Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Khảo sát nhu cầu tư vấn của bệnh nhân và hoạt động tư vấn sử dụng thuốc tại phòng cấp phát thuốc bảo hiểm y tế, bệnh viện bạch mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.84 MB, 78 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI


NGUYỄN THỊ THẢO

KHẢO SÁT NHU CẦU TƯ VẤN
CỦA BỆNH NHÂN VÀ HOẠT ĐỘNG
TƯ VẤN SỬ DỤNG THUỐC
TẠI PHÒNG CẤP PHÁT THUỐC
BẢO HIỂM Y TẾ
BỆNH VIỆN BẠCH MAI


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƯỢC SĨ

HÀ NỘI-2013
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THẢO

KHẢO SÁT NHU CẦU TƯ VẤN
CỦA BỆNH NHÂN VÀ HOẠT ĐỘNG
TƯ VẤN SỬ DỤNG THUỐC
TẠI PHÒNG CẤP PHÁT THUỐC
BẢO HIỂM Y TẾ
BỆNH VIỆN BẠCH MAI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƯỢC SĨ
Người hướng dẫn:


1. ThS. Trịnh Trung Hiếu
2. ThS. Hoàng Hà Phương
Nơi thực hiện:
Phòng cấp phát thuốc Bảo hiểm y tế
bệnh viện Bạch Mai

HÀ NỘI-2013
Lời cảm ơn
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới hai người
thầy: ThS. Trịnh Trung Hiếu và ThS. Hoàng Hà Phương – giảng viên Bộ môn
Dược Lâm Sàng – trường Đại học Dược Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và
động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn DSCK II. Nguyễn Thị Hồng Thủy – Trưởng khoa
Dược Bệnh viện Bạch Mai, ThS. Lê Vân Anh và các dược sĩ làm việc tại phòng tư
vấn sử dụng thuốc bệnh viện Bạch Mai đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình thực hiện nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo và các dược sĩ, cán bộ công nhân
viên khoa Dược Bệnh viện Bạch Mai đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành
nghiên cứu này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô – Bộ môn Dược
lâm sàng – trường Đại học Dược Hà Nội – là những người thầy đã chia sẻ và giải
đáp các vướng mắc của tôi trong suốt quá trình làm khóa luận.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trường Đại học Dược Hà Nội –
những người thầy đã dìu dắt tôi suốt 5 năm học vừa qua.
Cuối cùng, tôi muốn gửi lời cảm ơn tới bố mẹ, gia đình, người thân và bạn
bè, những người đã luôn sát cánh động viên và giúp đỡ tôi vượt qua những lúc khó
khăn nhất trong học tập và quá trình hoàn thành khóa luận.
Hà nội, ngày 21 tháng 05 năm 2013
Sinh viên


Nguyễn Thị Thảo


MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục bảng
Danh mục hình
Danh mục đối chiếu Anh – Việt
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN 3
1.1 Khái niệm và các mô hình tư vấn bệnh nhân 3
1.1.1 Các định nghĩa về tư vấn bệnh nhân 3
1.1.2 Các mô hình tư vấn bệnh nhân 4
1.2 Mục tiêu của tư vấn bệnh nhân 6
1.2.1 Mục tiêu giáo dục bệnh nhân 6
1.2.2 Mục tiêu hỗ trợ bệnh nhân 6
1.3 Các cách tiếp cận của bệnh nhân trong quá trình tư vấn bệnh nhân 7
1.3.1 Tuân thủ (Compliance) 8
1.3.2 Đồng thuận (Concordance) 11
1.4 Lợi ích của việc tư vấn bệnh nhân 12
1.4.1 Lợi ích đối với bệnh nhân 12
1.4.2 Lợi ích của đối với dược sĩ 13
1.5 Vai trò của dược sĩ trong tư vấn bệnh nhân 13
1.5.1 Vai trò của dược sĩ 13
1.5.2 Thách thức đối với tư vấn bệnh nhân 14
1.6 Nội dung của tư vấn bệnh nhân 15
1.6.1 Hoàn cảnh tư vấn 15

1.6.2 Các nội dung trong quá trình tư vấn 15
1.6.3 Kĩ thuật tư vấn 20
1.6.4 Kĩ năng giao tiếp trong tư vấn bệnh nhân 21
1.6.5 Tư vấn bệnh nhân tập trung vào bệnh mãn tính 22
1.7 Công tác tư vấn sử dụng thuốc ở bệnh viện Bạch Mai 22
CHƯƠNG II: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25
2.1 Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 25
2.1.1 Khảo sát nhận thức và nhu cầu được tư vấn của bệnh nhân BHYT
ngoại trú 25
2.1.2 Khảo sát tình hình tư vấn sử dụng thuốc tại phòng cấp phát thuốc
BHYT 26
2.1.3 Khảo sát mức độ hài lòng của bệnh nhân sau khi được tư vấn 27
2.2 Phương pháp xử lí số liệu 28
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ 29
3.1 Nhận thức và nhu cầu được tư vấn của bệnh nhân 29
3.1.1 Đặc điểm nhân khẩu học của bệnh nhân 29
3.1.2 Nhận thức của bệnh nhân về việc sử dụng thuốc 31
3.1.3 Nhu cầu tư vấn sử dụng thuốc của bệnh nhân 34
3.2 Tình hình tư vấn sử dụng thuốc tại phòng tư vấn 36
3.2.1 Hoạt động tư vấn sử dụng thuốc của dược sĩ 36
3.2.2 Mức độ đáp ứng của dược sĩ với việc tư vấn 39
3.3 Mức độ hài lòng của bệnh nhân sau khi tư vấn 43
CHƯƠNG IV: BÀN LUẬN 45
4.1 Nhận thức và nhu cầu tư vấn của bệnh nhân 45
4.2 Tình hình tư vấn sử dụng thuốc tại phòng tư vấn 50
4.3 Mức độ hài lòng của bệnh nhân sau khi được tư vấn 54
4.4 Một số khó khăn và hạn chế khi thực hiện nghiên cứu 54
CHƯƠNG V: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 56
5.1 Kết luận 56
5.2 Đề xuất 57

Tài liệu tham khảo
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Kí hiệu

Tên đầy đủ
BHYT
:
Bảo hiểm y tế
USP
:
Dược điển Mỹ (United States Pharmacopoeia)
IQR
:
Khoảng tứ phân vị (Interquatile range)
ASHP : Hiệp hội Dược sĩ Mỹ (American Society of Health – System
Pharmacists)




DANH MỤC BẢNG

Bảng Tên bảng Trang
3.1 Thông tin chung của bệnh nhân 30
3.2 Nhận thức của bệnh nhân về việc uống thuốc 31
3.3 Nhận thức của bệnh nhân về tìm hiểu thông tin về thuốc 34
3.4 Nhu cầu tư vấn của bệnh nhân 35
3.5 Số thuốc được dược sĩ tư vấn 37
3.6 Tương tác giữa dược sĩ và bệnh nhân trong quá trình tư vấn 38
3.7 Thời gian cho 1 cuộc tư vấn 39

3.8 Số bệnh nhân và thời gian phòng tư vấn mở cửa theo ngày 41
3.9 Tương quan giữa hoạt động tư vấn và hoạt động cấp phát thuốc 43
3.10 Mức độ hài lòng của bệnh nhân sau tư vấn 44


DANH MỤC HÌNH

Hình Tên hình Trang
1.1
Phòng tư vấn bệnh viện Bạch Mai 23
1.2
Một số trang thiết bị phòng tư vấn bệnh viện Bạch Mai 23
3.1
Các nội dung dược sĩ đã thực hiện 36
3.2
Số bệnh nhân vào tư vấn theo ngày 40
3.3
Thời gian phòng tư vấn mở cửa và số bệnh nhân tư vấn theo ngày 41
3.4 Tương quan giữa thời gian phòng tư vấn mở cửa và số bệnh nhân
tư vấn
42



DANH MỤC ĐỐI CHIẾU ANH – VIỆT

Tiếng Anh Tiếng Việt
Monolog Độc thoại của dược sĩ
Dialog Hỏi đáp đơn thuần
Conversation Đối thoại

Discussion Thảo luận
Magisterial health counselling Mô hình tư vấn một chiều
Participative health counselling Mô hình tư vấn hai chiều
Promotional health counselling Mô hình tư vấn khuyến khích
Compliance Tuân thủ
Concordance Đồng thuận
Department of Health Human Services Ủy ban chăm sóc sức khỏe
Resources Nguồn lực
1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tư vấn và giáo dục bệnh nhân là một phần quan trọng của công tác chăm sóc
Dược [3]. Đặc biệt đối với bệnh mãn tính, những bệnh phải điều trị trong thời gian
dài thì tư vấn thuốc càng đóng vai trò quan trọng để nâng cao mức độ tuân thủ và
khả năng tự kiểm soát bệnh của bệnh nhân. Theo hướng dẫn tư vấn thuốc của Dược
điển Mỹ (USP) năm 1997, tư vấn bệnh nhân chia thành 4 mức độ: độc thoại của
dược sĩ (monolog), hỏi đáp đơn thuần (dialog), đối thoại (conversation) và thảo luận
(discussion) [34]. Trong đó mức độ cao nhất là thảo luận, ở đây dược sĩ và bệnh
nhân có những trao đổi chi tiết dựa trên mối tương tác ngang bằng để đưa ra những
lời khuyên dùng thuốc có hiệu quả nhất cho bệnh nhân. Theo dự thảo Luật sửa đổi
và bổ sung một số điều của Luật dược 2013, tư vấn và hướng dẫn cách sử dụng
thuốc cho bệnh nhân là trách nhiệm của dược sĩ lâm sàng tại các cơ sở khám chữa
bệnh [2]. Để thực hiện nhiệm vụ này, dược sĩ không chỉ cần có năng lực chuyên
môn mà khi tư vấn phải đồng cảm với bệnh nhân đồng thời nắm bắt nhu cầu và kiến
thức sẵn có của bệnh nhân để đưa ra nội dung tư vấn hợp lý.
Tại Việt Nam, mô hình tư vấn sử dụng thuốc cho bệnh nhân còn ít phổ biến,
hoạt động tại các nhà thuốc bệnh viện vẫn tập trung chủ yếu vào việc cấp phát
thuốc, chưa thực sự có sự trao đổi, tư vấn và tương tác giữa dược sĩ và bệnh nhân.
Chưa có những nghiên cứu về nhu cầu được tư vấn của bệnh nhân làm cơ sở thúc
đẩy hoạt động này trên thực tế.

Bệnh viện Bạch Mai là một trong những đơn vị đầu tiên triển khai áp dụng mô
hình tư vấn sử dụng thuốc cho bệnh nhân ngoại trú. Hoạt động này bước đầu được
triển khai từ tháng 11 năm 2012 tại phòng cấp phát thuốc cho bệnh nhân có Bảo
hiểm y tế (BHYT). Các dược sĩ tại bệnh viện Bạch Mai đang không ngừng rút kinh
nghiệm để hoàn thiện, nâng cao chất lượng tư vấn và đưa ra một quy trình tư vấn
phù hợp nhất với nhu cầu và đặc điểm của bệnh nhân BHYT ngoại trú. Việc nhìn
nhận lại nội dung tư vấn, cũng như nắm bắt được nhận thức, nhu cầu, nguyện vọng
và mức độ hài lòng của bệnh nhân sẽ giúp các dược sĩ có một cái nhìn toàn diện, từ
đó nâng cao hiệu quả của quy trình tư vấn hiện có.
2

Chính vì lý do trên chúng tôi thực hiện đề tài “Khảo sát nhu cầu tư vấn của
bệnh nhân và thực trạng tư vấn sử dụng thuốc tại phòng cấp phát thuốc Bảo hiểm y
tế bệnh viện Bạch Mai” với ba mục tiêu sau:
1. Khảo sát được nhận thức và nhu cầu được tư vấn của bệnh nhân BHYT
ngoại trú tại bệnh viện Bạch Mai.
2. Khảo sát được tình hình tư vấn sử dụng thuốc tại phòng cấp phát thuốc
BHYT, bệnh viện Bạch Mai.
3. Khảo sát được mức độ hài lòng của bệnh nhân sau khi được tư vấn ở phòng
tư vấn thuốc.















3


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
1.1 Khái niệm và các mô hình tư vấn bệnh nhân
1.1.1 Các định nghĩa về tư vấn bệnh nhân
Theo Hepler (1987) thì các định nghĩa về tư vấn bệnh nhân bắt đầu được thảo
luận vào những năm 1960. Các định nghĩa này thường có xu hướng tập trung vào
nội dung, ví dụ như thông tin mà dược sĩ cung cấp cho bệnh nhân. Các định nghĩa
về tư vấn bệnh nhân dần dần được bổ sung, thay đổi và hoàn thiện hơn [10].
Một trong những định nghĩa sớm nhất về tư vấn bệnh nhân được đưa ra bởi
Puckett và cộng sự năm 1978. Tác giả này cho rằng tư vấn bệnh nhân là “bất kì sự
thông báo nào được dược sĩ nói hay viết ra về thuốc và cách sử dụng thuốc” [10].
Theo định nghĩa của Hepler thì tư vấn bệnh nhân dừng lại ở mức cung cấp cho bệnh
nhân thông tin về thuốc. Năm 1997, Aslanpour và Smith đã đưa ra một định nghĩa
hoàn thiện hơn về tư vấn bệnh nhân, không chỉ là cung cấp thông tin về thuốc mà
cao hơn tư vấn bệnh nhân là “việc cung cấp các thông tin về thuốc và các vấn đề
liên quan đến sức khỏe” [5]. Nhìn nhận về tư vấn bệnh nhân ở mức cao hơn, không
đơn thuần là việc cung cấp thông tin một chiều, Schommer và Wiederholt năm 1994
cho rằng “tư vấn bệnh nhân là việc dược sĩ đưa ra lời khuyên dựa trên quan điểm
hợp lí, chủ quan của mình và hướng tới bệnh nhân trong phạm vi sử dụng thuốc”
[27]. Như vậy các định nghĩa về tư vấn bệnh nhân thay đổi theo thời điểm và không
được xây dựng trên bất kì nền tảng lí thuyết nào. Các định nghĩa vẫn chưa thể hiện
được bản chất của sự tương tác giữa bệnh nhân và dược sĩ cho dù quá trình tư vấn là
độc thoại của dược sĩ hay hỏi đáp đơn thuần giữa dược sĩ và bệnh nhân [10].
Một trong những định nghĩa toàn diện nhất về tư vấn bệnh nhân được xây

dựng bởi dược điển Mỹ (USP) năm 1997. Theo USP, tư vấn bệnh nhân là “cách tiếp
cận tập trung vào nâng cao kỹ năng giải quyết vấn đề của bệnh nhân với mục tiêu
cải thiện hoặc duy trì chất lượng sức khỏe và chất lượng cuộc sống” [34]. Định
nghĩa này nhấn mạnh rằng nhân viên y tế cung cấp và thảo luận về thông tin thuốc
với từng đối tượng bệnh nhân để đạt được mục tiêu trên. Bản chất của mối quan hệ
4

giữa bệnh nhân và nhân viên y tế là tương tác và học hỏi kinh nghiệm cho cả hai
bên [23].
Theo USP, tư vấn sử bệnh nhân được phân thành 4 mức độ: độc thoại của
dược sỹ, hỏi đáp đơn thuần, đối thoại và thảo luận. Các mức độ phát triển liên tục từ
mức thấp nhất là độc thoại của dược sĩ đến mức cao nhất là thảo luận, từ chỗ dược
sĩ chỉ cung cấp thông tin một chiều đến có những trao đổi chi tiết với bệnh nhân để
đưa ra lời khuyên sử dụng thuốc hợp lí nhất cho bệnh nhân [10]. Các mức độ tư vấn
này có thể coi là tương ứng với các mô hình tư vấn bệnh nhân khác nhau.
1.1.2 Các mô hình tư vấn bệnh nhân
Mô hình tư vấn bệnh nhân là cách thức của quá trình tương tác giữa dược sĩ và bệnh
nhân trong tư vấn. Năm 1993, Ingrosso chia mô hình tư vấn bệnh nhân thành 3 loại:
 Mô hình tư vấn một chiều (magisterial health counselling)
 Mô hình tư vấn hai chiều (participative health counselling)
 Mô hình tư vấn khuyến khích (promotional health counselling) [10]
Mô hình tư vấn một chiều
Mô hình tư vấn một chiều (magisterial health counselling) là mô hình trong đó
bệnh nhân được coi như một cỗ máy thực hiện tiếp nhận thông tin một chiều.
Tynjälä năm 1999 cho rằng mô hình tư vấn một chiều có thể so sánh với mức độ
độc thoại của dược sĩ trong 4 mức độ của tư vấn bệnh nhân theo USP. Tương tự như
trong tư vấn độc thoại của dược sĩ, bệnh nhân tiếp nhận thông tin một cách thụ động
mà không có sự phản hồi đối với dược sĩ [10].
Mô hình tư vấn một chiều được coi là trung lập, bất đối xứng và dựa trên lý
thuyết học tập hành vi. Tuy nhiên, mô hình này vẫn chưa chú ý đến điểm riêng biệt

của mỗi bệnh nhân, chưa nhìn nhận đúng về khả năng giải quyết vấn đề một cách
độc lập của họ. Do đó, bệnh nhân chỉ kiểm soát và tuân thủ nghiêm túc những lời
khuyên của dược sĩ mà không xem xét liệu việc điều trị có phù hợp với mình hay
không [10].
Mô hình tư vấn hai chiều
5

Mô hình tư vấn hai chiều (participative health counselling) là mô hình trong đó
bệnh nhân có quyền tự đưa ra các lựa chọn, quyết định liên quan đến việc điều trị
của mình. Mô hình tư vấn hai chiều có thể so sánh với mức độ hỏi đáp đơn thuần
giữa dược sĩ và bệnh nhân trong 4 mức độ tư vấn bệnh nhân theo USP. Theo đó quá
trình tư vấn được coi như là sự chia sẻ thông tin giữa bệnh nhân và dược sĩ [10].
Mô hình tư vấn hai chiều dựa trên lí thuyết về khả năng học của bệnh nhân, theo
đó mỗi bệnh nhân tự có ý thức về bệnh và thuốc của mình. So với mô hình tư vấn
một chiều, mô hình này đã nhấn mạnh sự phù hợp đối với từng bệnh nhân, bệnh
nhân có thể tự đưa ra những quyết định có lợi cho tình trạng sức khỏe của mình
[10]. Tuy nhiên, mô hình vẫn chưa đề cập đến khả năng suy nghĩ và đánh giá những
quyết định đưa ra liên quan đến điều trị của bệnh nhân [17, 20].
Mô hình tư vấn khuyến khích
Mô hình tư vấn khuyến khích (promotional health counselling) là mô hình bao
gồm quá trình tương tác học hỏi kinh nghiệm giữa dược sĩ và bệnh nhân. Mô hình
này tăng cường các kĩ năng giải quyết vấn đề, cách suy nghĩ và cách đánh giá riêng
của bệnh nhân về mỗi hành động của mình. Mô hình tư vấn khuyến khích có thể so
sánh với mức độ đối thoại và thảo luận giữa dược sỹ và bệnh nhân trong 4 mức độ
tư vấn bệnh nhân theo USP [10].
Tư vấn sức khỏe khuyến khích được thiết lập dựa trên tâm lí học nhận thức và
học thuyết hành động liên quan đến nhận thức [17]. Bàn về vấn đề này, Rauste-von
Wright năm 1994 cho rằng việc học ở đây dựa trên quan niệm học tập mang tính
chất xây dựng, thông tin không được truyền trực tiếp cho người học, mà họ sẽ tự
nhận thức và tự tìm thông tin cho chính mình. Mô hình tư vấn khuyến khích đã

quan tâm tới hiểu biết và suy nghĩ độc lập của từng bệnh nhân trong suốt quá trình
tư vấn [10]. Đây chính là vấn đề mà hai mô hình tư vấn trước chưa đề cập đến.
Như vậy từ mô hình tư vấn một chiều tới mô hình tư vấn khuyến khích đã
từng bước hướng tới bệnh nhân trong quá trình tư vấn. Mỗi mô hình tư vấn hướng
tới và giải quyết những mục tiêu riêng, nhưng tư vấn khuyến khích là mô hình đạt
được đầy đủ nhất các mục tiêu của một quá trình tư vấn bệnh nhân.
6

1.2 Mục tiêu của tư vấn bệnh nhân
Tư vấn bệnh nhân là quá trình dược sĩ thảo luận với bệnh nhân về các thuốc điều
trị của họ nhằm hai mục tiêu chính:
 Giáo dục bệnh nhân những thông tin liên quan đến thuốc.
 Giúp đỡ bệnh nhân để đạt được lợi ích tốt nhất của việc dùng thuốc.
1.2.1 Mục tiêu giáo dục bệnh nhân
Mục tiêu giáo dục bệnh nhân bao gồm nâng cao kĩ năng và kiến thức để
mang lại những thay đổi trong thái độ và hành vi dùng thuốc của bệnh nhân [13].
Để đạt được mục tiêu giáo dục bệnh nhân theo nhiều cách khác nhau, dược sĩ phải
thực hiện từng bước. Các dược sĩ thường nghĩ giáo dục bệnh nhân là cung cấp
thông tin thông qua lời nói hay văn bản. Tuy nhiên, việc cung cấp thông tin đơn
thuần không đảm bảo được kĩ năng và kiến thức về bệnh và việc dùng thuốc của
bệnh nhân được cải thiện [24].
Với mục tiêu giáo dục thì dược sĩ phải đưa thông tin phù hợp với nhu cầu
của từng bệnh nhân. Thông qua việc thảo luận với bệnh nhân dược sĩ phải xác định
được bệnh nhân biết về bệnh hoặc về thuốc đến đâu, họ có bất kì sự hiểu sai nào về
thuốc và bệnh không. Ví dụ, bệnh nhân có thể nghĩ rằng bệnh tăng huyết áp của họ
là kết quả của trạng thái thần kinh căng thẳng, thuốc điều trị tăng huyết áp là để hạ
huyết áp và thuốc này chỉ cần khi bệnh nhân cảm thấy huyết áp của mình tăng. Sau
khi khám phá ra nhận thức, suy nghĩ của bệnh nhân, dược sĩ cũng cần phải truyền
đạt thông tin rõ ràng về bệnh tăng huyết áp, mục tiêu của thuốc và tầm quan trọng
của việc dùng thuốc đều đặn [24].

1.2.2 Mục tiêu hỗ trợ bệnh nhân
Mục tiêu của tư vấn bệnh nhân là giúp đỡ bệnh nhân vượt qua bệnh tật và
những thay đổi do bệnh gây ra. Ví dụ bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường hoặc
tăng huyết áp có thể cần giúp đỡ để vượt qua những thay đổi trong chế độ ăn, trong
thói quen công việc và hoạt động giải trí [24].
Thêm vào việc giải quyết những vấn đề trước mắt, tư vấn bệnh nhân nên có
những thảo luận để phòng tránh vấn đề có thể xảy ra trong quá trình bệnh nhân
7

dùng thuốc và nâng cao khả năng giải quyết những vấn đề này cho bệnh nhân [14].
Thông qua tư vấn bệnh nhân, dược sĩ có thể dự đoán trước một số vấn đề nhờ đó có
thể phòng ngừa được hoặc ít nhất là giảm thiểu tối đa các vấn đề bất lợi của thuốc.
Dược sĩ thảo luận với bệnh nhân để biết ý định và khả năng tuân thủ hướng dẫn
dùng thuốc của bệnh nhân. Ví dụ một bệnh nhân đi ăn tiệc có thể quyết định bỏ qua
một liều thuốc tăng huyết áp và uống rượu trong bữa tiệc. Nếu tình huống này được
dự đoán trước và thảo luận với dược sĩ thì bệnh nhân có thể có một quyết định tốt
hơn. Dược sĩ có thể chỉ ra những nguy cơ khi bệnh nhân bỏ một liều thuốc hoặc gợi
ý những thay đổi như bệnh nhân nên hạn chế uống rượu trong khi đang uống thuốc
[24].
Một vấn đề khác cần chú ý đó là sự gia tăng tác dụng không mong muốn của
thuốc. Ví dụ, các tác dụng không mong muốn như táo bón, nước tiểu đổi màu cũng
có thể làm bệnh nhân lo âu và có thể dẫn đến dừng thuốc. Vì vậy trong quá trình tư
vấn dược sĩ nên tư vấn để bệnh nhân nhận ra những triệu chứng nào là tác dụng
không mong muốn của thuốc, tìm cách giải quyết và không tự ý dừng thuốc [24].
Như vậy trong trường hợp bệnh nhân phải điều trị lâu dài, mục tiêu của tư
vấn là phát hiện ra tất cả những vấn đề nói trên và đảm bảo mọi thứ diễn ra tốt đẹp.
Khi đã phát hiện ra các vấn đề có thể xảy ra thì mục tiêu của tư vấn là nâng cao khả
năng giải quyết những vấn đề này cho bệnh nhân [24].
Tư vấn bệnh nhân với hai mục tiêu chính là giáo dục bệnh nhân các thông tin
liên quan đến thuốc và giúp đỡ bệnh nhân vượt qua những vấn đề gặp phải trong

quá trình sử dụng thuốc. Như vậy, việc dược sĩ có thực hiện được 2 mục tiêu này
trong quá trình tư vấn hay không sẽ quyết định cách tiếp cận của bệnh nhân với
những gì họ được tư vấn.
1.3 Các cách tiếp cận của bệnh nhân trong quá trình tư vấn bệnh nhân
Bệnh nhân có cách tiếp cận khác nhau đối với từng mô hình tư vấn cũng như
từng mức độ tư vấn. Khi mô hình tư vấn phát triển từ một chiều đến khuyến khích,
từ mức độ tư vấn độc thoại của dược sĩ đến mức độ thảo luận thì cách tiếp cận của
bệnh nhân thay đổi dần từ tuân thủ đến đồng thuận.
8

1.3.1 Tuân thủ (Compliance)
Khái niệm chung về tuân thủ
Haynes và cộng sự năm 1979 đã đưa ra định nghĩa tuân thủ là “mức độ một
bệnh nhân tuân theo chế độ ăn, thực hiện thay đổi lối sống theo các lời khuyên về
thuốc và sức khỏe” [10]. Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO), tuân thủ là “mức độ
bệnh nhân tuân theo lời hướng dẫn của bác sĩ” [31]. Năm 1999, Blenkinsopp cho
rằng tuân thủ thuốc đề cập đến hành vi của bệnh nhân liên quan đến các loại thuốc
của họ [10].
Trong tư vấn bệnh nhân, cách tiếp cận tuân thủ không công nhận bệnh nhân
là người có thể chủ động kiểm soát việc điều trị của họ. Thay vào đó, cách tiếp cận
này xem các chuyên gia chăm sóc sức khỏe là người đưa ra quyết định cho bệnh
nhân. Vì vậy, quá trình tư vấn coi như một quá trình truyền thông tin từ nhân viên y
tế tới bệnh nhân một cách thụ động [10, 32].
Cách tiếp cận tuân thủ tương ứng với mô hình tư vấn một chiều và giai đoạn
tư vấn độc thoại của dược sĩ. Bản chất của mô hình này chưa nhìn nhận đúng khả
năng và cách giải quyết vấn đề của bệnh nhân, chưa chú ý đến thái độ và niềm tin
của bệnh nhân, vì vậy tạo cho bệnh nhân cách tiếp cận vấn đề một cách thụ động,
chỉ tuân thủ mà không xem xét sự phù hợp với bản thân mình. Với cách tiếp cận
này bệnh nhân không có cơ hội thảo luận với dược sĩ những khó khăn họ gặp phải
trong quá trình dùng thuốc để tìm cách giải quyết. Và chính những vấn đề này ảnh

hưởng và là rào cản tới sự tuân thủ thuốc của bệnh nhân.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ thuốc của bệnh nhân
Tuân thủ là một hiện tượng đa chiều được xác định bởi sự tương tác qua lại
của nhóm 5 yếu tố: yếu tố kinh tế - xã hội, yếu tố liên quan đến hệ thống chăm sóc
sức khỏe, yếu tố liên quan đến bệnh, yếu tố liên quan đến phác đồ điều trị, yếu tố
liên quan đến bệnh nhân, trong đó bệnh nhân chỉ là một yếu tố quyết định [31].
 Yếu tố kinh tế - xã hội
Một vài yếu tố được cho là có ảnh hưởng đáng kể đến sự tuân thủ như: tình
trạng kinh tế xã hội kém phát triển, nghèo đói, mù chữ, trình độ học vấn thấp, thất
9

nghiệp, điều kiện sống không ổn định, xa trung tâm điều trị, chi phí đi lại cao, chi
phí cho thuốc điều trị cao, thay đổi môi trường, thái độ và niềm tin về bệnh, về
phương pháp điều trị (Albaz RS 1997, trích dẫn trong [31]).
 Yếu tố liên quan đến hệ thống chăm sóc sức khỏe
Những yếu tố liên quan đến hệ thống chăm sóc sức khỏe ảnh hưởng đến sự
tuân thủ của bệnh nhân bao gồm dịch vụ y tế và hệ thống phân phối thuốc kém phát
triển, đội ngũ nhân viên chăm sóc sức khỏe thiếu kiến thức trong việc quản lí bệnh
mãn tính, năng lực của hệ thống giáo dục bệnh nhân còn yếu, thiếu kiến thức về
tuân thủ và những can thiệp có hiệu quả để cải thiện sự tuân thủ của bệnh nhân [31].
 Yếu tố liên quan đến bệnh
Các yếu tố này tiêu biểu cho những yêu cầu đặc biệt liên quan đến bệnh mà
bệnh nhân phải vượt qua. Một số yếu tố quan trọng quyết định sự tuân thủ liên quan
đến mức độ nặng của triệu chứng bệnh, mức độ khuyết tật (thể chất, tâm lí, xã hội),
mức độ tiến triển của bệnh, sự sẵn có của các phác đồ điều trị có hiệu quả. Tác động
của những yếu tố này phụ thuộc vào việc nó ảnh hưởng đến nhận thức về nguy cơ
của bệnh nhân, đến tầm quan trọng của việc tuân thủ phác đồ điều trị, đến sự ưu tiên
việc tuân thủ như thế nào [31]. Loại bệnh cũng là một yếu tố ảnh hưởng, ví dụ bệnh
nhân bệnh tim thường tuân thủ tốt, trong khi bệnh nhân bệnh hen thường không
tuân thủ [24].

 Yếu tố liên quan đến phác đồ điều trị
Có nhiều yếu tố của phác đồ điều trị ảnh hưởng tới sự tuân thủ. Đáng chú ý
nhất là những yếu tố liên quan sự phức tạp của chế độ điều trị, thời gian điều trị,
thất bại của phác đồ điều trị trước đó, sự thay đổi thường xuyên phác đồ điều trị,
hiệu quả tức thì của phác đồ, tác dụng không mong muốn, và các biện pháp y tế sẵn
có để giải quyết những vấn đề này [31].
 Yếu tố thuộc về bệnh nhân
Các yếu tố liên quan đến bệnh nhân có ảnh hưởng đến sự tuân thủ tiêu biểu
là kiến thức, thái độ, niềm tin, nhận thức và nguồn lực của bệnh nhân (resources).
Các yếu tố này bao gồm: tính hay quên, tâm lí căng thẳng, thiếu kiến thức và kĩ
10

năng kiểm soát triệu chứng và phương pháp điều trị, thiếu nhu cầu tự nhận thức về
phương pháp điều trị, thiếu nhận thức về hiệu quả của phương pháp điều trị, thiếu
hiểu biết về bệnh, không tin tưởng vào chẩn đoán, hiểu sai về hướng dẫn điều trị,
thiếu sự kiểm soát và theo dõi, bi quan, thất vọng, lo lắng về tác dụng không mong
muốn của thuốc, cảm giác bị kì thị vì mắc bệnh [31].
Rào cản tới sự tuân thủ thuốc
Năm 1984, Becker cho rằng rào cản thứ nhất của sự tuân thủ thuốc là sự
phức tạp của phác đồ điều trị và sự khó khăn trong việc tuân thủ phương pháp điều
trị đã đưa ra. Phác đồ điều trị càng phức tạp thì bệnh nhân càng ít tuân thủ thuốc.
Khó khăn trong việc nhớ uống thuốc vài lần mỗi ngày hoặc trong việc điều chỉnh
dùng thuốc cho phù hợp với thói quen hàng ngày của bệnh nhân cũng được xem
như lý do để bệnh nhân ít tuân thủ thuốc hơn [7].
Thời gian điều trị dài cũng làm cho bệnh nhân ít tuân thủ hơn. Nguyên nhân
của việc này là do bệnh nhân gặp khó khăn trong việc nhớ và sắp xếp lịch uống
thuốc [24]. Việc giảm tuân thủ theo thời gian sẽ làm bệnh nhân ít quan tâm đến
bệnh hơn hoặc ít có nhu cầu tiếp tục dùng thuốc [8].
Tác dụng không mong muốn của thuốc khi xảy ra cũng làm giảm sự tuân thủ
thuốc, do bệnh nhân thấy khó chịu, lo lắng tác dụng này sẽ nặng thêm. Đặc biệt khi

bệnh nhân không được cảnh báo trước về khả năng xảy ra tác dụng không mong
muốn hoặc không được hướng dẫn các biện pháp để làm giảm những tác dụng
không mong muốn này [24].
Rào cản về nhận thức, ngôn ngữ, khả năng đọc viết làm bệnh nhân không
hiểu được lí do phải dùng thuốc, hướng dẫn sử dụng thuốc. Vì vậy bệnh nhân sẽ
không thể tuân thủ đúng cách dùng thuốc [24].
Các yếu tố ảnh hưởng và rào cản làm giảm sự tuân thủ thuốc của bệnh nhân
cần được thảo luận với dược sĩ trong tư vấn để cùng nhau tìm ra cách giải quyết các
vấn đề bệnh nhân gặp phải. Khi bệnh nhân thảo luận những vấn đề này với dược sĩ
tức là họ đã chuyển sang một cách tiếp cận mới, từ tuân thủ một cách thụ động đến
đồng thuận trong quá trình tư vấn.
11

1.3.2 Đồng thuận (Concordance)
Năm 1997, Marinker cho rằng đồng thuận là cách tiếp cận dựa trên quan điểm
dược sĩ và bệnh nhân tương tác ngang bằng, do đó giữa họ sẽ hình thành sự liên hệ
về điều trị. Bàn về vấn đề Blenkinsopp năm 1999 cũng khẳng định đồng thuận
không đồng nghĩa với tuân thủ, trong đồng thuận bệnh nhân có quyền đưa ra quyết
định việc chăm sóc sức khỏe của mình [10].
Đồng thuận dựa trên quan niệm mới về việc trao đổi thông tin giữa dược sĩ và
bệnh nhân. Trong phương pháp đồng thuận, vai trò của dược sĩ là để hỗ trợ bệnh
nhân hình thành kiến thức và thái độ trong việc sử dụng thuốc. Bệnh nhân được
xem như chuyên gia về bệnh và việc sử dụng thuốc của mình [25]. Điều này không
làm giảm vai trò chuyên gia thuốc của dược sĩ, mà thay vào đó một cuộc trao đổi,
thảo luận giữa dược sĩ và bệnh nhân là cần thiết để thúc đẩy và hỗ trợ bệnh nhân
theo dõi bệnh của mình [10].
Như vậy, cách tiếp cận đồng thuận tương ứng với mô hình tư vấn khuyến
khích hay mức độ đối thoại, thảo luận trong tư vấn bệnh nhân. Mô hình này đã chú
ý hướng tới bệnh nhân, đề cập đến khả năng, thái độ, suy nghĩ và cách giải quyết
vấn đề của bệnh nhân, bởi vậy tạo cơ hội cho bệnh nhân trao đổi với dược sĩ và tự

đưa ra quyết định phù hợp nhất với hoàn cảnh của mình.
Cách tiếp cận đồng thuận buộc dược sĩ định hình lại về thái độ của mình đối
với việc tư vấn bệnh nhân. Dược sĩ với vai trò là chuyên gia chăm sóc sức khỏe có
thể giúp mọi người duy trì sức khỏe tốt nhất và nâng cao lợi ích của việc dùng thuốc
[9]. Để đảm nhận vai trò này dược sĩ đòi hỏi phải có năng lực chuyên môn mới và
khi tư vấn phải lấy bệnh nhân làm trung tâm [10, 32]. Dược sĩ nên chuyển từ cách
tư vấn chỉ tập trung vào thuốc, tư vấn một chiều sang tư vấn tập trung vào bệnh
nhân và đưa thông tin phù hợp với nhu cầu từng bệnh nhân để đạt được hiệu quả
điều trị tốt hơn [33]. Thực hiện được những điều này thì quá trình tư vấn bệnh nhân
sẽ không chỉ mang lại lợi ích cho bệnh nhân mà còn mang lại lợi ích cho dược sĩ.
12

1.4 Lợi ích của việc tư vấn bệnh nhân
1.4.1 Lợi ích đối với bệnh nhân
Lợi ích quan trọng nhất của tư vấn bệnh nhân là cải thiện chất lượng cuộc
sống và chất lượng việc chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân. Những biến cố xảy ra
được gọi là những rủi ro khi dùng thuốc (như tác dụng không mong muốn của
thuốc, tương tác thuốc và những sai sót khác khi dùng thuốc) và việc không tuân
thủ điều trị đã làm giảm chất lượng của cuộc sống và gây trở ngại tới chất lượng
chăm sóc sức khỏe của bệnh nhân [24].
Dược sĩ có tác động lớn tới những vấn đề này thông qua tư vấn bệnh nhân.
Theo ủy ban chăm sóc sức khỏe Mỹ (Department of Health Human Services) thì
việc thiếu thông tin về thuốc là một trong bốn lí do khiến người cao tuổi thất bại
trong việc tuân thủ phác đồ điều trị. Một nghiên cứu trên 306 nhà thuốc tại
Memphis, Tenessee cho thấy 84,7% bệnh nhân được nhận đầy đủ thông tin đã tuân
thủ điều trị, trong khi con số này ở nhóm bệnh nhân biết ít thông tin chỉ là 63,0%
[11]. Như vậy tư vấn bệnh nhân có thể giảm thiểu những sai sót và sự không tuân
thủ trong việc dùng thuốc của bệnh nhân [24].
Thêm vào vấn đề không tuân thủ, bệnh nhân có thể chịu một số phản ứng có
hại của thuốc. Nếu bệnh nhân được tư vấn các dấu hiệu sớm để thông báo cho dược

sĩ hoặc nếu dược sĩ hỏi bệnh nhân về phác đồ đang điều trị thì có thể phát hiện và
phòng ngừa sớm hơn. Như vậy tư vấn bệnh nhân sẽ hạn chế phản ứng có hại của
thuốc [24]
Ngoài ra, tư vấn bệnh nhân còn mang lại lợi ích cho bệnh nhân theo một số
cách khác liên quan đến việc cải thiện hiệu quả điều trị và sự hài lòng với việc chăm
sóc sức khỏe. Bệnh nhân thường muốn đảm bảo chắc chắn thêm một lần nữa là
thuốc của họ an toàn và hiệu quả [24]. Họ có thể cần sự giải thích thêm do bác sĩ
của họ quá bận hoặc không thoải mái để hỏi. Nhiều nghiên cứu cho rằng một tương
tác hiệu quả giữa nhân viên y tế và bệnh nhân có thể cải thiện hiệu quả điều trị của
bệnh nhân [29].
13

1.4.2 Lợi ích đối với dược sĩ
Nhìn chung, các dược sĩ cho rằng việc tư vấn và giáo dục bệnh nhân khiến
họ cảm thấy hài lòng về công việc của mình và muốn dành thời gian nhiều hơn cho
việc tư vấn (Chi J 1992, trích dẫn trong [24]). Portner T và cộng sự năm 1993 lại
khẳng định tư vấn bệnh nhân tạo cơ hội cho dược sĩ thể hiện năng lực chuyên môn
và sử dụng những kiến thức họ tích lũy sau nhiều năm. Đây chính là sự hài lòng của
mỗi cá nhân khi giúp đỡ người khác, đặc biệt trong việc giúp bệnh nhân duy trì và
cải thiện sức khỏe [24].
Năm 1989, Rybka – Miki, trong một nghiên cứu của mình, cho rằng tư vấn
bệnh nhân giúp dược sĩ bớt căng thẳng trong công việc. Công việc của dược sĩ phải
thường xuyên tiếp xúc với bệnh nhân nên không tránh khỏi những lúc khó chịu hay
căng thẳng. Vì vậy thông qua quá trình tư vấn, dược sĩ sẽ hiểu hoàn cảnh của bệnh
nhân hơn, làm cho mối quan hệ trở nên gần gũi hơn. Việc này tạo cảm giác thoải
mái và làm giảm bớt căng thẳng cho cả dược sĩ và bệnh nhân [24].
Ngoài ra thông qua tư vấn bệnh nhân, dược sĩ có cơ hội để thảo luận với các
chuyên gia y tế khác về các vấn đề liên quan đến thuốc. Ví dụ trong những trường
hợp như: giáo dục y tá trong việc chăm sóc tại nhà, trao đổi thảo luận toàn khoa,
hoặc dược sĩ có thể liên lạc với bác sĩ hoặc y tá để cùng giải quyết các vấn đề có

liên quan đến thuốc [24].
Như vậy tư vấn bệnh nhân mang lại lợi ích cho cả bệnh nhân và dược sĩ theo
nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên một cuộc tư vấn có thể mang lại đầy đủ tất cả lợi
ích trên đòi hỏi dược sĩ phải có cái nhìn mới về vai trò và trách nhiệm của mình
trong việc tư vấn bệnh nhân.
1.5 Vai trò của dược sĩ trong tư vấn bệnh nhân
1.5.1 Vai trò của dược sĩ
Khi bệnh nhân tiến đến cách tiếp cận đồng thuận trong tư vấn thì đây là một
thử thách để dược sĩ nhìn lại vai trò của mình đối với việc tư vấn bệnh nhân. Đảm
nhiệm vai trò này đòi hỏi dược sĩ phải có năng lực mới, khi tư vấn phải lấy bệnh
14

nhân làm trung tâm để đưa thông tin phù hợp với từng đối tượng nhằm đạt được
hiệu quả điều trị cao nhất [10].
Thông qua quá trình tư vấn, dược sĩ tìm hiểu nhu cầu hiện tại và tương lai
của bệnh nhân. Dược sĩ phải đánh giá được bệnh nhân đã biết những gì, kĩ năng gì
họ muốn cải thiện, vấn đề gì họ đang gặp phải và muốn giải quyết. Thêm vào đó
dược sĩ phải xác định được những hành vi, thái độ mà bệnh nhân cần phải thay đổi
[24].
Dược sĩ cũng cần cung cấp cho bác sĩ thông tin về nhu cầu, sở thích của bệnh
nhân để hỗ trợ mối quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân. Ví dụ bệnh nhân có thể nói
với dược sĩ những điều mà họ không muốn thảo luận với bác sĩ hoặc hỏi dược sĩ về
việc lựa chọn phương pháp điều trị của bác sĩ. Vì vậy dược sĩ có thể giúp cả hai bên
trở nên hiểu nhau hơn bằng cách khuyến khích bệnh nhân thảo luận các vấn đề với
tất cả nhân viên y tế và nếu bệnh nhân cho phép có thể thay mặt bệnh nhân thảo
luận với nhân viên y tế khác [24].
1.5.2 Thách thức đối với tư vấn bệnh nhân
Dược sĩ thường được coi là có vai trò chính trong tư vấn bệnh nhân và mô
hình này có lợi cho cả bệnh nhân và dược sĩ [24]. Mặc dù cả dược sĩ và bệnh nhân
đều thấy được những lí do thuyết phục cho sự cần thiết của tư vấn bệnh nhân, nhiều

dược sĩ vẫn không thực hiện vai trò này [30].
Một bài tổng quan của Young về thực trạng giao tiếp giữa dược sĩ và bệnh
nhân ở Bắc Mỹ đã kết luận rằng chất lượng và số lượng của giao tiếp giữa dược sĩ
và bệnh nhân cải thiện rất ít qua hơn 25 năm (1970 – 1996). Mặc dù dược sĩ có cái
nhìn tích cực đối với tư vấn bệnh nhân, thực tế họ thảo luận với khoảng một nửa
bệnh nhân đơn mới trong vòng khoảng 1 phút hoặc ít hơn [33]. Svarstad và cộng sự
cho rằng các chính sách, quy trình, và việc thực hiện một số chương trình thúc đẩy
hỗ trợ dược sĩ có ảnh hưởng tới việc thực hành tư vấn bệnh nhân [30].
Như vậy với vai trò mới trong tư vấn bệnh nhân dược sĩ phải đối mặt với thử
thách trong công việc mới và những khó khăn sẽ gặp phải trong việc thực hành tư
vấn bệnh nhân. Muốn vượt qua những trở ngại trên và làm tốt công tác tư vấn bệnh
15

nhân dược sĩ phải hoàn thiện các kĩ năng, khi tư vấn phải xác định rõ ràng nội dung
cần tư vấn cho bệnh nhân.
1.6 Nội dung của tư vấn bệnh nhân
1.6.1 Hoàn cảnh tư vấn
Số lượng và loại thông tin dược sĩ cung cấp cho bệnh nhân phụ thuộc vào nhu
cầu và hoàn cảnh tư vấn. Lý tưởng nhất, dược sĩ nên tư vấn bệnh nhân trên tất cả
đơn mới và đơn kê lại. Nếu dược sĩ không thể tư vấn theo phạm vi này thì nên phân
loại bệnh nhân và các loại thuốc dược sĩ thường tư vấn. Các bệnh nhân cần tư vấn
bao gồm:
 Bệnh nhân phải dùng nhiều thuốc
 Bệnh nhân có vấn đề nhìn, nghe, đọc
 Bệnh nhân nhi
 Bệnh nhân dùng nhóm thuốc cần lưu ý đặc biệt như thuốc chống đông
 Bệnh nhân có sự thay đổi về thuốc hoặc về liều trong đơn
 Bệnh nhân mới hoặc bệnh nhân lần đầu tiên nhận một thuốc mới
 Bệnh nhân nhận thuốc có cách bảo quản hoặc cách dùng đặc biệt, hoặc có tác
dụng phụ đáng chú ý

Nếu bệnh nhân là trẻ em hoặc cần có người khác chăm sóc, dược sĩ thảo luận
việc sử dụng thuốc với cha mẹ hoặc người chăm sóc của bệnh nhân [22].
1.6.2 Các nội dung trong quá trình tư vấn
Năm 1997, hiệp hội dược sĩ Mỹ (ASHP) đưa ra một hướng dẫn về cách tư vấn
bệnh nhân cho dược sĩ. Theo đó, quá trình này gồm 4 bước: (1) thiết lập mối quan
hệ với bệnh nhân, (2) đánh giá kiến thức và thái độ của bệnh nhân về thuốc và bệnh,
khả năng bệnh nhân có thể sử dụng thuốc hợp lí, (3) cung cấp thông tin bằng lời nói
và các phương tiện hỗ trợ khác để nâng cao, cải thiện nhận thức và hiểu biết của
bệnh nhân, (4) kiểm tra lại nhận thức và hiểu biết của bệnh nhân về cách sử dụng
thuốc [21]. Tuy nhiên 4 bước này còn tương đối cô đọng. Năm 2007, Rantuci đã cụ
thể hóa quá trình này theo 5 bước sau:
 Mở đầu tư vấn
16

 Thảo luận để thu thập thông tin và xác định nhu cầu bệnh nhân
 Thảo luận để đưa ra kế hoạch chăm sóc và giải quyết vấn đề
 Thảo luận để cung cấp thông tin
 Kết thúc thảo luận [24].
Các nội dung của quá trình tư vấn nên diễn ra theo một trình tự logic. Nhiều
nghiên cứu cho thấy bệnh nhân sẽ hiểu và nhớ thông tin tốt hơn nếu thông tin được
xếp thành từng nhóm hoặc từng mục [18].
Mở đầu tư vấn
Mục tiêu của phần mở đầu là làm cho bệnh nhân cảm thấy thoải mái tham gia
vào quá trình tư vấn, từ đó xây dựng mối liên hệ thân mật giữa dược sĩ và bệnh
nhân và tạo cho bệnh nhân cảm giác tin tưởng vào dược sĩ.
Nếu bệnh nhân và dược sĩ trước đây chưa từng gặp nhau, dược sĩ nên tự giới
thiệu bản thân và làm cho cuộc thảo luận trở nên thoải mái, đồng thời giải thích mục
tiêu của cuộc tư vấn cho bệnh nhân. Nếu bệnh nhân không có thời gian để thảo luận
ngay lúc đó, cần phải sắp xếp một cuộc thảo luận khác có thể là gặp trực tiếp hoặc
là bằng điện thoại ở thời điểm khác.

Đối với bệnh nhân có đơn mới, dược sĩ cần nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
tư vấn nếu trước đó bệnh nhân chưa từng được tư vấn. Đối với bệnh nhân có đơn kê
lại dược sĩ nên đánh giá hiệu quả của thuốc, theo dõi việc sử dụng thuốc để xác định
những vấn đề liên quan đến thuốc có thể xảy ra đặc biệt là việc không tuân thủ và
tác dụng không mong muốn của thuốc.
Thảo luận để thu thập thông tin và xác định nhu cầu của bệnh nhân
 Đối với bệnh nhân mới
Nếu bệnh nhân mới, dược sĩ cần thu thập thông tin cơ bản của bệnh nhân như:
tên, địa chỉ, số điện thoại, tuổi và giới tính. Thêm vào đó cần thu thập thông tin về
tiền sử dị ứng, phản ứng thuốc của bệnh nhân.
 Đối với bệnh nhân khám lại

×