Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

lý thuyết truyền thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.09 KB, 12 trang )

Họ tên : Đinh Thị Thanh
Lớp: dhdt5ahn
PHẦN 1: DSCP
Hầu hết các frame hoặc các gói đều có các trường dùng cho mục đích đánh dấu
(marking). DSCP là một trong những trường như vậy trong gói tin IP.
Như bạn có thể đã biết, trong IP header có một trường có tên là ToS (type of
services). RFC791 mô tả định dạng của IP header, bao gồm một trường 10byte
được gọi là ToS. Trường ToS này dự định được dùng như một trường đánh dấu một
gói tin để các công cụ QoS có thể xử lý. Giá trị ToS được chia ra thành các trường
con, với 3 bit cao được định nghĩa như IP Precedence (IPP). Danh sách đầy đủ của
các giá trị ToS và IPP được liệt kê trong bảng dưới đây:
Vị trí bit 3 đến bit 6 của ToS bao gồm các trường được được bật on hay off để chỉ
ra một mức dịch vụ đặc biệt. Bit cuối cùng (bit 7) không được định nghĩa trong
RFC791. Các cờ không được dùng thường xuyên, vì vậy mục đích chính của ToS
là để lưu giữ các giá trị độ ưu tiên của gói tin IP.
Một loạt các RFC được gọi là Differentiated Services (DiffServ) ra đời sau.
DiffServ cần nhiều hơn 3bit để đánh dấu gói tin, vì vậy DiffServ chuẩn hóa một
định nghĩa lại của byte ToS. Byte ToS được đặt tên là trường Differentiated
Services (DS) và IPP được thay thế bằng một trường có độ dài 6bit được gọi là
Differentiated Services Code Point (DSCP). Nói cách khác, DSCP là một cách diễn
đạt khác của chính octet ToS trong IP header ban đầu. Vì ý nghĩa này, bạn thường
thấy các tài liệu hay đề cập đến bảng chuyển đổi giữa giá trị DSCP và IP
Precedence.
Sau đó, RFC 3168 định nghĩa hai bit thứ tự thấp của DS để dùng với thuộc tính
Explicit Congestion Notification (ECN). Hình dưới đây mô tả định dạng của giá trị
ToS trước và sau khi có định nghĩa DiffServ.
Các công cụ đánh dấu và phân loại (Classification and Marking C&M) thường
đánh dấu trường DSCP hoặc IPP bởi vì các gói tin được bảo toàn khi nó được
truyền trên mạng. Có một khả năng đánh dấu khác nằm bên trong lớp 2, có nghĩa
là thông tin đánh dấu này không được quan tâm nếu nó được truyền đi bởi một tiến
trình L3. Như vậy, việc đánh dấu ở mức 2 không thể được triển khai nếu lưu lượng


đi xa hơn một hop.
Thiết lập các giá trị DSCP và các thuật ngữ
Có vài RFC về DiffServ đề xuất một vài giá trị được dùng trong trường DSCP và
các ý nghĩa ngầm định cho những giá trị này. Ví dụ RFC2598 định nghĩa giá trị
DSCP bằng 46, với tên là Expedited Forwarding (EF). Theo RFC đó, các gói tin
được đánh dấu như EF sẽ được đưa vào hàng đợi ưu tiên sao cho gói tin sẽ bị độ
trễ tối thiểu. Nhưng gói tin sẽ chịu những chính sách sao cho lưu lượng của nó
không chiếm hết đường truyền và ngăn ngừa những loại lưu lượng khác được
truyền khi cổng của router đạt mức ngưỡng. Những giá trị này và các trạng thái
QoS được khuyến cáo tương ứng cho từng trạng thái được gọi là trạng thái theo
từng chặng Per-Hop Behaviors (PHBs) dùng DSCP. Trong ví dụ vừa nêu trước đây,
trạng thái được gọi là EF PHB.
Bảng dưới đây liệt kê các trường của CS DSCP, tên, giá trị và các tên, giá trị tương
ứng bên IPP.
.
Bên cạnh việc định nghĩa tám giá trị DSCP và các tên của nó, cơ chế xử lý theo
từng trạm CS PHB cũng đề xuất một tập hợp của các hành động QoS nên được
thực hiện trên các giá trị CS này. Cơ chế này chỉ ra rằng các gói tin với giá trị CS
DSCP lớn hơn phải được dùng các hàng đợi ưu tiên hơn các gói tin với giá trị
DSCP thấp hơn. Cả hai thuật ngữ “CS0” và “Default”đều ám chỉ đến giá trị nhị
phân 000000 nhưng phần lớn các lệnh của Cisco IOS chỉ cho phép từ khóa default
để đại diện cho giá trị này.
PHẦN :2 QoS
1, Định nghĩa QoS
Chất lượng dịch vụ QoS là một khái niệm rộng và
có thể tiếp cận theo nhiều hướng khác nhau. Theo khuyến
nghị E 800 ITU-T chất lượng dịch vụ là “Một tập các khía
cạnh của hiệu năng dịch vụ nhằm xác định cấp độ thoả
mãn của người sử dụng đối với dịch vụ”. ISO 9000 định 4
nghĩa chất lượng là “cấp độ của một tập các đặc tính vốn

có đáp ứng đầy đủ các yêu cầu”. Trong khi IETF [ETSI –
TR102] nhìn nhận QoS là khả năng phân biệt luồng lưu
lượng để mạng có các ứng xử phân biệt đối với các kiểu
luồng lưu lượng, QoS bao trùm cả phân loại hoá dịch vụ
và hiệu năng tổng thể của mạng cho mỗi loại dịch vụ.
2. Vai trò của QoS
Với các xu hướng phát triển ồ ạt các dịch vụ
thương mại điện tử (e-commerce), vấn đề đảm bảo chất
lượng dịch vụ cho các ứng dụng trên mạng Internet trở
nên cần thiết hơn bao giờ hết.
.3. Các thông số QoS
Các yêu cầu chất lượng dịch vụ phải được biểu thị
theo các tham số QoS đo được. Các tham số thông thường
nhất thường được biết đến là các tham số: Băng thông, độ
trễ, trượt, giá và xác suất mất gói. Các tham số sử dụng để
tính toán QoS có thể tuỳ thuộc vào kiểu mạng: Băng
thông, độ trễ, giá và độ tin cậy là các tham số thường được 5
sử dụng trong mạng IP; sự biến đổi tốc độ tế bào, tỉ lệ mất
tế bào và trễ chuyển giao là các tham số thường sử dụng
trong mạng ATM; Trong khi đó đối với các mạng không
dây, các tham số đo thường sử dụng là băng thông, nhiễu,
suy hao và độ tin cậy.
QoS thực hiện đánh dấu mức ưu tiên ở cả lớp 2 và lớp 3 trong mô hình tham chiếu
7 lớp OSI. Điều này giúp bảo đảm rằng các ưu tiên sẽ được thực hiện thông qua
toàn bộ quá trình phân phối gói dữ liệu. Ví dụ các switch làm việc ở lớp 2 trong mô
hình OSI nhưng các router lại làm việc ở lớp 3. Chính vì vậy, nếu các gói chỉ sử
dụng đánh dấu ưu tiên 802.1p thì chúng sẽ được ưu tiên bởi các bộ switch của
mạng còn sẽ bị bỏ qua hoàn toàn đối với các router. Để tránh hiện tượng này, QoS
sử dụng giao thức Differentiated Services (dịch vụ phân biệt, đôi khi còn được gọi
là giao thức Diffserv) để ưu tiên lưu lượng ở lớp 3 trong mô hình OSI. Việc đánh

dấu mức ưu tiên Diffserv được nhóm trong header IP của mỗi gói bằng giao thức
TCP/IP.
Kiến trúc sử dụng bởi Diffserv lúc đầu được định nghĩa bởi RFC 2475. Mặc dù
vậy, nhiều thông số kỹ thuật của kiến trúc đã được viết lại trong RFC 2474. RFC
2474 định nghĩa kiến trúc Diffserv cho cả IPv4 và IPv6.
Điều thú vị trong thực thi IPv4 của RFC 2474 là, mặc dù Diffserv hoàn toàn đã
được định nghĩa lại nhưng nó vẫn có khả năng tương thích với các thông số kỹ
thuật RFC 2475 gốc. Điều này có nghĩa rằng các router cũ trước đây không hề hay
về các thông số kỹ thuật mới vẫn có thể hiểu được các ưu tiên được gán.
Việc thực thi Diffserv hiện hành đang sử dụng một octet (bộ tám số) Type of
Service (TOS) của mỗi gói để lưu giá trị của Diffserv (đôi khi vẫn được biết đến
như giá trị DSCP). Bên trong octet này, 6 bit đầu tiên lưu giá trị DSCP và hai bit
cuối cùng chưa được sử dụng (để dành). Lý do tại sao việc đánh dấu lại tương
thích với các thông số kỹ thuật RFC 2475 là vì RFC 2475 yêu cầu ba bit đầu tiên
của cùng bộ octet này được sử dụng cho thông tin về thứ tự IP. Nên mặc dù các giá
trị DSCP có chiều dài 6 bit nhưng 3 bit đầu tiên vẫn được dành cho thứ tự IP.
Giống như việc đánh dấu 802.1p mà chúng tôi đã giới thiệu cho trong phần trước,
bạn có thể điều chỉnh các thứ tự ưu tiên của Diffserv thông qua các thiết lập chính
sách nhóm. Trước khi giới thiệu cho các bạn về cách thực hiện như thế nào, chúng
tôi có liệt kê các mức đánh dấu ưu tiên Diffserv mặc định được sử dụng bởi
Windows.
Đánh dấu ưu tiên
Kiểu dịch vụ
0
Nỗ lực tốt nhất
0
Chất lượng
24
Tải được điều khiển
40

Dịch vụ được bảo vệ
48
Điều khiển mạng
Bạn có thể thấy rằng các mức ưu tiên của Diffserv sử dụng một dải khác hoàn toàn
với những gì trong 802.1P thực hiện. Không chỉ hỗ trợ cho dải từ 0 đến 7, Diffserv
hỗ trợ dải đánh dấu ưu tiên từ 0 tới 63, số càng cao sẽ có mức ưu tiên càng cao.
Như đã được đề cập, Windows cho phép bạn định nghĩa các mức ưu tiên của
Diffserv thông qua các thiết lập chính sách nhóm. Bạn phải lưu ý rằng, với một số
mức ưu tiên cao, các router sẽ gán giá trị Diffserv của chính bạn cho các gói dữ
liệu mà không quan tâm đến giá trị chúng được gán bởi Windows.
Với lưu ý đó, bạn có thể cấu hình các mức ưu tiên của Diffserv bằng cách mở
Group Policy Editor, và điều hướng thông qua giao diện điều khiển từ Computer
Configuration \ Administrative Templates \ Network \ QoS Packet Scheduler.
Nếu quan sát trong hình B, bạn sẽ thấy có hai mục có liên quan đến DSCP ở bên
trong mục QoS Packet Scheduler. Một trong các mục này sẽ cho phép bạn thiết lập
các mức đánh dấu ưu tiên của DSCP cho các gói dữ liệu phù hợp với thông số kỹ
thuật, còn mục kia sẽ cho phép bạn thiết lập các mức đánh dấu ưu tiên cho gói
không phù hợp. Bản thân các thiết lập đều giống hệt nhau trong cả hai mục, xem
thể hiện trong hình C.
Hình B: Windows quản lý các mức đánh dấu sự ưu tiên của DSCP một cách riêng
rẽ cho các gói phù hợp với thông số kỹ thuật và các gói không phù hợp.
Hình C: Bạn có thể gán các mức đánh dấu ưu tiên DSCP cho các kiểu dịch vụ khác
nhau
PHẦN 3: IP
P (tiếng Anh: Internet Protocol - Giao thức Liên mạng) là một giao thức hướng dữ
liệu được sử dụng bởi các máy chủ nguồn và đích để truyền dữ liệu trong một liên
mạng chuyển mạch gói thông qua các địa chỉ IP.
Trong đó đị chỉ IP là một số duy nhất nhất mà những thiết bị điện tử hiện nay đang
gán để nhận diện và liên lạc với nhau trênmạng máy tính bằng cách sử dụng giao
thức Internet.

Mỗi địa chỉ IP là duy nhất trong cùng một cấp mạng.
Một cách đơn giản hơn: IP là một địa chỉ của một máy tính khi tham gia vào mạng
nhằm giúp cho các máy tính có thể chuyển thông tin cho nhau một cách chính xác,
tránh thất lạc
Dữ liệu trong một liên mạng IP được tách và gửi thành nhiều gói được gọi là
các gói (packet hoặc datagram), đánh số, ghi địa chỉ đến, kiểm soát lỗi. Cụ thể, IP
không cần thiết lập các đường truyền trước khi một máy chủ gửi các gói tin cho
một máy khác mà trước đó nó chưa từng liên lạc với
Giao thức IPhầu như không đảm bảo gì về gói dữ liệu. Gói dữ liệu có thể đến nơi
mà không còn nguyên vẹn, nó có thể đến không theo thứ tựnó có thể bị trùng lặp
hoặc bị mất hoàn toàn. Nếu một phần mềm ứng dụng cần được bảo đảm, nó có thể
được cung cấp từ nơi khác, thường từ các giao thức giao vận nằm phía trên IP.
Các thiết bị định tuyến liên mạng chuyển tiếp các gói tin IP qua các mạng tầng liên
kết dữ liệu được kết nối với nhau. Việc không có đảm bảo về gửi dữ liệu có nghĩa
rằng các chuyển mạch gói có thiết kế đơn giản hơn.Tuy nhiên, khi lỗi xảy ra không
thường xuyên sẽ không có hiệu quả đủ xấu đến mức người dùng nhận thấy được.
1. Tìm hiểu về giao thức Internet phiên bản 4 :
Giao thức Internet phiên bản 4 (viết tắt IPv4, từ tiếng Anh Internet Protocol
version 4) là phiên bản thứ tư trong quá trình phát triển của các giao thức
Internet (IP). Đây là phiên bản đầu tiên của IP được sử dụng rộng rãi. IPv4 cùng
với IPv6 (giao thức Internet phiên bản 6) là nòng cốt của giao tiếp internet. Hiện
tại, IPv4 vẫn là giao thức được triển khai rộng rãi nhất trong bộ giao thức của lớp
internet.
Giao thức này được công bố bởi IETF trong phiên bản RFC 791 (tháng 9 năm
1981), thay thế cho phiên bản RFC 760 (công bố vào tháng giêng năm 1980). Giao
thức này cũng được chuẩn hóa bởi bộ quốc phòng Mỹ trong phiên bản MIL-STD-
1777.
IPv4 là giao thức hướng dữ liệu, được sử dụng cho hệ thống chuyển mạch gói
(tương tự như chuẩn mạng Ethernet). Đây là giao thức truyền dữ liêu hoạt động
dựa trên nguyên tắc tốt nhất có thể, trong đó, nó không quan tâm đến thứ tự truyền

gói tin cũng như không đảm bảo gói tin sẽ đến đích hay việc gây ra tình trạng lặp
gói tin ở đích đến. Việc xử lý vấn đề này dành cho lớp trên của chồng giao
thức TCP/IP. Tuy nhiên, IPv4 có cơ chế đảm bảo tính toàn vẹn dữ liệu thông qua
sử dụng những gói kiểm tra (checksum).
IPv4 sử dụng 32 bits để đánh địa chỉ, theo đó, số địa chỉ tối đa có thể sử dụng là
4.294.967.296 (2
32
). Tuy nhiên, do một số được sử dụng cho các mục đích khác
như: cấp cho mạng cá nhân (xấp xỉ 18 triệu địa chỉ), hoặc sử dụng làm địa chỉ
quảng bá (xấp xỉ 16 triệu), nên số lượng địa chỉ thực tế có thể sử dụng cho mạng
Internet công cộng bị giảm xuống. Với sự phát triển không ngừng của mạng
Internet, nguy cơ thiếu hụt địa chỉ đã được dự báo, tuy nhiên, nhờ công
nghệ NAT (Network Address Translation - Chuyển dịch địa chỉ mạng) tạo nên hai
vùng mạng riêng biệt:Mạng riêng và Mạng công cộng, địa chỉ mạng sử dụng ở
mạng riêng có thể dùng lại ở mạng công công mà không hề bị xung đột, qua đó trì
hoãn được vấn đề thiếu hụt địa chỉ
32 bits địa chỉ của IP được chia thành 4 nhóm (dạng phân nhóm - dotted format),
mỗi nhóm gồm 8 bits (gọi là một octet), các nhóm này phân cách nhau bởi dấu
chấm
Địa chỉ IPv4 dạng 192.168.1.1
II. Tìm hiểu về giao thức liên mạng thế hệ 6:
Giao thức liên mạng thế hệ 6 (IPv6, viết tắt tiếng Anh:
"Internet Protocol version 6"), một phiên bản của giao thức liên mạng (IP) nhằm
mục đích nâng cấp giao thức liên mạng phiên bản 4 (IPv4 hiện đang truyền dẫn
cho hầu hết
[1]
lưu lượng truy cập Internet nhưng đã hết địa chỉ. IPv6 cho phép tăng
lên đến 2
128
địa chỉ, một sự gia tăng khổng lồ so với 2

32
(khoảng 4.3 tỷ) địa chỉ của
IPv4.
Để đưa IPv6 vào sử dụng, hầu hết các máy chủ trên mạng Internet cũng như các
mạng lưới kết nối với chúng sẽ cần phải triển khai giao thức này với một quá trình
chuyển đổi khó khăn. Trong khi các nước đang tăng tốc triển khai IPv6, đặc biệt là
ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và một số nước Châu Âu, thì ở Châu
Mỹ và Châu Phi tương đối chậm trong quá trình này. Mỗi máy tính cần ít nhất một
địa chỉ IP để có thể truy cập Internet; Địa chỉ IP hiện nay đang sử dụng thuộc thế
hệ 4 (IPv4) sử dụng 32 bit để mã hóa địa chỉ. Theo lý thuyết thì IPv4 chứa hơn 4 tỷ
địa chỉ và có thể cấp phát hết trong năm 2011. Chính điều này thúc đẩy sự ra đời
một thế hệ địa chỉ Internet mới IPv6.
IPv6 được thiết kế với hi vọng khắc phục những hạn chế vốn có của địa chỉ IPv4
như hạn chế về không gian địa chỉ, cấu trúc định tuyến và bảo mật đồng thời đem
lại những đặc tính mới thỏa mãn các nhu cầu dịch vụ của thế hệ mạng mới như khả
năng tự động cấu hình mà không cần hỗ trợ của máy chủ DHCP, cấu trúc định
tuyến tốt hơn, hỗ trợ Multicast, hỗ trợ bảo mật và di động tốt hơn.
Địa chỉ IPv6 được viết bằng cách sử dụng tám khối bốn chữ số thập lục phân. Mỗi
khối cách nhau bằng dấu hai chấm, đại diện cho một số 16-bit.
Dạng IPv6: 2001:0f68:0000:0000:0000:0000:1986:69af
Bạn có thể rút gọn địa chỉ IPv6 ở các khối 0000 thành một số 0 duy nhất:
2001:0f68:0:0:0:0:1986:69af
hoặc rút gọn các số 0 gần nhau từ ’0:0:0′ thành ‘::’ như 2001:0f68::1986:69af
NetID của IPv6 gồm 64 bits, theo ví dụ trên thì NetID của IP này
là 2001:0f68:0000:0000 (ta cứ nhớ 4 khối đầu là chỉ NetID)
Nếu máy bạn đang sử dụng IPv6 và muốn truy cập vào website sử dụng IPv4. Để
làm được điều đó, nhà cung cấp dịch vụ (ISP) sử dụng công cụ NAT64 (tích hợp
sẵn trên thiết bị) để nén địa chỉ IPv4 của website vào IPv6 giúp máy tính của bạn
hiểu được.
Hiện IPv6 đang được chuẩn hóa từng bước và đưa vào sử dụng thực tế tuy nhiên

quá trình chuyển đổi hệ thống mạng từ IPv4 sang IPv6 còn gặp nhiều vấn đề từ
thiết bị không đồng bộ, các nhà cung cấp dịch vụ Internet, kiến thức người sử dụng
và quản lý mạng…
1. Ứng dụng của địa chỉ IP:
Trong mạng, thiết bị nào cũng phải có địa chỉ riêng cho mỗi kết nối. Nhờ địa chỉ
này, các gói tin trao đổi giữa hệ thống máy tính (máy chủ, máy khách) mới được
nhận biết để chuyển đi.
IP riêng tư là địa chỉ IP dùng cho các cá nhân, tổ chức sử dụng trong các hệ thống
mạng cục bộ (LAN) không kết nối với Internet. Dải địa chỉ IP này được sử dụng tự
do, không có giá trị quốc tế và không chịu sự quản lý của cơ quan chức năng.
IP công cộng là địa chỉ IP dùng để nhận dạng thiết bị mạng trên hệ thống mạng
toàn cầu (Internet). Khi muốn sử dụng địa chỉ IP dạng này cần đăng ký với cơ quan
chức năng và chịu sự quản lý của họ.
Địa chỉ IP rất hữu ích cho việc dò tìm và giải quyết các vấn đề về xâm nhập cũng
như các mối nguy hiểm từ Internet. Những địa chỉ IP này đồng thời cũng giúp giảm
spam thư điện tử hoặc khi bạn nhận được những bức thư với những lời đe dọa hay
các loại virut nguy hiểm có thể xâm nhập thông qua thư điện tử.
Địa chỉ IP giúp xác định vị trí của máy tính, từ đó con người có thể truy tìm vị trí
của người sử dụng. Điều này rất hữu ích trong việc truy tìm tội phạm
PHẦN 4 : Diffserv
1.3. Mô hình Diffserv và các chuẩn RFC về phân
chia loại dịch vụ trong mạng thông tin di
động:
Differentiated Services (DiffServ) là mô hình mới
nhất trong ba mô hình của QoS và việc phát triển nó
nhằm mục đích là giải quyết được những giới hạn của các
mô hình trước đó. DiffServ không phải là một mô hình có
thể đảm bảo hoàn toàn QoS cho ứng dụng, nhưng nó là
mô hình có khả năng mở rộng rất cao. Trong khi IntServ
được gọi là mô hình “Hard QoS” thì DiffServ được gọi là

mô hình “Soft QoS”.
Sau đây là ba điểm chính yếu của mô hình
DiffServ:6
 Traffic mạng được phân lớp.
 Các chính sách QoS áp đặt các cách ứng xử
phân biệt lên các lớp traffic được định nghĩa từ
trước.
 Các lớp traffic và chính sách được định nghĩa
dựa trên các yêu cầu kinh doanh; người quản trị
sẽ lựa chọn cấp độ dịch vụ cho mỗi lớp traffic.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×