Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Giáo dục chính trị ở các trường trung cấp chuyên nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.28 KB, 29 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

PHẠM VĂN HOẰNG
SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC
MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ Ở CÁC TRƯỜNG
TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP
Chuyên ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học bộ môn Giáo dục Chính trị
Mã số : 62.14.01.11

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Hà Nội - Năm 2015
Công trình được hoàn thành tại:
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Trần Đăng Sinh
2. TS. Nguyễn Thị Toan
Phản biện 1: PGS.TS. Trương Quốc Chính
Học viện Hành chính Quốc gia
Phản biện 2: GS.TS. Nguyễn Đình Kháng
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Phản biện 3: TS. Quách Tất Kiên
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Luận án sẽ được bảo vệ tại hội đồng chấm luận án cấp trường
họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Vào hồi… giờ…ngày…tháng…năm 2015
Có thể tìm hiểu luận án tại:
1. Thư viện quốc gia Việt Nam
2. Thư viện trường Đại học Sư phạm Hà Nội
3
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ


1. Phạm Văn Hoằng (2012), Vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy học
môn chính trị ở trường trung học chuyên nghiệp trong xu thế hội nhập kinh
tế quốc tế, Tạp chí Giáo dục Lý luận số 9 (9/2012), tr.74-75
2. Phạm Văn Hoằng (2012), Đổi mới phương pháp dạy học môn chính trị ở các
trường TCCN, Tạp chí Thanh Niên số 35 (24/11/2012), tr. 46
3. Phạm Văn Hoằng (2014), Sử dụng CNTT trong dạy học môn GDCT nhằm phát
huy tính tích cực học tập cho học sinh các trường TCCN, số 325, kì 1 (1/2014),
Tạp chí Giáo dục, tr. 60-62
4. Phạm Văn Hoằng (2014), Ứng dụng CNTT trong dạy học môn GDCT
(Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh) nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
và sáng tạo của học sinh ở các trường TCCN, số 59 (2/2014), Tạp chí Khoa
học ĐHSP Hà Nội, tr.154-160
5. Phạm Văn Hoằng (2014), Ứng dụng phần mềm powerpoint vào xây dựng bài
giảng điện tử môn GDCT (chương 3. Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản
Việt Nam) ở trường TCCN, số 330 kì 2 (3/2014), Tạp chí Giáo dục, tr.55-57
6. Phạm Văn Hoằng (2014), Ứng dụng CNTT nhằm phát huy tính tích cực học
tập của học sinh trong dạy học môn GDCT, Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt,
(4/2014), tr.210-211
7. Phạm Văn Hoằng (2014), Công nghệ thông tin và xu hướng ứng dụng trong
dạy học, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập ở các trường trung cấp chuyên
nghiệp, Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt, (4/2014), tr.216-218
8. Phạm Văn Hoằng (2014), Quy trình dạy học môn GDCT ở trường TCCN
bằng bài giảng điện tử, Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt (6/2014), tr.261-262
9. Phạm Văn Hoằng (2014), Ứng dụng CNTT trong dạy học môn GDCT ở
trường TCCN-Đôi điều bàn thêm, Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt, (7/2014)
4
10. Phạm Văn Hoằng (2014), Phương hướng nâng cao hiệu quả sử dụng CNTT
vào dạy học môn GDCT ở trường TCCN, Tr54.
5
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Đổi mới phương pháp dạy học là việc làm cần thiết nhằm thực hiện chủ
trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo. Giáo dục Việt Nam đang
thực hiện bước chuyển từ giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của
người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc người học học được cái gì đến chỗ quan
tâm người học vận dụng được cái gì qua việc học. Công nghệ thông tin đã làm thay
đổi toàn diện nội dung, phương thức dạy và học. Nó đã trở thành một phương
tiện hiệu quả để tiến tới một xã hội học tập. Mặt khác, giáo dục và đào tạo không
chỉ là đối tượng ứng dụng CNTT mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển của
CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT. Như vậy CNTT vừa
là phương tiện vừa là mục đích của giáo dục và đào tạo.
1.2. Trong các trường TCCN ở nước ta môn GDCT là môn học có vai trò rất
quan trọng trong việc hình thành thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng, bồi dưỡng
tư tưởng đúng đắn và xây dựng tình cảm cao đẹp cho học sinh.Việc sử dụng CNTT
trong dạy học môn GDCT ở các trường TCCN trong thời gian qua đã có những mặt
thành công nhất định nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập.
1.3. Từ thực trạng trên, việc đổi mới phương pháp dạy học môn GDCT ở các
trường trung cấp chuyên nghiệp là rất cần thiết. Tuy nhiên, việc sử dụng CNTT trong
dạy học môn GDCT còn thiếu bài bản, hệ thống, chưa đúng quy trình. Xuất phát, từ
tầm quan trọng của việc sử dụng CNTT trong dạy học môn GDCT ở các trường
TCCN, nghiên cứu sinh chọn “Sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Giáo
dục chính trị ở các trường trung cấp chuyên nghiệp” làm đề tài luận án của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu cơ sở lí luận, thực tiễn và đề xuất các biện pháp sử dụng
CNTT trong dạy học môn GDCT nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn
học này ở các trường TCCN hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học môn GDCT ở các trường trung cấp chuyên nghiệp.
3.2. Đối tượng nghiên cứu

Mối quan hệ giữa biện pháp sử dụng CNTT trong dạy học môn GDCT ở các trường
TCCN với chất lượng dạy học môn GDCT.
4. Giả thuyết khoa học
Việc sử dụng CNTT trong dạy học môn GDCT ở các trường TCCN thời gian
qua còn nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao. Nếu phân tích được thực trạng và xây
6
dựng được các biện pháp sử dụng CNTT trong dạy học môn GDCT sẽ góp phần nâng
cao chất lượng DH môn học này ở các trường TCCN hiện nay.
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn việc sử dụng CNTT trong dạy học môn
Giáo dục chính trị ở các trường trung cấp chuyên nghiệp hiện nay.
Xây dựng các biện pháp sử dụng CNTT trong dạy học môn GDCT ở các trường
TCCN hiện nay.
Tổ chức thực nghiệm sư phạm các biện pháp đã đề xuất.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu thực trạng việc sử dụng CNTT ở 5 trường TCCN trên địa
bàn Hà Nội: Trường TC Sư phạm Mẫu giáo - nhà trẻ Hà Nội, Trường TC Kinh tế Hà
Nội, Trường TC Xây dựng Hà Nội, Trường TC Kinh tế - Kỹ thuật Dược Hà Nội,
Trường TC Kinh tế - Kỹ thuật Hà Nội I.
Thời gian điều tra và thực nghiệm từ tháng 9/2011 đến tháng 8/2013
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử; lí luận dạy học hiện đại; lí luận và phương pháp dạy học bộ
môn GDCT.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
6.2.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí luận
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phân tích-
tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, lịch sử-cụ thể.

6.2.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát: Quan sát thái độ, sự chú ý, biểu hiện hứng thú, tính tích
cực của HS trong dạy học có sử dụng CNTT qua các buổi dự giờ, giảng dạy.
Phương pháp điều tra xã hội học: Sử dụng phiếu hỏi với GV, HS để thu thập
thông tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp phỏng vấn giáo viên, học sinh, nhà quản lí
Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến các nhà khoa học trong xây dựng đề
cương, lựa chọn phương pháp xây dựng bộ phiếu khảo sát thực trạng.
Phương pháp thực nghiệm: Thực nghiệm sư phạm để phân tích, đánh giá, so
sánh nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng thông qua tác động của thực nghiệm, nêu
kết luận và kiến nghị.
6.2.3. Các phương pháp hỗ trợ
Sử dụng toán thống kê và phần mềm toán học để xử lý các số liệu thu được trong
điều tra thực trạng và thực nghiệm sư phạm nhằm rút ra những kết luận cần thiết.
7. Những luận điểm cần bảo vệ
7
Tính tất yếu khách quan của việc sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học
môn Giáo dục chính trị ở các trường trung cấp chuyên nghiệp.
Thực tiễn DH môn GDCT giáo viên đã sử dụng CNTT, tuy nhiên do chưa có
biện pháp tốt do đó hiệu quả đạt được chưa cao.
Việc xác lập một hệ thống biện pháp sử dụng CNTT trong DH môn GDCT ở các
trường TCCN một cách đồng bộ, hiệu quả sẽ góp phần nâng cao chất lượng DH môn học.
8. Những đóng góp của luận án
Luận án góp phần xây dựng cơ sở khoa học của việc sử dụng CNTT trong dạy học
môn GDCT ở các trường TCCN.
Phân tích nguyên nhân, thực trạng và đánh giá việc sử dụng CNTT trong DH môn
GDCT ở các trường TCCN.
Xây dựng hệ thống các biện pháp sử dụng CNTT trong DH môn GDCT góp phần
nâng cao chất lượng DH môn học ở nhà trường hiện nay.
9. Kết cấu luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án có
4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu việc sử dụng công nghệ thông tin trong
dạy học
Chương 2. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng công nghệ thông tin trong dạy
học môn Giáo dục chính trị ở các trường trung cấp chuyên nghiệp
Chương 3. Nguyên tắc và biện pháp sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học
môn Giáo dục chính trị ở các trường trung cấp chuyên nghiệp
Chương 4. Thực nghiệm sư phạm
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VIỆC SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC
1.1. Một số công trình nghiên cứu về sử dụng công nghệ
thông tin trong dạy học
Thứ nhất,các tài liệu, công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Một số công trình trên thế giới liên quan đến việc sử dụng CNTT trong giáo dục
và dạy học được đề cập theo nhiều góc độ khác nhau đều khẳng định việc trang bị kỹ
năng sử dụng CNTT cho GV trong dạy học là cần thiết và quan trọng.Nhìn chung,
các bài viết, tài liệu trên đã đem lại cho chúng tôi những nhận thức đầy đủ hơn về xu
hướng, ý tưởng, biện pháp sử dụng CNTT nói chung, phần mềm dạy học nói riêng.
Thứ hai,các tài liệu, công trình nghiên cứu ở trong nước:.
Một là, đưa môn tin học vào dạy trong nhà trường nhằm trang bị kiến thức tin
học, rèn luyện các kỹ năng ứng dụng CNTT cho học sinh. Đây vừa là mục đích nâng
cao trình độ học vấn, vừa là phương tiện để hỗ trợ tích cực cho quá trình học tập của
học sinh trong thời đại CNTT.
8
Hai là,dùng CNTT làm công cụ hỗ trợ công tác quản lý. Đây là một yêu cầu cấp
thiết để đổi mới công tác quản lý nhà trường nói chung và công tác quản lý dạy học
nói riêng. Với ưu thế của CNTT là xử lý nhanh chóng, chính xác sẽ giúp cho công tác
quản lý ở các trường đạt hiệu quả cao.

Ba là, với tư cách là phương tiện dạy học, CNTT làm thay đổi cách dạy và cách
học, hỗ trợ đắc lực cho việc đổi mới PPDH, nâng cao chất lượng dạy học. Máy tính,
mạng Internet cùng với các phần mềm dạy học đã tạo ra môi trường dạy học đa phương
tiện, mô hình học tập mới làm cho người học có thể học tập bất cứ ở đâu, bất cứ thời
điểm nào, từ đó, có thể tích cực hoá, cá biệt hoá quá trình học tập của học sinh.
1.2. Một số công trình nghiên cứu về sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học
môn Giáo dục chính trị
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về việc sử dụng CNTT vào quá trình dạy
học, trong đó có việc sử dụng CNTT vào dạy học các môn Lý luận chính trị, tuy
nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề sử dụng CNTT trong dạy học
môn Giáo dục chính trị ở trường TCCN. Đây chính là khoảng trống mà tác giả luận
án cần nghiên cứu để bổ sung và hoàn thiện trong luận án này.Tác giả luận án đã kế
thừa một số kết quả của các công trình khoa học nói trên; đó là tư liệu quý giá để quá
trình nghiên cứu luận án thêm cơ sở.
1.3. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu
Một là, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn việc sử dụng CNTT trong
dạy học nói chung và dạy học môn GDCT ở các trường TCCN nói riêng; luận chứng ưu
thế của CNTT trong dạy học môn GDCT; về việc có thể sử dụng công nghệ thông tin ở
các hình thức, các khâu trong quá trình dạy học môn GDCT ở các trường TCCN;
Hai là, điều tra, đánh giá thực trạng của việc sử dụng CNTT trong dạy học môn
Giáo dục chính trị ở các trường TCCN.
Ba là, đề xuất một số nguyên tắc và biện pháp sử dụng công nghệ thông tin
trong dạy học môn GDCT ở các trường TCCN, các nhóm biện pháp chuẩn bị các
điều kiện để tổ chức dạy học theo hướng có sử dụng CNTT, nhóm các biện pháp sử
dụng CNTT để tổ chức dạy học trên lớp, nhóm các biện pháp sử dụng CNTT để
hướng dẫn học sinh tự học, nhóm các biện pháp sử dụng CNTT để tổ chức kiểm tra
đánh giá việc học tập môn GDCT.
Bốn là, tổ chức thực nghiệm sư phạm đánh giá hiệu quả các biện pháp đã đề
xuất trong luận án.
CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ Ở CÁC
TRƯỜNG TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP
2.1. Cơ sở lí luận của việc sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học
2.1.1.Một số khái niệm cơ bản
9
Công nghệ là khái niệm để chỉ một quá trình thực hiện làm ra một cái gì đó nhờ
sự trợ giúp của máy móc, trong đó có phần bí quyết để đạt được kết quả cao. Phát
triển và ứng dụng của các dụng cụ, máy móc, nguyên liệu và quy trình để giúp đỡ,
giải quyết những vấn đề của con người.
Công nghệ dạy học là hệ thống các phương pháp, phương tiện hoạt động, mà kết quả
là phải đào tạo được những người tốt nghiệp theo mong muốn trong thời gian ngắn nhất
có thể được với sự chi phí phương tiện một cách tối ưu.
2.1.1.1. Công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin (CNTT) là một trong những thành tựu lớn của cách mạng
khoa học-kỹ thuật; là kỹ thuật sử dụng máy tính và phần mềm để thu thập, xử lý, lưu
trữ và phổ biến văn bản, thông tin số và âm thanh, phim ảnh dựa trên sự kết hợp máy
tính và truyền thông. CNTT đã thâm nhập và chi phối hầu hết các lĩnh vực nghiên
cứu khoa học, ứng dụng công nghệ trong sản xuất, giáo dục, đào tạo và các hoạt động
chính trị, xã hội khác.
Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được nêu trong Nghị quyết số 49/CP ban hành
ngày 04/08/1993 "Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các
phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông
nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất
phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội".
2.1.1.2. Sử dụng công nghệ thông tin
CNTT là công cụ dạy học, giáo viên sử dụng CNTT để thiết kế và trình bày bài
giảng (giáo án điện tử, bài giảng điện tử); phần mềm được sử dụng phổ biến là
Microsoft PowerPoint được cài đặt trong các chương trình máy tính.
CNTT là một hình thức của phương tiện, đồ dùng trực quan để giáo viên và học

sinh tương tác trong quá trình dạy và học. Giáo viên sử dụng CNTT tìm tài liệu hỗ trợ
dạy học và thiết kế, sử dụng giáo án điện tử, còn người học sử dụng CNTT làm
phương tiện trả bài theo yêu cầu của giáo viên.
CNTT là môi trường học tập tạo nên sự đa dạng về hình thức, phong phú về nội
dung và phương pháp; chuyển vai trò chủ động về người học. Giáo viên đóng vai trò cố
vấn, hướng dẫn; học sinh chủ động trong học tập về mặt thời gian, địa điểm, cách thức;
có thể nói, đây là môi trường xây dựng trường ảo, lớp ảo phục vụ cho việc học thật.
2.1.2. Sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học
10
2.1.2.1. Mục tiêu sử dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng dạy học
môn Giáo dục chính trị
Theo quan điểm tiếp cận thông tin thì bản chất của quá trình dạy và học chính là
quá trình truyền thông và thông tin. Do đó, trong dạy học quá trình truyền thông và
thông tin được thực hiện tốt thì quá trình dạy và học cũng sẽ thu kết quả tốt. CNTT là
tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện nhằm tổ chức, khai thác và sử
dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin. Các phương tiện chủ yếu là máy
tính, hệ thống máy tính và các thiết bị truyền thông. Với phương tiện này thì việc lựa
chọn, xử lý, lưu trữ và phân phối (truyền thông) thông tin rất nhanh chóng, chính xác
và hiệu quả. Nói cách khác, CNTT là phương tiện hữu hiệu hỗ trợ, tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho quá trình thông tin và truyền thông. Vì vậy, có thể nói, CNTT là
phương tiện hữu hiệu hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho quá trình dạy học, nhằm
đạt được mục tiêu của dạy học, tức là đảm bảo được chất lượng dạy học.
Mặt khác, CNTT cũng là một phần trong nội dung dạy học ở nhà trường hiện
nay. Do đó, khi chất lượng dạy học được đảm bảo sẽ là tiền đề, động lực cho việc sử
dụng CNTT làm cho việc sử dụng CNTT vào quá trình dạy học càng đi vào chiều sâu
và hiệu quả hơn.
Việc sử dụng CNTT trong DH có tác dụng tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả
từng bài học và chất lượng DH bộ môn. Công việc này nếu được vận dụng thường
xuyên không chỉ giúp GV từng bước nâng cao trình độ chuyên môn, khả năng sử
dụng phương tiện kỹ thuật trong DH, mà còn tiết kiệm thời gian, sử dụng CNTT

trong DH không làm mất đi vai trò của người GV mà người GV là người hướng dẫn,
tổ chức cho HS học tập, ngược lại còn làm cho các em thêm say mê, hứng thú, yêu
thích môn học này hơn
2.1.2.2.Vai trò của công nghệ thông tin trong dạy học
Thứ nhất, CNTT là công cụ, phương tiện dạy học giúp giáo viên tổ chức, hướng
dẫn học sinh học tập, góp phần tích cực vào đổi mới PPDH. Trước đây, khi nói đến
tính trực quan trong DH người ta thường đề cập tới các phương tiện trực quan truyền
thống bảng đen, phấn trắng, tranh ảnh, sơ đồ, bảng, biểu.
Thứ hai, CNTT là nguồn cung cấp kiến thức đa dạng và cần thiết đối với GV và
HS trong quá trình dạy học. Trong mỗi nội dung ấy thể hiện nhiều lĩnh vực khác
nhau, như các sự kiện kinh tế, sự kiện chính trị, quân sự, ngoại giao; hoặc các biểu
tượng về thời gian, không gian, nhân vật.
Thứ ba, sử dụng CNTT trong DH là một biện pháp quan trọng giúp học sinh mở
rộng kiến thức để làm phong phú thêm sự hiểu biết của HS. Điều này góp phần làm
bài học sinh động hơn, hấp dẫn hơn, gây hứng thú học tập cho HS hơn.
Thứ tư, sử dụng CNTT trong DH có ý nghĩa tích cực vào phát triển khả năng
quán sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ, củng cố kiến thức tự nhiên, xã hội và
11
địa lý cho HS, trên cơ sở đó, giúp các em nhớ kỹ, hiểu sâu bài học, hình thành mối
liên hệ giữa không gian và thời gian.
2.1.2.3.Nội dung sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học
Mức 1: Sử dụng CNTT để trợ giúp GV một số thao tác nghề nghiệp như soạn
giáo án, in ấn tài liệu, truy cập Internet sưu tầm tài liệu phục vụ hoạt động dạy học,
tham gia là thành viên của một số webSite để trao đổi nội dung các bài giảng hay tư
liệu giảng dạy.
Mức 2: Sử dụng CNTT để hỗ trợ một khâu, một công việc nào đó trong toàn bộ
quá trình dạy học. GV sử dụng phần mềm PowerPoint soạn giáo án điện tử phục vụ
giảng dạy ở các trường có trang bị máy chiếu Projector. Ứng dụng này đang được
từng bước triển khai.
Mức 3: Sử dụng phần mềm dạy học chuyên dùng để tổ chức dạy học theo từng

chương, từng bài, từng đơn vị kiến thức.
Mức 4: Tích hợp CNTT vào quá trình dạy học. GV sử dụng máy tính ở tất cả
các khâu của quá trình dạy học, từ xây dựng kế hoạch dạy học, tổ chức thực hiện và
kiểm tra đánh giá đều được thực hiện trên máy tính, mạng máy tính.
Mức 5: Trường học thông minh,xây dựng các chương trình dạy học trên mạng,
HS có thể học mọi lúc, mọi nơi, mọi thứ, đây là xu thế trường học trong tương lai.
2.1.3.Sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Giáo dục chính trị ở các
trường trung cấp chuyên nghiệp
2.1.3.1.Khái quát chung về môn Giáo dục chính trị ở trường trung cấp chuyên nghiệp.
Giáo dục chính trị gồm những nội dung cơ bản của các môn khoa học Triết học
Mác-Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tư tưởng Hồ Chí
Minh và Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chương trình môn Giáo
dục Chính trị có 75 tiết, gồm: Chương mở đầu Nhập môn Giáo dục chính trị (2 tiết);
Chương 1. Chủ nghĩa Mác- Lênin (20 tiết); Chương 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh (10 tiết);
Chương 3. Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (38 tiết); Chương 4. Tu
dưỡng, rèn luyện để trở thành người công dân tốt, người lao động tốt (5 tiết).
Đặc thù của môn học mang tính lý luận khái quát, tính trừu tượng, nội dung kiến
thức khó gắn với thực tiễn nên nội dung kiến thức dễ bị lạc hậu. Mặt khác thực tiễn
luôn vận động làm cho mâu thuẫn giữa kiến thức hàn lâm với tính thực tiễn của môn
học ngày càng tăng. Bên cạnh đó tâm lý học sinh, sinh viên coi môn học khó, khô
khan, khó tiếp thu, khó vận dụng vào thực tiễn khiến cho môn học càng thiếu sức hấp
dẫn với người học.
2.1.3.2. Khả năng sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Giáo dục chính trị
ở các trường trung cấp chuyên nghiệp
Trong khâu thiết kế bài giảng, giáo viên dựa vào nội dung bài học, kết hợp
lượng thông tin bổ sung sẽ tự tìm cách thiết kế bài giảng phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lí của học sinh và điều kiện thực tế của trường.
12
Trong tiến trình dạy học trên lớp, sau quá trình tìm kiếm, lựa chọn thông tin và
thiết kế bài giảng để tiến hành giảng trên lớp. bài giảng với các tư liệu được khai thác

như biểu đồ, tranh ảnh, âm thanh, màu sắc trở nên sinh động hấp dẫn, dễ tiếp thu và
có tác động tổng hợp từ đó tập trung thu hút được sự chú ý của học sinh đồng thời
cũng phát huy được tính tích cực của học sinh.
Trong khâu kiểm tra đánh giá, giáo viên có thể kiểm tra, đánh giá khả năng tiếp
thu tri thức của học sinh bằng việc sử dụng CNTT thông qua kênh chữ và kênh hình,
học sinh có thể làm bài trực tiếp trên máy tính.
Trong việc tự học, tự nghiên cứu, ngoài giờ học ở trên lớp, cả giáo viên và học
sinh có thể khai thác các phần mềm ở nhà để mở rộng nội dung, bổ sung tri thức và
rèn luyện kỹ năng tin học.
2.1.3.3. Sử dụng một số phần mềm để thiết kế bài giảng môn Giáo dục chính trị
Phần mềm Micrsoft Word là một trong những phần mềm máy tính được sử dụng
rộng rãi nhất hiện nay. Từ khi ra đời vào cuối những năm 80 (thế kỉ XX) đến nay
phần mềm này đã đạt được sự hoàn hảo trong lĩnh vực soạn thảo văn bản với những
tính năng ưu việt của nó.
Phần mềm Micrsot Excel là phần mềm trong bộ Micrsoft Office thường sử dụng
trong văn phòng, kế toán, trường học với những tính năng nổi trội như lưu giữ thông
tin, tự động tính toán, xây dựng các biểu đồ, xử lí các bảng số liệu.
Phần mềm Microsoft PowerPoint là phần mềm quen thuộc với giáo viên. Phần
mềm này được sử dụng để thiết kế bài giảng dạy học rất hiệu quả. Với những hiệu
ứng đẹp, khả năng liên kết mạnh, GV có thể sắp xếp, bố trí các nội dung thông tin
chính xác và khoa học theo ý đồ đã đề ra.
2.1.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học
môn Giáo dục chính trị
Điều kiện về cơ sở vật chất phục vụ việc sử dụng CNTT. Muốn việc sử dụng
CNTT trong dạy học được thực hiện thì ngoài yếu tố con người, còn phải có trang
thiết bị về CNTT cần thiết
Đối với giáo viên: Giáo viên phải có nhận thức cao về vai trò, tầm quan trọng
của CNTT trong dạy học, chủ động sử dụng CNTT vào đổi mới cách dạy, cách học,
xem đây như là công cụ hữu hiệu để nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường
hiện nay.

Đối với học sinh:Người học phải có đủ trình độ nhận thức theo chuẩn mực chung
tức là người học phải đảm bảo một cách khách quan về trình độ nhận thức theo quy định
chung. Nếu người học không đủ trình độ nhận thức sẽ gặp nhiều khó khăn trong học tập,
quan trọng hơn là người dạy phải có phương pháp dạy học phù hợp để dạy được cả
người đủ trình độ nhận thức và người có trình độ nhận thức dưới mức quy định.
Đối với cán bộ quản lý: Lãnh đạo nhà trường phải có nhận thức cao về vai trò,
tầm quan trọng của CNTT trong việc nâng cao chất lượng dạy học, chủ động đổi mới
tư duy, phải hiểu rõ đây chính là xu thế tất yếu của thời đại, là cách tiếp cận đi tắt,
13
đón đầu, rút ngắn khoảng cách với các nền giáo dục chất lượng trên thế giới, từ đó, có
sự nhất trí và quyết tâm trong chủ trương đẩy mạnh sử dụng CNTT trong dạy học ở
nhà trường.
2.2. Cơ sở thực tiễn của việc sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn
Giáo dục chính trị ở trường trung cấp chuyên nghiệp
2.2.1. Vài nét về các trường trung cấp chuyên nghiệp trên địa bàn khảo sát
Trường trung cấp chuyên nghiệp (Căn cứ Luật Giáo dục ngày 14 tháng 6 năm
2005; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục ngày 25 tháng 11 năm
2009) là những cơ sở đào tạo nhân lực lao động kỹ thuật có cơ cấu ngành nghề và
trình độ chuyên môn đa dạng, đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng cao của thị
trường lao động và đời sống xã hội trong điều kiện tiến bộ nhanh chóng của cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ. Chất lượng đào tạo trong các trường trung cấp
chuyên nghiệp được hình thành trong quá trình tuyển sinh, tổ chức đào tạo và được
phản ánh trong kết quả học tập và rèn luyện đặc biệt là thể hiện qua năng lực hành
nghề, khả năng thích ứng và phát triển nghề nghiệp của học sinh tốt nghiệp. Đồng
thời, chất lượng đào tạo TCCN còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó các điều
kiện đảm bảo chất lượng chương trình, giáo viên, đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất có
vai trò quan trọng.
Nét chung của các trường trung cấp chuyên nghiệp đóng trên địa bàn Hà Nội
được thừa hưởng những điều kiện kinh tế -Xã hội với hạ tầng cơ sở vật chất tốt. Hà
Nội là trung tâm chính trị văn hóa của cả nước. Vì vậy mà các trường trung cấp

chuyên nghiệp ở Hà Nội thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao đó là đội ngũ
giáo viên có trình độ, có khả năng tiếp cận tốt khoa học công nghệ, mặt khác các
trường trung cấp chuyên nghiệp trên địa bàn Hà Nội có cơ sở vật chất tốt, có khả
năng thu hút được người học với số lượng học sinh nhiều hơn, chất lượng học sinh
đầu vào tốt hơn. Đó là sự khác biệt mà các trường trung cấp chuyên nghiệp ở các địa
phương khác không có được.
2.2.2. Thực trạng việc sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Giáo dục
chính trị ở các trường trung cấp chuyên nghiệp
2.2.2.1. Nhận thức của giáo viên và học sinh về việc sử dụng CNTT trong dạy học
môn GDCT ở các trường trung cấp chuyên nghiệp
Mục đích điều tra nhằm tìm hiểu nhận thức của GV đối với việc sử dụng CNTT
cũng như những khó khăn mà GV gặp phải trong dạy học. Những câu hỏi điều tra như
sau:Trả lời câu hỏi:xin các thầy cô cho biết nhân thức của thầy cô về việc sử dụng
CNTT trong dạy học môn GDCT (phụ lục 3). Kết quả thu được từ ý kiến của GV ở
bảng 2.1
Kết quả thu được cho thấy Nhận thức của GV về sử dụng CNTT trong dạy học
môn GDCT, có 100% ý kiến cho rằng môn GDCT có nhiều ưu điểm và khả năng để
sử dụng CNTT trong DH. Theo đó, CNTT góp phần quan trọng vào đổi mới PP và
nâng cao chất lượng bộ môn (112 ý kiến, chiếm 95%). Tuy nhiên, vẫn còn 6/118 ý
14
kiến (chiếm 0.5%) nhận thức sai lệch, tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố công nghệ khi
khẳng định CNTT là nhân tố quyết định đến hiệu quả bài học. Tần suất và tính hiệu
quả của những tiết học GV sử dụng CNTT trong DH môn GDCT.
Kết quả thống kê ở trên cho thấy hầu hết các GV nhận thức được vai trò, tầm
quan trọng, sự cần thiết của việc sử dụng CNTT trong quá trình dạy học. Có tới
(74.2%) ý kiến của GV cho rằng sử dụng CNTT trong dạy học môn GDCT là rất cần
thiết và(22.5 %) ý kiến của GV cho rằng cần thiết. Tuy nhiên còn có ý kiến cho rằng
sử dụng CNTT trong dạy học môn GDCT là không quan trọng, không cần thiết
(3.5%). Điều này cho thấy có sự nhận thức chưa đúng về vai trò của môn học trong
nhà trường. Qua điều tra thực trạng, tác giả thấy rõ về cơ bản tất cả các GV đều thấy

được vai trò quan trọng của việc dạy học môn GDCT bằng CNTT, nhằm phát huy
tính tích cực, chủ động cho HS góp phần nâng cao chất lượng dạy học hiện nay.
Tìm hiểu về nhận thức của HS đối với vị trí, ý nghĩa của môn học, thái độ học
tập của HS với môn học cũng như các PPDH mà GV đã áp dụng để dạy học môn
GDCT, HS hiểu như thế nào về việc sử dụng CNTT trong dạy học, các khó khăn mà
các em gặp phải khi áp dụng CNTT. Mặt khác, tác giả tiến hành đối chiếu, kiểm
nghiệm các dữ liệu thu thập từ GV. Hình thức, biện pháp GV và HS sử dụng CNTT
trong DH môn GDCT (phụ lục 4)
Kết quả điều tra 1197 HS cho thấy, có 1025 em (chiếm 85.6%) cho rằng GV chủ
yếu sử dụng CNTT khi DH các bài học nội khóa, trọng tâm là khâu tổ chức cho HS
nghiên cứu kiến thức mới. Việc sử dụng CNTT hỗ trợ cho hoạt động ngoại khóa hay tổ
chức các dạng trò chơi về môn học ít được quan tâm (chỉ có 252 ý kiến, chiếm 21.6%).
Do cơ sở vật chất và điều kiện học tập của HS hiện còn gặp nhiều khó khăn, những
hình thức, biện pháp GV yêu cầu các em sử dụng CNTT hỗ trợ cho việc học tập môn
học rất khó thực hiện. Tính phổ biến của các hình thức, biện pháp này chưa nhiều, chỉ
có thể áp dụng tại một số trường (có 95/1197 ý kiến, chiếm 7.9%). Chính vì điều kiện
khách quan chưa cho phép nên có tới (707/1197 ý kiến chiếm 59,2% ý kiến HS cho
rằng thầy, cô giáo chưa bao giờ yêu cầu HS sử dụng CNTT vào học tập. Tìm hiểu về
mức độ thường xuyên của việc sử dụng CNTT của GV qua ý kiến của HS (Phụ lục 5).
Nhìn vào bảng trên chúng ta thấy có 60 ý kiến chiếm (5.2%) số HS cho rằng GV
chỉ sử dụng CNTT một lần trên một tháng, có 201 ý kiến chiếm (16.7%) số HS cho
rằng GV chỉ sử dụng CNTT hai lần trên một than, có tới 593 ý kiến chiếm (49.5%) số
HS cho rằng thầy cố chỉ sử dụng CNTT vào thi hội giảng hay thi giáo viên dạy gỏi và
có tới 258 ý kiến chiếm (21.5%) số HS cho rằng chưa bao giờ GV sử dụng CNTT. Từ
các kết quả trên cho thấy, cách thức dạy học của GV còn nặng về PPDH truyền
thống, mức độ vận dụng các PPDH tích cực trong đó có CNTT còn hạn chế nên kết
quả dạy và học chưa cao.
Tìm hiểu về mức độ cần thiết và những khó khăn mà HS gặp phải khi học môn
GDCT có sử dụng CNTT . Số học sinh được hỏi cho rằng việc DH môn GDCT có sử
dụng CNTT là cần thiết. CNTT không những làm cho bài học thêm sinh động, hấp

15
dẫn mà giúp cho việc lĩnh hội kiến thức, nguyên lý, quy luật, phạm trù, khái niệm vốn
rất trừu tượng trở nên cụ thể hơn, dễ hiểu, dễ tiếp thu. Qua điều tra, chúng tôi thấy
rằng học sinh rất phấn khởi khi được tiếp cận với các phương tiện hiện đại trong học
tập. Tuy nhiên, do ít được tiếp cận với các phương tiện hiện đại đó nên các em còn
gặp phải một số khó khăn. Khó khăn lớn nhất là phải mất nhiều thời gian để chuẩn bị.
Hơn nữa vì nhà trường chưa có phòng học đa phương tiện cho nên việc lắp đặt các
thiết bị cho mỗi giờ lên lớp cũng tốn khá nhiều thời gian. Bên cạnh đó, một điều dễ
nhận thấy là học sinh phải làm việc trên lớp nhiều hơn.
2.2.2.2. Thực trạng về việc thiết kế và sử dụng giáo án điện tử môn Giáo dục chính
trị ở các trường trung cấp chuyên nghiệp
Kết quả khảo sát cho thấy: Đa số GV có ý thức, tinh thần tự giác cao trong việc
thiết kế và sử dụng GAĐT (chiếm 83,7%). Điều này chứng tỏ GV nhận thức và thấy
được ưu thế, tính hiệu quả của việc giảng dạy bằng GAĐT. Đây là một điều kiện thuận
lợi cho hiệu trưởng trong việc chỉ đạo đội ngũ GV ứng dụng CNTT vào dạy học.
Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận GV chưa có ý thức cao trong việc này (chiếm
16,3%). Qua tìm hiểu thì bộ phận GV này đa số là GV đã lớn tuổi nên họ ngại khó, ít
muốn thay đổi và trình độ về CNTT hạn chế. Vì vậy, vẫn phải cần những yêu cầu,
biện pháp cụ thể của nhà trường để tăng cường việc thiết kế và sử dụng GAĐT để đổi
mới PPDH nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy.
Phần mềm mà GV sử dụng nhiều nhất để thiết kế GAĐT là Microsoft
PowerPoint (chiếm 75,5%). Qua tìm hiểu thì GV cho rằng đây là phần mềm phổ biến,
dễ sử dụng, các thao tác trình diễn đơn giản, dễ dàng đưa vào các hình ảnh, âm thanh,
phim. Hơn nữa, phần mềm này hiện nay được rất nhiều GV của nhiều bậc học trên cả
nước sử dụng trong dạy học. Nhiều diễn đàn về soạn GAĐT, sản phẩm GAĐT, bài
giảng điện tử trong các thư viện học liệu trên mạng, đĩa CD-ROM đều có ứng dụng
phần mềm này. Do đó, GV có thể dễ dàng tải về sử dụng, tham gia các diễn đàn để trao
đổi kinh nghiệm về thiết kế và sử dụng GAĐT sao cho thật hiệu quả.
Bên cạnh đó, GV còn sử dụng phần mềm Violet (chiếm 18%) của Công ty Tin học
Bạch Kim- Việt Nam. Đây là phần mềm cũng khá hay trong việc thiết kế GAĐT. Phần

mềm này muốn sử dụng được nhiều tính năng phải đăng ký mua bản quyền. Công ty
Bạch Kim cũng có trang web chứa thư viện GAĐT rất hữu ích để GV tham khảo.
Ngoài ra, GV còn sử dụng các phần mềm dạy học khác để thiết kế GAĐT
(chiếm 6,5%), tùy theo điều kiện và khả năng sử dụng CNTT của bản thân. Mặc dù,
số lượng GV sử dụng ít, nhưng những phần mềm dạy học này phục vụ chuyên sâu
cho dạy học bộ môn. Nếu GV biết sử dụng phần mềm dạy học bộ môn này thiết kế
GAĐT và giảng dạy thì hiệu quả mang lại rất cao. Muốn khai thác tốt những tính
năng hữu ích phục vụ dạy học của các phần mềm này đòi hỏi GV phải có trình độ
nhất định về CNTT, đồng thời phải dành nhiều thời gian tự học, nghiên cứu.
Phần lớn GV tự lực thiết kế GAĐT cho riêng mình (chiếm 42,2%). Điều này dễ
hiểu vì nó tuân thủ quy định ở trường TCCN, giáo án phải là hồ sơ riêng của từng GV.
16
Việc hợp tác với đồng nghiệp để thiết kế GAĐT chung cũng được nhiều GV lựa
chọn và thực hiện (chiếm 36,9%). Đây là việc làm hợp lý bởi vì thiết kế GAĐT đối
với nhiều GV cũng gặp nhiều khó khăn. Và qua cách này, GV có dịp được trao đổi
kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau về chuyên môn, về CNTT nhiều hơn.
Phân công theo nhóm trong tổ chuyên môn trong việc thiết kế GAĐT cũng được
một bộ phận GV đồng ý (chiếm 20,9%). Điều này chứng tỏ hiệu trưởng một số
trường cũng có quan tâm, chỉ đạo tổ chuyên môn hỗ trợ GV trong việc thiết kế
GAĐT. Đây là biện pháp rất đúng đắn để khuyến khích, động viên cũng như tăng
tính hiệu quả của việc giảng dạy bằng GAĐT.
Nguồn học liệu chủ yếu mà GV dùng để thiết kế GAĐT chính là sự hỗ trợ từ
đồng nghiệp, tổ chuyên môn (chiếm 58,2%). Việc GV tự lực khai thác trên mạng
Internet, đĩa CD-ROM còn hạn chế (chiếm 33,5%). Điều này cho thấy, đa số GV
thích trao đổi các học liệu với các đồng nghiệp hơn là phải tự mày mò, khai thác học
liệu trên mạng Internet. Do đó dễ dẫn đến sự giống nhau rập khuôn, không mới mẻ,
sáng tạo trong các GAĐT.
Việc sử dụng kho học liệu điện tử của trường trong việc thiết kế GAĐT còn ít
(chiếm 8,3%). Qua tìm hiểu, nguyên nhân là do các trường TCCN chưa xây dựng
được kho học liệu điện tử riêng, còn nếu có thì không được cập nhật thường xuyên

nên dữ liệu cũ và rất hạn chế.
Khi thiết kế GAĐT thì việc quy định nội dung HS cần ghi chép là rất quan
trọng. Có hai dạng mà GV thường sử dụng nhiều nhất đó là: Quy ước màu nền, màu
chữ cho nội dung cần ghi chép (chiếm 34,4%) và Thiết kế nội dung cần ghi chép
riêng; phần giảng, giải thích riêng (chiếm 35,9%). Nó giúp cho HS dễ nhận biết nội
dung cũng như khi nào cần phải ghi chép. Từ đó, HS sẽ chủ động, tích cực hơn trong
quá trình học tập.
Tuy nhiên, vẫn còn có GV để HS tự ghi chép (chiếm 16,5%). Điều này sẽ gây
khó khăn cho HS trong quá trình học tập.
Việc in sẵn nội dung cần ghi chép phát cho HS được số ít GV thực hiện (chiếm
13,2%). Muốn làm được thì GV phải có kinh phí để mua giấy, máy in để in. Chính vì
vậy, chỉ một số ít GV có điều kiện mới thực hiện được.
Khi giảng dạy bằng GAĐT thì đa số GV đồng ý (chiếm 71,9%) là phải biết phối
hợp hài hòa với các phương pháp khác thì mới phát huy hiệu quả của GAĐT cao nhất.
Còn nếu chỉ thực hiện một cách máy móc theo quy trình được thiết kế trong GAĐT thì
hiệu quả sẽ không cao. Điều này chỉ có số ít GV thực hiện (chiếm 28,1%)
2.2.2.3. Thực trạng sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Giáo dục chính
trị ở trên lớp
Trong quá trình tìm hiểu thực trạng về: Mức độ thường xuyên của việc sử dụng
CNTT trong dạy học môn Giáo dục chính trị (Phụ lục 1 ).Tác giả thu được kết quả
như sau:Kết quả điều tra cho thấy, số GV thường xuyên tổ chức cho học sinh tiến
hành sử dụng CNTT trong dạy học môn GDCT, chiếm tỷ lệ ít, chỉ có 29.51%, có
17
43.82% số GV tổ chức nhưng không thường xuyên. Trong khi có 26.68% GV không
tổ chức cho HS học tập bằng CNTT. Việc các thầy cô không tổ chức cho HS tiến
hành sử dụng CNTT trong dạy học vì họ cho rằng trên giảng đường, số lượng HS quá
đông, khó quản lý. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất chưa đảm bảo và thời gian phân phối
chương trình có hạn do vậy khi sử dụng CNTT đối với môn học sẽ không đạt được
kết quả cao như mục đích, yêu cầu đề ra. Vì rất nhiều lý do cho nên phần lớn GV
không thường xuyên và chưa áp dụng PPDH này vào dạy học môn GDCT. Kết quả

trên đây đã phần nào phản ánh thực trạng việc sử dụng CNTT và các PPDH khác
trong dạy học môn GDCT ở các trường trung cấp chuyên nghiệp trên địa bàn Hà Nội
hiện nay.
Tìm hiểu về mục đích sử dụng CNTT ( Phụ lục 1). Kết quả trên cho thấy, GV đã
quan tâm đến việc giúp HS lĩnh hội tri thức mới 100%) và liên hệ kiến thức lý luận với
thực tiễn 67,7%, hình thành kỹ năng kỹ xảo 51,0% trong khi sử dụng CNTT. Tuy
nhiên các mục đích khác thì chưa được quan tâm đúng mức. Chẳng hạn như: ôn tập và
củng cố kiến thức 14,7%, khái quát và hệ thống hoá kiến thức 16,7%. Đây là một hạn
chế cần khắc phục nếu sử dụng CNTT chỉ nhằm mục đích là lĩnh hội tri thức mới thì
chưa thể phản ánh và khai thác hết tất cả những ưu thế và hiệu quả của CNTT.
Khi tìm hiểu những khó khăn mà GV gặp phải trong quá trình dạy học có sử
dụng CNTT (Phụ lục 5). Những hạn chế, khó khăn và cách khắc phục của GV khi sử
dụng CNTT trong DH môn GDCT. Ở câu hỏi này, GV gặp nhiều khó khăn, hạn chế
khi sử dụng CNTT trong DH, như: đời sống của GV thấp, điều kiện cơ sở vật chất
của nhà trường chưa đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng CNTT cho tất cả các bộ môn
(90.7%); trình độ tin học của GV, do chưa được đào tạo đồng bộ và phù hợp với
chuyên ngành (86.4%). Tuy HS tỏ ra hào hứng sôi nổi nhưng các em không chép kịp,
chỉ thích xem hình ảnh (82.2%). Để khắc phục những hạn chế và khó khăn này, 95%
ý kiến cho rằng GV cần phải nắm vững kiến thức chuyên môn và kỹ năng sử dụng
CNTT có 94.9% đồng ý phải được trang bị đầy đủ lý luận, PPDH bộ môn, có kỹ năng
và nghiệp vụ sư phạm tốt. Đồng thời, GV phải nhận thức đúng đắn về vai trò, ý nghĩa
của CNTT để vận dụng vào nâng cao chất lượng DH môn GDCT (91.5%).
Để đánh giá thực trạng sử dụng CNTT trong dạy học môn GDCT chúng tôi điều
tra 1197 HS và 118 GV ở 5 trường TCCN trên địa bàn Hà Nội với 2 câu hỏi về nhận
thức, hiểu biết của GV và HS về môn GDCT và chất lượng DH . Theo bảng điều tra,
mặc dù GV và HS đều nhận thức được vai trò, ý nghĩa của môn GDCT trong việc hình
thành thế giới quan và phương pháp luận cho học sinh theo (điều tra có 797 ý kiến,
chiếm 66.7%, nhưng quan niệm môn phụ, môn học thuộc vẫn còn (161 ý kiến, chiếm
13.4%). Chính vì thế, cho dù chất lượng DH đã được cải thiện nhưng chưa tương xứng
với vị trí của môn học, nhiều em chán học và điểm thi còn thấp (866 ý kiến, chiếm

72.3%). Qua điều tra, chúng tôi thấy rằng tuy GV rất tâm huyết với nghề, nhưng do
quan niệm của xã hội chưa đúng, việc học môn GDCT bị cắt xén thường xuyên, nên
chất lượng thấp hơn so với nhiều môn khác (750 ý kiến, chiếm 61.7%). Về PP dạy học
18
của GV và HS, đa số GV nhận thức được điểm mấu chốt của đổi mới PPDH là phải
thay đổi quan niệm cũ trước đây, chuyển từ lấy thầy làm trung tâm, sang lấy học sinh
làm trung tâm, tức là phải phát huy được tính tích cực của người học.
Như vậy, có rất nhiều khó khăn ảnh hưởng đến việc sử dụng CNTT trong quá
trình dạy học môn GDCT. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta bỏ qua không sử
dụng CNTT. Muốn khắc phục những khó khăn trên, đòi hỏi mỗi GV luôn tâm huyết
với nghề nghiệp, phải tự thân vận động và cùng với nhà trường đầu tư, nghiên cứu
các hình thức tổ chức dạy học phù hợp để việc dạy học thực sự có kết quả tốt nhất.
2.2.2.4. Thực trạng sử dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập môn Giáo dục chính trị ở các trường trung cấp chuyên nghiệp
Kết quả khảo sát cho thấy: 100% GV thường xuyên sử dụng đề kiểm tra viết và
yêu cầu HS trả lời miệng, 74% GV ra đề kiểm tra kết hợp hình thức tự luận và trắc
nghiệm, tỷ lệ GV sử dụng phiếu học tập, vở thực hành để kiểm tra còn rất ít (chỉ có 35%
GV thường xuyên đánh giá qua phiếu học tập, 14% thường xuyên đánh giá qua vở thực
hành). Điều đó chứng tỏ GV chủ yếu sử dụng các công cụ kiểm tra truyền thống, chưa
chủ động tìm hiểu, sử dụng các công cụ mới để đánh giá kết quả học tập của HS.
Kết quả khảo sát này cũng khá tương đồng với ý kiến của học sinh về các hình
thức kiểm tra các em. 100% ý kiến của học sinh đều cho rằng các thầy cô giáo thường
xuyên sử dụng hình thức kiểm tra tự luận, 50% ý kiến của các em cho rằng giáo viên
đã sử dụng hình thức tự luận và 15% ý kiến cho biết các em được làm kết hợp tự luận
và trắc nghiệm trong bài kiểm tra. Câu hỏi trắc nghiệm chủ yếu dưới dạng nhiều
phương án lựa chọn (100%), điền khuyết (72%).
2.2.2.5. Đánh giá chung về thực trạng việc sử dụng CNTT trong dạy học môn GDCT ở
các trường trung cấp chuyên nghiệp
Những mặt đạt được:Thực tế cho thấy, việc dạy học GDCT ở trường TCCN
hiện nay đã có nhiều tiến bộ về nhận thức, nội dung, phương pháp dạy học và

kiểm tra đánh giá. Những năm gần đây, các trường TCCN đều đã chú trọng vào
đổi mới phương pháp dạy học môn GDCT. Vì có đổi mới căn bản phương pháp
dạy học thì chúng ta mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới
có thể đào tạo được lớp người năng động, sáng tạo có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ
trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức.Trong
những năm qua, có rất nhiều giáo viên ở trường TCCN là những người yêu nghề,
say sưa với công tác giảng dạy, lo lắng, đầu tư cho chuyên môn, tìm mọi biện pháp
để có giờ dạy tốt, học tốt.
Nhiều giảng viên đã cố gắng vượt qua những khó khăn về cơ sở vật chất, về đời
sống để sáng tạo các hình thức tổ chức dạy học, đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tích cực, tìm cách truyền cho người học những cảm hứng trong giờ học. Nhiều
trường đã tổ chức nhiều hoạt động chuyên môn, sinh hoạt chuyên đề, hội thảo về đổi
mới PPDH, ứng dụng công nghệ thông tin vào trong dạy học, tổ chức khai thác kênh
19
hình, kênh tiếng, bổ sung thêm nguồn tư liệu dạy học, tổ chức hội giảng, viết sáng
kiến kinh nghiệm.
Những hoạt động chuyên môn đó ít nhiều đã đạt hiệu quả bước đầu. Nhiều giờ
học đã diễn ra sinh động, hấp dẫn hơn, người học tích cực làm việc, không khí học
tập sôi nổi, hứng thú hơn.Thực tiễn DH môn GDCT ở trường TCCN những năm gần
đây cho thấy có bước tiến đáng kể về mặt nhận thức, nội dung, PP và chất lượng DH.
Số liệu những cuộc thi GV dạy giỏi, thi Olympic môn GDCT, thi HS giỏi các cấp và
thi tốt nghiệp môn GDCT hàng năm chứng tỏ sự quan tâm của các cấp, các ngành và
của xã hội về vị trí, vai trò của môn học. Việc đổi mới nội dung chương trình, giáo
trình của Bộ GD&ĐT theo hướng tăng kênh hình, giảm kênh chữ đã tạo ra sự hứng
thú và giảm bớt áp lực cho HS khi học môn GDCT.
Những mặt hạn chế: Bên cạnh những mạt đạt được nói trên, vẫn còn những
vấn đề tồn tại, yếu kém, bất cập trong việc đổi mới nói chung, đổi mới PPDH nói
riêng.Hạn chế đó đã ảnh hưởng lớn tới chất lượng và hiệu quả của quá trình dạy bộ
môn GDCT ở các trường TCCN.Nhìn chung, phương pháp dạy học môn GDCT ở
trường TCCN vẫn chậm biến đổi. Việc đổi mới phương pháp dạy học không diễn

ra thường xuyên, liên tục mà chỉ “rộ lên” ở những kỳ thi, hội giảng hoặc những
đợt kiểm tra, thanh tra chứ chưa thực sự chuyển biến trong ý thức của giáo viên và
cán bộ quản lý giáo dục.
Thứ nhất, nhiều giáo viên nhận thức được tầm quan trọng của việc đổi mới
phương pháp dạy học trong đó có việc sử dụng CNTT nhưng mới chỉ là nhận thức
về mặt lý thuyết, còn thực tế thì rất chậm đổi mới, chủ yếu vẫn dạy theo kiểu tuỳ
hứng, nội dung nào thuộc sở trường, thế mạnh của mình thì “phô diễn” chứ không
chú trọng hướng đến rèn kỹ năng và hình thành thái độ.
Thứ hai, tuy nhận thức được mấu chốt của đổi mới phương pháp dạy học là
phải chuyển từ vai trò “thầy là trung tâm” sang “trò làm trung tâm” nhưng về biện
pháp cụ thể để thực hiện việc “chuyển” đó vẫn còn là vấn đề lúng túng. Chẳng
hạn, có giáo viên quan niệm rằng, đặt nhiều câu hỏi là đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng tích cực, nhưng kết quả là giờ học bị biến thành giờ “hỏi – đáp”
quá căng thẳng, khô khan và làm cho người học ít hứng thú học tập. Có giáo viên
chú trọng sử dụng công nghệ thông tin, nhưng giờ giảng “đọc - chép” lại được
thay bằng giờ “chiếu - chép”
Thứ ba, một bộ phận giáo viên ít được cập nhật thông tin khoa học, chưa nhận
thức đầy đủ tầm quan trọng của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Vì vậy,
trong dạy học, thầy làm việc là chủ yếu, trò thụ động ghi chép còn khá phổ biến,
thậm chí hiện tượng đọc chép còn khá tràn lan. Mặt khác, cũng có một bộ phận
GV tuy nhận thức được vấn đề đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương
pháp dạy học môn GDCT nói riêng, nhưng lại cho rằng người học yếu kém (do
đầu vào thấp) không thể vận dụng các biện pháp đổi mới nên cũng chỉ đọc chép,
không rèn luyện cho họ năng lực tư duy độc lập, tự chiếm lĩnh kiến thức và trang
20
bị phương pháp học tập tốt. Từ đó dẫn tới tình trạng người học không thích học
môn học này.
Thứ tư, việc kiểm tra đánh giá người học chỉ mới hướng đến cho điểm, đối
phó, chưa đánh giá được khả năng nhận thức, khả năng rèn luyện kĩ năng, năng lực
hành vi Vì thế đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc đổi mới PPDH và ít tạo ra được

hứng thú học tập cho người học.
Thứ năm, một bộ phận người học hiện nay chưa nhận thức đúng về vị trí, vai
trò của môn GDCT trong nhà trường, Nhiều em khi được hỏi “Học GDCT để làm
gì ?” thì tỏ ra khá mơ hồ, không xác định được. Vì không hiểu nên không yêu
thích, không say mê và chỉ học để đối phó với thi cử, kiểm tra. Phương pháp học
cũng rất hạn chế, phần lớn người học chỉ học thuộc lại những gì GV cho ghi trên
lớp, hoặc chi tiết hơn thì học trong giáo trình.
2.2.2.6. Các nguyên nhân ảnh hưởng đến việc sử dụng công nghệ thông tin trong dạy
học môn Giáo dục chính trị ở các trường trung cấp chuyên nghiệp
Về nội dung môn học: Nội dung, chương trình môn học ôm đồm, mang tính lý
luận cao. Kiến thức tổng hợp gồm nhiều nội dung về: Triết học, Kinh tế chính trị,
Đường lối cách mạng Việt Nam, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Tri thức của môn học là
những khái niệm, nguyên lý, quy luật, phạm trù rất trừu tượng, khó hiểu, trong khi đó
thì thời gian quy định ít, vì là môn học chung cho tất cả các ngành, thường là lớp
ghép, số lượng học sinh đông. Một số nội dung của môn học ngày càng lạc hậu, nặng
tính tư biện. Hiện tượng bảo thủ, lạc hậu, chậm đổi mới về PPDH của một bộ phận
GV cũng ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng bộ môn.
Về phía giáo viên: Việc đào tạo GV môn GDCT cho các trường TCCN chưa
đồng bộ. GV ở trường TCCN hiện nay được đào tạo từ nhiều nguồn: ĐHSP Hà Nội,
ĐHSP vùng, địa phương nhưng chưa được kiểm định chất lượng kỹ ở đầu ra. Chương
trình và chất lượng giữa các cơ sở đào tạo lại có nhiều khác biệt, nên chất lượng GV
không đồng đều. Nhưng trong thực tế, theo số liệu điều tra cho thấy, vẫn còn những
GV thiếu kiến thức cả về lý thuyết lẫn thực tiễn xã hội, năng lực sư phạm còn hạn
chế, hơn nữa không linh hoạt trong việc vận dụng các PPDH, tiếp cận các PPDH mới
trong đó có sử dụng CNTT còn lúng túng, trình độ của các GV không đồng đều, sử
dụng CNTT được đánh giá là một PPDH tích cực, song với thực tế việc sử dụng CNTT
không phải dễ dàng với mọi GV, với mọi bài học
Về phía học sinh: Hầu hết học sinh vào học các trường TCCN là những học sinh
không đủ điểm vào các trường Đại học, Cao đẳng, trình độ kiến thức phổ thông chỉ
đạt mức trung bình trở xuống. Do cấp học chỉ là nơi chờ thi đại học vào năm sau, hơn

nữa học sinh chưa xác định được động cơ, mục đích học tập vì vậy, đã ảnh hưởng tới
chất lượng dạy và học môn GDCT. Mặt khác do chưa có nhận thức đầy đủ về vị trí, vai
trò môn GDCT
21
Điều kiện cơ sở vật chất: Phương tiện CNTT còn thiếu, chưa đồng bộ đó là điều
cốt lõi dẫn đến việc sử dụng CNTT trong dạy học môn GDCT ở các trường TCCN
còn hạn chế do đó đã ảnh hưởng đến chất lượng dạy học môn học này. Giáo trình dù
đã biên soạn theo tinh thần đổi mới, nhưng nhiều thầy cô chưa có PP hướng dẫn HS
khai thác hiệu quả
Như vậy, để khắc phục những nguyên nhân này phải có sự tác động đồng bộ, toàn
diện, trong đó tìm ra những biện pháp để sử dụng CNTT vào dạy học, hợp lý, phù hợp là
vấn đề cấp thiết để phát huy hết tiềm năng vốn có của PPDH tích cực này.
CHƯƠNG 3
NGUYÊN TẮC VÀ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG
CẤP CHUYÊN NGHIỆP
3.1. Nguyên tắc xây dựng biện pháp sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học
môn Giáo dục chính trị ở các trường trung cấp chuyên nghiệp
3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo mục tiêu môn học
Để thực hiện được nguyên tắc này, GV dạy học môn GDCT phải nhận thức
được đặc điểm kiến thức môn học mà học sinh sẽ học đầu tiên trong chương trình đào
tạo. Trên cơ sở đó, để đảm bảo bám sát nội dung bài học khi tiến hành giảng dạy môn
học bằng CNTT, GV có thể sử dụng kết hợp CNTT với phương pháp thuyết trình khi
giới thiệu nội dung bài học, giới thiệu cấu trúc bài học, từ lý thuyết đến thực tế, các
khái niệm và việc ứng dụng nội dung bài học vào thực tiễn cuộc sống.
3.1.2.Nguyên tắc phát huy tính chủ động, tích cực học tập của học sinh
Thứ nhất, nội dung chương trình phải phù hợp với đối tượng. Trong toàn môn
học hay từng chương, bài học, giờ học không vượt chương trình qui định, vì chương
trình của mỗi cấp đều có khung chương trình chung đảm bảo các đối tượng HS, đồng
thời tránh đề cao hoặc hạ thấp chương trình.

Thứ hai, cách thức dạy học phải phù hợp tâm sinh lý lứa tuổi. Dạy học là một
nghệ thuật, mỗi GV khi đứng trên bục giảng với những thủ thuật dạy học sẽ hướng
người học đi từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, đưa quá trình
nhận thức của HS từ cụ thể đến trừu tượng, có như vậy mới phù hợp với khả năng
tiếp thu của đối tượng. .
Thứ ba, cần phân loại đối tượng người học để có phương pháp DH phù hợp. Mỗi
lớp học, đối tượng người học không đồng đều với nhiều mức độ nhận thức khác
nhau. Có những HS mức độ nhận thức khá nên khi GV giảng dạy hoặc nêu vấn đề
trên lớp, những HS này tiếp thu bài học nhanh chóng, cũng có nhiều HS mức độ nhận
thức ở mức trung bình và có cả những HS nhận thức chậm hơn các bạn. Chính vì
mức độ nhận thức không đều, nên GV phải biết phân loại đối tượng để áp dụng
PPDH phù hợp.
22
3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ
Nguyên tắc này khi sử dụng CNTT trong DH môn GDCT, cần vận dụng các PP và
phương tiện DH hiện đại đúng lúc, đúng chỗ và đúng độ. Đúng lúc là việc chọn thời điểm
sử dụng thích hợp, phù hợp với nội dung kiến thức và các PPDH đặc trưng, cũng như
nhu cầu và trạng thái tâm lý của HS. Nghĩa là, dạy tới đơn vị kiến thức nào liên quan,
GV kích chuột cho đối tượng xuất hiện, rồi hướng dẫn HS khai thác kiến thức.
3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả
Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng hàng đầu GV phải quán triệt, để
không biến giáo án điện tử thành bài chiếu chép. Hiệu quả của việc sử dụng CNTT trong
dạy học phụ thuộc rất lớn vào GV, trong đó có ý tưởng sư phạm. GV hãy coi CNTT là
một công cụ dạy học như các công cụ khác và khai thác nó ở những khả năng mà các
công cụ khác thể hiện chưa tốt, hay không thể hiện được, chứ đừng lạm dụng nó.
3.2. Các nhóm biện pháp sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Giáo
dục chính trị ở các trường trung cấp chuyên nghiệp
3.2.1. Nhóm biện pháp chuẩn bị các điều kiện để sử dụng CNTT trong dạy môn
Giáo dục chính trị
3.2.1.1. Bồi dưỡng nâng cao trình độ sử dụng công nghệ thông tin cho giáo viên dạy

học môn Giáo dục chính trị
Mục tiêu của biện pháp:Xây dựng được đội ngũ GV không chỉ đảm bảo về trình
độ chuyên môn nghiệp vụ mà còn đảm bảo trình độ về ứng dụng CNTT để góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học của nhà trường.
Nội dung và cách thực hiện: Ở biện pháp này cần chú ý một yếu tố rất quan trọng
là tạo ra nhu cầu, động lực nâng cao trình độ sử dụng CNTT của GV.
3.2.1.2. Tăng cường điều kiện cơ sở vật chất và phương tiện dạy học
Mục tiêu của biện pháp, xây dựng các điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị
CNTT, sản phẩm phần mềm theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá và xã hội hoá đáp
ứng tốt cho việc sử dụng CNTT trong dạy học của đội ngũ GV góp phần nâng cao
chất lượng dạy học.
Nội dung và cách thực hiện, để đội ngũ GV sử dụng CNTT trong dạy học trước
hết phải đảm bảo các điều kiện hỗ trợ cho việc sử dụng CNTT, cơ sở vật chất, thiết bị
CNTT, sản phẩm phần mềm là những điều kiện hỗ trợ thiết yếu.
Điều kiện thực hiện, nhà quản lý phải có quyết tâm cao, ưu tiên trong việc đầu tư
cơ sở vật chất, thiết bị CNTT. Xem đây là sự đầu tư quan trọng hàng đầu để đảm bảo
cho hoạt động dạy học nói riêng, cũng như sự phát triển của nhà trường nói chung.
3.2.1.3. Sử dụng một số phần mềm để thiết kế bài giảng môn Giáo dục chính trị
Thứ nhất,GV khai thác tư liệu liên quan đến nội dung bài học để thiết kế các
slide giáo án điện tử, hỗ trợ các PP miêu tả, lược thuật, cụ thể hóa sự kiện với mục
đích giúp HS hiểu bài ngay trên lớp. Thứ hai,GV khai thác kênh hình trong dạy học
23
trên lớp bằng cách sử dụng các chương trình Microsoft, Word, xử lý đồ họa (Paint,
PhotoShop) và video (Windows Movie maker, Hero video) chụp, cắt và thiết kế phim
tài liệu, lược đồ giáo khoa điện tử, sơ đồ hóa kiến thức cho HS. Thứ ba, GV sử dụng
các phần mềm tiện ích, tư liệu DH trong đĩa CD, CD- Rom như Encatar, phần mềm
trộn đề thi, tư liệu điện tử hỗ trợ DH để thiết kế CD, giáo án và tư liệu DH điện tử
môn GDCT Thứ tư, GV sử dụng CNTT hỗ trợ thiết kế và sử dụng niên biểu trong dạy
bài mới, bài ôn tập, sơ kết, tổng kết, hoặc kiểm tra, hướng dẫn tự học. Thứ năm,GV
sử dụng CNTT hỗ trợ thiết kế và sử dụng giáo án điện tử góp phần đổi mới PP và

nâng cao chất lượng DH môn GDCT.
3.2.2. Nhóm biện pháp sử dụng công nghệ thông tin để tổ chức dạy học môn Giáo
dục chính trị
3.2.2.1. Sử dụng công nghệ thông tin để tổ chức dạy học môn Giáo dục chính trị trên
lớp
Thứ nhất, sử dụng CNTT để kiểm tra kiến thức GDCT. Kiểm tra bài cũ cần áp
dụng trắc nghiệm kết hợp với tự luận; tránh dùng những câu hỏi trực quan, cảm tính
để vừa thể hiện sự kế thừa trong PP kiểm tra đánh giá truyền thống, vừa đổi mới PP
kiểm tra đánh giá với sự hỗ trợ của CNTT.
Thứ hai, sử dụng CNTT để hướng dẫn học sinh học kiến thức mới.
Thứ ba, sử dụng CNTT để hướng dẫn HS khai thác tư liệu phù hợp với chức
năng, mục đích sử dụng kênh hình theo loại: loại minh họa, cụ thể hóa nội dung sự kiện
quan trọng; loại cung cấp thông tin; loại vừa cung cấp thông tin, vừa minh họa cho kênh
chữ; loại dùng để rèn luyện kỹ năng thực hành và kiểm tra kiến thức HS đã học.
Thứ tư, sử dụng CNTT để hướng dẫn học sinh khai thác sơ đồ, biểu đồ từ đơn
giản đến phức tạp để minh họa, hay cụ thể hóa kiến thức, góp phần nâng cao hiệu quả
bài học.
Thứ năm, sử dụng CNTT để hướng dẫn học sinh khai thác phim tài liệu ghi lại
diễn biến sự kiện xảy ra với hình ảnh chân thực, lời bình, âm thanh, hoạt cảnh và tình
tiết giáo dục cao.
Thứ sáu, sử dụng CNTT để hướng dẫn học sinh củng cố và mở rộng kiến thức giúp
HS “tự tái hiện lại”, khái quát lại kiến thức bài học bằng ngôn ngữ diễn đạt của mình
nhằn giúp HS tự mình ôn lại kiến thức vừa học theo hệ thống góp phần nâng cao chất
lượng giờ học.
3.2.2.2. Sử dụng công nghệ thông tin để hướng dẫn học sinh tự học, tổ chức các hoạt
động ngoại khóa môn Giáo dục chính trị ở các trường trung cấp chuyên nghiệp
Một là tìm kiếm tư liệu liên quan đến chủ đề, địa điểm thăm quan, thực tế trên
mạng, sát với việc chuẩn bị học bài mới trên lớp hoặc sau khi đã học nhằm mở rộng,
hiểu sâu hơn kiến thức đã học.
Hai là hưởng ứng kỷ niệm các ngày lễ lớn bằng cách dùng CNTT tìm hiểu đất

nước, con người, sự kiện thông qua địa chỉ webSite để HS tìm kiếm tư liệu, viết bài,
24
qua đó mở rộng phông kiến thức và nâng cao chất lượng tri thức của HS về các lĩnh vực
nêu trên, góp phần nâng cao chất lượng bài học; hướng dẫn HS sử dụng thư điện tử
(E-mail) trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm học tập, hoặc gửi câu hỏi cho GV để
được gợi ý, giải đáp.
3.2.3. Nhóm biện pháp sử dụng công nghệ thông tin để kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập môn Giáo dục chính trị ở các trường trung cấp chuyên nghiệp
3.2.3.1. Sử dụng một số phần mềm để soạn đề thi, ra đề thi môn Giáo dục chính trị
Theo tác giả việc sử dụng CNTT trong kiểm tra, đánh giá môn GDCT nên kết
hợp cả hình thức trắc nghiệm, tự luận và thực hành. Các hình thức này sẽ hỗ trợ, bổ
sung cho nhau, giúp GV đánh giá kết quả học tập môn GDCT của HS hiệu quả hơn.
3.2.3.2. Sử dụng công nghệ thông tin để kiểm tra, đánh giá việc học tập môn Giáo
dục chính trị
Hiện nay, đa số GV áp dụng biện pháp kiểm tra bài cũ bằng hình thức trắc
nghiệm, thông qua thiết kế câu hỏi trên phần mềm PowerPoint, Violet, hoặc flash
(như câu hỏi lựa chọn một đáp án đúng, ghép đôi, hoặc điền khuyết). Khi kiểm tra,
GV kích chuột để câu hỏi hiện trên màn hình, một HS được chỉ định để trả lời, sau đó
cho đáp án đúng xuất hiện.
3.2.3.3. Đa dạng hóa các sản phẩm học tập của học sinh trong đánh giá kết quả học
tập môn Giáo dục chính trị
Hiện nay có hai xu hướng kiểm tra đối với môn GDCT là kiểm tra truyền thống
(dùng câu hỏi tự luận) và kiểm tra trắc nghiệm với sự hỗ trợ của CNTT. Loại hình
kiểm tra trắc nghiệm được GV áp dụng phổ biến nhất là sử dụng một số phần mềm
tạo đề thi có sẵn trên thị trường để soạn đề kiểm tra, cho HS làm trực tiếp trên giấy.
Cách thứ nhất, GV trình chiếu một kênh hình liên quan đến kiến thức cơ bản
của bài đã học, kèm theo câu hỏi để HS làm bài
Cách thứ hai, GV thiết kế đề bài kiểm tra trên máy vi tính, kết hợp câu hỏi trắc
nghiệm, tự luận và thực hành, sau đó in và photocopy thành nhiều bản, phát cho HS
làm trực tiếp trên giấy kiểm tra.

CHƯƠNG 4
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
4.1. Kế hoạch thực nghiệm sư phạm
4.1.1.Mục đích thực nghiệm sư phạm
Xác nhận tính đúng đắn của giả thuyết khoa học và việc đổi mới PPDH môn
GDCT ở các trường TCCN có sự hỗ trợ của CNTT là cần thiết. Kiểm nghiệm tính hiệu
quả, khả thi về các biện pháp sử dụng CNTT nhằm nâng cao chất lượng DH môn
GDCT ở trường TCCN trên địa bàn Hà Nội mà Luận án đã đề xuất.
4.1.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm sư phạm
Đối tượng TN là HS các năm học 2011-2012, 2012-2013, 2013-2014
25
Địa bàn TN là các trường TCCN trên địa bàn thành phố Hà Nội nên có tính đa
dạng, phổ biến.
Tiêu chí lựa chọn lớp học TN và ĐC phải tương đương nhau về số lượng, trình
độ, năng lực nhận thức của HS. Mỗi trường dạy TN đều có lớp ĐC1 và ĐC2 để tạo
cơ sở khách quan, phổ biến khi đối chiếu, so sánh với lớp TN.
4.1.3. Giáo viên thực nghiệm sư phạm
Giáo viên phải nắm vững kiến thức chuyên ngành, lý luận DH bộ môn, có nghiệp vụ
sư phạm, ủng hộ tinh thần đổi mới và am hiểu nhất định kỹ năng sử dụng CNTT trong
dạy học môn GDCT.
Nghiên cứu sinh cũng trực tiếp tiến hành TN sư phạm ở một số trường TCCN,
trong quá trình giảng dạy.
4.2. Phương pháp thực nghiêm sư phạm và quá trình chuẩn bị
4.2.1.Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Luận án sử dụng hai loại giáo án (Word và giáo án điện tử), cung cấp nguồn học
liệu điện tử để GV nghiên cứu trước, chuẩn bị tốt cho các khâu dạy học trên lớp.
Thực nghiệm sư phạm mang tính tổng hợp nhiều mặt, nên cần kết hợp nhiều
hình thức, biện pháp và các khâu khác nhau trong một tiết dạy, từ kiểm tra bài cũ đến
củng cố, cuối cùng là hướng dẫn HS làm bài tập ở nhà.
4.2.2.Quá trình chuẩn bị thực nghiệm sư phạm

Công tác chuẩn bị thực nghiệm sư phạm toàn phần gồm ba nội dung: Liên hệ
với Ban Giám hiệu và GV, lựa chọn và chuẩn bị chuyên môn, chuẩn bị thiết bị,
phương tiện dạy học. Việc liên hệ với Ban giám hiệu nhà trường và GV bộ môn cần
thực hiện sớm, bố trí lịch thực nghiệm tốt nhất là từ tiết 2, tiết 3.
Bài thực nghiệm chọn mỗi chương một tiết, soạn cả hai giáo án văn bản và giáo
án điện tử trên tinh thần bám sát nội dung chương trình trên tinh thần đổi mới PPDH
theo hướng phát huy tính tích cực của HS
4.2.3.Tổ chức thực nghiệm
Ở lớp ĐC1, GV giảng bài theo PP truyền thống (không sử dụng CNTT, chỉ sử
dụng lược đồ, sơ đồ và tranh ảnh trong giáo trình hoặc in trên giấy A3, Ao); ở lớp ĐC2,
GV giảng bài đã sử dụng CNTT, nhưng còn hạn chế về kỹ năng, PP và biện pháp sử
dụng. Ở lớp thực nghiệm sư phạm, GV giảng bài có sử dụng CNTT, sử dụng cả hai giáo
án (Word và giáo án điện tử), do tác giả cung cấp, trao đổi.
Kiểm tra nhận thức của HS của hai lớp vào cùng thời điểm với câu hỏi vừa trắc
nghiệm, vừa tự luận. Nội dung câu hỏi nằm trong nội dung bài giảng thực nghiệm.
4.2.4. Kết quả bài kiểm tra đầu vào
Qua bảng số liệu trên cho thấy, các đại lượng thống kê phản ánh học lực của 2
nhóm trước khi tiến hành TN là tương đương nhau: điểm trung bình trung tương ứng
là 7,45 điểm (TN) và 7,44 điểm (ĐC), giá trị điểm xuất hiện nhiều nhất (Mode) 2
nhóm là điểm 8, điểm nằm ở giữa (Median) trong tập hợp điểm là 8, độ lệch chuẩn

×