Tải bản đầy đủ (.doc) (146 trang)

Biện pháp quản lý hoạt động GDHN trong các trường THPT ở thành phố Điện Biên Phủ (tỉnh Điện Biên)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 146 trang )

MỤC LỤC
2
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ 3
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 4
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 4
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5
6. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC 5
7. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI 6
8. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN 6
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GDHN VÀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GDHN Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 7
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 7
1.1.1 Nghiên cứu công tác hướng nghiệp 7
1.1.2. Nghiên cứu quản lý GDHN: 12
1.2. QUẢN LÝ GIÁO DỤC 13
1.3 GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP 15
1.3.1. Tiếp cận khái niệm “GDHN” 15
1.3.2. Ý nghĩa của GDHN cho học sinh phổ thông 17
1.3.3. Nhiệm vụ cơ bản của GDHN ở trường phổ thông 19
1.3.4. Các cách hướng nghiệp cho học sinh trong nhà trường phổ thông 21
1.4. BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GDHN TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG
25
1.5. BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG VÀ LỨA TUỔI ĐẦU THANH NIÊN 26
1.5.1. Bậc học trung học phổ thông 26
1.5.2. Đặc trưng tâm lý lứa tuổi học sinh trung học phổ thông 27
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 31
Chương 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ 32
HOẠT ĐỘNG GDHN TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC 32


PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ 32
2.1. SƠ LƯỢC VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI THÀNH
PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ 32
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế 32
2.1.2. Khái quát về tình hình phát triển giáo dục 33
2.2. NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH, CÁN BỘ GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH HỌC
SINH TRONG NHÀ TRƯỜNG VỀ GDHN 34
2.2.1. Nhận thức của học sinh 34
2.2.2. Nhận thức của giáo viên và cán bộ quản lý về vấn đề GDHN 46
2.2.3. Nhận thức của phụ huynh học sinh về vấn đề GDHN 47
2.3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GDHN CÁC TRƯỜNG THPT Ở
THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ HIỆN NAY 48
2.3.1. Vài nét về GDHN ở các trường Trung học phổ thông của nước ta 48
2.3.2. Việc xây dựng mục tiêu, nội dung quản lý GDHN 50
2.4. CƠ SỞ VẬT CHẤT PHỤC VỤ GDHN 52
2.5. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GDHN CHO
HỌC SINH 04 TRƯỜNG THPT TẠI THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ 53
2.5.1. Kết quả 53
2.5.2. Hạn chế 54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 55
Chương 3 BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GDHN TRONG CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ 56
3.1. MỘT SỐ YÊU CẦU CẦN ĐẠT ĐƯỢC KHI XÂY DỰNG BIỆN PHÁP 56
3.2. BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GDHN TRONG CÁC TRƯỜNG THPT Ở
THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ 57
3.2.1. Ch€ đạo việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về GDHN 57
3.2.2. Tăng cường trách nhiệm quản lý của Hiệu trưởng về GDHN 64
3.2.3. Ch€ đạo b‚i dưƒng năng lực chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm về GDHN cho
giáo viên 70
3.2.4. Ch€ đạo đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động GDHN

73
3.2.5. Nâng cấp cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ giáo dục hướng nghiệp 80
3.2.6. Quan tâm hỗ trợ tư vấn cho học sinh và phụ huynh về sự lựa chọn nghề trong
GDHN 84
3.3. KHẢO NGHIỆM SỰ CẦN THIẾT VÀ KHẢ THI CỦA CÁC BIỆN PHÁP QUẢN
LÝ CÔNG TÁC GDHN Ở THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ 89
3.3.1. Phương pháp thăm dò sự cần thiết và khả thi của các biện pháp quản lý 89
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 95
1. KẾT LUẬN 95
2. KHUYẾN NGHỊ 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1: Nhận thức của học sinh về nghề nghiệp 38
Bảng 2.2: Sự quan tâm lựa chọn nghề của học sinh 39
Bảng 2.3: Sự mong muốn được trang bị thêm kiến thức về nghề nghiệp 40
Bảng 2.4: Những hiểu biết về nghề và nhu cầu lao động mà xã hội đang cần.42
Bảng 2.5: Những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến chọn nghề của học sinh 43
Bảng 2.6: Các yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề của học sinh 46
Bảng 2.7: Hiểu biết của PHHS về nghề định chọn cho con em mình 48
Biểu đ‚ 3.1: Biểu đ‚ đánh giá tính rất cần thiết và rất khả thi của các biện
pháp 93
Biểu đ‚ 3.2: Biểu đ‚ đánh giá mức độ cần thiết của các biện pháp 93
Biểu đ‚ 3.3: Biểu đ‚ đánh giá tính khả thi của các biện pháp 93
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hiện nay, học sinh phổ thông thường chọn nghề một cách ngẫu nhiên,
theo cảm tính, không có hiểu biết cần thiết về nghề mà mình định lựa chọn;
do đó, gặp nhiều khó khăn trong học nghề, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo,
phát triển ngu‚n nhân lực, vừa lãng phí công lao đào tạo của nhà nước, vừa
làm chậm sự phát triển của cá nhân. Ngoài số học sinh được học lên đại học,

cao đẳng (theo số liệu báo cáo từ các giáo viên chủ nhiệm khối 12 năm học
2008-2009 có 54,5% học sinh đỗ đại học, cao đẳng; năm 2009-2010 có 58,1%
học sinh vào học các trường đại học, cao đẳng; năm 2010-2011 số học sinh đỗ
đại học, cao đẳng là 61,7%) còn lại đa số tốt nghiệp THPT đã ở lại sản xuất,
sinh sống tại quê hương. Tuy nhiên, đối tượng này lại thiếu kiến thức, kỹ
năng về một nghề nào đó, nên khó vươn lên tự lập và làm giàu cho quê
hương.
Tình hình đó có nhiều nguyên nhân, một phần do sự lựa chọn mơ h‚
của học sinh, phụ huynh, nhưng có lẽ chủ yếu là do các nhà trường chưa làm
tốt công tác tư vấn nghề nghiệp cho học sinh. Đối với ngành giáo dục, chính
là do chưa chuẩn bị cho thế hệ trẻ tâm thế sẵn sàng đi vào lao động sản xuất,
chưa giúp cho học sinh có những hiểu biết nhất định về ngành, nghề để họ có
thể lựa chọn việc học nghề cho phù hợp bản thân.
Từ thực tế đó công tác hướng nghiệp cho học sinh Trung học phổ thông
hiện nay đang là một vấn đề bức xúc của cả xã hội, nó chiếm một vị trí quan
trọng trong việc tạo tiền đề cho sự phân công lao động xã hội, trong phát triển
ngu‚n nhân lực của địa phương cũng như đất nước. GDHN có vai trò quan
trọng không ch€ đối với xã hội mà nó còn ảnh hưởng đến từng cá nhân, từng
gia đình. Chính vì vậy Đảng ta đã xác định: “Cần tăng cường, đẩy mạnh hơn
nữa GDHN, mở rộng và phát triển các trường dạy nghề…”. Trong báo cáo
1
Chính trị của Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: “ở mọi cấp học, bậc
học, kết hợp dạy và học lý thuyết với thực nghiệm và thực hành, gắn công tác
đào tạo với nghiên cứu khoa học và sản xuất Nhà trường và cơ sở đào tạo
phối hợp với các tổ chức khoa học và các cán bộ kỹ thuật để truyền bá tri thức
sản xuất, chuyển giao công nghệ mới cho nhân dân. Coi trọng công tác hướng
nghiệp và phân lu‚ng cho học sinh Trung học, chuẩn bị cho thanh, thiếu niên
đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
cả nước và từng địa phương. Nhanh chóng hiện đại hóa một số trường dạy
nghề, tăng tỷ lệ đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội, khuyến khích phát triển

hệ thống trường lớp dạy nghề, dân lập, tư thục trang bị cho thanh niên những
kiến thức sản xuất, kỹ năng lao động và năng lực tiếp thu công nghệ mới, để
tạo việc làm, chủ động tìm kiếm cơ hội lập thân, lập nghiệp”[24]. Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định “Phát triển
mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô đào tạo cao đẳng
nghề, trung cấp nghề cho các khu vực công nghiệp, các vùng kinh tế động lực
và cho xuất khẩu lao động”. [40]
Vấn đề hướng nghiệp có vai trò đặc biêt quan trọng trong bối cảnh đất
nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với vùng núi, vùng
có đ‚ng bào dân tộc thiểu số lại càng phải quan tâm tới phát triển giáo dục,
trong đó có GDHN. Đó là sự cụ thể hoá nghị quyết Đại hội XI của Đảng về
“Phát triển nhanh và nâng cao chất lượng giáo dục ở vùng khó khăn, vùng
núi, vùng đ‚ng bào dân tộc thiểu số”.
T€nh Điện Biên nói chung, thành phố Điện Biên Phủ nói riêng là một
địa bàn trọng yếu của vùng Tây Bắc, tuy đã được Đảng và Nhà nước quan
tâm đầu tư phát triển về giáo dục, nhưng so với yêu cầu chung vẫn còn nhiều
bất cập, trong đó có những bất cập về GDHN.
Khi cả nước đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thế
giới đã và đang bước vào nền kinh tế tri thức, sự chuyên môn hóa trong sản
2
xuất ngày càng ở trình độ cao thì rất cần ngu‚n lao động có trình độ, có
năng lực, đáp ứng yêu cầu của toàn xã hội. Để đáp ứng yêu cầu đó thì hệ
thống giáo dục quốc dân, trước hết là ở bậc Trung học phổ thông cần giúp các
em có định hướng nghề nghiệp rõ ràng, chính xác phù hợp với khả năng, sở
thích của bản thân và phù hợp với yêu cầu của xã hội. Nhằm tránh tình trạng
học sinh lựa chọn vào những ngành nghề không phù hợp với năng lực bản
thân, sau khi được đào tạo mà không có việc làm, không đáp ứng được yêu
cầu xã hội, đào tạo lệch lạc. Chính vì vậy hệ thống giáo dục của nước ta đã và
đang có sự phân lu‚ng học sinh, bắt đầu quan tâm đến hướng nghiệp cho học
sinh THPT, nhất là ở những lớp cuối cấp.

Về phía học sinh, hầu hết học sinh tốt nghiệp Trung học phổ thông đều
cảm thấy khó khăn khi phải tự lựa chọn nghề nghiệp, các em thường chọn
nghề theo cảm tính, các em thường chọn những trường có điểm tuyển thấp,
không cần biết ra trường sẽ xin việc ra sao, không cần biết sau này công việc
của mình là như thế nào, liệu có phù hợp với năng lực và phẩm chất của mình
không và cũng không cần biết mình có yêu nghề đó không. Chính vì vậy công
tác GDHN cần phải có hiệu quả nhất định nhưng muốn vậy thì cần phải có
những biện pháp quản lý một cách khoa học, hiệu quả.
Công tác GDHN tại các trường Trung học phổ thông ở thành phố Điện
Biên Phủ hiện nay đã được quan tâm và thu được một số kết quả nhất định,
nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao, chưa tạo ra
chuyển biến thực sự về nhận thức cũng như sự lựa chọn đúng nghề nghiệp
cho học sinh.
Để góp phần nâng cao chất lượng GDHN của các trường, chúng tôi
chọn đề tài “Biện pháp quản lý hoạt động GDHN trong các trường THPT ở
thành phố Điện Biên Phủ (t%nh Điện Biên)” làm đề tài nghiên cứu.
3
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận GDHN và quản lý GDHN, tìm hiểu thực
trạng công tác quản lý hoạt động GDHN trong các trường Trung học phổ
thông ở thành phố Điện Biên Phủ, đề tài đề xuất những biện pháp quản lý
hoạt động GDHN trong các trường THPT ở thành phố Điện Biên Phủ, qua đó
góp phần tạo chuyển biến tích cực trong công tác GDHN cho học sinh.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Căn cứ vào mục đích nghiên cứu, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm
vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận xây dựng các biện pháp quản lý hoạt
động GDHN trong các trường Trung học phổ thông nói chung, từ đó làm
cơ sở vận dụng vào việc quản lý GDHN ở các trường THPT thuộc thành
phố Điện Biên Phủ.

- Đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động GDHN trong các
trường THPT ở thành phố Điện Biên Phủ.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động GDHN cho học sinh các
trường THPT ở thành phố Điện Biên Phủ.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu nội dung và biện pháp quản lý của Hiệu trưởng các trường
THPT ở thành phố Điện Biên Phủ đối với hoạt động GDHN cho học sinh
(g‚m: trường THPT chuyên Lê Quý Đôn; trường THPT thành phố Điện Biên
Phủ; trường THPT Phan Đình Giót; trường PTDTNT t€nh).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn nội dung: Nghiên cứu quản lý hoạt động GDHN trong các
trường Trung học phổ thông; vận dụng vào 4 trường ở thành phố Điện Biên
Phủ.
- Giới hạn đối tượng khảo sát (theo mẫu đại diện):
4
+ Khảo sát việc học nghề, chọn nghề của học sinh khối 10, 11, 12 các
trường Trung học phổ thông ở thành phố Điện Biên Phủ.
+ Khảo sát công tác giáo dục nghề nghiệp của giáo viên, cán bộ quản lý
các trường Trung học phổ thông ở thành phố Điện Biên Phủ.
+ Phỏng vấn phụ huynh học sinh (khối 12) về việc định hướng nghề
nghiệp cho học sinh.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Hệ thống hóa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác
dạy nghề.
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về quản lý GDHN ở trường
THPT.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Điều tra bằng phiếu hỏi để có thông tin về công tác giáo dục nghề ở

các trường THPT thuộc thành phố Điện Biên Phủ.
- Phỏng vấn cán bộ quản lý, giáo viên, phụ huynh, học sinh để nắm
thông tin có tính xã hội liên quan đến GDHN.
- Quan sát, dự giờ các hoạt động GDHN trong nhà trường và tại cơ sở
dạy nghề.
5.3. Phương pháp thống kê
- Thống kê các số liệu liên quan đến nội dung giáo dục nghề ở các
trường phổ thông.
6. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu áp dụng đ‚ng bộ những biện pháp quản lý do đề tài nêu ra thì sẽ
nâng cao hiệu quả quản lý của Hiệu trưởng đối với công tác GDHN ở các
trường THPT thuộc thành phố Điện Biên Phủ.
5
7. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Về lý luận: Luận văn xác định những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả
quản lý hoạt động GDHN đối với học sinh Trung học phổ thông. Trên cơ sở
đó đề xuất những biện pháp quản lý GDHN trong hoàn cảnh hiện nay.
- Về thực tiễn: Giúp cho cán bộ quản lý các trường THPT ở t€nh Điện
Biên nói chung, ở các trường THPT thành phố Điện Biên Phủ nói riêng, có
thể tham khảo, áp dụng vào công tác quản lý hoạt động GDHN ở trường
THPT thuộc Điện Biên.
8. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn được cấu trúc làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về GDHN và quản lý hoạt động GDHN ở
trường Trung học phổ thông.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động GDHN trong các
trường Trung học phổ thông ở thành phố Điện Biên Phủ.
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động GDHN trong các trường Trung
học phổ thông ở thành phố Điện Biên Phủ.

6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GDHN VÀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GDHN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1.1 Nghiên cứu công tác hướng nghiệp
1.1.1.1 Ở nước ngoài:
Ở lĩnh vực nghề nghiệp, việc chọn nghề và nhất là mối quan hệ giữa
người lao động với nghề nghiệp đã được nhiều nhà khoa học của nhiều quốc
gia quan tâm nghiên cứu, nhằm giúp cho học sinh sinh viên có sự chọn lựa
nghề nghiệp phù hợp với năng lực, thể lực, trí tuệ, hứng thú cá nhân và yêu
cầu kinh tế của đất nước.
- Thế kỷ 19 (năm 1848), những người làm công tác hướng nghiệp ở
Pháp đã xuất bản cuốn sách: “Hướng nghiệp chọn nghề” nhằm giúp đƒ thanh
niên trong việc lựa chọn nghề nghiệp để sử dụng có hiệu quả năng lực lao
động của thế hệ trẻ.
Cộng hòa Pháp là một trong những nước đã phát triển hướng học,
hướng nghiệp và tư vấn nghề sớm nhất trên thế giới. Ngày 25-12-1922 Bộ
Công nghiệp và Thương nghiệp Cộng hòa Pháp đã ban hành nghị định về
công tác hướng học, hướng nghiệp và thành lập Sở Hướng nghiệp cho thanh
niên dưới 18 tuổi; tới ngày 24-5-1938 công tác hướng nghiệp đã mang tính
pháp lý thông qua quyết định ban hành chứng ch€ hướng nghiệp bắt buộc đối
với tất cả thanh niên dưới 17 tuổi, trước khi trở thành người làm việc trong
các xí nghiệp thủ công, công nghệ hoặc thương nghiệp. Từ năm 1960, Pháp
đã tiến hành thành lập hệ thống các trung tâm thông tin hướng học và hướng
nghiệp từ Bộ Giáo dục đến khu, t€nh, huyện và cụm trường.
Năm 1975, nước Pháp đã tiến hành cải cách giáo dục để hiện đại hóa
nền giáo dục. Cải cách giáo dục ở Pháp chú ý đặc biệt chăm lo giảng dạy lao
động và nghề nghiệp cho học sinh, khắc phục khuynh hướng và quan niệm
7

coi giáo dục lao động là một hoạt động giáo dục loại hai (tức là đứng sau các
môn khoa học). Nhà trường Pháp hiện nay đã giảm bớt tính hàn lâm trong
việc cung cấp các kiến thức khoa học, tăng t€ trọng kiến thức có ý nghĩa thực
dụng và ý nghĩa hướng nghiệp để giúp cho học sinh trung học chuẩn bị đi vào
đào tạo và cuộc sống nghề nghiệp.
- Ở Liên Xô cũ, công tác hướng nghiệp được nhiều tác giả quan tâm
như : E.A Klimov, V.N. Supkin, V.P Gribanov, V.A Kruchetxki
Nghiên cứu của các tác giả tập trung vào hứng thú nghề nghiệp, động
cơ chọn nghề, các giá trị về nghề mà học sinh quan tâm, đ‚ng thời đưa ra
những ch€ dẫn để giúp học sinh chọn nghề tốt hơn.
- Ở Nhật Bản, đã từ lâu giáo dục Nhật Bản chú ý đến vấn đề hoàn thiện
nội dung, hình thức dạy học kĩ thuật nhằm cung cấp tri thức, rèn luyện kĩ
năng lao động nghề nghiệp và phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh phổ
thông. Chính vì vậy, ở Nhật Bản trong những năm qua, nhiều cuộc cải cách
giáo dục đã được tiến hành với mục đích đảm bảo cho giáo dục phổ thông đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế cụ thể của đất nước. Trong đó có nhiều biện
pháp đã được áp dụng để nâng cao trình độ đào tạo về hướng nghiệp và khoa
học tự nhiên trong các trường phổ thông.
- Ở Trung Quốc, một quốc gia có sự ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng
học hành, thi cử vì mục tiêu thoát khỏi lao động chân tay, cốt đỗ đạt khoa cử
để “làm quan” tuy nhiên trong hơn 30 năm cải cách mở cửa, nước này đã có
nhiều cải cách về giáo dục. Trong giáo dục, đào tạo nghề, Trung Quốc đã và
đang thực hiện có triển vọng việc phân lu‚ng học sinh sau THCS.
- Ở các nước Châu âu, vốn là Châu lục phát triển mạnh mẽ về khoa
học, công nghệ, nên họ đã làm tốt công tác phân lu‚ng cho một bộ phận học
sinh phổ thông học nghề để sớm tự lập cuộc sống.
- Trong khuyến cáo về giáo dục thế kỷ XXI, UNESCO đã xác định
“học để làm việc” là một trong 4 trụ cột mà các nền giáo dục phải hướng tới.
8
Về GDHN, quan điểm của UNESCO cũng cho rằng giáo dục trung học là giai

đoạn mà thế hệ trẻ lựa chọn cho mình con đường bước vào cuộc sống lao
động thực sự. Hướng nghiệp tạo điều kiện cho học sinh lựa chọn một trong
nhiều con đường khác nhau, giúp thế hệ trẻ có cơ hội học tập, tiếp cận đúng
nghề nghiệp phù hợp khả năng cá nhân, tránh lãng phí cho gia đình, xã hội.
1.1.1.2. Ở Việt Nam.
Chủ tịch H‚ Chí Minh và Đảng ta rất coi trọng vận dụng sáng tạo các
quan điểm giáo dục của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm đào tạo lớp người lao
động mới. Từ năm 1960, Bác H‚ đã dạy: “Trong việc giáo dục và học tập
phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn
hóa, kĩ thuật, lao động và sản xuất”. Người cũng đã sớm tìm ra:
“Nhà trường xã hội chủ nghĩa là nhà trường:
- Học đi với lao động
- Lý luận đi với thực hành
- Cần cù đi với tiết kiệm
Trong bài báo “Học hay, cày giỏi”, Chủ tịch H‚ Chí Minh đã đề cập
đến một yếu tố mới của giáo dục, đó là phải coi trọng “Việc cung cấp cho học
sinh những tri thức cơ bản về kĩ thuật sản xuất công nghiệp và nông nghiệp”
và “Những ngành sản xuất chủ yếu” trong xã hội. Đó cũng chính là những nội
dung giáo dục kĩ thuật nghề nghiệp của giáo dục nước ta lúc bấy giờ.
Ngày 19-3-1981, Hội đ‚ng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
126/CP về "Công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông và việc sử dụng
học sinh các cấp phổ thông cơ sở và phổ thông trung học tốt nghiệp ra
trường". Có thể coi quyết định này là một cột mốc quan trọng đối với sự phát
triển giáo dục trong hệ thống nhà trường phổ thông, bởi từ thời điểm ấy,
hướng nghiệp được chính thức coi như là một nội dung giáo dục và đ‚ng thời
được coi như một hoạt động có trong các tiết dạy của các môn học.
9
Tuy nhiên, vào cuối thập kỷ 80 của thế k€ XX, do nhiều yếu tố khác
nhau, xu thế tách học với hành, giáo dục với lao động sản xuất ngày càng tăng
lên. Vai trò của công tác hướng nghiệp dần dần bị coi nhẹ, việc học nghề của

học sinh phổ thông ít được quan tâm, nhiều trường học đã tự ý bỏ sinh hoạt
hướng nghiệp. Nhiều Nghị quyết của Đảng đã nói đến thực trạng này. Từ Đại
hội Đảng lần thứ VIII (1996) đến Đại hội Đảng lần thứ IX (2001), Trung
ương Đảng luôn nhấn mạnh đến tăng cường công tác hướng nghiệp, đẩy
mạnh công tác dạy nghề.
- Ngày 23-7-2003, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo có Ch€ thị số
33/2003/CT-BGD&DT "Về việc tăng cường GDHN cho học sinh phổ thông";
trong phương hướng nhiệm vụ từng năm học, GDHN được quan tâm ch€ đạo.
Mục tiêu của đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là học sinh học xong
cấp trung học phổ thông phải đạt được ở các mặt giáo dục: tư tưởng, đạo đức,
lối sống; học vấn kiến thức phổ thông, hiểu biết kĩ thuật và hướng nghiệp; kĩ
năng học tập và vận dụng kiến thức; thể chất và xúc cảm thẩm mĩ.
Trong những năm gần đây, các nhà tâm lý học, giáo dục học, xã hội
học, kinh tế học, chính trị học trong nước đã tiếp cận nhiều vấn đề giáo dục phổ
thông và hướng nghiệp cho học sinh phổ thông ở các khía cạnh khác nhau.
- Các tác giả Nguyễn Văn Hộ, Phạm Tất Dong, Đặng Danh Ánh
trong các công trình nghiên cứu về công tác hướng nghiệp đã tập trung vào
những vấn đề như:
+ Vấn đề lịch sử phát triển công tác GDHN ở các nước trên thế giới và
ở Việt Nam.
+ Bản chất khoa học của công tác hướng nghiệp.
+ Mục đích, nhiệm vụ, vai trò của công tác hướng nghiệp.
+ Nội dung cơ bản và các hình thức hướng nghiệp.
+ Vấn đề tổ chức và điều khiển công tác hướng nghiệp.
10
- Tác giả Phạm Minh Hạc đã ch€ ra rằng muốn có được ngu‚n nhân lực
phù hợp với cơ cấu đào tạo thì phải: Chú trọng GDHN thiết thực cho học sinh
phổ thông, giúp các em chọn nghề phù hợp với sở trường, trình độ, nhu cầu
phát triển của bản thân và yêu cầu phát triển đất nước. [27]
- Tác giả Đặng Danh Ánh đã đề cập đến quan điểm mới về GDHN, coi

hướng nghiệp là loại hoạt động của nhiều cơ quan khác nhau nhằm giúp cho
con người chọn nghề phù hợp với nhu cầu của xã hội và nguyện vọng, sở
trường của cá nhân. [1]
- Tác giả Nguyễn Toàn đã nêu mục tiêu của công tác hướng nghiệp là:
Học sinh phải được trang bị một cách hệ thống những hiểu biết và kỹ năng
lao động cần thiết để lựa chọn nghề nghiệp, để làm được những nghề phổ
thông, những nghề phổ biến ở địa phương hoặc tiếp tục học nghề một cách
thuận lợi, thích nghi nhanh chóng với những thay đổi về việc làm. [36]
- Tác giả Nguyễn Văn Hộ đã đề cập vấn đề: “Thiết lập và phát triển hệ
thống hướng nghiệp cho học sinh Việt Nam”, nhằm thúc đẩy công tác ch€
đạo, quản lý GDHN trong trường phổ thông. [29]
- Tác giả Phạm Tất Dong có bài viết: “Công tác hướng nghiệp trong
giai đọan hiện nay” [21] đã đề cập đến vấn đề: Đổi mới nội dung hướng
nghiệp trong nhà trường hiện nay đang là một yêu cầu ngày càng cấp thiết và
xác định trong những năm tới, công tác hướng nghiệp phải đóng góp hơn nữa
vào việc giải quyết việc làm cho thanh, thiếu niên, định hướng thế hệ trẻ vào
những lĩnh vực sản xuất cần phát triển, tạo ra cho mỗi thanh, thiếu niên nhiều
khả năng để tự tạo ra việc làm.
Nhìn chung các công trình của các tác giả nêu trên đều tập trung vào
nghiên cứu cơ sở lý thuyết và thực tiễn của hoạt động hướng nghiệp với mục
đích, ý nghĩa, nội dung, hình thức tổ chức hướng nghiệp cho học sinh phổ
thông. Những công trình nghiên cứu đó tuy chưa tương xứng với thực tế giáo
dục, nhưng cũng đã góp phần tạo chuyển biến trong nhận thức và hỗ trợ
11
chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ quản lý thực hiện quản lý đối với công tác
GDHN.
1.1.2. Nghiên cứu quản lý GDHN:
Quản lý nhà trường bao g‚m các hoạt động: quản lý giáo viên; quản lý
học sinh; quản lý quá trình dạy học - giáo dục; quản lý cơ sở vật chất, trang
thiết bị trường học; quản lý tài chính trường học trong đó quản lý hoạt động

dạy học - giáo dục là trọng tâm của nhiệm vụ quản lý trường học. Quản lý
hoạt động dạy học và giáo dục có đối tượng nghiên cứu là xây dựng biện pháp
quản lý các hoạt động này một cách có hiệu quả, đem lại lợi ích lớn nhất cho
người học và cho xã hội. Do đó, quản lý hoạt động dạy học và giáo dục là đối
tượng của rất nhiều công trình nghiên cứu nhằm xây dựng biện pháp quản lý
các hoạt động này một cách khoa học, hiệu quả.
Hiện nay trong các đề tài nghiên cứu về quản lý nhà trường THPT, các
công trình nghiên cứu tập trung nhiều vào quản lý hoạt động dạy học, quản lý
chuyên môn, quản lý tổ chuyên môn, quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh
THPT như:
- "Biện pháp quản lý hoạt động tổ bộ môn ở các trường phổ thông trung
học huyện Quảng Xương Thanh Hoá" của tác giả Hoàng Văn Huân (2005).
- "Các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức của Hiệu trưởng
THPT t€nh Hà Tây" của tác giả Cao Bạch Vân (2004).
Trên lĩnh vực hướng nghiệp cho học sinh, nhìn chung các công trình
của các tác giả đều tập trung nghiên cứu cơ sở lý thuyết và thực tiễn của công
tác hướng nghiệp với mục đích, ý nghĩa, nội dung, hình thức hướng nghiệp
cho học sinh phổ thông. Riêng về khía cạnh quản lý GDHN mới ch€ có tác giả
Hà Thế Truyền đề cập đến công tác b‚i dưƒng CBQL các trung tâm Kỹ thuật
- Tổng hợp - Hướng nghiệp với các ý kiến đề xuất về phương thức b‚i dưƒng
cho đội ngũ này [38]. Còn tác giả Huỳnh Thị Tam Thanh trong đề tài "Quản
lý công tác hướng nghiệp cho học sinh phổ thông bậc trung học tại các trung
12
tâm giáo dục thường xuyên trên địa bàn thành phố Đà Nẵng" [39] thì nghiên
cứu thực trạng quản lý công tác hướng nghiệp cho học sinh phổ thông bậc trung
học tại các trung tâm giáo dục thường xuyên trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Các đề tài trên đã có đóng góp gì vào công tác quản lý GDHN. Vấn đề nào
cần tiếp tục quan tâm, chưa có đề tài nào nghiên cứu theo hướng của mình.
1.2. QUẢN LÝ GIÁO DỤC.
Giáo dục là một hiện tượng đặc biệt của xã hội loài người xuất hiện

cùng với lao động và ngôn ngữ. Giáo dục thực hiện chức năng truyền thụ và lĩnh
hội kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Trong nền văn minh công nghiệp hiện đại, giáo dục càng có vai trò vô
cùng quan trọng góp phần quyết định vào sự hưng thịnh của một quốc gia,
một dân tộc trong mối tương quan với các quốc gia, dân tộc khác. Chính vì
vậy mà ngày càng có nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm đầu tư
ngu‚n lực cho giáo dục, đặt giáo dục vào vị trí chiến lược quốc sách hàng
đầu, coi giáo dục là chìa khóa bước vào xã hội tương lai, là động lực thúc đẩy
sự phát triển của đất nước. Để phát huy sức mạnh tổng hợp và các chức năng
đặc biệt của hoạt động giáo dục, các nhà khoa học đã và đang quan tâm đặc
biệt đến vấn đề quản lý giáo dục, tức là vấn đề điều khiển quá trình giáo dục,
rèn luyện con người, mà đặc biệt là hệ thống nhà trường - nơi giáo dục và rèn
luyện thế hệ trẻ.
Quản lý giáo dục là gì ?
- Theo M.M.MêchtiZade: Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp
(tổ chức, phương pháp, cán bộ, kế hoạch, tài chính, cung tiêu ) nhằm đảm
bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, đảm bảo
sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng và chất lượng.
- Theo P.V. Khuđôminxky: Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống,
có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác
nhau đến tất cả các khâu của hệ thống (từ Bộ, Sở, Phòng Giáo dục đến trường
13
học) nhằm mục đích đảm bảo giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm
bảo sự phát triển toàn diện và hài hòa của họ, trên cơ sở nhận thức và sử dụng
các quy luật chung vốn có của chủ nghĩa xã hội cũng như những quy luật
khách quan của quá trình dạy học - giáo dục của sự phát triển về thể chất, tinh
thần của thế hệ thanh niên.
- Tác giả Nguyễn Ngọc Quang định nghĩa quản lý giáo dục như sau: “
Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch hợp
qui luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm cho hệ vận hành theo

nguyên lý và đường lối giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của
nhà trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy
học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái
mới về chất”. [33]
Các định nghĩa về quản lý giáo dục nhiều nhưng có thể nhận thấy
những nét đặc thù, dấu hiệu bản chất của quản lý giáo dục, đó là:
+ Tổ hợp tác động có định hướng, có tổ chức, có kế hoạch của chủ thể
quản lý đến khách thể quản lý.
+ Duy trì, điều ch€nh quá trình vận hành của hệ thống giáo dục, hướng
đến các mục tiêu đã xác định.
+ Quản lý giáo dục với mục tiêu là đào tạo, rèn luyện nhân cách của thế
hệ trẻ cần bám sát các nguyên lý, phương châm giáo dục của Đảng.
Theo nghĩa tổng quát: Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành, phối
hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu
cầu phát triển xã hội.
Ngày nay, với quan điểm học tập suốt đời, công tác giáo dục không ch€
giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi người. Do đó, quản lý giáo dục được hiểu là
sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân, các trường trong hệ thống giáo dục
quốc dân nhằm thực hiện mục tiêu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, b‚i
14
dưƒng nhân tài, đáp ứng ngu‚n nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự nghiệp
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Quản lý giáo dục được diễn ra trong phạm vi toàn quốc, trên địa bàn
lãnh thổ (t€nh, huyện) và ở từng cơ sở giáo dục (quản lý nhà trường).
1.3 GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
1.3.1. Tiếp cận khái niệm “GDHN”
Theo Từ điển Tiếng Việt (NXB Đà Nẵng 1998) thì hướng nghiệp được
hiểu là “thi hành những biện pháp nhằm đảm bảo sự phân bố tối ưu (có chú ý
tới năng khiếu, năng lực, thể lực) nhân dân theo ngành và loại lao động” hoặc
“hướng dẫn, giúp đƒ chọn đúng ngành nghề”.

Có nhiều quan niệm khác nhau về hướng nghiệp. Sự khác nhau này là do
bắt ngu‚n từ những cách quan sát khác nhau, với góc độ chuyên môn khác nhau:
- Các nhà giáo dục học cho rằng: “Hướng nghiệp là một hoạt động của
các tập thể sư phạm, của các cán bộ thuộc các cơ quan, nhà máy khác nhau,
được tiến hành với mục đích giúp cho học sinh chọn nghề đúng đắn phù hợp
với năng lực, hứng thú, thể lực và tâm lý của cá nhân với nhu cầu nhân lực
của xã hội. Hướng nghiệp là một bộ phận cấu thành của quá trình giáo dục -
học tập trong nhà trường.”
- Trong tâm lý học, hướng nghiệp được coi là hệ thống các biện pháp
tâm lý - sư phạm và y học giúp cho thế hệ trẻ chọn nghề có tính đến nhu cầu
của xã hội và năng lực của bản thân. Đó là quá trình chuẩn bị cho thế hệ trẻ sự
sẵn sàng tâm lý đi vào lao động nghề nghiệp. Sự sẵn sàng tâm lý đó chính là
tâm thế lao động - một trạng thái tâm lý tích cực trước hoạt động lao động.
- Các nhà kinh tế lại cho rằng “hướng nghiệp là những mối quan hệ
kinh tế giúp cho mỗi thành viên xã hội phát triển năng lực lao động và đưa họ
vào một lĩnh vực hoạt động cụ thể phù hợp với sự phân bổ lực lượng lao động
xã hội”.
- Hiểu hướng nghiệp trên bình diện xã hội:
15
Toàn bộ các nhà máy, xí nghiệp, công trường, nông trường các cơ
quan quản lý kinh tế và quản lý nhà nước, cơ quan đoàn thể chính trị và xã
hội đều cần những người có năng lực và những phẩm chất nhân cách phù
hợp. Để chọn được người theo đúng tiêu chuẩn đã định, cơ quan tổ chức nói
trên có nhiệm vụ làm cho thế hệ trẻ hiểu được nội dung, tính chất, đặc điểm,
điều kiện công tác của cơ quan mình, giúp họ tìm hiểu những nghề nghiệp
chuyên môn mà cơ quan mình cần tuyển chọn. Cuối cùng, các cơ quan, cơ sở
sản xuất phải tuyển chọn người trên cơ sở nguyện vọng và dự định nghề
nghiệp của cá nhân.
Có thể nói rằng, hướng nghiệp là công việc mà toàn xã hội có trách
nhiệm tham gia. Trong những điều kiện lý tưởng, các em cần được hướng

nghiệp liên tục và thường xuyên bằng nhiều hình thức, nhiều con đường. Nếu
xã hội biết tận dụng các câu lạc bộ, nhà văn hóa, rạp chiếu phim, vô tuyến
truyền hình, đài phát thanh, nhà xuất bản, thư viện vào công tác hướng
nghiệp, tác dụng hướng dẫn chọn nghề đối với các em sẽ rất lớn.
Không nên để các em chọn nghề một cách tự phát, cũng không nên để
cho số phận nghề nghiệp của mỗi học sinh, mỗi thanh niên phụ thuộc vào
những gì hết sức ngẫu nhiên. Hướng nghiệp là quá trình dẫn dắt thế hệ trẻ đi
vào thế giới nghề nghiệp, giúp cho họ phát huy được hết năng lực lao động
trong thế giới đó, có được cuộc sống thỏa mãn với lao động nghề nghiệp.
Như vậy, hướng nghiệp có thể hiểu như là một hệ thống tác động của
xã hội về giáo dục học, y học, xã hội học, kinh tế học nhằm giúp cho thế hệ
trẻ chọn được nghề vừa phù hợp hứng thú, năng lực, nguyện vọng, sở trường
cá nhân, vừa đáp ứng được nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong
nền kinh tế quốc dân.
- Từ các khía cạnh nêu trên, có thể vận dụng để hiểu về hướng nghiệp
trong môi trường giáo dục phổ thông:
16
Trong trường phổ thông, hướng nghiệp là một hình thức hoạt động dạy
của thầy và hoạt động học của trò. Với tư cách là hoạt động dạy của thầy,
hướng nghiệp được coi như là công việc của tập thể giáo viên, tập thể sư
phạm có mục đích giáo dục học sinh trong việc chọn nghề, giúp các em tự
quyết định nghề nghiệp tương lai trên cơ sở phân tích khoa học về năng lực,
hứng thú của bản thân và nhu cầu nhân lực của các ngành sản xuất trong xã
hội. Như vậy, hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông được thể hiện như một
hệ thống tác động sư phạm nhằm làm cho các em chọn được nghề phù hợp.
Với cách hiểu này, hướng nghiệp là nhiệm vụ của bất kỳ thành viên nào
trong tập thể sư phạm: Hiệu trưởng, phó Hiệu trưởng, giáo viên chủ nhiệm,
giáo viên bộ môn, cán bộ phụ trách Đội Thiếu niên tiền phong H‚ Chí Minh,
cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản H‚ Chí Minh Vấn đề là cần phải có sự
phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng cán bộ nói trên.

Từ khái niệm và các cách tiếp cận trên đây, có thể hiểu “GDHN” là:
- GDHN là quá trình định hướng cho học sinh nhận biết được nghề
nghiệp xã hội, tự lựa chọn xu hướng học nghề sao cho bảo đảm tính phù hợp
với năng khiếu, sở trường và điều kiện cho phép.
- GDHN được tổ chức một cách khoa học, dựa trên những nguyên tắc
sư phạm, đưa học sinh tiếp cận với tài liệu, thâm nhập thực tế, làm quen với công
việc mà học sinh dự kiến sẽ lựa chọn, nhờ đó hiệu quả GDHN sẽ tốt hơn.
- GDHN là trách nhiệm của xã hội, trong đó trách nhiệm của nhà
trường và phụ huynh học sinh, của các tổ chức đoàn thể, của hội nghề nghiệp
phải được đề cao.
1.3.2. Ý nghĩa của GDHN cho học sinh phổ thông
1.3.2.1. Ý nghĩa giáo dục
GDHN là một bộ phận của công tác giáo dục xã hội chủ nghĩa. Về
phương diện này, hướng nghiệp là công việc điều ch€nh động cơ chọn nghề
của học sinh, điều ch€nh hứng thú nghề nghiệp của các em theo xu thế phân
17
công lao động xã hội. Kinh nghiệm cho thấy, sự chọn nghề một cách tự phát
của thanh, thiếu niên thường không phù hợp với hướng phát triển sản xuất và
ngành nghề trong xã hội. Vì vậy, tác động giáo dục trong quá trình hướng
nghiệp có ý nghĩa rất đặc biệt. Kết quả cuối cùng cần đạt là mỗi học sinh phải
tự giác chọn nghề với ý thức đặt lợi ích của sự phát triển sản xuất lên trên
những nguyện vọng cá nhân.
Hướng nghiệp với ý nghĩa giáo dục sẽ là một hoạt động góp phần cụ
thể hóa mục tiêu đào tạo của trường phổ thông. Trong giai đoạn cách mạng
hiện nay, trường phổ thông phải đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao
động trong một lĩnh vực nghề nghiệp cụ thể. Tốt nghiệp trường phổ thông,
học sinh phải có năng lực tham gia một nghề ở địa phương hoặc sẽ tiếp tục
học để sau này làm tốt một nghề. Như vậy, quá trình hướng nghiệp trong nhà
trường không dừng lại ở sự giáo dục ý thức lao động nghề nghiệp chung
chung, mà phải hướng học sinh đi vào nghề nghiệp cụ thể.

1.3.2.2. Ý nghĩa kinh tế
Hoạt động GDHN luôn hướng vào việc sử dụng hợp lý tiềm năng lao
động tuổi trẻ của đất nước, từ đó nâng cao năng suất lao động của xã hội. Đưa
thanh, thiếu niên vào đúng vị trí lao động nghề nghiệp, giúp họ phát huy được
hết năng lực, sở trường lao động, phát triển cao những hứng thú nghề nghiệp,
làm nảy nở óc sáng tạo trong lao động là việc làm hết sức quan trọng đối với
hướng nghiệp. Để đảm bảo ý nghĩa kinh tế của hướng nghiệp, trường phổ
thông phải gắn mục tiêu đào tạo với những mục tiêu kinh tế - xã hội, bám sát
với sự chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội: Sự phát triển kinh tế - xã hội phụ
thuộc rất nhiều vào việc chuẩn bị cho thế hệ trẻ đi vào lao động sản xuất, đi
vào sự phân công lao động trong phạm vi cả nước và từng địa phương. Tóm
lại, hướng nghiệp là một trong những yếu tố làm đ‚ng bộ hóa đội ngũ lao
động nghề nghiệp, phân bố lại lực lượng lao động xã hội, chuyên môn hóa
tiềm năng lao động trẻ tuổi.
18
1.3.2.3. Ý nghĩa chính trị
Nói hướng nghiệp có tác dụng góp phần làm cụ thể hóa mục tiêu đào
tạo của trường phổ thông, có nghĩa là công tác hướng nghiệp có chức năng
thực hiện đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước, hiện thực hóa đường lối
giáo dục trong đời sống xã hội. Hướng nghiệp phải được coi là điều kiện đảm
bảo chất lượng và hiệu quả giáo dục. Hướng nghiệp sẽ tạo nên những yếu tố
mới trong con người lao động - yếu tố cơ bản của việc tăng năng suất lao
động xã hội.
Làm tốt công tác hướng nghiệp, chúng ta sẽ có những lớp người đủ
năng lực và phẩm chất cách mạng để tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa.
1.3.2.4. Ý nghĩa xã hội
Xét ở bình diện xã hội, hướng nghiệp có tác dụng điều ch€nh sự phân
công lao động xã hội, tạo ra sự cân bằng trong phân bố ngu‚n nhân lực. Khi
xã hội gặp khó khăn trong việc tìm kiếm “công ăn việc làm” cho thanh, thiếu

niên, hướng nghiệp kết hợp chặt chẽ với lao động sản xuất và dạy nghề có tác
dụng làm ổn định đời sống xã hội: góp phần tạo điều kiện để xã hội sử dụng
hết lực lượng học sinh phổ thông ra trường trong lĩnh vực kinh tế, kể cả kinh
tế quốc doanh, kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế gia đình.
1.3.3. Nhiệm vụ cơ bản của GDHN ở trường phổ thông
1.3.3.1. Nhiệm vụ trước mắt
- Giáo dục thái độ và ý thức đúng đắn với nghề nghiệp.
- Tổ chức cho học sinh học tập làm quen với một số nghề phổ biến
trong xã hội và các nghề truyền thống của địa phương.
- Tìm hiểu năng khiếu, khuynh hướng nghề nghiệp của từng học sinh
để khuyến khích, hướng dẫn, b‚i dưƒng khả năng nghề nghiệp thích hợp nhất.
- Động viên, hướng dẫn học sinh đi vào những nghề, những nơi đang
cần lao động trẻ tuổi có văn hóa.
19
1.3.3.2. Nhiệm vụ lâu dài
a. Định hướng nghề cho học sinh:
Định hướng nghề là việc thông tin cho học sinh biết về đặc điểm hoạt
động và yêu cầu phát triển của các nghề trong xã hội, đặc biệt là các nghề và
các nơi đang cần nhiều lao động trẻ tuổi có văn hóa, về những yêu cầu tâm
sinh lý của mỗi nghề, về tình hình phân công và yêu cầu điều ch€nh lao động
ở cộng đ‚ng dân cư, về hệ thống trường lớp đào tạo nghề của nhà nước, tập
thể và tư nhân.
Nhà trường cũng cần cung cấp những thông tin nói trên cho cha mẹ học
sinh nhằm mục đích phối hợp hướng nghiệp cho học sinh.
Sau việc thông tin nghề nghiệp phải tạo điều kiện cho học sinh làm
quen với một số nghề, để từ đó học sinh kiểm nghiệm hứng thú năng lực bản
thân, tự giác lựa chọn và đi vào một lĩnh vực nghề phù hợp nhất.
b. Tư vấn nghề đối với từng học sinh:
Công việc chủ yếu của tư vấn nghề là khảo sát đặc điểm tâm lý của
từng học sinh, đối chiếu các thuộc tính cơ bản nhất như hứng thú, năng lực,

hoàn cảnh gia đình của cá nhân học sinh với đặc điểm, yêu cầu hoạt động
của các nghề để xác lập mức độ phù hợp nghề; trên cơ sở đó người làm tư vấn
cho học sinh những lời khuyên về chọn nghề.
c. Tạo điều kiện cho tuyển chọn nghề nghiệp một cách khoa học:
Việc tuyển chọn nghề nghiệp không thuộc chức năng của nhà trường
phổ thông, nhưng có liên quan với công việc định hướng nghề nghiệp, tư vấn
nghề nghiệp. Nhà trường phổ thông có nhiệm vụ tư vấn nghề nghiệp, định
hướng nghề nghiệp, lưu trữ tư liệu, ví dụ qua hình thức “Sổ hướng nghiệp” để
làm cứ liệu khi tuyển học sinh vào các trường dạy nghề, trung cấp chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học hoặc trực tiếp tuyển chọn lao đông.
20
1.3.4. Các cách hướng nghiệp cho học sinh trong nhà trường phổ
thông
1.3.4.1. Hướng nghiệp qua hoạt động dạy học các bộ môn văn hoá,
khoa học cơ bản:
Trong nhà trường phổ thông, các môn văn hóa, khoa học cơ bản giữ
một vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển toàn diện nhân
cách của học sinh. Chúng đặt nền tảng cho sự hiểu biết các quy luật phát triển
của tự nhiên, xã hội và tư duy đ‚ng thời cung cấp những cơ sở khoa học cho
việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp; giúp cho việc xây dựng và phát huy những
năng lực sở trường đa dạng của học sinh, chuẩn bị cho các em đi vào cuộc
sống và lao động nghề nghiệp.
Môn học nào cũng cần và cũng có khả năng hướng nghiệp cho học
sinh. Tuy nhiên, đây là việc làm khó khăn đòi hỏi người cán bộ quản lý
trường học và người giáo viên phải có quan điểm, nhận thức đúng đắn về
GDHN, đ‚ng thời luôn có ý thức quán triệt tinh thần hướng nghiệp trong từng
bài dạy văn hóa, khoa học cơ bản.
Biết quán triệt tinh thần hướng nghiệp trong từng môn học chất lượng
giảng dạy và học tập sẽ được nâng cao. Vấn đề là biết khai thác những tư liệu
nói về nghề nghiệp và biết vận dụng vào nội dung bài học như thế nào.

1.3.4.2. Hướng nghiệp qua dạy - học môn "Công nghệ", dạy nghề
phổ thông và giáo dục lao động
- Hướng nghiệp qua dạy - học môn "Công nghệ": môn “Công nghệ” là
tên gọi của môn kỹ thuật trước đây, nay được dùng trong chương trình đổi
mới của giáo dục phổ thông ở bậc trung học cơ sở và bậc trung học phổ
thông. Chương trình môn công nghệ bao g‚m kỹ thuật phục vụ, kỹ thuật nông
nghiệp, kỹ thuật công nghiệp; ở bậc trung học phổ thông, chương trình tập
trung vào các lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp, tạo lập doanh nghiệp và công
nghiệp.
21
Qua đó cho thấy môn công nghệ có khả năng hướng nghiệp rất lớn.
Mặc dù học sinh chưa thật sự đi sâu vào kỹ thuật nghề nghiệp, nhưng qua việc
học kỹ thuật các ngành nghề thuộc kỹ thuật phục vụ, kỹ thuật nông - lâm -
ngư nghiệp, công nghiệp , các em có điều kiện hiểu về những nghề thuộc các
ngành này trong xã hội. Nếu đảm bảo khâu thực hành được tiến hành một
cách đầy đủ nghiêm túc, học sinh sẽ được thử sức mình với hoạt động kỹ
thuật cụ thể, qua đó các em sẽ phát hiện và đánh giá đúng hơn năng lực kỹ
thuật của bản thân mình, hứng thú kỹ thuật được phát triển mạnh và ngày
càng bền vững. Đó là điều kiện rất thuận lợi cho việc định hướng nghề nghiệp
của các em.
- Hướng nghiệp qua hoạt động dạy nghề phổ thông:
Giáo dục nghề phổ thông là một hoạt động GDHN cho học sinh phổ
thông, một bộ phận của nội dung giáo dục toàn diện.
Giáo dục nghề phổ thông chuẩn bị một số kỹ năng lao động có kỹ thuật
cho học sinh và góp phần định hướng nghề để học sinh có thể vận dụng vào
cuộc sống lao động và lựa chọn hướng phát triển phù hợp với năng lực bản
thân, đ‚ng thời tạo điều kiện cho học sinh củng cố và vận dụng những hiểu
biết và kỹ năng được trang bị ở môn công nghệ và các môn học khác vào
những điều kiện thực tiễn cụ thể.
Giáo dục nghề phổ thông chính là một con đường để hướng nghiệp cho

học sinh.
Hướng nghiệp cho học sinh phổ thông qua hoạt động giáo dục lao động:
Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau nhưng các khái niệm về giáo dục
lao động đều có chung những điểm sau:
+ Giáo dục lao động là một bộ phận cơ bản của giáo dục phổ thông và
là một nội dung giáo dục toàn diện.
+ Giáo dục lao động không ch€ đơn thuần tổ chức cho học sinh tham
gia lao động mà có nhiệm vụ chủ yếu là cung cấp cho học sinh kiến thức, rèn
22

×