánh
doanh thu (giá trị sản lượng) với nguyên giá bình quân tài sản sử dụng - chỉ tiêu
này có thể cao nhưng hiệu quả không cao, vì tài sản dài hạn đó có thể sản xuất ra
nhiều sản phẩm nhưng lại tiêu hao nhiều năng lượng, nguyên vật liệu,... làm cho
giá thành sản phẩm cao, việc bán sản phẩm sẽ bị lỗ. Tuy nhiên, bằng việc so
sánh hiệu suất giữa các kỳ với nhau lại chúng ta cũng có thể đánh giá được hiệu
quả của họat đông kinh doanh.

Thứ năm, hiệu quả của doanh nghiệp là sự gắn kết giữa hiệu quả kinh
doanh và hiệu quả xã hội.
Các nhà kinh tế Cộng hòa liên bang Nga xem: “ Hiệu quả kinh doanh là
một bộ phận quan trọng nhất của toàn bộ chiến lược kinh tế, và chỉ ra rằng để
giải quyết các nhiệm vụ kinh tế - xã hội hiện nay không có con đường nào khác
là tăng nhanh hiệu quả của nền sản xuất xã hội” [39].
Tiếp theo, trong cuộc Hội thảo Khoa học Quốc tế tại Maxcơva, nhà kinh
tế học người Đức P.Tiblack cho rằng: “Vấn đề hiệu quả kinh tế trong sản xuất
phải được nhìn nhận một cách toàn diện hơn, nó không chỉ nói lên sự tăng
trưởng kinh tế trong mỗi thời kỳ mà còn nói lên mục tiêu của hệ thống có
được thực hiện hay không” [46]. Cũng trong cuộc hội thảo này, giáo sư Xing
Xao của Trung Quốc phát biểu: “Hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả kinh
tế trong công nghiệp nói riêng là những phạm trù phức tạp. chúng phản ánh


8
trình độ sử dụng các loại chi phí khác nhau cho sản xuất để tạo ra những kết
quả mong muốn đáp ứng những mục tiêu kinh tế - xã hội nào đó” [46]. So với
các quan điểm đã trình bày ở trên thì quan điểm này có ưu điểm hơn cả. Nó
không những phản ánh được mối quan hệ bản chất của hiệu quả kinh tế là sự
so sánh giữa kết quả sản xuất với chi phí sản xuất, mà còn biểu hiện sự tương
quan về lượng và chất giữa kết quả - chi phí, và nó được biểu hiện cụ thể dưới
dạng tổng hợp nhiều chỉ tiêu kinh tế khác nhau trong quá trình sản xuất.
Quan điểm này cũng được thể hiện rõ theo tinh thần của Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta là: “Lấy suất sinh lời tiền vốn là
tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp kinh doanh, lấy kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm tiêu chuẩn
chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp” [22]. Cùng với việc nền kinh tế
nước ta chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, Nhà nước thực hiện chức
năng quản lý kinh tế bằng các chính sách định hướng vĩ mô thông qua các công

cụ là hệ thống luật pháp hành chính và luật pháp kinh tế nhằm đạt được mục tiêu
chung của toàn xã hội. Lúc này, các doanh nghiệp là các chủ thể sản xuất, tự do
kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật cho phép, có toàn quyền quyết định
đường đi cho mình và bình đẳng với nhau trên thị trường.
Chính vào thời điểm cạnh tranh “nóng hổi” này, vấn đề hiệu quả kinh
doanh đã thực sự trở thành mối quan tâm xuyên suốt của mỗi doanh nghiệp khi
tiến hành tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Ngòai
ra, điểm khác biệt của quan điểm này khi bàn về hiệu quả là nó toát lên bản chất
phát triển xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đó là, lấy kết
quả thực hiện các chính sách xã hội được xem là tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả
của doanh nghiệp. Như vậy, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp được đánh
giá lồng ghép giữa lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của xã hội.
Đây là một quan điểm có ý nghĩa rất quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn
trong việc làm rõ bản chất của hiệu quả kinh tế và tiêu chuẩn để xác định, đánh giá
hiệu quả cho doanh nghiệp. Thực hiện giá trị hiệu quả công ích cũng là bản sắc


9
riêng có của các doanh nghiệp khi theo đuổi giá trị lợi ích của doanh nghiệp mình.
Tuy nhiên, chỉ tiêu suất sinh lời tiền vốn không phải là căn cứ duy nhất để đánh giá
hiệu quả của quá trình kinh doanh. Đồng thời, thông qua sự biến đổi của chỉ tiêu
này, nhà phân tích cũng như doanh nghiệp vẫn chưa thể có cái nhìn sâu sắc và chính
xác rằng trong kỳ doanh nghiệp đã phát huy, khai thác tối đa các lợi thế của mình
hay chưa.
Tóm lại, tuỳ theo phương pháp tiếp cận riêng có của mình, các nhà khoa
học đã trình bày những quan điểm khác nhau khi đánh giá hiệu quả kinh doanh.
Theo các quan điểm ở trên, mục đích cuối cùng của hiệu quả kinh doanh so sánh
giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Cho nên, khi xem xét
hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thì thường được tiến hành như sau:
- Trường hợp 1: Kết quả tăng và chi phí giảm – với kết quả này cho thấy

doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và thu được lợi nhuận;
- Trường hợp 2: Kết quả tăng và chi phí cũng tăng, nhưng tốc độ tăng của
chi phí chậm hơn tốc độ tăng của kết quả sản xuất kinh doanh – trường hợp thứ
hai sẽ làm cho tốc độ đánh giá hiệu quả kinh doanh diễn ra chậm hơn, nhưng
chúng ta vẫn phải chấp nhận. Trường hợp này thường diễn ra vào những thời
điểm mà doanh nghiệp tiến hành đổi mới công nghệ, đổi mới mặt hàng, đầu tư
khai thác thị trường mới,… Đây là một bài toán luôn xảy ra trong thực tế đòi hỏi
các doanh nghiệp phải cân nhắc khi tiến hành kết hợp giữa lợi ích trước mắt với
lợi ích lâu dài cho các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả.
Tuy nhiên, nếu xét hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ cao hay
thấp, tốt hay xấu còn phụ thuộc vào trình độ tổ chức sản xuất và trình độ quản lý
(hay cụ thể hơn chính là khả năng điều phồi các nguồn lực đầu vào) của mỗi
doanh nghiệp. Mặc dù, hiệu quả kinh doanh có thể xem xét thông qua một hay
một vài chỉ tiêu, nhưng bản chất của việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp là xét đến bản chất của quá trình vận động, tổ chức hoạt động sản
xuất kinh doanh tại doanh nghiệp trong mối liên hệ xâu chuỗi của tất cả các đối
tượng liên quan.


10
Như vậy, nếu đứng trên góc độ từng yếu tố riêng lẻ để xem xét hiệu quả
kinh doanh thì sẽ được thể hiện ở trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố trong
quá trình sản xuất kinh doanh. Cũng giống như một số chỉ tiêu khác, hiệu quả là
một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố trong quá
trình sản xuất. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh vừa là phạm trù cụ thể,
lại vừa là phạm trù trừu tượng. Nếu xét ở phạm trù cụ thể thì việc đánh giá hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp được căn cứ vào những chỉ tiêu, con số tính
toán cụ thể. Nhưng nếu thể hiện ở khía cạnh trừu tượng thì phải khẳng định được
mức độ hoặc vai trò quan trọng của yếu tố nào đến công tác phân tích và đánh
giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói rằng, phạm trù hiệu quả là

kiến thức thường trực đối với mọi cán bộ quản lý, được ứng dụng rộng rãi vào
mọi khâu, mọi bộ phận trong quá trình sản xuất kinh doanh.















Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh
với các yếu tố của quá trình sản xuất
Khả năng tái đầu
tư tăng hoặc giảm
Năng lực sản
xuất tăng
hoặc giảm
Chi phí hoặc nguồn
lực sản xuất tăng
hoặc giảm
Lợi nhuận tiêu thụ
hàng hóa tăng
hoặc giảm

Hiệu quả kinh doanh
tăng hoặc giảm
Thị trường tiêu thụ
mở rộng hoặc
thu hẹp

Khối lượng hàng
hóa tiêu thụ tăng
hoặc giảm
Khả năng cạnh
tranh tăng
hoặc giảm


11
Xuất phát từ những quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh doanh nói
chung của các nhà kinh tế học, cũng như căn cứ vào những điểm nổi bật khi
đánh giá hiệu quả kinh doanh nói riêng, mỗi doanh nghiệp cần nhận thức rõ chỉ
có thể đạt được hiệu quả cao khi các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất đều
được sử dụng có hiệu quả. Mặt khác, nếu xem xét các quan điểm về hiệu quả
kinh doanh được nếu ở trên thì hầu hết đều nặng về góc độ định tính, chưa xác
định rõ những yếu tố tạo nên giá trị hiệu quả cho doanh nghiệp. Từ đó, chúng tôi
cho rằng: Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử
dụng và tận dụng triệt để các nguồn lực khan hiếm của doanh nghiệp để đạt
được tổng kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí thấp
nhất. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp được xem là tối ưu nhất khi tạo
ra sự kết hợp hài hòa giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội.
Mục tiêu tồn tại của doanh nghiệp trong điều kiện tối thiểu nhất là các hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải tạo ra thu nhập về tiêu thụ hàng
hóa, đủ bù đắp chi phí đã chi ra để sản xuất lượng hàng hóa ấy. Còn mục tiêu

phát triển của doanh nghiệp đòi hỏi quá trình sản xuất kinh doanh vừa đảm bảo
bù đắp chi phí, vừa có tích lũy để tái sản xuất mở rộng. Sự phát triển tất yếu đó
đòi hỏi các doanh nghiệp phải quan tâm đến hiệu quả kinh doanh và phấn đấu
nâng cao hiệu quả sản xuất, và điều này được xem như là mục tiêu cơ bản của
mỗi doanh nghiệp. Căn cứ trên nhu cầu và định hướng phát triển phát triển của
tương lai, toàn bộ nền kinh tế đang dần dịch chuyển theo chiều sâu của quá trình
đầu tư, và thước đo hiệu quả càng khẳng định vị trí quan trọng của mình khi
đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.2.Mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh và hiệu quả xã hội
Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mỗi doanh nghiệp
đều chú trọng đến việc gia tăng giá trị lợi nhuận đạt được. Tuy nhiên, cũng
không nên đơn giản xem lợi nhuận như là tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả của
doanh nghiệp, mà điều quan trọng là xem xét lợi nhuận đạt được bằng cách nào


12
và được phân phối sử dụng như thế nào. Sự vận động mỗi doanh nghiệp phải
được đặt trong quỹ đạo chung và góp phần thực hiện mục tiêu của hệ thống kinh tế
quốc dân. Bởi vậy, lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp thu được trong hoạt động sản
suất kinh doanh, vừa phải thể hiện sự gắn bó của doanh nghiệp với sự vận động của
thị trường, vừa phải đảm bảo sự tôn trọng pháp luật, kỷ cương Nhà nước, góp phần
vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa. Bên cạnh đó, nội dung
này nên được phân phối theo cách kết hợp hài hòa giữa các loại lợi ích khác nhau:
Lợi ích cá nhân của người lao động, lợi ích của người chủ sở hữu, lợi ích tập thể
doanh nghiệp và lợi ích xã hội.
Tiêu chuẩn hiệu quả xã hội phải đảm bảo tính toàn diện [44]. Tính toàn
diện được thể hiện qua sự gắn bó, ước định lẫn nhau giữa giá trị và giá trị sử
dụng: một mặt giảm chi phí lao động xã hội sản xuất hàng hóa; mặt khác, bảo
đảm chất lượng sản phẩm và không ngừng mở rộng mặt hàng đáp ứng những
nhu cầu đa dạng của xã hội. Thứ đến, sự toàn diện của tiêu chuẩn hiệu quả đòi

hỏi vừa phải giải quyết những vấn đề kinh tế, vừa phải giải quyết những vấn đề
xã hội của đất nước. Cuối cùng, sự toàn diện của tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế
quốc dân đòi hỏi vừa phải xem xét từng giải pháp, mỗi phương án một cách toàn
diện về không gian và thời gian, làm sao bảo đảm hiệu quả chung của từng phần
tử, từng phân hệ có tác động tích cực đến việc nâng cao hiệu quả của toàn bộ hệ
thống, nâng cao hiệu quả hiện tại và lâu dài của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Theo cách đánh giá này có thể hiểu rằng, nếu doanh nghiệp đạt được hiệu quả
kinh doanh mà không đạt được các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội thì cũng
xem như kỳ kinh doanh đó doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả. Cụ thể:
- Đối với doanh nghiệp, hiệu quả kinh doanh là thước đo chất lượng, trình
độ quản lý và sử dụng các nguồn lực sẵn có, vì vậy nội dung này sẽ trực tiếp liên
quan đến sự tồn tại và phát triển bền vững của doanh nghiệp trong tương lai.
Hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh sẽ là điều kiện đảm bảo tái sản xuất,
nâng cao số lượng và chất lượng hàng hoá nhằm giúp cho doanh nghiệp củng cố
vị thế của mình trên thị trường;

×