Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Hoàn thiện công tác quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 100 trang )

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Chính phủ tham gia vào nền kinh tế với vai trò điều tiết vĩ mô, khắc phục
những thất bại của thị trường và phân phối lại thu nhập tạo sự công bằng trong xã
hội. Đặc biệt là thông qua cơ chế thu từ các khoản đóng góp bắt buộc của người dân
để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cũng như tạo cơ sở vật chất cho nền kinh tế tăng
trưởng và phát triển. Và để làm được điều đó, nhất là những nước đang phát triển
cần một nguồn vốn đầu tư lớn, song nguồn lực trong nước không đáp ứng được nhu
cầu chi tiêu. Vì vậy mà các khoản vay nợ nước ngoài của Chính phủ là cần thiết
nhằm bổ sung nguồn lực để phát triển kinh tế khi mà năng lực sản xuất của nền kinh
tế đang còn thấp. Với việc đi vay nước ngoài Chính phủ sẽ không những không gây
ra hiện tượng “crowd out” hay là hiệu ứng lấn át đầu tư của khu vực tư nhân ảnh
hưởng đến tính hiệu quả chung của nền kinh tế, mà còn có cơ hội đạt được tốc độ
tăng trưởng cao hơn trong tương lai thông qua việc gắn liền chi phí của dự án đầu tư
công với luồng lợi ích do chúng tạo ra. Nghĩa là để tài trợ bằng dự án nếu vay nợ
cho phép mang đến lợi ích dồn tích trong tương lai mà không phải giảm mức tiêu
dùng của người dân trong thời kỳ hiện tại.
Mặt khác khi nền kinh tế gặp phải những cú sốc hay những vấn đề đột biến
như thiên tai, hay chịu ảnh hưởng từ những cuộc suy thoái mang tính khu vực và
toàn cầu khiến cho nền kinh tế bị thiệt hại nặng nề; Hoặc nền kinh tế đang rơi vào
thời kỳ khủng hoảng của chu kỳ kinh tế, Chính phủ phải can thiệp bằng các biện
pháp trợ cấp hay kích cầu cho nền kinh tế. Vì vậy vay nợ từ nước ngoài của Chính
phủ cũng nhằm ổn định thị trường trong nước trong ngắn hạn.
Các khoản vay nợ nước ngoài của Chính phủ giúp phát triển nguồn nhân lực,
bảo vệ môi trường khi có thêm nguồn vốn đầu tư vào phát triển giáo dục và hỗ trợ
lĩnh vực y tế bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Nhờ có sự tài trợ của cộng đồng quốc tế
các nước đang phát triển gia tăng đáng kể chỉ số phát triển con người của quốc gia
1
mình. Ngoài ra các khoản vay nợ nước ngoài cũng là nguồn bổ sung ngoại tệ và làm
lành mạnh cán cân thanh toán quốc tế từ đó ổn định đồng bản tệ.
Trong bối cảnh tích luỹ trong nước không đủ, việc vay nợ nước ngoài để đầu


tư là tất yếu. Song thực tế kinh nghiệm của các quốc gia đã cho thấy việc quản lý nợ
nước ngoài không chặt chẽ cùng với các sai lầm trong chính sách có thể đưa một đất
nước gặp phải khó khăn về tài chính thậm chí có thể rơi vào khủng hoảng. Việc
quản lý lỏng lẻo về các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ có thể dẫn đến tình
trạng” lãi mẹ đẻ lãi con”. Hay nói cách khác việc quản lý và sử dụng các khoản vay
kém hiệu quả, sai mục tiêu và các chính sách kinh tế không linh hoạt với bối cảnh
quốc tế có thể khiến các nước vay nợ có nguy cơ trở thành một nước mắc nợ trầm
trọng. Sau một thời gian vay nợ, một số nước đã phải dành hơn 50% thu nhập từ
xuất khẩu và sản xuất trong nước để trả lãi vay và khấu hao nợ hàng năm. Thậm chí
Chính phủ nhiều nước còn tuyên bố là không thể tiếp tục trả lãi suất và khấu hao nợ
hàng năm nữa, dẫn đến phải tìm kiếm một sự thỏa hiệp và vay thêm tiền của các
chủ nợ để trả cho chính họ những khoản lãi và gốc của số tiền đã vay trước đó.
Đồng thời khi mắc nợ nghiêm trọng 1 nước có thể bị lệ thuộc không chỉ về kinh tế
đối với các chủ nợ và các rủi ro tiềm ẩn cho nền kinh tế.
Chấn động từ cuộc khủng hoảng nợ công ở Hi Lạp, IreLand, mà một nguyên
nhân xuất phát từ việc lạm dụng vay mượn nước ngoài thông qua phát hành trái
phiếu quốc tế đang có nguy cơ lan rộng sang một số quốc gia khác khiến các nước,
đặc biệt là những nước có nợ công lớn và thâm hụt ngân sách kinh niên, phải đánh
giá lại tình trạng tài khóa của mình.
Còn ở Việt Nam, trong suốt một thời gian dài trước đây luôn nhận được sự
hỗ trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa như Đông Âu, Trung Quốc…việc vay nợ chỉ
giới hạn ở một con số không lớn lắm và việc trả nợ cũng dựa trên quan hệ hữu nghị
và ngoại giao. Vấn đề vay và trả nợ trở thành một vấn đề đáng lưu ý khi có các hoạt
động cho vay của Ngân hàng thế giới và ngân hàng phát triển Châu Á. Kể từ đó
cùng với những cam kết hỗ trợ ODA, vay nước ngoài của Việt Nam càng gia tăng
về số lượng và tính đa dạng của hình thức vay và trả nợ. Hiện nay tình trạng nợ
2
công hay nợ Chính phủ liên tục gia tăng tăng làm cho yêu cầu nâng cao chất lượng
quản lý nợ Chính phủ, đặc biệt là nợ nước ngoài của Chính phủ cũng trở nên cấp
thiết.

Tính cấp thiết của đề tài còn xuất phát từ việc tăng cường hội nhập của Việt
Nam vào quá trình toàn cầu hóa. Nghĩa là chúng ta có nhiều cơ hội tiếp cận các
khoản vay nước ngoài hơn và nếu không quản lý tốt khoản tiền vay này chắc chắn
di sản để lại cho tương lai là món nợ khổng lồ.
Vì vậy tác giả chọn đề tài nghiên cứu là " Hoàn thiện công tác quản lý nợ
nước ngoài của Chính phủ tại Việt Nam"
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý thuyết về nợ nước ngoài và quản lý nợ nước
ngoài của Chính phủ.
- Xây dựng chuỗi số liệu về tình hình nợ nước ngoài của Chính phủ trong
giai đoạn từ 2002 - 2009. Từ đó phân tích và đánh giá về mức độ nợ cũng như khả
năng trả nợ nước ngoài của Chính phủ.
- Phân tích thực trạng hệ thống quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam trong thời
gian 2002 - 2009.
- Nghiên cứu một số kinh nghiệm về quản lý nợ nước ngoài trên thế giới và
rút ra bài học đối với Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nợ nước ngoài của
Chính phủ Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung vào việc phân tích hệ thống quản
lý nợ nước ngoài của Chính phủ và phân tích thực trạng nợ nước ngoài của Chính
phủ ở Việt Nam thông qua các chỉ số kinh tế và các chỉ số nợ nước ngoài trên giác
độ vĩ mô.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu công tác quản lý nợ nước ngoài
của Chính phủ - tập trung chủ yếu vào vay ODA, vay nợ thương mại thông qua phát
3
hành trái phiếu quốc tế và các biến vĩ mô, các chính sách có ảnh hưởng đến tính bền
vững của nợ nước ngoài trong giai đoạn 2002- 2009.
Luận văn sử dụng số liệu thống kê về tăng trưởng, xuất nhập khẩu, đầu tư…
của Việt Nam được lấy từ nguồn chính thức do Tổng cục Thống kê công bố trên

trang web của Tổng cục thống kê. Các số liệu thống kê về nợ chủ yếu lấy từ các
Bản tin nợ nước ngoài của Bộ tài chính. Ngoài ra có tham khảo tài liệu về hệ thống
quản lý nợ và phân tích tài chính DMFAS.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn áp dụng tổng hợp các phương pháp thống kê, phân tích hệ thống,
so sánh… kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn nhằm giải thích đánh giá những vấn
đề quan trọng phục vụ mục đích nghiên cứu.
5. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý vay nợ nước ngoài
của Chính phủ
- Đánh giá thực trạng nợ nước ngoài của Chính phủ cũng như mô hình quản
lý và các công cụ quản lý nợ nước ngoài của chính phủ tại Việt Nam trong giai đoạn
2002- 2009
- Phân tích nguyên nhân dẫn đế những hạn chế trong quản lý nợ nước ngoài
của Chính phủ tại Việt Nam.
- Từ những đánh giá về thực trạng đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
công tác quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ tại Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về nợ nước ngoài và quản lý nợ nước ngoài của
Chính phủ
Chương này trình bày các vấn đề lý thuyết chung về nợ nước ngoài của
chính phủ, vai trò và phân loại. Đồng thời hệ thống hóa các vấn đề về quản lý nợ
4
nước ngoài của chính phủ bao gồm: nguyên tắc quản lý, nội dung quản lý, hệ thống
cơ quan quản lý và các công cụ quản lý. Tập trung vào việc xây dựng kế hoạch vay
trả nợ nước ngoài và đưa ra các chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ, khả năng trả nợ cũng
như tính bền vững của nợ nước ngoài.
Chương 2: Thực trạng quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ tại Việt Nam
Chương này trình bày phần thực trạng nợ nước ngoài và quản lý nợ nước

ngoài của chính phủ tại Việt Nam giai đoạn 2002 - 2009. Trên cơ sở phân tích đánh
giá thực trạng đó làm rõ một số thành tựu đạt được, cũng như những hạn chế và
nguyên nhân của các hạn chế đó trong công tác quản lý nợ nước ngoài của Chính
phủ tại Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nợ nước ngoài của Chính
phủ tại Việt Nam
Trên cơ sở phân tích thực trạng ở Chương 2 và một số bài học về quản lý nợ
nước ngoài ở một số quốc gia trên thế giới, tác giả đề xuất một số biện pháp nhằm
tăng cường công tác quản lý nợ nước ngoài tại Việt Nam.
Do còn nhiều hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên mặc dù rất cố gắng
song luận văn không tránh khỏi những hạn chế. Vì vậy tác giả mong nhận được sự
giúp đỡ, đóng góp của các thầy cô và anh chị đồng nghiệp để hoàn thiện kiến thức.
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Bất và các thầy cô giáo
Trường Đại học Kinh tế quốc dân đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ để tôi hoàn
thành luận văn này.
5
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ QUẢN LÝ
NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA CHÍNH PHỦ
1.1 Nợ nước ngoài của Chính phủ
1.1.1 Các khái niệm
Nợ là lượng tiền mà một công ty hoặc một cá nhân nợ một tổ chức hoặc một
cá nhân khác. Nợ phát sinh từ việc vay tiền để mua hàng hoá, dịch vụ và các tài sản
tài chính khác. Một khoản nợ được tạo ra khi người cho vay cho người đi vay một
lượng tài sản nhất định.
Nợ của chính phủ là một bộ phận của nợ công. Theo các định nghĩa chuẩn
quốc tế đã được đưa ra trong “Thống kê Nợ Nước ngoài: Hướng dẫn tập hợp và sử
dụng” do Nhóm công tác liên ngành của IMF chủ trì xuất bản tháng 6/2003: Nợ
công được định nghĩa là "các nghĩa vụ nợ của khu vực công.”Các nghĩa vụ nợ của
khu vực công đã được xác định trong Cẩm nang Hệ thống Báo cáo Bên nợ WB,

xuất bản tháng 1/2000 bao gồm nợ của Chính phủ Trung ương và các bộ ban ngành;
nợ của các cơ quan chính trị cấp dưới như tỉnh, huyện, và các thành phố trực thuộc
TW; nợ của Ngân hàng Nhà nước; và nợ của các thể chế tự quản.
Trong đó các thể chế tự quản ví dụ như các doanh nghiệp nhà nước, các
ngân hàng phát triển…Các thể chế tự quản này phải đáp ứng một trong 3 điều kiện:
ngân sách của thể chế đó phải được Chính phủ phê duyệt; hoặc Chính phủ sở hữu
trên 50% cổ phần ưu đãi hay có đại diện trong hội đồng cổ đông; hoặc trong trường
hợp phá sản, Chính phủ sẽ phải chịu trách nhiệm với khoản nợ của thể chế đó. Vì
vậy về nguyên tắc luật pháp, trong trường hợp doanh nghiệp Nhà nước là công ty
trách nhiệm hữu hạn, thì khi phá sản, người chủ sở hữu không chịu trách nhiệm gì
về nợ nần của các công ty này ngoài tài sản đã góp.
Nợ công bao gồm nợ trong nước và nợ nước ngoài của khu vực công. Trong
đó “nợ Chính phủ Trung ương” khác với "nợ Chính phủ". “Nợ Chính phủ” là nói về
bất kỳ đối tượng nào, trong đó nợ mang đầy đủ cam kết và bảo lãnh của các cấp
6
chính quyền. “Nợ Chính phủ Trung ương” nói về các công nợ được Chính phủ
Trung ương phát hành trực tiếp.
Ở đầy cũng cần chỉ rõ mối quan hệ giữa nợ công và nợ quốc gia. Nợ quốc
gia được hiểu là tổng nợ nước ngoài của quốc gia. Tổng nợ nước ngoài được định
nghĩa là số dư nợ của các công nợ thường xuyên thực tế, không phải công nợ bất
thường đòi hỏi một bên nợ phải thanh toán gốc và lãi tại một số thời điểm trong
tương lai, do đối tượng cư trú tại một nền kinh tế nợ đối tượng không cư trú.
Nợ nước ngoài của quốc gia là số dư của mọi nghĩa vụ nợ hiện hành (không
bao gồm nghĩa vụ nợ dự phòng) về trả gốc và lãi tại một thời điểm của các khoản
vay nước ngoài của một quốc gia. Nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm: nợ nước
ngoài của khu vực công và nợ nước ngoài của khu vực tư nhân.
Như vậy nợ công không phải là một bộ phận của nợ quốc gia, mà có mối
quan hệ chặt chẽ với nợ quốc gia thông qua phần nợ nước ngoài của khu vực công.
Hình 1.1 Phân biệt nợ công và nợ quốc gia
Nợ nước ngoài của khu vực công: bao gồm nợ nước ngoài của Chính phủ

Trung ương, nợ nước ngoài (nếu có) của chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, nợ nước ngoài của các Doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức tài chính,
tín dụng nhà nước và các tổ chức kinh tế nhà nước (sau đây gọi tắt là doanh nghiệp
nhà nước) trực tiếp vay nước ngoài.
Nợ nước ngoài
của khu vực công Nợ trong nước
của khu vực
công
Nợ nước ngoài của
Khu vực tư nhân
Nợ quốc gia
Nợ công
7
Nợ nước ngoài của Chính phủ: là số dư mọi nghĩa vụ nợ hiện hành (không
bao gồm nghĩa vụ nợ dự phòng) về trả gốc và lãi tại một thời điểm của các khoản
vay nước ngoài của Chính phủ.
Như vậy nợ nước ngoài của Chính phủ không bao gồm nghĩa vụ nợ dự
phòng hay không bao gồm các nghĩa vụ nợ chỉ phát sinh khi xảy ra một hoặc một
vài điều kiện xác định trước; nói cách khác đây chính là những khoản nợ được
Chính phủ bảo lãnh, trong trường hợp đối tượng đi vay không trả được nợ, Chính
phủ sẽ phải trả.
1.1.2 Phân loại nợ nước ngoài của Chính phủ
1.1.2.1 Theo chủ thể cho vay
Nợ nước ngoài của Chính phủ phân loại theo chủ thể cho vay có thể chia
thành nợ đa phương và nợ song phương.
Nợ đa phương
Nợ đa phương là các khoản vay với chủ nợ đa phương. Chủ nợ này là các tổ
chức đa phương hay các tổ chức quốc tế, nhưng không phải là tổ chức quốc tế thay
mặt cho một Chính phủ tài trợ riêng lẻ thông qua quỹ mà tổ chức đó quản lý. Chủ
nợ đa phương bao gồm:

- Các định chế tài chính quốc tế và các quỹ: nhóm Ngân hàng Thế giới
(WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng
Đầu tư Bắc Âu (NIB), Quỹ Phát triển Bắc Âu (NDF), Quỹ Phát triển quốc tế của
các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC (OFID - trước đây là Quỹ OPEC), Quỹ Kuwait.
- Các tổ chức quốc tế và liên Chính phủ: Ủy ban châu Âu (EC), Cao uỷ Liên
hợp quốc về người tỵ nạn (UNHCR), Quỹ Dân số của Liên hợp quốc (UNFPA),
Chương trình Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO), Chương trình
Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về
HIV/AIDS (UNAIDS), Cơ quan Phòng chống ma tuý và tội phạm của Liên hợp
quốc (UNODC), Quỹ Đầu tư Phát triển của Liên hợp quốc (UNCDF), Quỹ môi
trường toàn cầu (GEF), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Quỹ Quốc tế và
8
Phát triển nông nghiệp (IFAD), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên
hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Tổ chức Nông nghiệp và
Lương thực (FAO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO).
Nợ song phương
Nợ song phương là các khoản nợ mà nguồn vốn tài trợ được cấp bởi một
Chính phủ hoặc cơ quan của Chính phủ nước ngoài (bao gồm cả ngân hàng trung
ương), một tổ chức thuộc khu vực công hoặc một cơ quan tín dụng xuất khẩu. Chủ
nợ thường là Chính phủ một quốc gia riêng biệt thuộc tổ chức OECD hay một quốc
gia khác, hoặc đến từ một tổ chức quốc tế đại diện cho một Chính phủ duy nhất
dưới dạng hỗ trợ tài chính cho một quốc gia nào đó bằng các khoản vay ưu đãi.
Ngoài ra còn có các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ với chủ nợ là tư
nhân - những chủ nợ không phải là Chính phủ và các tổ chức thuộc khu vực công.
Các chủ nợ tư nhân bao gồm các tổ chức tài chính tư nhân, các nhà sản xuất, nhà
xuất khẩu và các nhà cung cấp các hàng hóa khác có khả năng tài chính.
1.1.2.2 Theo tính chất của các khoản vay nợ
Theo tính chất của các khoản vay hay điều kiện tín dụng có thể chia thành
các khoản vay nợ ưu đãi và vay thương mại.
Các khoản vay nợ ưu đãi

Vay nợ ưu đãi là khoản vay nợ được thực hiện theo các điều khoản thuận lợi
hơn so với các khoản vay trên thị trường. Tính ưu đãi thể hiện ở mức lãi suất cho
vay thấp hơn so với mức lãi suất hiện hành trên thị trường hoặc thời gian ân hạn dài
hơn; hoặc kết hợp cả lãi suất và thời gian ân hạn.
Vay ưu đãi là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các tổ chức liên chính
phủ, các tổ chức quốc tế cung cấp cho chính phủ của một nước nhằm thực hiện các
chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội. Các khoản vay nợ nước ngoài ưu đãi
bao gồm các khoản vay ODA và các khoản vay điều kiện ưu đãi nhưng thành tố ưu
đãi không đạt tiêu chuẩn của vay ODA. Đối với các nước đang phát triển hiện nay
các khoản vay ưu đãi chủ yếu là nguồn vốn phát triển chính thức ODA.
9
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là dòng vốn tài trợ chính thức với mục
đích chính là phát triển nền kinh tế cho các quốc gia và có yếu tố không hoàn lại ít
nhất là 25%. Thành tố hỗ trợ, còn được gọi là yếu tố không hoàn lại là một chỉ số
biểu hiện tính “ưu đãi” của ODA so với các khoản vay thương mại theo điều kiện
thị trường. Thành tố hỗ trợ càng cao càng thuận lợi cho nước tiếp nhận. Chỉ tiêu này
được xác định dựa trên tổ hợp các yếu tố đầu vào: Lãi suất, thời gian ân hạn, thời
hạn cho vay, số lần trả nợ trong năm, và tỷ lệ chiết khấu.
Viện trợ của Hoa Kỳ cho các nước Tây Âu và của Liên Xô cho các nước
XHCN được coi là các khoản ODA đầu tiên. Mặc dù mục tiêu chính của các khoản
viện trợ này là chính trị nhưng chúng cũng đã có tác dụng nhất định giúp các nước
tiếp nhận phát triển KTXH. Đến năm 1960, trước sự đấu tranh mạnh mẽ của các
nước đang và kém phát triển, cộng với nhận thức thay đổi của các nước giàu đối với
sự phát triển của các nước nghèo, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)
thành lập Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC). Uỷ ban này có nhiệm vụ yêu cầu,
khuyến khích và điều phối viện trợ của các nước OECD cho các nước đang và kém
phát triển. Kể từ khi bản báo cáo đầu tiên của DAC ra đời vào năm 1961, thuật ngữ
ODA được chính thức sử dụng, với ý nghĩa là sự trợ giúp có ưu đãi về mặt tài chính
của các nước giàu, các tổ chức quốc tế cho các nước nghèo.
Vốn ODA với đặc tính ưu việt là thời hạn cho vay dài thường là 10 – 30

năm, lãi suất thấp khoảng từ 0,25% đến 2%/năm phù hợp cho các nước đang phát
triển mới có thể tập trung đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế như
đường xá, điện, nước, thuỷ lợi và các hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế để thúc đẩy
tăng trưởng nền kinh. Theo tính toán của các chuyên gia của WB, đối với các nước
đang phát triển có thể chế và chính sách tốt, khi ODA tăng lên 1% GDP thì tốc độ
tăng trưởng tăng thêm 0,5%.
Mặc dù vậy các khoản vay ODA cũng mang lại những bất lợi cho các
nước tiếp nhận. Đó là những ràng buộc về kinh tế và chính trị xã hội khi tiếp
cận với nguồn vốn này.
10
- Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế
quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá
của nước tài trợ; từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng
hoá mới của nước tài trợ; có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước
ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao.
- Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng
thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù
hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Bên nước tài trợ ODA
thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với
chi phí thực tế trên thị trường lao động thế giới. Ví như các dự án ODA trong lĩnh
vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài
thường chiếm đến hơn 90%.
- Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc
biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp
nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hóa, dịch vụ do họ sản xuất.
- Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông
thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước
viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp
dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
- Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải

hoàn lại tăng lên.
Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu
hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu
kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho
hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp có thể
đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần tăng cao.
Vay nợ thương mại
Vay nợ thương mại nước ngoài thường không có ưu đãi về lãi suất và thời
gian ân hạn, nên lãi suất thường cao và thay đổi theo lãi suất của thị trường tài chính
11
quốc tế. Chính vì vậy các khoản vay thương mại chứa đựng những nguy cơ và rủi ro
cao.
Chính phủ có thể phát hành Trái phiếu quốc tế để vay từ các tổ chức, cá nhân
nước ngoài. Thị trường trái phiếu quốc tế là thị trường giao dịch các khoản vốn
thông qua việc mua bán các chứng khoán nợ diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Khi
Chính phủ phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế thì trái phiếu đó được gọi là
trái phiếu quốc tế của Chính phủ. Việc phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường
trái phiếu quốc tế cũng mang lại những lợi thế cho quốc gia phát hành đồng thời
cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, nhất là nguy cơ gây mất an ninh tài chính. Với các
quốc gia đang phát triển mới tiếp cận với kênh huy động vốn này, cần thận trọng,
nghiên cứu và chuẩn bị các yếu tố cần thiết cho việc lập kế hoạch phát hành trái
phiếu nhằm đạt hiệu quả cao.
Ngoài hình thức phát hành trái phiếu quốc tế, Chính phủ còn có thể đi vay
tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế siêu quốc gia (ví dụ: Quỹ
Tiền tệ Quốc tế) Hình thức này thường được Chính phủ của các nước có độ tin
cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái
phiếu chính phủ của họ không cao.
1.1.2.3 Theo thời gian
Nợ nuớc ngoài của chính phủ phân theo thời gian hay thời hạn của các khoản
vay bao gồm nợ ngắn hạn và nợ trung dài hạn.

Nợ ngắn hạn:
Nợ ngắn hạn là loại nợ có thời gian đáo hạn từ 1 năm trở xuống.
Thông thường nợ ngắn hạn chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nợ nước
ngoài của Chính phủ. Điều này xuất phát từ tính chất của các khoản vay nợ nước
ngoài của Chính phủ thường là để bù đắp thiếu hụt ngân sách do chi đầu tư phát
triển vào các dự án, các công trình có quy mô lớn và thời gian đầu tư dài. Vì chiếm
tỷ trọng ít và thời gian đáo hạn ngắn nên các khoản nợ ngắn hạn thường mang đến ít
rủi ro thanh toán. Nhưng nếu những khoản nợ ngắn hạn không thanh toán được có
12
thể dẫn đến những bất ổn cho nền kinh tế, đặc biệt khi nợ ngắn hạn có xu hướng gia
tăng.
Nợ trung hạn và nợ dài hạn
Nợ trung dài hạn là những công nợ có thời gian đáo hạn gốc theo hợp đồng
hoặc đã gia hạn kéo dài trên một năm tính từ ngày ký kết vay nợ cho tới ngày đến
hạn khoản thanh toán cuối cùng. Trong đó,Nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10
năm) và nợ dài hạn (trên 10 năm). Nợ trung và dài hạn là loại nợ được quan tâm
nhiều hơn do khả năng tác động lớn tới nền tài chính quốc gia. Các tổ chức tài chính
quốc tế thường xuyên theo dõi và phân tích nợ dài hạn của tất cả các quốc gia một
cách có hệ thống, tuy nhiên cơ sở dữ liệu này không được công bố rộng rãi ra bên
ngoài.
Ngoài các cách phân loại như trên người ta cũng có thể chia thành các khoản
vay nợ có lãi suất cố định và các khoản vay nợ có lãi suất thả nổi (các khoản nợ mà
chi phí về lãi suất của nó kết nối với một chỉ số tham chiếu như lãi suất liên ngân
hàng của thị trường Luân Đôn LIBOR, hay giá cả của hàng hóa, hoặc là giá của một
công cụ tài chính cụ thể nào đó thường thay đổi theo thời gian do phản ứng lại các
điều kiện của thị trường). Hay cũng có thể phân thành nợ bằng đồng nội tệ hay nợ
bằng ngoại tệ nếu căn cứ vào mệnh giá đồng tiền của các khoản vay nợ.
1.1.3 Vai trò của nợ nước ngoài
1.1.3.1 Nợ nước ngoài đáp ứng các nhu cầu về vốn đầu tư
Để thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội, nhu cầu vốn đầu tư

của các nước đang phát triển rất lớn, vượt quá khả năng đáp ứng của quốc gia.Vay
nợ nước ngoài làm giảm thâm hụt ngân sách, giúp Chính phủ có thêm nguồn tài
chính để đầu tư làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế và thực hiện các mục tiêu kinh
tế xã hội đã đề ra.
Tài trợ qua vay nợ nước ngoài là hình thức đi vay từ các cá nhân hay tổ chức
nước ngoài để Chính phủ trang trải cho các khoản chi tiêu. Những cá nhân hay tổ
chức cho vay thường theo nguyên tắc tự nguyện và đổi lại họ nhận được trái phiếu,
13
các giấy tờ ghi nợ hay các cam kết, trong đó quy định sẽ hoàn trả lại số tiền đã vay
và một phần lãi vào một thời điểm nhất định trong tương lai. Điều này có nghĩa là
các cá nhân và tổ chức nước ngoài đã phải từ bỏ lợi ích tiêu dùng hiện tại để cho
Chính phủ vay. Sau đó trong tương lai Chính phủ tạo nguồn thu mới để trả nợ qua
thuế, thì chính những người dân trong nước sẽ giảm tiêu dùng của mình.
Chính phủ vay nợ để đầu tư cho các công trình hiện tại rồi đánh thuế vào dân
cư trong tương lai khi các công trình này hoàn thành và mang lại lợi ích. Nếu thận
trọng nguồn vay nợ nước ngoài có thể tăng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực trong
nền kinh tế bằng cách gắn liền chi phí qua thuế của dự án đầu tư với lợi ích do
chúng tạo ra.
Như vậy nguồn vốn vay nước ngoài là nguồn lực bổ sung để phát triển kinh
tế khi mà sản xuất trong nước chỉ đủ duy trì ở mức tiêu dùng thấp. Với việc đi vay
nước ngoài, một quốc gia có cơ hội đầu tư phát triển ở mức cao hơn tại thời điểm
hiện tại mà không giảm tiêu dùng trong nước nếu sử dụng hiệu quả đồng vốn đi
vay về.
Nhưng nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải
tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút.
Vì vậy trong dài hạn có thể sẽ ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của sản lượng.
1.1.3.2 Vay nợ nước ngoài bù đắp cán cân thanh toán
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh
toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập
khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng

như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng.
Cán cân thanh toán có thể tạm thời bị thâm hụt do điều kiện bất lợi tạm thời
trong thương mại quốc tế. Chẳng hạn cán cân thương mại phụ thuộc vào chênh lệch
giữa đầu tư và tiết kiệm trong nền kinh tế. Mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư
được bù đắp bởi các dòng vốn đầu tư nước ngoài như FDI và FPI, ODA, kiều hối và
các dòng vốn vay thương mại khác.
Các nước đang phát triển cũng sử dụng hình thức đi vay tín dụng thương
14
mại ngắn hạn để tham gia vào thương mại quốc tế bằng nguồn ngoại tệ hạn
chế. Bằng cách nhận tín dụng thương mại của đối tác, nước đi vay sẽ tránh được
việc phải huy động nguồn ngoại tệ dự trữ của mình để thanh toán cho các
khoản nhập khẩu hàng hoá, các chi phí xuất khẩu hoặc chi phí vận tải. Song, tín
dụng thương mại ngắn hạn thường có lãi suất cao và những rủi ro vì không có gì
chắc chắn rằng các nước đi vay sẽ có thu nhập khá hơn khi đến hạn phải trả nợ.
1.1.3.3 Nợ nước ngoài góp phần chuyển giao công nghệ và nâng cao năng
lực quản lý
Bên cạnh việc dùng các nguồn vốn tự có để nhập khẩu các máy móc, thiết
bị kèm theo chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý, việc vay vốn nước
ngoài góp phần bổ sung thêm nguồn vốn để nhập các máy móc, thiết bị hiện đại,
công nghệ tiên tiến cùng với kỹ năng quản lý nước ngoài.
Các dự án đã góp phần hiện đại hoá nhiều ngành, lĩnh vực, thúc đẩy các
ngành, lĩnh vực khác phát triển theo, tạo ra một lực lượng lao động mới, lao động
kỹ thuật cao và góp phần thúc đẩy hiệu quả của nền kinh tế. Cùng với các dự án
đầu tư là việc chuyển giao kỹ năng quản lý của các chuyên gia nước ngoài cũng
góp phần nâng cao năng lực quản lý của nguồn nhân lực trong nước.
Ngoài các vai trò trên, nợ nước ngoài cũng góp phần ổn định tiêu dùng trong
nước. Khi nền kinh tế gặp những cú shock hay những vấn đề đột biến như thiên tai,
chịu ảnh hưởng từ những cuộc suy thoái mang tính khu vực và toàn cầu khiến cho
nền kinh tế bị thiệt hại nặng nề, sản lượng bị thiếu hụt nặng nề và tiêu dùng trong
nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trong những trường hợp như vậy, bên cạnh

các khoản viện trợ khẩn cấp, các khoản vay nợ nước ngoài khẩn cấp đóng vai
trò là biện pháp ổn định tiêu dùng trong nước trong ngắn hạn, trong khi nền kinh
tế được hồi phục.
1.2 Quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ
Theo cách hiểu chung của cộng đồng tài chính quốc tế “Quản lý nợ nước
ngoài là một phần của công tác quản lý nền kinh tế vĩ mô. Nó bao gồm việc hoạch
15
định, triển khai, duy trì và từ bỏ các khoản nợ nước ngoài để tạo điều kiện thuận
lợi cho tăng trưởng kinh tế, giám sát tình trạng đói nghèo và tiếp tục duy trì sự phát
triển mà không tạo ra những khó khăn trong thanh toán”.
Quản lý nợ nước ngoài không đơn thuần là vay và trả mà là vay và trả sao
cho đảm bảo nguồn vốn cho phát triển kinh tế và tương xứng với khả năng thanh
toán của nền kinh tế.
Để quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ có hiệu quả đầu tiên cần phải có
một khung thể chế hoàn thiện và tổ chức bộ máy quản lý nợ nước ngoài của Chính
phủ phù hợp.
1.2.1 Khung thể chế và tổ chức bộ máy quản lý nợ nước ngoài của Chính
phủ
Vấn đề đầu tiên của công tác quản lý nợ nước ngoài của chính phủ là phải
xây dựng được một khuôn khổ pháp lý và thể chế, trong đó có phân định rõ trách
nhiệm và quyền hạn của các cơ quan chức năng được ủy quyền thay mặt chính phủ
trong việc vay, trả nợ và thực hiện các giao dịch tài chính như cho vay lại.
Khung thể chế bao gồm một hệ thống các quy định riêng cho việc vay nợ
nước ngoài của Chính phủ bao gồm luật, nghị định, các chính sách thủ tục…Hệ
thống các văn bản pháp luật nhất thiết phải nhất quán và đồng bộ để thuận tiện cho
công tác quản lý.
Tổ chức bộ máy quản lý nợ nước ngoài cũng là một nội dung không kém
phần quan trọng trong công tác quản lý nợ nước ngoài của chính phủ.
Trước hết các cơ quan lập pháp, chịu trách nhiệm thông qua các văn bản luật
quy định chung về vay nợ nước ngoài và hạn mức vay nợ nước ngoài. Tiếp theo là

các cơ quan hành pháp chịu trách nhiệm triển khai các nội dung quản lý nợ. Thông
thường ở các nước Bộ tài chính sẽ chịu trách nhiệm chính về quản lý nợ. Và cuối
cùng là Cơ quan quản lý nợ thực hiện chức năng ghi sổ sách về nợ, đàm phán thực
hiện các khoản vay và giám sát các khoản vay nợ.
16
Trên thế giới, cơ quan quản lý nợ này có thể là một bộ phận trực thuộc Bộ tài
chính hay cũng có thể thuộc NHTW. Hoặc cơ quan quản lý nợ tách thành các bộ
phận đảm nhận những nghiệp vụ riêng thuộc cả Bộ tài chính và NHTW.
Ở Anh thì Ngân hàng Trung ương quản lý nợ nước ngoài.
Tại New Zealand cơ quan quản lý nợ (NZDMO) là một phần của Bộ phận
Quản lý tài sản và công nợ (ALM) và nghiệp vụ của nó nằm trong phạm vi tổng thể
của Bộ tài chính.
Ở Indonesia Vì Bộ Tài chính không có đủ năng lực và thị trường, Pusat
Manajemen Obligasi Negara (PMON) được thiết lập làm Trung tâm Quản lý Trái
phiếu Chính phủ. Bộ Tài chính giữ lại Vụ Tài chính Đối ngoại để tiếp tục quản lý
các khoản vay song phương và đa phương, còn PMON chịu trách nhiệm với nợ
trong nước và nợ nước ngoài phát hành qua chứng khoán trên cơ sở thị trường.
Như vậy tùy theo tổ chức bộ máy và điều kiện của mình mà mỗi quốc gia sẽ
lựa chọn xây dựng cơ quan quản lý nợ nước ngoài khác nhau. Tuy nhiên bộ phận
quản lý Nợ nước ngoài của Chính phủ nhưng có thể chia bộ máy quản lý ra thành 3
nhóm: Nhóm huy động và giao dịch nợ nước ngoài; nhóm chính sách rủi ro và tuân
thủ; nhóm hạch toán và trả nợ nước ngoài.
Nhóm Huy động giao dịch nợ nước ngoài sẽ chịu trách nhiệm về huy động
và quản lý mọi giao dịch liên quan đến vay nợ nước ngoài dựa trên kế hoạch vay
mượn đã được phê duyệt. Nhóm này cũng có trách nhiệm xử lý các nghiệp vụ bảo
lãnh, tự bảo hiểm và các giao dịch phái sinh của Chính phủ; Hay nói cách khác
trách nhiệm này cũng bao gồm các giao dịch liên quan đến quản lý tổng thể về quỹ
và luồng tiền, tài chính dự án, cho vay lại và bảo lãnh Chính phủ.
Nhóm Chính sách rủi ro và tuân thủ sẽ chịu trách nhiệm thiết lập khuôn khổ
quản lý nợ - độc lập với nhóm Huy động và giao dịch nợ nước ngoài – và chiến

lược quản lý rủi ro, đồng thời đảm bảo sự tuân thủ theo các Luật, Nghị định, chiến
lược nợ, chính sách và hạn mức nợ. Các trách nhiệm này cũng có thể bao gồm soạn
thảo các văn bản pháp luật, tài liệu công bố và báo cáo, và hệ thống thông tin, tuy
hệ thống này thường được đặt tại nhóm Hạch toán và dịch vụ nợ (Trả nợ). Nói
17
chung bộ phận này sẽ phải thực hiện phân tích danh mục, xây dựng các tình huống
vay mượn và so sánh những chỉ số nợ phát sinh với các mốc chuẩn đã được nhất trí.
Công việc này cho phép có thể ước tính các mức vay mượn cho bền vững, và lập kế
hoạch, chính sách vay mượn nợ nước ngoài cho khu vực công. Hỗ trợ bộ phận huy
động và giao dịch nợ xây dựng một chiến lược để triển khai kế hoạch vay mượn qua
huy động nguồn lực từ nước ngoài.
Nhóm Hạch toán và trả nợ sẽ chịu trách nhiệm đảm bảo thanh toán cho mọi
giao dịch và hệ thống thông tin, quản lý số dư tài khoản và/hoặc tài khoản quản lý
nợ, duy trì các sổ sách ghi chép kế toán hoặc tài chính, và dự báo mức nợ và chi phí
trả nợ. Bộ phận này sẽ thực hiện các khoản thanh toán trả nợ dựa trên hóa đơn của
chủ nợ đợc kiểm tra chéo với cơ sở dữ liệu của chính mình, chịu trách nhiệm về
giám sát các hoạt động bảo lãnh và cho vay lại của Chính phủ, lập các báo cáo kế
toán và báo cáo khác theo yêu cầu của Chính phủ và chủ nợ.
Ngoài ra có một nhóm pháp chế có nhiệm vụ chính là hỗ trợ các hoạt động
vay mượn và thanh toán liên quan đến cả ba nhóm trên. Vì lợi ích minh bạch và
trách nhiệm giải trình, các bộ phận này phải tương tác với nhau và thực hiện kiểm
tra đối chiếu số dư với nhau.
Hình 1.2 Sơ đồ hệ thống cơ quan quán lý nợ nước ngoài
18
Trưởng bộ phận quản lý nợ
nước ngoài
Các giao dịch và huy động
nợ nước ngoài
Chính sách rủi ro và tuân
thủ

Hạch toán và trả nợ
Thanh to¸n
Huy động nợ nước ngoài Các chính sách và rủi ro
Quản lý quỹ và luồng tiền
Vay lại và bảo lãnh
Hạn mức vay nợ nước
ngoài
C¸c HÖ thèng, b¸o c¸o
C¸c Tµi kho¶n
Ng©n hµng
H¹ch to¸n &
Dù b¸o
1.2.2 Nội dung quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ
Chính phủ thống nhất quản lý toàn diện nợ nước ngoài từ việc huy động, tiếp
nhận, phân bổ sử dụng, quản lý, theo dõi và giám sát. Vì vậy nội dung quản lý nợ
nước ngoài của Chính phủ bao gồm việc xây dựng và thực thi chiến lược và kế
hoạch vay trả nợ, cùng với việc đánh giá và giám sát các khoản nợ nước ngoài đó.
1.2.2.1 Xây dựng và thực thi chiến lược, kế hoạch vay trả nợ nước ngoài của
chính phủ
Khâu đầu tiên và quan trọng nhất trong Quy trình quản lý nợ nước ngoài của
Chính phủ chính là phải xây dựng được Chiến lược nợ dài hạn, Chương trình quản
lý nợ trung hạn và Kế hoạch hàng năm về vay, trả nợ nước ngoài của quốc gia; cùng
với các chính sách, chế độ phù hợp và phân công trách nhiệm quản lý giữa các cơ
quan quản lý nhà nước
Xây dựng và thực thi chiến lược vay trả nợ nước ngoài
Chiến lược vay trả nợ nước ngoài đánh giá thực trạng nợ nước ngoài, tình
hình và công tác quản lý nợ nước ngoài. Từ đó đưa ra mục tiêu, định hướng và hệ
thống các chỉ tiêu về vay và trả nợ nước ngoài của quốc gia và phân theo khu vực
kinh tế. Đồng thời một chiến lược nợ cũng đưa ra các giải pháp, chính sách đối với
quản lý nợ nước ngoài của quốc gia và tổ chức thực hiện. Chiến lược vay trả nợ

nước ngoài thường được xây dựng cho giai đoạn 10 năm phù hợp với chiến lược
phát triển kinh tế xã hội của quốc gia.
Chiến lược vay trả nợ nước ngoài nằm trong chiến lược nợ công tổng thể.
Cách tốt nhất để xây dựng chiến lược nợ phải xuất phát từ Khuôn khổ Tài khóa
Trung hạn (MTFF). Để xây dựng chiến lược nợ, cần phải phân tích về nợ của Chính
phủ và những rủi ro liên quan là đầu vào cho MTFF. Phân tích này bao gồm xem
xét các mức nợ, các chi phí trả nợ và khả năng chênh lệch do biến động về tỷ giá và
lãi suất, khả năng bền vững nợ, khả năng biến động bất lợi bên ngoài, các rủi ro tài
khóa liên quan đến nợ công, tác động tài khóa tiềm tàng và chi phí trả nợ khi phải
thực hiện bảo lãnh Chính phủ hay các công nợ bất thường, chương trình huy động
19
cho nm ti khúa. Hu ht cỏc phõn tớch v u vo ny s do cỏc nh qun lý n
Chớnh ph thc hin lm u vo cho MTFF. Chin lc n s c xõy dng trong
khuụn kh MTFF , do ú tr thnh u ra ca MTFF v cng l c s ca nhim v
c giao cho cỏc nh qun lý n Chớnh ph.
Chi phớ v ri ro v nhng ni dung chớnh khi tin hnh xõy dng chin lc
n. Xõy dng mt chin lc n no cng phi cõn nhc c tt c cỏc yu t nh:
- Cỏc bin phỏp qun lý n lm mộo mú cỏc quyt nh ca Chớnh ph, t
nhõn khi c tớnh khụng y chi phớ lói sut thc.
- Bỏo cỏo khụng chớnh xỏc v cỏc cụng n bt thng hoc cụng n bo
lónh, vi c tớnh khụng y v mc n thc t ca Chớnh ph.
- S dng cỏc kờnh ti tr phi th trng.
- Ch o hoc ghi chộp khụng hp lý v tham gia ký kt n v thanh toỏn,
v giỏm sỏt khụng y v cỏc bờn nm gi n.
Hỡnh 1.3 Quy trỡnh xõy dng chin lc qun lý n nc ngoi ca Chớnh ph
Khuôn khổ
Tài khóa
Trung hạn
Chiến l ợc
Nợ

Khuôn khổ
Chi tiêu
Trung hạn
Dự báo
Hàng tháng,
Hàng tuần,
& Hàng ngày
Các chính sách nợ
& huy động của CP
Quản lý Quỹ &
Luồng tiền
Chiến l ợc Nợ quốc gia
Khả năng bền vững nợ
Khả năng biến động
bên ngoài
Các chi phí/ mức nợ
Các rủi ro tài khóa
Bảo lãnh chính phủ
Các công nợ bất th ờng
Chỉnh sửa theo k
Ngân sách năm bao gồm cả
Các chi phí trả nợ
Thực hiện
Ngân sách
20
Như vậy chúng ta cũng có thể xây dựng một chiến lược nợ nước ngoài theo
quy trình xây dựng chiến lược nợ của Chính phủ. Bên cạnh đó trong việc xây dựng
chiến lược nợ nước ngoài của Chính phủ cũng cần phải xem xét đến chu trình nợ
nước ngoài. Các nước vay nợ thường trải qua các giai đoạn khác nhau, trong đó nợ
nước ngoài được tích tụ, tăng dần trong thời gian đầu và giảm dần khi việc đầu tư

trong nước đạt được hiệu quả và tạo nguồn tích lũy.
Hình 1.4 Sơ đồ các giai đoạn vay nợ của một quốc gia
Có thể thấy rằng trong tất cả các giai đoạn vay nợ tỷ lệ xuất khẩu và nợ nước
ngoài luôn đóng vai trò là một chỉ báo quan trọng về tình hình vay nợ của quốc gia.
Nếu tỷ lệ giữa nợ nước ngoài trên xuất khẩu giảm dần thì mặc dù tỷ lệ nợ nước
ngoài cao nhưng nợ nước ngoài vẫn được kiểm soát vì xuất khẩu gia tăng cho phép
quốc gia vay nợ đảm bảo khả năng thanh toán. Mỗi quốc gia đi vay cần nhận thức
được các giai đoạn này cũng như các nguy cơ tiềm ẩn trong mỗi giai đoạn để có thể
xây dựng được một chiến lược nợ phù hợp.
Xây dựng và thực thi chương trình quản lý nợ trung hạn
Chương trình quản lý nợ trung hạn cụ thể hóa nội dung chiến lược nợ dài hạn
cho giai đoạn từ 3 đến 5 năm và cập nhật từng năm, phù hợp với khuôn khổ chính
Giai đoạn nước
vay nợ trưởng
thành:
- Thiếu hụt
ngoại thương
giảm
- Tốc độ tăng
nợ nước ngoài
có xu hướng
giảm nhưng
lượng nợ nước
ngoài tích tụ lại
khá lớn
Giai đoạn trả
nợ:
- Tiết kiệm
trong nước gia
tăng; dư thừa

ngoại thương
- Lượng nợ
nước ngoài
giảm dần
Giai đoạn nước
cho vay nợ trẻ
- Dư thừa
ngoại thương
giảm dần rồi
chuyển sang
thiếu hụt
-Dòng tiền trả
lãi nợ giảm dần
chuyển thành
dòng thu lãi
Giai đoạn nước
cho vay trưởng
thành:
-Cán cân ngoại
thương thiếu
hụt
- Dòng vốn cho
vay nước ngoài
tăng lên với tốc
độ giảm dần
Giai đoạn
nước vay
nợ trẻ:
-Thiếu hụt
ngoại

thương
-Nợ nước
ngoài có xu
hướng tăng
dần
21
sách kinh tế, tài chính và với mục tiêu ngân sách trung hạn và hàng năm của Chính
phủ.
Chương trình quản lý nợ trung hạn gồm các nội dung chủ yếu sau: Đánh giá,
dự báo các điều kiện thị trường vốn trong nước và quốc tế, cân đối ngoại tệ, biến
động tỷ giá và lãi suất làm cơ sở điều chỉnh chính sách vay, trả nợ nước ngoài phù
hợp trong từng thời kỳ; Cân đối nhu cầu vay vốn nước ngoài cho bù đắp thâm hụt
ngân sách và cho đầu tư phát triển trên cơ sở cân đối với các nguồn huy động vay
trong nước; Phương án huy động vốn vay nước ngoài của khu vực công: cơ cấu
nguồn vay dự kiến (theo các điều kiện vay ưu đãi, vay thương mại, người cho vay,
thị trường, đồng tiền vay, kỳ hạn và lãi suất bình quân theo các điều kiện vay), cơ
chế sử dụng vốn vay (cấp phát, cho vay lại); Dự báo huy động vốn vay từ nước
ngoài của khu vực tư nhân trong giai đoạn trung hạn (từ 3 đến 5 năm) và từng năm;
Đánh giá, dự báo biến động danh mục nợ của khu vực công (đồng tiền, lãi suất bình
quân, kỳ hạn bình quân, các rủi ro về tỉ giá) và tình trạng nợ của quốc gia trong giai
đoạn trung hạn (từ 3 đến 5 năm) và từng năm; và đề xuất các giải pháp và các
phương án xử lý nợ hoặc cơ cấu lại danh mục nợ cần thiết của khu vực công nhằm
xử lý các khoản nợ xấu và giảm nhẹ nghĩa vụ nợ.
Xây dựng và thực thi kế hoạch vay và trả nợ nước ngoài hàng năm.
Kế hoạch hàng năm về vay và trả nợ nước ngoài được xây dựng hàng năm
bao gồm kế hoạch rút vốn vay và trả nợ của Chính phủ và nợ của các doanh nghiệp,
tổ chức thuộc khu vực công và tổng hạn mức vay thương mại nước ngoài của quốc
gia.
Kế hoạch hàng năm về vay và trả nợ nước ngoài gồm các nội dung chủ yếu
sau: Tình hình thực hiện vay và trả nợ nước ngoài hàng năm của quốc gia, phân tích

thực trạng nợ quốc gia theo các chuẩn mực quốc tế, đánh giá rủi ro và mức độ các
nghĩa vụ nợ dự phòng của ngân sách nhà nước; Kế hoạch rút vốn vay và trả nợ
nước ngoài của khu vực công, bao gồm: nợ Chính phủ, nợ của các doanh nghiệp, tổ
chức thuộc khu vực công; Tổng hạn mức vay thương mại nước ngoài của quốc gia,
22
bao gồm hạn mức vay nước ngoài của khu vực công và dự báo mức vay nước ngoài
của khu vực tư nhân.
1.2.2.2 Giám sát nợ nước ngoài của Chính phủ
Một trong những mục tiêu quan trọng trong hoạt động quản lý nợ nước ngoài
là phải sử dụng có hiệu quả nguồn vay nợ nước ngoài, khai thác những tác động
tích cực và hạn chế tác động tiêu cực, đảm bảo khả năng trả nợ. Nếu sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn vay nợ nước ngoài, bảo đảm khả năng trả nợ thì dù vay nợ
nhiều vẫn tốt. Tuy nhiên, đó chỉ là lý thuyết, thực tiễn biến động không ngừng, vay
nợ nước ngoài có tính chất đòn bẩy cao nhưng nếu sử dụng không hiệu quả thì gánh
nặng nợ nần tăng lên rất nhanh Vì vậy cần phải đưa ra các chỉ tiêu để giám sát các
khoản vay nợ nước ngoài và đánh giá năng lực trả nợ nước ngoài, cũng như phân
tích về tính bền vững của các khoản vay nợ nước ngoài.
Các chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ nước ngoài của Chính phủ
Mức nợ tích lũy tại thời điểm xem xét là kết quả của chính sách vay nợ nước
ngoài trong quá khứ. Mức nợ tích lũy cao hay chính là gánh nặng nợ nước ngoài
của chính phủ có nguy cơ làm mất ổn định kinh tế hay không, xuất phát từ việc phải
gia tăng gánh nặng thuế để có được nguồn trả nợ, cắt giảm đầu tư
Có thể xác định mức độ nợ thông qua một số chỉ số như: nợ nước ngoài của
Chính phủ/ GDP; Nợ nước ngoài của chính phủ/ Xuất khẩu; Nợ nước ngoài của
Chính phủ/ Thu NSNN và Trả nợ nước ngoài của Chính phủ hàng năm/ thu NSNN.
- Tổng nợ nước ngoài của Chính phủ/Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá
dịch vụ thể hiện khả năng hoàn trả nợ. Xuất phát từ việc nguồn thu xuất khẩu hàng
hoá và dịch vụ là phương tiện có thể sử dụng để trả nợ nước ngoài. Khó khăn khi
sử dụng chỉ tiêu này là nguồn thu xuất khẩu dễ biến động từ năm này sang năm
khác.

- Tỷ lệ nợ nước ngoài của Chính phủ /GDP: Đây là chỉ tiêu đánh giá khả
năng trả nợ thông qua tổng sản phẩm quốc nội được tạo ra. Nói cách khác,
nó phản ánh khả năng hấp thụ vốn vay nước ngoài. Thường các nước đang phát
23
triển thường đánh giá cao giá trị đồng nội tệ hoặc sử dụng chế độ đa tỷ giá dẫn tới
làm giảm tình trạng trầm trọng của nợ. Do vậy, mức độ nợ có thể không được đánh
giá đúng mức.
- Tổng nợ nước ngoài của Chính phủ/ Thu NSNN: Đây cũng là một chỉ tiêu
phản ánh khả năng trả nợ nước ngoài của Chính phủ thông qua các nguồn thu từ
năng lực sản xuất của nền kinh tế.
- Trả nợ nước ngoài của Chính phủ hàng năm/ Tổng kim ngạch xuất khẩu:
Còn gọi là tỷ lệ trả lãi hay tỷ lệ giữa tổng lãi phải trả so với kim ngạch xuất
khẩu. Chính phủ phải thanh toán lãi với mức lãi suất được quy định trong cam kết
cho vay, thông thường lãi này được trích từ thu nhập xuất khẩu. Một chính phủ
mắc nợ trong quá khứ thì hiện tại và tương lai họ sẽ trích thu nhập từ xuất khẩu
càng nhiều, hạn chế khối lượng ngoại tệ dành cho nhập khẩu. Đây là chỉ tiêu tốt
nhất để đánh giá nợ vì không đề cập đến gánh nặng nợ mà còn chỉ ra chi phí vay
nợ, điều này ngầm hiểu như hiệu quả sử dụng vốn vay có cao hơn chi phí lãi vay
hay không.
Hiện nay không có một tài liệu chính thống nào đưa ra ngưỡng an toàn của
các chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ nước ngoài của chính phủ. Nhưng phân tích biến
động của các chỉ số này theo thời gian và mối quan hệ của nợ nước ngoài của chính
phủ với tổng nợ nước ngoài của quốc gia để đưa ra những nhận định và dự báo hợp
lý cho hạn mức vay nợ nước ngoài của Chính phủ trong tương lai.
Bảng 1.1 Các chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ của các quốc gia
Đơn vị: %
Mức độ Nợ/GNI Nợ/XK
Chi phí trả
nợ/XK
Chi phí trả

nợ/GNI
Nợ quá nhiều >50 >275 >30 >4
Nợ vừa phải 30 - 50 165 - 275 18 - 30 4
Nợ ít <30 <165 <18 <4
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Ngoài ra mức độ nợ nước ngoài của Chính phủ cũng có ảnh hưởng lớn đến
tính bền vững của nợ nước ngoài.
24
Tính bền vững của nợ là khái niệm dùng để chỉ trạng thái nợ của một quốc
gia tại đó nước vay nợ có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ trả nợ- cả vốn gốc lẫn lãi-
một cách đầy đủ, không phải nhờ đến biện pháp miễn giảm hoặc cơ cấu lại nợ nào
cũng như không bị tình trạng tích tụ các khoản nợ chậm trả đồng thời vẫn cho phép
nèn kinh tế đạt được một tỷ lệ tăng trưởng chấp nhận được.
Hiện nay để đánh gia tính bền vững của nợ nước ngoài một số chuyên gia
nghiên cứu cũng sử dụng mô hình Jaim de Pines. Mô hình Jaim de Pines cho phép
tính toán động và mô phỏng nợ có bền vững hay không.
Trong đó, nợ phụ thuộc vào bốn chỉ số: tỷ lệ nợ trên xuất khẩu và tỷ lệ nhập
khẩu trên xuất khẩu ở thời điểm ban đầu, tỷ lệ lãi suất trên xuất khẩu và tỷ lệ tăng
trưởng nhập khẩu trên tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu. Mô hình bắt đầu đồng nhất thức
nợ giữa hai giai đoạn.
Trong đó là nợ ở thời điểm t;
là nợ ở thời điểm t–1;
CA là tài khoản vãng lai tại thời điểm t.
Thêm và bớt khoản dịch vụ nợ (i là lãi suất) vào đồng nhất (1):
(2)
Trong đó và là nhập khẩu và xuất khẩu.
Chia hai vế phương trình (2) cho , trong đó là mức
tăng trưởng xuất khẩu.
(3)
Trong đó gm

t
là mức tăng trưởng nhập khẩu.
25

×