Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Đề văn lớp 8- sưu tầm đề kiểm tra, thi học sinh giỏi bồi dưỡng (124)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.62 KB, 26 trang )

Chứng minh tình yêu thương đất nước yêu thiên nhiên , yêu con người qua văn bản lớp 8 " Khi con Tu Hú " và "?
1. Mở bài:
- Dẫn dắt
- Nêu luận điểm chung: Qua các tác phẩm của mình các nhà văn, nhà thơ đã thể hiện tình cảm thiết tha của mình
đối với thiên nhiên đất nước.
2. Thân bài:
LĐ1: Với "Cảnh Khuya", Hồ Chí Minh đã bộc lộ lòng yêu thiên nhiên, đất nước rất tha thiết.
Yêu thiên nhiên:
- Mở các giác quan để cảm nhận thiên nhiên:
+ Thính giác: tiếng suối = tiếng hát xa (cảm nhận tinh tế)
+ Thị giác: Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa (phân tích hình ảnh này ở phương diện trực tiếp và gián tiếp => rất
khéo)
- Tâm hồn của Người:
+ Yêu thiên nhiên: Trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ, tâm hồn của Người vẫn rất ung dung, khoan khoái trước
vẻ đẹp kì diệu mà thiên nhiên ban tặng.
+ Yêu nước thương dân: lo lắng cho vận mệnh nước nhà
- Chú ý: Đây là sự kết hợp chặt chẽ và hài hoà tâm hồn chiến sĩ và tâm hồn nghệ sĩ.
- Những cảm nhận vô cùng tinh tế đã chỉ ra được tình yêu quê hương thiên nhiên đất nước đầy lãng mạn.
LĐ2: Chốn tù ngục khó khăn vẫn không làm tình yêu thiên nhiên đất nước của Tố Hữu phai nhạt mà còn thêm
mãnh liệt cùng niềm khát khao tự do chãy bỏng.
Yêu thiên nhiên:
- Cảnh màu hè
+ Lúa chiêm, cây trái
+ tiếng ve # có thể là tiếng ve ngoài không gian
# có thể là tiếng gọi thôi thúc trong tâm trí nhà thơ, là tiếng gọi của tự do
+ Bắp rây, nắng đào
+ Sáo diều "lộn nhào" : khát vọng tự do mãnh liệt
- Tâm hồn: nhức nhối, khó chịu
+ Muốn "chết uất"
+ Chân muốn đạp tan phòng
-> Sử dụng động từ mạnh -> muốn toát khỏi lao tù, trở về với tự do


Yêu đất nước
- Niềm khát khao tự do đến cháy bỏng (chú ý đến hoàn cảnh sáng tác bài thơ) : Người thanh niên Tố Hữu lúc này
như được chiếu sáng tâm hồn bởi ánh sáng cách mạng. Dường như ông muốn được tự do, được phục vụ đất nước.
- Chú ý: Giọng điệu thiết tha, giản dị.
LĐ3: Để có được những vần thơ hay trong "Quê hương" Tế Hanh phải trải qua những cung bậc của cảm xúc yêu
quê da diết.
- Cảnh dân chài đi đánh cá:
+ Trời trong gió nhẹ sớm mai hồng: Ngỳa đẹp trời hức hẹn một vụ cá bội thu.
+ Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
+ Thuyền = tuấn mã
+ Cánh buồm = mảnh hồn làng
- Cảnh đoàn thuyền trở về:
+ Những con cá tươi ngon thân bạc trắng
+ Dân làng chài làn da ngăm rám nắng
+ Chiếc thuyền im bến ỏi về nằm ( = nhà hiền triết cảm nhận dư vị muối biển trong thớ vỏ, trong da thịt mình)
-> Với những vần thơ giản dị mà gợi cảm, tác giả đã vẽ nên một bức tranh quê hương yên bình, bày tỏ nỗi nhớ và
tình yêu tha thiết đối với quê mình.
3. Kết bài:
1
Khẳng định lại luận điểm
Phân tích bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu
Trong bóng tối mịt mờ chốn lao tù, dường như sự sống đã chấm dứt hẳn, bởi lạnh giá, bởi cô độc. Vậy mà, giữa
những âm thanh khô khốc, chói tai của tiếng xiềng xích, vẫn vang lên nhịp tim thổn thức, rạo rực của một hồn thơ
trẻ tha thiết yêu đời, yêu người. Tố Hữu, bằng cảm xúc chân thật của mình, đã cất lên tiếng nói tâm tình tha thiết của
người chiến sĩ cộng sản suốt đời chiến đấu cho lí tưởng và tâm hồn khát khao tự do đến cháy bỏng trong bài thơ “Khi
con tu hú”.
Nhan đề bài thơ là một sự diễn đạt chưa trọn ý một cách kì lạ. Kì lạ bởi chính chỗ chưa trọn vẹn đó đã mở ra bao nhiêu
liên tưởng. Giờ đây, người ta không còn thấy bóng dáng cô đơn, nặng nề của người tù Tố Hữu mà chỉ nghe tiếng lòng nhà
thơ đang rộn ràng, ngân vang khi đón nhận lấy tiếng chim tu hú từ xa rộn về. Tu hú gọi bầy là âm thanh hết sức quen
thuộc ở chốn làng quê Việt Nam, báo hiệu cho sự chuyển mình của sự sống - mùa hè về. Lúc này, khi con tu hú gọi bầy,

trong hoàn cảnh tách biệt với cuộc sống bên ngoài, người chiến sĩ cách mạng càng cảm thấy ngột ngạt hơn, tù túng hơn,
vì vậy mà càng thêm khát khao cháy bỏng hướng đến cuộc sống tự do tươi đẹp bên ngoài:
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào tầng không.”
Mười chín tuổi, còn trẻ trung, bồng bột, người thanh niên Tố Hữu đã tìm thấy cho mình lí tưởng cao đẹp cuộc đời. Những
bước đi không mỏi mệt trên chặng đường chông gai, phút chốc phải dừng đột ngột, bị bó buộc tù hãm khiến cho Tố Hữu
không khỏi có lúc thốt lên chua xót: “Cô đơn thay là cảnh thân tù”. Nhưng rồi phút giây ấy cũng nhanh chóng đi qua,
nhường chỗ cho không gian cảnh vật tràn trề nhựa sống: những bông luá chín, hạt bắp vàng, ánh nắng đào, trời xanh
rộng, đôi sáo diều, tiếng ve ngân
Phải có một sự tưởng tượng lãng mạn, bay bổng và một tâm hồn mến yêu sự sống sâu sắc mới có thể vẽ lại toàn bộ bức
tranh phong cảnh mùa hè sống động đến vậy. Thiên nhiên hiện lên tuyệt đẹp kia không phải là hiện thực, tất cả chỉ là sự
tưởng tượng của một tâm hồn mơ mộng khi căng tất cả các giác quan để nghe, để nhìn, để ngửi, để cảm nhận không khí
hè qua tiếng gọi bầy của tu hú. Chỉ bằng vài đường nét, màu sắc, âm thanh, nhà thơ đã phơi bày một bức tranh đầy nhựa
sống với cánh đồng lúa chiêm quen thuộc của quê hương đã bao lần đi vào thơ Tố Hữu:
“Đây từng ô mạ xanh mơn mởn
( )
Ôi ruộng đồng quê hương thương nhớ ơi!”
Giờ đây lại hiện về trong trạng thái căng đầy nhất, viên mãn nhất, lúa ngả vàng, ngả sang màu niềm vui, là màu vàng rực
rỡ của mùa hè, của mồ hôi kết tinh thành hạt thóc.
Với một tâm hồn lãng mạn tinh tế, Tố Hữu đã cảm nhận sự thay đối của màu nắng với nhiều góc độ: từ ánh nắng của “đôi
ánh lạt ban chiều” (Tâm tư trong tù), ánh nắng yếu ớt dễ bóp nghẹt bởi bóng tối tới một “ánh nắng đào” giữa mùa hè, lấp
đi dấu ấn của “vườn râm”. Câu thơ là một không gian thoải mái với sắc hồng kì lạ. Đó là thứ ánh sáng êm dịu, hiền hậu,
vỗ về cho con người trước những mất mát, đau khổ trong cuộc đời. Có lẽ từ chính sự gặp gỡ tuyệt diệu của chàng thanh
niên trẻ tuổi:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”

đã khiến cho ánh nắng mùa hè có sự thay đổi tinh tế đến vậy. Và sự xuất hiện của bầu trời trong vắt như mặt nước yên
bình nâng tầm bay cho các cánh diều đã đẩy tầm nhìn, tầm nhận thức của nhà thơ lên đến độ sâu nhất, xa nhất, cao nhất:
2
“Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”
Thấp thoáng trong ánh nhìn người tù, là một không gian mở rộng đến vô cùng vô tận. Mặc dù có thể lúc ấy ánh nhìn của
nhà thơ - chiến sĩ có phần bị che khuất đi bởi chấn song nhà tù chật hẹp. Trên bầu trời lúc này không phải là một mình lẻ
loi, con sáo diều cũng có đôi, có cặp, có được sự tự do bay lượn trong vùng trời riêng kia. Huống chi là con người. Vậy
mà, thực tế thì sao? Con người cô đơn, cô đơn hơn bao giờ hết, và mất tự do.
Không ngẫu nhiên mà bài thơ có sự bổ đôi của hai câu thơ lục bát. Nhà thơ diễn tả bức tranh mùa hè sống động đối lập
với cảnh mùa đông trong ngục tối đã làm nổi bật lên khát vọng cháy bỏng của người chiến sĩ trên con đường tìm đến tự
do. bốn câu thơ kết đã lắng lại cho tiếng lòng náo nức bật lên:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết mất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”
Khổ thơ là lời bộc lộ trực tiếp cho tâm tư con người. Bốn câu cảm thán là sự dồn nén những cảm xúc mãnh liệt của một
trái tim đau khổ, uất hận vì mất tự do. Nhà thơ nghe hè, cảm nhận hè chỉ qua tiếng chim tu hú gọi bầy. Hè đã đến, ba
tháng trong ngục tối cũng đã trôi qua, lòng người thanh niên đầy nhiệt huyết càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn tiếng gọi lên
đường, tiếng gọi của tự do.
Từ trong sâu thẳm tâm tư mình, người tù đã nhận ra tất cả cuộc sống náo nức, vui tươi bên ngoài lúc chỉ là tưởng tượng,
bởi đó là tất cả những hình ảnh tồn tại trong trí nhớ của nhà thơ. Đó là những cánh đồng, những vườn cây trái, những
vườn râm. Còn hiện tại, kẻ thù đang giày xéo quê hương, đã biến bao đồng quê thành hoang mạc và thực chất không gian
tự do mà nhà thơ khát khao bên ngoài kia cũng chỉ là một không gian tù hãm, một cái lồng to giam chí lớn, như chụp lên
cuộc sống con người, lên quê hương. Cho nên, khổ thơ là sự bừng tỉnh của lí trí, là tâm trạng uất ức, ngột ngạt muốn đạp
bỏ tất cả, tìm đến không gian tự do, tự tại thật sự. Bằng cách ngắt nhịp mạnh kết hợp với những từ ngữ mạnh mẽ: “đạp
tan”, “chết uất”, câu thơ đã tập trung cao độ tinh thần yêu đời, yêu người cháy bỏng.
Tiếng kêu tu hú cứ day đi day lại cả bài thơ, như thúc giục, như lời thôi thúc người tù vượt thoát cảnh giam cầm, tìm về
với tự do. Có lẽ vì vậy mà ba năm sau, Tố Hữu đã vượt ngục và quay về đội ngũ, để làm tròn ước nguyện cống hiến tất cả
cuộc đời cho cách mạng.

“Khi con tu hú” là một bài thơ kết hợp hài hoà của cảnh và tình. Cảnh mở ra rạo rực, tha thiết, tình lắng đọng da diết,
trầm buồn. Với tâm hồn dân tộc, ngòi bút linh hoạt, mềm mại, Tố Hữu xứng đáng với danh hiệu con chim đầu đàn trong
nền thơ ca cách mạng Việt Nam.
ĐỀ THI KHẢO SÁT HỌC SINH GIỎI LỚP 8
Câu 1: (3.0đ)
Chỉ ra và phân tích giá trị biểu đạt của các biện pháp tu từ trong đoạn thơ sau:
“ Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan ?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới ? ”
(Trích: Tác phẩm “Nhớ rừng” – Thế Lữ)
3
Câu 2: (7đ)“ Đọc sách là một công việc vô cùng bổ ích, vì nó giúp ta hiểu biết thêm về cuộc sống”, hãy trình bày suy nghĩ
của em về lời nhận xét trên.
Câu 3: ( 10đ)Trong bài đề từ trên trang bìa tập “Nhật kí trong tù” - Hồ Chí Minh, có hai câu thơ:
“Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao”
Em hãy phân tích bài thơ “Ngắm trăng” trích trong “Nhật kí trong tù” để làm sáng tỏ ý chính của hai câu thơ trên.
Hết
HƯỚNG DẪN CHẤM BÀI KHẢO SÁT HỌC SINH GIỎI LỚP 8
Câu Nội dung Điểm
Câu 1
( 3đ)
Chỉ ra và phân tích hiệu quả biểu đạt của các biện pháp tu từ:
+ Ẩn dụ: “ đêm vàng” là những đêm trăng sáng, những đêm tự do trong quá khứ của con hổ.
+ Phân tích: Ánh trăng sáng bao trùm khắp không gian, thấm đẫm lên những cành cây, kẽ
lá…gợi một khung cảnh thiên nhiên đẹp, thơ mộng và huyền ảo. Đó cũng là những đêm tự do trong
quá khứ của con hổ, con hổ làm chủ không gian rộng lớn bao la.
+ Điệp từ “ta” : nhấn mạnh và khẳng định vị thế và uy quyền ngự trị tuyệt đối của con hổ.
+ Câu hỏi tu từ “ Nào đâu…”, “ Đâu những…” khẳng định những quá khứ đẹp đẽ, vị thế và

sự oai hùng không còn nữa và càng xoáy sâu vào nỗi đau đớn, nuối tiếc khôn nguôi của con hổ khi
nghĩ về quá khứ.
1,0
1.0
1.0
Câu 2
( 7.0đ)
+ Về kĩ năng: Học sinh biết viết viết văn nghị luận đúng chủ đề, hành văn mạch lạc, lập luận chặt
chẽ, rõ ràng, dễ hiểu, thuyết phục được người đọc. Biết thực hiện kết hợp các thao tác nghị luận như:
phân tích, tổng hợp, so sánh, giải thích, chứng minh, nhận xét, đánh giá…
+ Về nội dung: Học sinh có thể triển khai theo cách khác nhau nhưng phải đảm bảo những ý cơ bản
sau:
- Vai trò, tầm quan trọng của việc đọc sách: Sách kết tinh học vấn, trí tuệ, tư tưởng, tâm hồn của nhân
loại. Sách là kho kiến thức vô cùng rộng lớn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống. Sách ghi chép và
truyền đạt cho con người những hiểu biết mà con người cần tìm hiểu.
- Sự cần thiết, bổ ích của việc đọc sách: Con người muốn nâng cao học vấn, hiểu biết về các lĩnh vực
của đời sống thì việc cần thiết là phải đọc sách. Đọc sách là thừa hưởng những giá trị quý báu của
nhân loại. Có niều loại sách cho người đọc lựa chọn như sách giải trí giúp con người thư giãn; sách
chuyên môn giúp con người nghiên cứu, tìm hiểu đê nâng cao vốn hiểu biết trong nhiều lĩnh vực như
lịch sử, địa lý, khoa học kĩ thuật, y học……
- Liên hệ so sánh tầm quan trọng của việc đọc sách đối với bản thân.
1.0
2.0
2.0
2.0
Câu 3
( 10đ)
* Yêu cầu chung:
+Kiểu bài: Phân tích tác phẩm kết hợp với chứng minh
+Nội dung: Phân tích bài thơ “Ngắm trăng” để thấy được mặc dù bị giam cầm về thể xác nhưng

song sắt nhà tù không thể giam hãm được tinh thần của người tù- người chiến sỹ cách mạng Hồ Chí
Minh.
*Yêu cầu cụ thể:
A-Mở bài
-Giới thiệu khái quát về Hồ Chí Minh và tập thơ “Nhật kí trong tù”
-Một trong những vẻ đẹp về nội dung của tập nhật kí đồng thời cũng là vẻ đẹp của con người Hồ
Chí Minh là sự vượt ngục về tinh thần, điều đó thể hiện rõ ngay từ lời đề từ mở đầu tập nhật kí (Trích
dẫn 2 câu thơ trong bài đề từ) và được thể hiện cụ thể, sinh động trong bài thơ “Ngắm trăng”.
B-Thân bài
1-Giải thích nội dung ý nghĩa hai câu thơ trong bài đề từ tập nhật kí trong tù
1.0
1.0
4
Là lời khẳng đinh mặc dù bị giam hãm trong tù ngục nhưng song sắt nhà tù chỉ giam cầm được thể
xác chứ không giam hãm được tinh thần của người tù- người chiến sỹ cách mạng Hồ Chí Minh
2- Chứng minh nội dung ý thơ qua bài thơ “Ngắm trăng”
Bài thơ “Ngắm trăng” là một trong những bài thơ tiêu biểu thể hiện rõ nhất cho lời khẳng định
“Thân thể ở trong lao/ Tinh thần ở ngoài lao”
*Hai câu đầu:
+Hoàn cảnh ngắm trăng của người tù hết sức đặc biệt: mất tự do về thân thể (trong tù), thiếu “rượu”,
“hoa” những thứ không thể thiếu khi thưởng nguyệt của các thi nhân xưa. Điệp ngữ “không” khẳng
định sự thiếu thốn trong cảnh ngục tù đày.
+Tuy nhiên, trước đêm trăng đẹp tâm hồn thi sĩ đã bối rối, xúc động, xốn xang. Học sinh cần phân
tích câu thơ phiên âm để thấy được tâm trạng cảm xúc của Bác: Câu hỏi tu từ “Đối thử lương tiêu nại
nhược hà” biểu hiện tâm trạng của Bác trước cảnh đẹp đêm trăng.
*Hai câu cuối
+Vượt lên trên cảnh ngộ, những thiếu thốn của chốn lao tù, Bác mở rộng hồn mình để cảm nhận vẻ
đẹp của đêm trăng. Biện pháp đối ngữ (nhân- minh nguyệt, nguyệt- thi gia) , nghệ thuật nhân hóa,
cách sử dụng từ “khán” thay cho “vọng” ở nhan đề thể hiện mối quan hệ bạn bè tri âm, tri kỉ giữa
trăng với người tù.

+Sự giao hòa giữa Bác với vầng trăng biểu thị tình yêu thiên nhiên, tinh thần lạc quan, sự tự do nội
tại cao độ, khát vọng tự do, là cuộc vượt ngục bằng tinh thần của Bác.
+Mở đầu bài thơ là hình ảnh người tù nhưng kết thúc bài thơ chỉ có hình ảnh “thi gia”, kẻ thù chỉ có
thể giam cầm thân thể Bác chứ không giam hãm được tâm hồn Bác đúng như Bác đã từng viết “Thân
thể ở trong lao/ Tinh thần ở ngoài lao”
3- Đánh giá: Ngắm trăng là thi phẩm đặc sắc trong “ Nhật kí trong tù”. Với người tù Hồ Chí Minh,
trăng tượng trưng cho vẻ đẹp cao quý, thanh bình. “Ngắm trăng” cho ta hiểu sâu hơn về tình yêu thiên
nhiên thắm thiết và phong thái ung dung tự tại của Hồ Chí Minh ngay cả trong ngục tù tăm tối. Song
sắt nhà tù trở nên vô nghĩa. Nhà tù có thể giam cầm Hồ Chí Minh về thể xác nhưng không thể nào
giam hãm tinh thần tự do của Bác. Giữa Bác và trăng luôn có mối quan hệ gần gũi, tri âm, tri kỉ.
C-Kết bài
Bài thơ “Ngắm trăng” thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, bản lĩnh, ý chí, nghị lực của Hồ Chí Minh trong hoàn
cảnh lao tù, đó là biểu hiện của “chất thép” sáng ngời trong thơ của Bác cũng như trong tập nhật kí
trong tù.
0.5
1.0
1.5
1.0
1.0
1.0
1.0
1.0
Vi sao noi bai tho ngam trang la cuoc vuot nguc tinh than cua Bac?
Luận điểm một :
- cảnh tù ngục đầy khốn khổ của người tù : bốn bức tường lạnh lẽo , quánh đặc bởi không khó ngột ngạt pha loãng với
tiếng xiềng xích rợn người.
- Hoàn cảnh trớ trêu : trăng sáng vằng vặc, kiêu hãnh tỏa ánh vàng trên bầu trời tự do, kẻ yêu trăng lại bị giam giữ nơi
tù ngục, thiếu thốn trăm bề, và đáng tiếc nhất, đó là sự thiếu thốn về thi liệu. Người xưa, muốn thưởng trăng thì phải có
rượu có hoa, và có thơ , ở cảnh tù ngục thì lấy đâu ra những thi liệu cao quý ấy : lấy đâu rượu, đâu hoa và đâu kẻ tâm
giao để cùng nhau họa thơ thưởng nguyệt

Luận điểm 2 : Vượt ngục tinh thần
-Dù thiếu thốn, nhưng, như một quy luật tự nhiên, trăng tỏa mộng vào con người cũng mở hồn để đón lấy ánh trăng
lung linh ấy. Hai câu thơ cuối đã đạt đến mức đỉnh cao của nghệ thuật đăng đối và sắp xếp hình ảnh thơ , khắc họa thật
độc đáo không gian khung cảnh ngắm trăng lạ kì của người tù : cả 2 câu thơ đều bắt đầu và kết thúc là "trăng và người
" ( nhân- nguyệt, nguyệt - thi gia). thế nhưng, giữa người và trăng lại có tấm song sắt nhà tù ngăn trở. Song, người tù đã
quên đi cảnh ngộ bị giam cầm để thả hồn theo trăng, hướng tầm mắt đến bầu trời cao rộng tự do đẫm ánh vàng, trăng
cúng tỏa ánh đến tận phòng giam để tìm kẻ iêu trăng mà sẻ chia, tâm sự. Trăng và người cùng gắn bó, bền chặt ,hân
hoan trong tình bạn tâm giao bền chặt/ Và giây phút giao cảm giữa người và trăng đã xóa tan đi mọi xiềng xích, cùm
sắt và đâu thương, Người "tù nhân" thoắt cái trở thành thi nhân => đây là cuộc vượt ngục tinh thần lớn lao. Câu thơ kết
thúc thật đẹp : k còn tù nhân, k còn tù ngục, chỉ còn lại thơ, trăng và tâm hồn nghệ sĩ- chiến sĩ dạt dào tha thiết.
-Thâ- : tham khảo bạn nhé , dàn ý thôi
Nhà văn Hoài Thanh có nói: “Thơ Bác đầy trăng”. Thật vậy, Bác đã viết nhiều bài thơ trăng. Trong số đó, bài “Ngắm trăng”
5
là bài thơ tuyệt tác, mang phong vị Đường thi, được nhiều người ưa thích. Nguyên tác bằng chữ Hán, đây là bản dịch bải
thơ:
NGẮM TRĂNG
“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.
Bài thơ rút trong “Nhật ký trong tù”; tập nhật ký bằng thơ được viết trong một hoàn cảnh đoạ đầy đau khổ, từ tháng 8-1942
đến tháng 9-1943 khi Bác Hồ bị bọn Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ. Bài thơ ghi lại một cảnh ngắm trăng trong
nhà tù, qua đó nói lên một tình yêu trăng, yêu thiên nhiên tha thiết. Đọc bài thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện.
Hai câu thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện. Đang sống trong nghịch cảnh, và đó cũng là sự thật “Trong tù không rượu
cúng không hoa” thế mà Bác vẫn thấy lòng mình bối rối, vô cùng xúc động trước vầng tăng xuất hiện trước cửa ngục đêm
nay. Một niềm vui chợt đến cho thi nhân bao cảm xúc, bồi hồi.
Trăng, hoa, rượu là ba thú vui tao nhã của khách tài tử văn chương. Đêm nay trong tù, Bác thiếu hản rượu và hoa, nhưng
tâm hồn Bác vẫn dạt dào trước vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên. Câu thơ bình dị mà dồi dào cảm xúc. Bác vừa băn khoăn,
vừa bối rối tự hỏi mình trước nghịch cảnh: Tâm hồn thì thơ mộng mà chân tay lại bị cùm trói, trăng đẹp thế mà chẳng có
rượu, có hoa để thưởng trăng?

“Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”.
Sự tự ý thức về cảnh ngộ đã tạo cho tư thế ngắm trăng của người tù một ý nghia sâu sắc hơn các cuộc ngắm trăng, thưởng
trăng thường tình. Qua song sắt nhà tù, Bác ngắm vầng trăng đẹp. Người tù ngắm trăng với tất cả tình yêu trăng, với một
tâm thế “vượt ngục” đích thực? Song sắt nhà tù không thể nào giam hãm được tinh thần người tù có bản lĩnh phi thường như
Bác:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ”…
Từ phòng giam tăm tối, Bác hướng tới vầng trăng, nhìn về ánh sáng, tâm hồn thêm thư thái. Song sắt nhà tù tỉnh Quảng Tây
không thể nào ngăn cách được người tù và vầng trăng! Máu và bạo lực không thể nào dìm được chân lý, vì người tù là một
thi nhân, một chiến sĩ vĩ đại tuy “thân thể ở trong lao” nhưng “tinh thần” ở ngoài lao”
Câu thứ tư nói về vầng trăng. Trăng có nét mặt, có ánh mắt và tâm tư. Trăng được nhân hóa như một người bạn tri âm, tri kỷ
từ viễn xứ đến chốn ngục tù tăm tối thăm Bác. Trăng ái ngại nhìn Bác, cảm động không nói nên lời, Trăng và Bác tri ngộ
“đối diện đàm tâm”, cảm thông nhau qua ánh mắt. Hai câu 3 và 4 được cấu trúc đăng đối tạo nên sự cân xứng hài hoà giữa
người và trăng, giữa ngôn từ, hình ảnh và ý thơ:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.
Ta thấy: “Nhân, Nguyệt” rồi lại “Nguyệt, Thi gia” ở hai đầu câu thơ và cái song sắt nhà tù chắn ở giữa. Trăng và người tù
tâm sự với nhau qua cái song sắt nhà tù đáng sợ ấy. Khoảnh khắc giao cảm giữa thiên nhiên và con người xuất hiện một sự
hóa thân kỳ diệu: “Tù nhân” đã biến thành thi gia. Lời thơ đẹp đầy ý vị. Nó biểu hiện một tư thế ngắm trăng hiếm thấy. Tư
thế ấy chính là phong thái ung dung, tự tại, lạc quan yêu đời, yêu tự do. “Ngắm trăng” là một bài thơ trữ tình đặc sắc. Bài
thơ không hề có một chữ “thép” nào mà vẫn sáng ngời chất “thép”. Trong gian khổ tù đầy, tâm hồn Bác vẫn có những giây
6
phút thảnh thơi, tự do ngắm trăng, thưởng trăng.
Bác không chỉ ngắm trăng trong tù. Bác còn có biết bao vần thơ đặc sắc nói về trăng và niềm vui ngắm trăng: Ngắm trăng
trung thu, ngắm trăng ngàn Việt Bắc, đi thuyền ngắm trăng,… Túi thơ của Bác đầy trăng: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ…”, “…
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền…”, “Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng thưo…” Trăng tròn, trăg sáng… xuất
hiện trong thơ Bác vì Bác là một nhà thơ giàu tình yêu thiên nhiên, vì Bác là một chiến sĩ giàu tình yêu đất nước quê hương.
Bác đã tô điểm cho nền thi ca dân tộc một số bài thơ trăng đẹp.
Đọc bài thơ tứ tuyệt “Ngắm trăng” này, ta được thưởng một thi phẩm mang vẻ đẹp cổ kính, hoa lệ. Bác đã kế thừa thơ ca
dân tộc, những bài ca dao ói về trăng làng quê thôn dã, trăng thanh nơi Côn Sơn của Nguyễn Trãi, trăng thề nguyền, trăng

chia ly, trăng đoàn tụ, trăng Truyện Kiều. “Song thưa để mặc bóng trăng vào”… của Tam Nguyên Yên Đổ, v.v….
Uống rượu, ngắm trăng là cái thú thanh cao của các tao nhân mặc khách xưa, nay – “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén”
(Nguyễn Trãi). Ngắm trăng, thưởng trăng đối với Bác Hồ là một nét đẹp của tâm hồn rất yêu đời và khát khao tự do. Tự do
cho con người. Tự do để tận hưởng mọi vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương xứ sở. Đó là cảm nhận của nhiều người khi đọc
bài thơ “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh.
Trong đề này em đi sâu vào phân tích ý "Cuộc vượt ngục tinh thần": Bác tự do rung động với vầng trăng, với cảnh đẹp bất
chấp hoàn cảnh, bất chấp cái song sắt tàn bạo - biểu tượng cụ thể của nhà tù
Bài: />Cảm nghĩ về nhận định Thơ Bác đầy trăng
Nhà văn Hoài Thanh có nói: “Thơ Bác đầy trăng”. Thật vậy, Bác đã viết nhiều bài thơ trăng. Trong số đó, bài “Ngắm trăng”
là bài thơ tuyệt tác, mang phong vị Đường thi, được nhiều người ưa thích.
NGẮM TRĂNG
“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.
Bài thơ rút trong “Nhật ký trong tù”; tập nhật ký bằng thơ được viết trong một hoàn cảnh đoạ đầy đau khổ, từ tháng 8-1942
đến tháng 9-1943 khi Bác Hồ bị bọn Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ. Bài thơ ghi lại một cảnh ngắm trăng trong
nhà tù, qua đó nói lên một tình yêu trăng, yêu thiên nhiên tha thiết.
Hai câu thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện. Đang sống trong nghịch cảnh, và đó cũng là sự thật “Trong tù không rượu
cúng không hoa” thế mà Bác vẫn thấy lòng mình bối rối, vô cùng xúc động trước vầng tăng xuất hiện trước cửa ngục đêm
nay. Một niềm vui chợt đến cho thi nhân bao cảm xúc, bồi hồi.Trăng, hoa, rượu là ba thú vui tao nhã của khách tài tử văn
chương. Đêm nay trong tù, Bác thiếu hản rượu và hoa, nhưng tâm hồn Bác vẫn dạt dào trước vẻ đẹp hữu tình của thiên
nhiên.
Câu thơ bình dị mà dồi dào cảm xúc. Bác vừa băn khoăn, vừa bối rối tự hỏi mình trước nghịch cảnh: Tâm hồn thì thơ mộng
mà chân tay lại bị cùm trói, trăng đẹp thế mà chẳng có rượu, có hoa để thưởng trăng?
“Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”.
Sự tự ý thức về cảnh ngộ đã tạo cho tư thế ngắm trăng của người tù một ý nghia sâu sắc hơn các cuộc ngắm trăng, thưởng
trăng thường tình. Qua song sắt nhà tù, Bác ngắm vầng trăng đẹp. Người tù ngắm trăng với tất cả tình yêu trăng, với một
tâm thế “vượt ngục” đích thực? Song sắt nhà tù không thể nào giam hãm được tinh thần người tù có bản lĩnh phi thường như

Bác:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ”…
Từ phòng giam tăm tối, Bác hướng tới vầng trăng, nhìn về ánh sáng, tâm hồn thêm thư thái. Song sắt nhà tù tỉnh Quảng Tây
không thể nào ngăn cách được người tù và vầng trăng! Máu và bạo lực không thể nào dìm được chân lý, vì người tù là một
thi nhân, một chiến sĩ vĩ đại tuy “thân thể ở trong lao” nhưng “tinh thần” ở ngoài lao”
7
Câu thứ tư nói về vầng trăng. Trăng có nét mặt, có ánh mắt và tâm tư. Trăng được nhân hóa như một người bạn tri âm, tri kỷ
từ viễn xứ đến chốn ngục tù tăm tối thăm Bác. Trăng ái ngại nhìn Bác, cảm động không nói nên lời, Trăng và Bác tri ngộ
“đối diện đàm tâm”, cảm thông nhau qua ánh mắt. Hai câu 3 và 4 được cấu trúc đăng đối tạo nên sự cân xứng hài hoà giữa
người và trăng, giữa ngôn từ, hình ảnh và ý thơ:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.
Ta thấy: “Nhân, Nguyệt” rồi lại “Nguyệt, Thi gia” ở hai đầu câu thơ và cái song sắt nhà tù chắn ở giữa. Trăng và người tù
tâm sự với nhau qua cái song sắt nhà tù đáng sợ ấy. Khoảnh khắc giao cảm giữa thiên nhiên và con người xuất hiện một sự
hóa thân kỳ diệu: “Tù nhân” đã biến thành thi gia. Lời thơ đẹp đầy ý vị. Nó biểu hiện một tư thế ngắm trăng hiếm thấy. Tư
thế ấy chính là phong thái ung dung, tự tại, lạc quan yêu đời, yêu tự do. “Ngắm trăng” là một bài thơ trữ tình đặc sắc. Bài
thơ không hề có một chữ “thép” nào mà vẫn sáng ngời chất “thép”. Trong gian khổ tù đầy, tâm hồn Bác vẫn có những giây
phút thảnh thơi, tự do ngắm trăng, thưởng trăng.
Bác không chỉ ngắm trăng trong tù. Bác còn có biết bao vần thơ đặc sắc nói về trăng và niềm vui ngắm trăng: Ngắm trăng
trung thu, ngắm trăng ngàn Việt Bắc, đi thuyền ngắm trăng,… Túi thơ của Bác đầy trăng: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ…”, “…
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền…”, “Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng thưo…” Trăng tròn, trăg sáng… xuất
hiện trong thơ Bác vì Bác là một nhà thơ giàu tình yêu thiên nhiên, vì Bác là một chiến sĩ giàu tình yêu đất nước quê hương.
Bác đã tô điểm cho nền thi ca dân tộc một số bài thơ trăng đẹp.
Đọc bài thơ tứ tuyệt “Ngắm trăng” này, ta được thưởng một thi phẩm mang vẻ đẹp cổ kính, hoa lệ. Bác đã kế thừa thơ ca
dân tộc, những bài ca dao ói về trăng làng quê thôn dã, trăng thanh nơi Côn Sơn của Nguyễn Trãi, trăng thề nguyền, trăng
chia ly, trăng đoàn tụ, trăng Truyện Kiều. “Song thưa để mặc bóng trăng vào”… của Tam Nguyên Yên Đổ, v.v….
Uống rượu, ngắm trăng là cái thú thanh cao của các tao nhân mặc khách xưa, nay – “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén”
(Nguyễn Trãi). Ngắm trăng, thưởng trăng đối với Bác Hồ là một nét đẹp của tâm hồn rất yêu đời và khát khao tự do. Tự do
cho con người. Tự do để tận hưởng mọi vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương xứ sở. Đó là cảm nhận của nhiều người khi đọc
Bài thơ “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh.

Nguồn Bài: />Phát biểu về tập “Nhật kí trong tù”, nhà thơ Xuân Diệu có viết: “Cái hay vô song của tập thơ là chất người cộng sản Hồ Chí
Minh”. (Yêu thơ Bác, tạp chí văn học số 5/1966)
Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy phân tích các bài thơ trong tập Nhật kí trong tù để chứng minh.
Bài làm
Học tập thơ văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, điều quan trọng nhất là chúng ta học được cách làm người của Bác kính yêu.
Thơ Bác đẹp, hấp dẫn chúng ta trước hết bởi vì cuộc đời Bác đẹp, tâm hồn Bác đẹp. Phát biểu về tập Nhật kí trong tù, nhà
thơ Xuân Diệu có viết: “Cái hay vô song của tập thơ là chất người cộng sản Hồ Chí Minh”.
Sự nghiệp chính của Bác là hoạt động cách mạng. Bác chưa một lần hối hận mình là nhà văn, nhà thơ. Nhật kí trong tù trước
hết là một tập nhật kí của một người tù cộng sản nhằm ghi lại những sự việc bình thường hằng ngày mà tác giả trải qua.
Thật may mắn, tập thơ đã đến với chúng ta, giúp chúng ta hiểu thêm một quãng đời gian khổ của vị lãnh tụ vĩ đại.Thông qua
tập thơ, ta hiểu thêm về con người Bác. Đúng như nhà thơ Xuân Diệu đã nói” Cai hay vô song của tập thơ”, sợ chỉ đỏ xuyên
suốt là phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh.
Nói đến “chất người cộng sản” trước hết nói đến những phẩm chất tốt đẹp của con người chân chính nói chung. Phẩm chất
ấy được thể hiện qua tình yêu quê hương, đất nước và tình yêu con người; đấy chính là tình thần căm thù sự bất công tàn
bạo. Đặc biệt phẩm chất người cộng sản được thử thách qua việc chiến đấu kiên cường sẵn sàng hy sinh phấn đấu vì lí
tưởng cộng sản cao đẹp.
Chúng ta còn nhớ, vào năm 1942 trên đường sang Trung Quốc công tác, Bác đã bị bọn Tưởng Giới Thạch bắt giam. Chúng
giải Bác qua nhiều nhà lao, Bác đã phải chịu đựng bao gian khổ của chế độ nhà tù tàn bạo. Bị đọa đày, Bác vẫn bình tĩnh,
lạc quan tin tưởng vào sự tất thắng của cách mạng, Bác có một tình yêu bao là rộng lớn. Trước hết, đấy là tình yêu con
8
người. Bác cảm thông sâu sắc với những người bạn tù cùng cảnh ngộ. Nghe tiếng sáo của người bạn tù, Bác viết thành bài
thơ:
Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu.
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu:
Muốn dặm quan hà khôn xiết nỗi.
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau.
Qua tiếng sáo, Bác hình dung ra không chỉ nỗi niềm của người thổi sao mà con vẽ lên được ở một vùng quê xa xôi kia có
người vợ của người bạn tù dõi mắt ngóng về phía chân trời xa, nơi chồng mình bị giam cầm. Từ tình thương người bạn tù,
Bác gửi nỗi niềm cảm thông của mình đến với những người thân của họ. Có lần, bỗng bác nghe thấy một cháu bé khóc, khi
biết nguyên nhân phải vào tù, Bác đã xúc động viết bài Cháu bé trong nhà lao Tân Dương:

Oa…!Oa…!Oa…!
Cha trốn không đi lính nước nhà.
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi
Phải theo mẹ đến ở nhà pha.
Trong lao tù, Bác phải chịu biết bao cay đắng cực khổ, nhưng ta ít thấy Bác nói về nỗi khổ của mình, có chăng nỗi khổ ấy
được nói đến kèm theo một nụ cười hóm hỉnh, còn chủ yếu Hồ Chủ tịch nói về nỗi khổ của người khác với sự cảm thông
chân thành. Đọc lại những bài thơ, chúng ta vô cùng xúc động trước tình thương bao la của Người dành cho những ai cùng
cảnh ngộ, những ai bị đày đọa cực khổ trong chế độ xã hội bất công.
Yêu thương con người chân thành tha thiết, đồng thời Hồ Chủ tịch cũng là người yêu quí thiên nhiên. Thiên nhiên đối với
Bác vừa gần gũi, vừa sinh động tươi đẹp. Người viết nhiều về thiên nhiên. Dường như, trong thơ Bác, thiên nhiên và con
người có sự hòa hợp thật đáng quí. Dưới đây là một bài thơ Bác sáng tác ngay trên đường chuyển nhà lao:
Mặc dù bị trói chân tay,
Chim ca rộn núi hương bay ngát rừng;
Vui say ai cấm ta đừng,
Đường xa âu cũng bớt chừng quạnh hiu.
Vượt lên sự đau khổ về thân xác, Bác hòa tâm hồn mình vào cảnh đất trời tươi đẹp, thưởng thức tiếng chim ca rộn rã ở chốn
núi rừng ngào ngạt hương bay. Bác bị trói, giải đi đường mà ung dung tự tại như một tiên ông say cảnh thiên nhiên. Người
đọc cũng cảm thấy lòng mình hứng khởi qua cách nhìn cảnh vật của Bác. Đằng sau vẻ đẹp của thiên nhiên là hình ảnh của
một người tù cộng sản với niềm tin vô bờ vào ngày mai tươi sáng của Cách mạng. Người đã từng tâm niệm:
Ví không có cảnh đông tàn
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân
Nghĩ mình trong lúc gian truân.
Tai ương rèn luyện tình thần thêm hăng.
Vì tin tưởng vào tiền đồ của dân tộc, của cách mạng nên Bác Hồ đã vượt qua mọi gian khổ, hy sinh chiến đấu. Bác coi lao tù
chính trị là nơi thử thách dũng khí của người cộng sản. Dũng khí ấy được Bác thể hiện qua nhiều bài thơ. Phải chăng đó là
những nhân tố tạo nên phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản: trung thành với lí tưởng, suốt đời phấn đấu hi sinh vì lí tưởng
cao đẹp? Kẻ thù có thể giam cầm được thân thể Bác, nhưng chúng không sao có thể giam cầm được tinh thần Bác. Bác đã
nói về điều này một cách ngắn gọn và giản dị:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao,

Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao.
Ý thức được về hoàn cảnh xung quanh, có ý chí tận dụng mọi cơ hội để phụ sự lí tưởng là một đặc điểm trong nhân cách
người cộng sản Hồ Chí Minh vĩ đại. Tổ quốc là hình ảnh luôn thường trực trong tâm trí Bác. Vì Tổ quốc, vì nhân dân,
9
Người ra đi tìm đường cứu nước. Với hai bàn tay trắng, Bác đã đặt chân lên khắp châu Âu, châu Mĩ, đã làm đủ nghề cực
nhọc để sinh sống, học hỏi và “tìm hình của nước”. Tổ quốc đây chính là nhân dân lao động, là đất nước đang đau thương
đòi giải phóng…Cảm động biết bao khi chúng ta đọc được bài “Không ngủ được”.
Một canh…hai canh…lại ba canh,
Trằn trọc, băn khoăn giấc chẳng thành
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt,
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh.
Sao vàng, đấy chính là hình ảnh của Tổ quốc, của đất nước. Bác trằn trọc băn khoăn biết bao đêm trường vì Tổ quốc. Vừa
chợp mắt, hình ảnh thân thương ấy lại hiện về. Và hạnh phúc cho nhân dân, độc lập tự do cho Tổ quốc chính là khát vọng
duy nhất, lớn lao trong suốt cả cuộc đời của Bác, của một người “nâng niu tất cả chỉ quên mình” (Tố Hữu).
Trong Nhật kí trong tù, chất người cộng sản thấm đượm vào từng bài thơ, từng câu thơ. Người đọc ngày càng phát hiện rõ
chất người cộng sản trong bài Tự khuyên mình, Không ngủ được – những bài Bác viết về chính bản thân mình – và cũng có
thể thể thấy được qua những bài ca ngợi thiên nhiên tươi đẹp trên đất nước Trung Hoa như Cảnh ngoài đồng, Chiều tối…
những bài viết về những người cùng cảnh ngộ lao tù với Bác: Vợ người tù đến thăm chồng, Cờ bạc…, những người lao
động vất vả như Phu làm đường… chất người cộng sản cao quí này đã tạo nên trong thơ Bác chất thép cứng rắn thể hiện qua
tình thần chiến đấu không mệt mỏi vì lí tưởng cộng sản “mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen” (Nguyễn Trãi), đồng thời nó
cũng tạo nên tình yêu mênh mông trong thơ Bác, xuất phát từ con tìm thật dễ rung động trước một cuộc đời sẵn lòng chia sẻ
niềm vui và nỗi buồn với bao kiếp người cùng khổ. Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã nói hộ chúng ta những cảm nghĩ rất sâu
sắc và sức hấp dẫn trong thơ của Hồ Chủ tịch:
Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ của Bác vần thơ thép,
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình.
Nhận định của nhà thơ Xuân Diệu có phần thiên về mặt nội dung trong thơ của Bác. Thật ra, chất người cộng sản trong thơ
của Bác có thể đến với chúng ta, chinh phục sự ngưỡng mộ của chúng ta lại còn nhờ vào tài năng của người chiến sĩ –thi sĩ

Hồ Chí Minh. Thơ Bác thật giản dị, nhưng cũng thật sâu sắc. Thơ Bác nói ít gợi nhiều, Bác đề cập đến mọi đề tài. Từ chiếc
gậy, cái răng rụng, đến con muỗi, con rệp…đều có thể đi một cách tự nhiên vào thơ Bác. Nhật kí trong tù tuy viết bằng chữ
Hán, đề cập đến nhiều vấn đề hiện đại, thể hiện tư tưởng tình cảm của một chiến sĩ cộng sản, nhưng cả về mặt nội dung
cũng như hình thức đều đậm đà tính dân tộc gần gũi với chúng ta, vừa cổ điển vừa hiện đại.
Ngày nay, đọc Nhật kí trong tù, trước hết làm chúng ta nhớ lại một quãng đường hoạt động cách mạng cực kì gian khổ của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời chúng ta cũng có điều kiện hiểu biết về những phẩm chất cao đẹp của Bác Hồ. Những
phẩm chất này đã được thể hiện khá sinh động qua một số bài thơ của tập Nhật kí trong tù. Tựu trung lại, phẩm chất cao đẹp
ấy là “chất người cộng sản” như nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét và chính nó đã tạo nên giá trị vô song cho tác phẩm.
Trước mắt chúng ta hiện nay còn không ít khó khăn gian khổ, thế hệ trẻ tìm thấy trong “chất người cộng sản Hồ Chí Minh”
một nguồn cổ vũ lớn lao. Nhiều bài thơ của Bác, khi đọc lên đường như tiếp cho chúng ta sức mạnh để đi tới, để “không
ngừng thế tấn công”. Tấn công vào cái tiêu cực của xã hội, tấn công vào nhứng tính toán nhỏ nhen ích kỉ trong lòng mình,
hướng tới một điều tốt đẹp hơn, sẵn sàng đón nhận mọi phong ba thử thách…để có thể trở thành một công dân có ích.
Đọc thơ Người, học tập đạo lí làm người của Bác là một điều không phải là dễ dàng, nhất là trong hoàn cảnh hiện nay.
Nhưng, phải chăng đấy là cách tốt nhất để chúng ta tu dưỡng, rèn luyện để có thể tự tin bước vào đời với “chất người cộng
sản” cao đẹp?
Thiên nhiên và mùa xuân trong thơ văn của Bác
Không chỉ trong các tác phẩm văn chương nghệ thuật và những trước tác Người để lại, mà trong toàn bộ cuộc đời hoạt động
cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thiên nhiên và mùa xuân đất nước luôn gắn bó mật thiết, rất gần gũi, thân quen và là
đối tượng khơi nguồn cảm hứng, góp phần tạo nên sự phong phú đa dạng trong tư tưởng và tình cảm của Người.
Thiên nhiên và mùa xuân đất nước qua thơ văn của Bác
10
Tách mình ra khỏi tự nhiên nguyên khởi là một nỗ lực và là bước ngoặt vĩ đại nhất trong lịch sử phát triển của loài người, kể
từ khi con người biết chế tác ra công cụ lao động và sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp rất hữu hiệu. Điều này
đã được F. Engel nói rất rõ trong tác phẩm nổi tiếng: “Biện chứng của tự nhiên”. Thế nhưng, chủ động hoà đồng trở lại với
tự nhiên như một phẩm chất mang tính nhân văn sâu sắc lại chỉ có ở một số người với tư cách là nhà sáng lập ra các học
thuyết tư tưởng, các nghệ sỹ lớn mà tác phẩm của họ có ảnh hưởng sâu rộng đến tiến trình phát triển của nhân loại. Trong tư
tưởng và tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh dường như có cả hai phẩm chất đó: Nhà tư tưởng và nhà nghệ sỹ.
Có thể nói thiên nhiên dưới con mắt của Bác rất sống động, phong phú và đa dạng. Nó không chỉ là đối tượng để khai thác,
miêu tả, là tác nhân nâng đà cho xúc cảm thẩm mỹ bay cao và vươn xa đối với quá trình sáng tạo thi ca, hơn thế nữa, nó còn
tạo nên những giá trị thẩm mỹ tự nhiên cho tác phẩm nghệ thuật, tạo nên cốt cách của một thi sỹ- nhà hiền triết phương

Đông Hồ Chí Minh rất độc đáo. Chính vì thế, thiên nhiên và mùa xuân đất nước trong tình cảm của Bác không còn là “Cái
Tự nhiên tự nó” mà đã trở thành “Cái Tự nhiên cho ta” (ý của Hegel).
Ngay từ những ngày ở trong lao tù của Tưởng Giới Thạch, thiên nhiên đã ùa vào tình cảm của Bác hay là chính Người đã
tìm đến với thiên nhiên. Có lẽ là cả hai:
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
(Ngắm trăng)
Hay là:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
Cô em xóm núi xay ngôi tối
Xay hết, lò than đã rực hồng
(Chiều tối)
Hoặc:
Núi ấp ôm mây, mây ấp núi
Lòng sông gương sáng, bụi không mờ
Bồi hồi dạo bước Tây phong lĩnh
Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa
(Mới ra tù tập leo núi)
Trở về nước sau một thời gian bôn ba ở hải ngoại, hình bóng quê hương, đất nước thân yêu như càng trở nên thiêng liêng
hơn bao giờ hết đối với Bác. Người đã ôm hôn nắm đất quê hương khi mới đặt chân lên mảnh đất Cao Bằng, nơi địa đầu của
Tổ quốc. Và trong thời gian lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc, mặc dù bận trăm công nghìn việc,
nhưng xúc cảm về thiên nhiên và mùa xuân đất nước vẫn không hề vơi cạn trong tâm tưởng của Người:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi.
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Giữa dòng bàn bạc việc quân.
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
(Rằm tháng giêng)

11
Tuy nhiên, tình yêu thiên nhiên, đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện ở trong các tác phẩm thơ ca, như là
những sáng tạo nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân, mà nó còn được thể hiện trong toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng
của Người. Vì thế chúng ta có thể thấy những nơi Bác chọn làm chỗ ở và làm việc đều là những địa danh vừa đảm bảo sự bí
mật thiết yếu về mặt an ninh, quốc phòng, vừa gần gũi với thiên nhiên, đất nước. Những địa danh đó chính là suối Lê Nin,
núi Các Mác ở Pắc Bó, Cao Bằng, lán Nà Lừa ở Tân Trào, Tuyên Quang, khu Đá Chông ở Ba Vì, Hà Tây (cũ) và ngôi nhà
sàn xung quanh có vườn cây, ao cá ở giữa thủ đô Hà Nội.
Tình yêu thiên nhiên, đất nước ở Bác đã vượt lên trên việc ngắm cảnh hay ngâm vịnh, mà quan trọng hơn là tình yêu ấy đã
được thể hiện thành những việc làm rất cụ thể, thiết thực trong việc bảo vệ, giữ gìn tài sản vô giá của quốc gia, dân tộc.
Sau khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc, trong dịp nói chuyện với Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An, ngày 8/12/1961,
Bác đã nói: “Trồng cây gây rừng là rất quan trọng. Bây giờ dân chưa thấy đâu. Có khi các chú cũng chưa thấy”. Có lần
Bác đã giải thích một cách giản dị về tầm quan trọng của việc trồng cây gây rừng: “Nếu rừng cạn kiệt thì không còn gỗ và
mất nguồn nước thì ruộng nương mất mầu, gây ra lụt lội và hạn hán Nếu cứ để tình trạng đồng bào phá một ít, nông
trường phá một ít, công nhân phá một ít, thậm chí đoàn thăm dò địa chất cũng phá một ít thì rất tai hại Phá rừng thì dễ,
nhưng gây lại rừng phải mất hàng chục năm. Phá rừng nhiều như vậy sẽ ảnh hưởng đến khí hậu, ảnh hưởng đến sản xuất
và đời sống”. Và Người xem việc phá rừng không có kế hoạch là hành vi “đem vàng đổ xuống biển”.
Trước tình trạng phá rừng thiếu ý thức của một số người dân và một bộ phận cán bộ, Bác thấy cần phải phát động một
phong trào Trồng cây gây rừng vào mùa xuân. Và phong trào do Bác khởi xướng trên khắp đất nước cho đến hôm nay và
chắc là mãi về sau vẫn được toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta duy trì, phát triển thành một phong trào rộng khắp trong
mọi tầng lớp xã hội. Mỗi khi tết đến, xuân về, hẳn nhiều người trong chúng ta còn nhớ mãi hai câu thơ của Người về Tết
trồng cây:
Mùa xuân là tết trồng cây
Làm cho đất nước càng ngày càng xuân.
Có lẽ cho đến nay, ít có một lãnh tụ, một nguyên thủ quốc gia nào như Chủ tịch Hồ Chí Minh có hành động độc đáo đến
như vậy.
Trước khi đi xa, trong Di chúc, Bác có bày tỏ nguyện vọng của mình mong muốn rằng sau khi qua đời thi hài được hoả táng
và an táng trên một ngọn đồi nào đó gần núi Tam Đảo hay Ba Vì. Người còn nhắc nhở Đảng và Nhà nước “nên có kế hoạch
trồng cây trên và xung quanh đồi. Ai đến thăm cũng trồng thêm một cây làm kỷ niệm. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng sẽ tốt
cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp”.
Như vậy có thể thấy cảnh vật thiên nhiên và hình bóng mùa xuân đất nước luôn có mặt trong đời sống tinh thần của Chủ tịch

Hồ Chí Minh. Chính thiên nhiên đã khơi nguồn cho nhiều tác phẩm thơ ca nổi tiếng và góp phần nâng vị thế danh nhân văn
hoá thế giới của Người lên một tầm cao mới. Nhưng điều cần thiết phải nhấn mạnh ở đây là từ cổ chí kim, từ Đông sang
Tây những kiệt tác văn chương về thiên nhiên và đất nước thường là sản phẩm vô giá của những nhà văn, nhà thơ lỗi lạc và
đồng thời cũng là những người có tư tưởng, tình cảm xuất chúng như Trương Kế, Thôi Hiệu, Đỗ Phủ, Lý Bạch, Chu Mạnh
Trinh, Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tagor, Puskin
Còn đối với Bác những tư tưởng, tình cảm về thiên nhiên và mùa xuân đất nước không chỉ dừng lại ở những điều chỉ giáo
trong các văn bản hay tác phẩm nghệ thuật, mà hơn thế nó đã trở thành những hành động sống trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của Người. Sinh thời Bác đã từng cùng các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, bà con nông dân và các cháu thiếu
nhi tham gia Tết trồng cây ở một số địa phương miền Bắc như Hà Nội, Hà Tây (cũ) mỗi khi xuân về và hàng ngày Bác
vẫn thường cho cá ăn và chăm sóc vườn cây quanh khu nhà ở Phủ Chủ tịch.
Những hành động ấy, ngoài ý nghĩa giáo dục, còn ẩn chứa bên trong Bác là một người yêu thiên nhiên và đất nước đến khôn
cùng. Thiên nhiên và đất nước trong đời sống tinh thần của Bác không đơn giản chỉ là một thái độ ứng xử tích cực của con
người đối với cuộc sống xung quanh, hơn thế sự quan tâm, bảo vệ và hoà đồng với thiên nhiên và đất nước đã trở thành một
phần máu thịt, gắn quện với nhân sinh quan và thế giới quan của một chiến sỹ cộng sản lỗi lạc, thể hiện tầm độ nhận thức
cực kỳ sâu sắc của Bác đối với thế giới tự nhiên và vai trò chủ động, tích cực của con người trong tiến trình biến “Cái Tự
nhiên tự nó” thành “Cái Tự nhiên cho ta”. Đấy vừa là một tình cảm cao quí, vừa là một bài học lịch sử vô giá mà trước lúc
đi xa Người muốn để lại cho con cháu mai sau.
Thiên Nhiên Trong "Nhật Kí Trong Tù" Của Hồ Chí Minh
Thiên nhiên gắn bó với cuộc sống, với con người, với tình yêu, với thơ. Truyền thống của thơ ca phương Đông càng đặc biệt chú ý đến vai trò của thiên
12
nhiên. Bác Hồ sáng tác “Nhật kí trong tù” trong điều kiện lao tù khắc nghiệt, vậy mà bài thơ vẫn tràn ngập hình ảnh của thiên nhiên. Nhà nghiên cứu Đặng
Thai Mai có nhận xét: “trong “Nhật kí trong tù” thiên nhiên chiếm một địa vị danh dự”.
Thiên nhiên được miêu tả trong “Nhật kí trong tù” rất chân thật, mang rõ nét cảm hứng về đất nước và con người. Bác bị giam hãm trong tù ngục đen tối, bị
giải đi cũng hết sức khổ sở, vậy mà thơ Bác đâu có thiếu hình ảnh thiên nhiên. Mây, gió, trăng, hoa… trong thơ xưa cũng hiện diện trong thơ Bác, tất nhiên
là với màu sắc mới. Hình ảnh của núi sông cũng khác, đẹp hùng vĩ và thơ mộng. Nếu thiếu họa chăng là thiếu biển, nghĩa là thiếu đi một mảng thiên nhiên
đầy sức hấp dẫn nhưng người đọc cũng dễ thông cảm với tác giả. Đền bù vào đó lại có biển của tình yêu thương mênh mông của Bác đối với con người:
''Anh đứng trong song sắt
Em dừng ngoài song sắt
Gần nhau trong gang tấc
Má cách nhau trời vực.'' (Vợ người bạn tù đến thăm chồng)

Hình ảnh thiên nhiên trong thơ Bác cao rộng, đẹp một cách hùng vĩ và thơ mộng. Thiên nhiên mang kích thước của tâm hồn lớn. Chòm sao nâng vầng trăng
lên đỉnh núi mùa thu kia (Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn), cho thấy cái bao la thăm thẳm của vũ trụ. Mây phủ trùng trùng trên đỉnh núi Tây Phong
Lĩnh kia không hùng vĩ lắm sao! Dưới chân núi là một dòng sông mềm mại sáng trong như tâm hồn thi nhân sau mười bốn tháng tù không vướng chút bụi
bẩn:
“Núi ấp ôm mây mây ấp núi Lòng sông gương sáng bụi không mờ”
Thiên nhiên đẹp trong thơ Bác còn tượng trưng cho mơ ước, niềm vui, tương lai tươi sáng, khát vọng tự do. Có hai hình ảnh của thiên nhiên thể hiện một
cách đậm nét và kì lạ là vầng trăng và mặt trời. Vầng trăng thể hiện một cách đậm nét và kì lạ là vầng trăng và mặt trời. Vầng trăng tiêu biểu cho vẻ đẹp
huyền ảo, thơ mộng của thiên nhiên, cũng là biểu tượng của tự do. Cho nên Bác tha thiết với trăng hơn bất cứ hình ảnh nào của thiên nhiên. Trong bóng tối,
Người lại càng khao khát ánh sáng, mà được chiêm ngưỡng ánh trăng trong tù đâu có dễ dàng gì:
"Chẳng được tự do mà hưởng nguyệt
Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu”.
(Trung thu)
Có lẽ không có thi sĩ nào trên đời này ngắm trăng như Bác:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.
Hình ảnh mặt trời cũng giàu ý nghĩa. Mặt trời là nguồn sinh khí trong cảnh tù đày tăm tối:
“Đầu tường sớm sớm vầng dương mọc Chiếu cửa nhà lao cửa vẫn cài”
Khi thì nó tượng trưng cho tương lai tươi sáng của cách mạng, tương lai của Người
“Trong ngục giờ đây còn tối mịt Ánh hồng trước mặt đã bừng soi”
Khi thì nó tượng trưng cho sự toàn thắng của xã hội mới”
“Phương đông màu trắng chuyển sang hồng Bóng tối đêm tàn sớm sạch không”
Trước vẻ đẹp của thiên nhiên, Người thường hiện diện với tư cách thi nhân. Đầu tập “Nhật kí trong tù” , Bác có nói: “Ngâm thơ ta vốn không ham”, nhưng
trước ánh trăng, Bác lại nhận là thi nhân:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
Hoặc trước buổi bình minh tươi đẹp, Người cảm thấy thi hứng dào dạt:
“Hơi ấm bao la toàn vũ trụ
13
Người đi thi hứng bỗng thêm nồng”
Thiên nhiên thật sự là một người bạn trong cuộc sống, luôn đem lại niềm vui cho con người:
“Mặc dù bị trói chân tay

Chim ca rộn núi hương bay ngát rừng
Vui say ai cấm ta đừng
Đường xa âu cũng bớt chừng quạnh hiu”
Với hoa, Bác cũng là tri kỉ:
Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng,
Hoa tàn, hoa nở cũng vô tình;
Hương hoa bay thấu vào trong ngục,
Kể với tù nhân nỗi bất bình.
Trong “Nhật kí trong tù” thiên nhiên cũng được miêu tả qua những hình ảnh đầy thử thách. Đó là những đêm tối mưa gió, giá lạnh, đướng sá hiểm trở. Đó
là những hình ảnh chân thật trong những đêm giải tù:
“Năm mươi ba cây số một ngày
Áo mũ giầm mưa rách hết giày”
Đó là những cảnh “gió sắc tựa gươm mài núi, rét như dùi nhọn chích cành cây”. Hoặc:
“Người đi cất bước trên đường thẳm
Rát mặt, đêm thu, trận gió hàn.”
Thiên nhiên còn là những hình ảnh thử thách đầy gian lao:
“Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”.
Nhưng người Cộng sản Hồ Chí Minh bao giờ cũng vượt qua những thử thách gian lao của thiên nhiên để đạt đến mục đích cuối cùng:
“Giày rách đường lầy chân lấm láp
Vẫn còn dấn bước dặm đường xa”
(Mưa lâu)
“Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”
“Thơ thiên nhiên trong “Nhật kí trong tù” thực sự có những bài rất hay. Có những phác họa sơ sài mà chân thật và đậm đà, càng nhìn càng thú vị như một
bức tranh thủy mặc cổ điển. có những hình ảnh lộng lẫy sinh động như những tâm thảm thêu nền gấm chữ vàng, cũng có những bài làm cho người đọc nghĩ
14
đến những bức sơn mài thâm trầm rộn rịp” (Đặng Thai Mai). Thiên nhiên trong “Nhật kí trong tù” còn cho ta những bài học lớn, ví như bài học này chẳng
hạn: con người dù trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ gìn cho tâm hồn được trong sạch như dòng sông trong gương, không một chút bụi mờ:
“Giang tâm như kính tịnh vô trần”

(Lòng sông gướng sáng bụi không mờ)
Tình cảm nhân đạo biểu hiện trong 'Nhật kí trong tù' của Hồ Chí Minh
Xem các bài viết của admin »
Tạo bởi admin
Tags:
Không có một bậc vĩ nhân nào lại không có lòng nhân ái. Đọc tập thơ “Nhật kí trong tù” của Bác, tất cả những người có
hiểu biết đều nhận đinh thống nhất: Bác là một bậc Đại nhân, là người có lòng thương yêu con người mênh mông.
Lòng thương yêu con người của Bác là tinh thần nhân đạo Cộng sản, đó là tinh thần nhân đạo mới mẻ mà Bác mang lại
cho dân tộc và nhân loại. Ông Trường Chinh cũng cho rằng: “Một điểm nổi bật nhất trong đạo đức Hồ Chủ Tịch là lòng
thương người”.
Tình thương người của Hồ Chí Minh không phải là lòng thương người siêu giai cấp mà có quan điểm nội dung và giai
cấp cụ thể, đó là tình thương người của giai cấp vô sản, nó rất khác với tinh thần bác ái của tôn giáo, yêu thương an ủi con
người và khuyên con người hãy thụ động chờ đợi hạnh phúc ở thế giới xa xôi hoặc kiếp sau. Đó cũng không phải là tình
thương có ý nghĩa ban phát của giai cấp quý tộc, của những người sống trên tiền của.
Giá trị của “Nhật kí trong tù” phong phú về nhiều mặt. Nhà thơ Hoàng Trung Thông thâu tóm ở hai điểm rất chủ yếu:
chât thép và tình người.
“Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”
Tố Hữu nhận xét: “Bấy lâu người ta chỉ hiểu người chiến sĩ cách mạng là thép ở mũi nhọn chiến đâu. Trong tập thơ này ta
hiểu rõ thêm người cộng sản là tình. Tình ở đây là tình yêu thương đất nước, cuộc sống và con người. Chủ yếu ở đây
chúng ta tìm hiểu, khai thác tình cảm với con người”.
Trong tù Bác cũng chịu khổ ải như bất kì tù nhân nào. Mà Bác thì đã già, bị tù trong hoàn cảnh cô độc, nhưng Người đã
quên đi nỗi đâu của riên mình mà đem lòng thương yêu những người bạn tù mà Bác gọi là nạn hữu.
Có thể nói trong đám tù nhân ở nhà lao Quảng Tây, Bác là người cô độc hơn ai hết, nhưng chỉ nhìn thấy vợ của một
người bạn tù đến thăm chồng là Bác đã xúc động, Bác diễn tả nỗi lòng thương yêu của mình đối với vợ chồng người bạn
tù trong một bài thơ đặc sắc:
“Anh đứng trong cửa sắt
Em đứng ngoài cửa sắt
Gần nhau trong tấc gang
Mà biển trời cách mặt

Miệng nói chẳng nên lời
Nói lên bằng khóe mắt
Chưa nói lên tuôn đầy
Tình cảnh đáng thương thật.”
15
Dù sao thì vợ chồng người bạn tù còn được an ủi, vậy mà con người cô độc này lại đem lòng thương “gần nhau trong tấc
gang. Mà biển trời cách mặt” thật ra thì họ đã được gần nhau trong gang tấc. Còn “biển trời cách mặt” là biển của tình
yêu thương mênh mông của Bác đối với những con người bất hạnh.
Trên con đường giải tù, nhìn thấy người phu làm đường cực khổ dưới nắng mưa, Bác động lòng thương và ghi lại thành
thơ:
“Dãi gió dầm mưa chẳng nghỉ ngơi
Phu đường vất vả lắm ai ơi
Ngựa xe hành khách thường qua lại
Biết cảm ơn anh được mấy người”.
Tại sao Bác lại cảm động với người phu làm đường kia. Có lẽ Bác cũng là một người “phu làm đường” cho nên dễ thông
cảm với người phu làm đường kia đang vất vả với cong đường hành khách qua lại.
“Tôi khổ sở vì đang kiến trúc con đường cho nhân loại, con đường cách mạng”. Đó là sự đồng cảm của hai người “trúc lộ
phu” cho nên tình thương càng sâu sắc, thấm thía.
Nhiều bài thơ trong “Nhật kí trong tù” cũng biểu hiện sự cảm thông đối với những người nông dân:
“Khắp chốn nông dân cười hớn hở
Đồng quê vang dậy tiếng ca vui”
Vào nhà lao Tân Dương nghe tiếng khóc của một đứa trẻ, Bác vô cùng xúc động tưởng chừng như đứa trẻ muốn nói với
Bác qua tiếng khóc trẻ thơ:
Oa…! Oa…! Oa…!
Cha trốn không đi lính nước nhà
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi,
Phải theo mẹ đến ở nhà pha.
Âm thanh non nớt đó kể lể với Bác một điều cay đắng trong ngàn điều cay đắng trên đời. Tiếng khóc non tơ đó đã bật ra
từ sự dồn nén của tầng tầng phi lí. Nhà thơ đã tự sự trong cái không thể tự sự được. Dường như đứa trẻ biết đây là ông
chủ bút tờ báo “Người cùng khổ” nên mới bật ra tiếng khóc kể lể như vậy. Trong những người bất hạnh Bác gặp trong tù,

Bác đặc biệt thương mến nhi đồng và phụ nữ. Trên kia ta thấy được niềm thôn cảm của Bác đối với người phụ nữ có
chồng mới bị bắt lính và giờ đây chúng ta lại hiểu thêm được tấm lòng yêu thương của Bác trong tiếng khóc của người
góa phụ trong bài thơ “Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng”:
“Hỡi ôi! Chàng hỡi, hỡi chàng ơi!
Cơ sự vì sao vội lánh đời?
Để thiếp từ nay đâu thấy được
Con người tâm ý hợp mười mươi”
Ở trong tù, nửa đêm nghe tiếng khóc của một người thiếu nữ mà biết được đó là tiếng khóc “người bạn đời, tâm đầu ý
hợp” thì đấy là cái lỗ tai đặc biệt của ông chủ bút “Người cùng khổ”.
Trong tù, Bác còn chứng kiến những cảnh ngộ thương tâm. Một người tù cờ bạc nằm bên Bác vì đói rét bị nhà tù hành hạ
chết thảm thương:
“Thân anh da bọc lấy xương.
Khổ đau, đói rét hết phương sống rồi,
Đêm qua còn ngủ bên tôi
Sáng nay anh đã về nơi suối vàng!”.
16
Đây là một cái chết hai lần oan nên Bác càng thương cảm. (Oan thứ nhất là đánh bạc không đáng vào tù vì trong tù đánh
bạc công khai, oan thứ hai là phải chết trong đói rét thê thảm)
Có một bài thơ đã kết đọng lại hai dòng tình cảm lớn của Bác là tình thương và lòng yêu nước “Người bạn tù thổi sáo”.
Bác thương người bạn tù nhớ quê hương da diết trong âm điệu sầu não. Bác cũng là người cùng hội cùng thuyền, Bác
cũng đang có tâm trạng nhớ quê hương đất nước nên tiếng sáo của người bạn tù cũng là tiếng lòng của Bác:
“Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu
Muôn dặm quan hà khuôn xiết nỗi
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau”.
Qua “Nhật kí trong tù”, ta thây rõ tấm lòng của Bác: nhân hậu, giàu yêu thương và luôn có cách xử thế ân tình. Người
luôn tìm cách giúp đỡ mọi người trong khả năng của mình và tỏ lòng biết ơn ai đó giúp mình. Trong hoàn cảnh lẫn lộn, bề
bộn Người vẫn luôn phân biệt sáng tỏ người tốt kẻ xấu, người đáng thương người đáng trọng. Giá trị nhân đạo của “Nhật
kí trong tù” góp phần quan trọng tạo nên bền vững của tác phẩm.
Xin dẫn ra đây hai nhận xét của các nhà học giả về tinh thần nhân đạo của Hồ Chí Minh trong “Nhật kí trong tù” :

“ “Nhật kí trong tù” là tiếng nói vút lên từ chỗ tối tăm mù mịt ấy mà lại là tiếng nói chứa chan tình nhân đạo nên tự nhiên
cũng là tiếng nói kết tội những bóng tối dày đặc đang đè nặng lên kiếp sống của người ta. Giữa bao nhiêu tối tăm dày đặc,
ánh sáng vẫn ngời lên, ánh sáng của lòng thương người và yêu đời vô hạn” (Hoài Thanh)
“Tôi cũng nhận thấy với tấm lòng khâm phục tràn đầy rằng ngay trong nhà tù Người cũng có thể thương xót những người
khác và luôn nghĩ đến những nguyên tắc của chủ nghĩa nhân đạo”.
/> Chất thép" trong thơ Hồ Chí Minh
Về " Chất thép" trong thơ Hồ Chí Minh
Thời gian gần đây, trên báo chí xuất hiện nhiều quan niệm hạ thấp chức năng, vai trò xã hội của văn học, nghệ thuật
(chẳng hạn như quan niệm văn học, nghệ thuật chỉ là nỗi buồn đau và đề cao quá đáng “sức mạnh của nỗi buồn” (!); hoặc
nói rằng văn nghệ chẳng bao giờ là “vũ khí” gì cả ! v.v…) và thực tế là trên văn đàn đầy những tiếng rên rỉ bất lực (chứ
không phải là nỗi buồn có sức mạnh như các thi sĩ lãng mạn cách mạng trước đây : “Buồn ta ấy lửa đang nhen – buồn ta
ấy rượu lên men say nồng !”…). Nếu như trước đây, chúng ta có lúc cực đoan trong việc thể hiện cái anh hùng, cái cao cả
thì có thể nói, giờ đây người ta lại rơi vào cực đoan khác : giọng điệu bi lụy (chứ không phải là bi kịch theo ý nghĩa mỹ
học của từ này) dường như trở thành “gam” chủ đạo !
Để góp phần làm sáng tỏ vấn đề trên, trong bài viết này, chúng ta hãy tìm hiểu quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
văn hóa văn nghệ, chủ yếu ở khía cạnh thiên chức của văn nghệ sĩ .
Khi nói về mặt trận văn hóa văn nghệ, điều quan trọng hàng đầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh là thiên chức của
văn nghệ sĩ. Về vấn đề này, sau khi bài thơ Cảm tưởng đọc “Thiên gia thi” của Người được công bố, người ta coi đó là
tuyên ngôn nghệ thuật của Người và đó cũng là ý tưởng lớn cấu thành đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng. Tuy nhiên,
do cách dịch bài thơ chưa hết ý nên đã xảy ra sự hiểu sai lệch quan niệm của Người. Nguyên văn bài thơ của Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết bằng chữ Hán như sau :
Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ
Sơn, thủy, yên, hoa,tuyết,nguyệt, phong.
Hiện đại thi trung ưng hữu thiết
Thi gia đã yếu hội xung phong.
Bản dịch Nhật ký trong tù của Viện Văn học (NXB Văn học, 1960) dịch là :
Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp (1)
17
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông .
Nay ở trong thơ nên có thép

Nhà thơ cũng phải biết xung phong .
Bản dịch này đã trở thành quen thuộc, được giảng dạy ở trường phổ thông cũng như đại học và hầu như được nhắc đến ở
mọi bài viết khi đề cập đến thơ Hồ Chí Minh, đến tư tưởng văn hóa văn nghệ của Người. Theo bản dịch này, nhiều người
cho rằng Người đối lập thơ xưa với thơ nay, coi thơ xưa chỉ là thứ văn nghệ mua vui, ngâm hoa,vịnh nguyệt suông, v.v…
Hiểu như vậy là thô thiển, sai lệch. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu sáng tạo và tài tình tinh hoa của thơ xưa (cổ
thi) trong những bài thơ tức cảnh của mình. “Thiên nhiên đẹp” vào trong thơ Người càng mỹ lệ hơn, lung linh hơn, kỳ ảo
hơn :
“Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu…”
và : “Sông núi muôn trùng trải gấm phơi ! ” vân vân…
Điều chúng ta cần thấy rõ là thiên nhiên trong thơ Người gắn bó với con người tạo nên bức tranh sinh động của sự sống
bất diệt. Và điều quan trọng hơn là, cảm hứng thi ca được khơi nguồn từ thiên nhiên ấy luôn hướng tới tâm điểm là cảm
hứng anh hùng ca. Nói cách khác, thơ Người khai thác vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ, thanh cao, tinh khôi của thiên nhiên và
chính nhờ đó, cảm hứng anh hùng ca cách mạng được nhân lên để trở thành chất thép trong thơ Người :
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
(Nguyên tiêu)
Nghĩa là : Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn việc quân.
Nửa đêm trở về, thuyền chở đầy ánh trăng .
hoặc :
Cử đầu hồng nhật cận
Đối ngạn nhất chi mai .
(Thượng sơn)
Nghĩa là : Ngẩng đầu thấy gần mặt trời
Nhìn bên suối thấy một nhành mai.
(Những câu thơ dẫn trên đây, bản dịch cũ đều không diễn tả hết ý, chẳng hạn như bài Thượng sơn dịch là “Ngẩng đầu mặt
trời đỏ / Bên suối một nhành mai” thì đã bỏ mất chữ “cận” (nghĩa là “gần”) làm mất đi vẻ đẹp hùng vĩ, lớn lao của Thi
nhân – Lãnh tụ, đây là một bức tranh bằng thơ (thi trung hữu họa): những câu thơ đã làm hiện ra trước mắt ta hình ảnh
lớn lao, kỳ vỹ của Thi nhân – Lãnh tụ : Người đứng trên núi cao lồng lộng, đầu đã gần chạm mặt trời – đó là biểu tượng
của dáng đứng người anh hùng; còn nhành mai bên suối là vẻ đep bình dị mà lãng mạn bay bổng của tâm hồn Thi
nhân! ).

Trở lại bài thơ Cảm tưởng đọc “Thiên gia thi”, ta thấy bản dịch của Viện Văn học đã bỏ mất chữ “thiên” trong câu đầu
“Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ” cho nên đã dẫn đến cách hiểu sai lệch như đã nói trên. Thực ra ý thơ của Người nói rằng
thơ xưa thiên (thiên lệch) về ca ngợi thiên nhiên, thơ nay nên có thêm chất thép, thơ còn phải là vũ khí đấu tranh, nhà thơ
phải tham gia đấu tranh cách mạng .
Mười năm sau khi xuất bản tập Nhật ký trong tù, giáo sư Đặng Thai Mai mới viết bài Đọc lại tập thơ Nhật ký trong tù và
giáo sư đã chỉ ra sự sai sót như đã nêu trên. Giáo sư viết : “Bốn câu thơ trên đây là quan điểm của Bác về hai vấn đề : tình
cảm thiên nhiên trong thơ và lập trường đúng đắn của người thi sĩ trong thời đại mới…Có lẽ nên nói ngay rằng : ở đây
không hề có thái độ cự tuyệt hoàn toàn đối với tình cảm thiên nhiên trong thơ và cũng không hề có thái độ phủ định tuyệt
đối đối với giá trị thơ cổ điển. Nhưng một điểm Bác thấy cần phê phán trong “cổ thi” . Ấy là chỗ tình cảm thiên nhiên của
các nhà thơ cổ có chỗ thiên lệch (rất tiếc là bài dịch chưa lột được hết ý của hai chữ “thiên ái” này). Thiên lệch ở chỗ
nào ? Hai câu cuối bài thơ trả lời câu hỏi bằng cách nêu rõ yêu cầu của thời đại cần có chất thép và nhà thơ cũng phải biết
xung phong” (2). Giáo sư Đặng Thai Mai đã chỉ rõ thơ Hồ Chí Minh bao hàm hai yếu tố hòa hợp với nhau rất nhuần
nhụy: chất trữ tình và chất thép. Và đó cũng chính là đòi hỏi của Người đối với thơ hiện đại.
23 năm sau khi bản dịch Nhật ký trong tù được công bố, nhân dịp kỷ niệm 40 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm
này (1943-1983), tại một Hội nghị khoa học lớn ở Hà Nội, đồng chí Hà Huy Giáp đã đề xuất ý kiến : “…Bác không phê
bình thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp, Bác chỉ phê bình thơ xưa thiên về cảnh thiên nhiên đẹp, ít chú ý đến việc phục vụ
cho sự nghiệp xây dựng một xã hội con người đẹp…Tiếc rằng bài này chưa hết ý nghĩa hai chữ “thiên ái”…Tại sao lại
18
không dùng chữ “thiên”? (Thơ xưa thiên cảnh thiên nhiên đẹp)”…Và đồng chí Hà Huy Giáp đề nghị dịch lại bài thơ là :
“Thơ xưa thiên cảnh thiên nhiên đẹp,
Mây gió trăng hoa tuyết núi sông.
Thơ thời nay nên pha chất thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong
Sự phân tích của giáo sư Đặng Thai Mai và đồng chí Hà Huy Giáp nói trên là đúng đắn. Song, bản dịch thơ mà đồng chí
Hà Huy Giáp đề xuất tuy lấy lại được chữ “thiên” nhưng lại bỏ mất chữ “ái” ! Thêm nữa, chữ “pha” trong câu ba của bản
dịch vừa thô vừa không thể hiện được ý thơ nguyên tắc : thi trung ưng hữu thiết - ở trong thơ có chất thép, chất thép là hạt
nhân của thơ chứ đâu phải là sự pha trộn giữa chất thép và thơ ! Hơn nữa, thơ của Người là thơ của bậc tiên phong đạo
cốt, “bay cánh hạc ung dung” như cụ Bùi Bằng Đoàn đã viết về Người : “Thao bút nhưng thành thoái lỗ thi !” (Vung bút
thành thơ đuổi giặc thù). Dịch như thế khác nào diệt đó vậy !
Vấn đề dịch thơ Hồ Chí Minh, từ lâu đã có nhiều ý kiến tranh luận, đôi khi trái ngược. Nhiều người đề nghị tổ chức dịch

lại toàn bộ phần thơ chữ Hán của Người, nhưng có không ít người lại cho rằng cứ để nguyên như bản dịch cũ với lý do :
bản dịch đã thấm vào tình cảm, trở thành cảm xúc thẩm mỹ phổ biến và bền vững, thành châm ngôn, tục ngữ, hiện diện
trong đời sống hàng ngày của công chúng rồi. Vì thế, dịch lại có nghĩa là sẽ phải thay đổi tâm lý tiếp nhận đã bền vững
của công chúng, điều đó quả là khó khăn và không nên ! Vấn đề này, hy vọng là các nhà nghiên cứu, dịch thuật sẽ giải
quyết mỹ mãn
Nguồn Bài: />Qua 3 bài thơ " Tức cảnh Pắc Bó" "Ngắm trăng" và "Đi đường", Hãy nói lên cả nhận về vẻ đẹp tâm hồn của
HCM
-Từ những ý thơ của Người,lúc nào ta cũng thấy toát lên một phong thái ung dung,là tinh thần lạc quan trong cuộc sống
Cách Mạng đầy gian khổ.Dù trong hoàn cảnh "cháo bẹ rau măng" hay "bàn đá chông chênh",thi nhân vẫn vui vẻ mà viết
lên rằng: "Cuộc đời Cách Mạng thật là sang". -Không chỉ có bài thơ Tức cảnh Pác Bó,Tẩu Lộ(Đi đường) cũng thể hiện ý
chí của người chiến sĩ Cách Mạng này.Những câu thơ như chứa một sức mạnh ngàn cân.Dù đang trên đường đi với bao
xiềng xích trên người,ấy vậy mà Người vẫn không nghĩ đến nỗi khó khăn hiện tại ấy,vẫn cất lên cái tâm hồn thi sĩ của
mình,vẫn ung dung ngắm nhìn cảnh núi non: "Tẩu lộ tài chi tẩu lộ nan/Núi cao rồi lại núi cao trập trùng" =>Thể hiện tinh
thần bất khuất,can đảm,không ngại những khó khăn,vất vả,một phong thái ung dung,lạc quan của người chiến sĩ Cách
Mạng Hồ Chí Minh. -Hồ Chí Minh là một thi nhân có tình yêu gắn liền với thiên nhiên.Những hình ảnh trong bài thơ này
đã chứng mình điều đó.Có thể kể tiêu biểu đó là bài thơ Ngắm Trăng với hình ảnh nhân-nguyệt,nguyệt-nhân.("Nhân
hướng song tiền khán minh nguyệt,Nguyệt tòng song thích khán thi gia").Dường như cái chấn song kia không thể ngăn
cách giữa hai người bạn là vầng trăng và thi sĩ.Cả hai như đối xứng với nhau,nhìn nhau thật lâu,thật thân thiết.Dù ở trong
mọi hoàn cảnh,tình cảm của Bác vẫn không đổi,vẫn luôn dành tấm lòng cho thiên nhiên như một người bạn đồng hành.
=>Thể hiện tâm hồn của một người thi sĩ,một tình yêu thiên nhiên tha thiết,sâu đậm và gắn bó biết bao. -Thiên nhiên gắn
bó với bác trong từng nguồn cảm hứng,trong từng câu thơ không chỉ với tư cách là một người bạn,mà còn là một người
mang lại cho Người những bài học cuộc đời rất quý giá mà giản dị.Đọc Đi đường,ta nhận ra điều đó.Núi cứ trùng trùng
điệp điệp mọc ra trước mắt,như muốn ngăn bước chân người đi("Trùng san chi ngoại hựu trùng san/Trùng san đăng đáo
cao phong hậu").Và rồi cuối cùng,khi vượt qua bao núi non ấy,trước mắt ta dường như là cả một khoảng trời mênh mông
trong tầm mắt:"Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non".Từ việc "tẩu lộ" đơn thuần,ta cũng ngẫm ra được một chân lí hết
sức giản dị mà thấu đáo:Hãy vượt qua mọi hoàn cảnh khó khăn để có được niềm vui chiến thắng,đặc biệt là vượt lên để
chiến thắng bản thân mình. =>Bác đã đúc kết được chân lí này từ một bài thơ nhỏ.Tuy chỉ với 4 câu thơ ngắn ngủi,nhưng
đó dường như là những suy nghĩ được kết tinh từ cách sống của một nhà hiền triết vĩ đại,có tầm nhìn sâu,rộng về cuộc
đời. =>Từ những bài thơ đó,người đọc chúng ta cảm nhận được một phong thái,một hình tượng vĩ đại của vị cha già dân
tộc Hồ Chí Minh.Đó là một tâm hồn thi sĩ ẩn trong một tinh thần của người chiến sĩ Cách Mạng kiên cường,lạc quan;đó

cũng là phong thái của một nhà hiền triết,một bậc vĩ nhân vĩ đại không chỉ của dân tộc mà của cả thế giới.
Nguon: />dep-tam-hon-cua-HCM-d1404739.html#ixzz2HgF4eJ2E
Nguon: />dep-tam-hon-cua-HCM-d1404739.html#ixzz2HgEuSh4t
19
Qua bài Tức Cảnh Pác Bó và Ngắm trăng hình ảnh Bác Hồ hiện ra như thế nào?
-Từ những ý thơ của Người,lúc nào ta cũng thấy toát lên một phong thái ung dung,là tinh thần lạc quan trong cuộc sống
Cách Mạng đầy gian khổ.Dù trong hoàn cảnh "cháo bẹ rau măng" hay "bàn đá chông chênh",thi nhân vẫn vui vẻ mà viết
lên rằng: "Cuộc đời Cách Mạng thật là sang".
-Không chỉ có bài thơ Tức cảnh Pác Bó,Tẩu Lộ(Đi đường) cũng thể hiện ý chí của người chiến sĩ Cách Mạng này.Những
câu thơ như chứa một sức mạnh ngàn cân.Dù đang trên đường đi với bao xiềng xích trên người,ấy vậy mà Người vẫn
không nghĩ đến nỗi khó khăn hiện tại ấy,vẫn cất lên cái tâm hồn thi sĩ của mình,vẫn ung dung ngắm nhìn cảnh núi non:
"Tẩu lộ tài chi tẩu lộ nan/Núi cao rồi lại núi cao trập trùng"
=>Thể hiện tinh thần bất khuất,can đảm,không ngại những khó khăn,vất vả,một phong thái ung dung,lạc quan của người
chiến sĩ Cách Mạng Hồ Chí Minh.
-Hồ Chí Minh là một thi nhân có tình yêu gắn liền với thiên nhiên.Những hình ảnh trong bài thơ này đã chứng mình điều
đó.Có thể kể tiêu biểu đó là bài thơ Ngắm Trăng với hình ảnh nhân-nguyệt,nguyệt-nhân.("Nhân hướng song tiền khán
minh nguyệt,Nguyệt tòng song thích khán thi gia").Dường như cái chấn song kia không thể ngăn cách giữa hai người bạn
là vầng trăng và thi sĩ.Cả hai như đối xứng với nhau,nhìn nhau thật lâu,thật thân thiết.Dù ở trong mọi hoàn cảnh,tình cảm
của Bác vẫn không đổi,vẫn luôn dành tấm lòng cho thiên nhiên như một người bạn đồng hành.
=>Thể hiện tâm hồn của một người thi sĩ,một tình yêu thiên nhiên tha thiết,sâu đậm và gắn bó biết bao.
-Thiên nhiên gắn bó với bác trong từng nguồn cảm hứng,trong từng câu thơ không chỉ với tư cách là một người bạn,mà
còn là một người mang lại cho Người những bài học cuộc đời rất quý giá mà giản dị.Đọc Đi đường,ta nhận ra điều đó.Núi
cứ trùng trùng điệp điệp mọc ra trước mắt,như muốn ngăn bước chân người đi("Trùng san chi ngoại hựu trùng san/Trùng
san đăng đáo cao phong hậu").Và rồi cuối cùng,khi vượt qua bao núi non ấy,trước mắt ta dường như là cả một khoảng
trời mênh mông trong tầm mắt:"Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non".Từ việc "tẩu lộ" đơn thuần,ta cũng ngẫm ra được
một chân lí hết sức giản dị mà thấu đáo:Hãy vượt qua mọi hoàn cảnh khó khăn để có được niềm vui chiến thắng,đặc biệt
là vượt lên để chiến thắng bản thân mình.
=>Bác đã đúc kết được chân lí này từ một bài thơ nhỏ.Tuy chỉ với 4 câu thơ ngắn ngủi,nhưng đó dường như là những suy
nghĩ được kết tinh từ cách sống của một nhà hiền triết vĩ đại,có tầm nhìn sâu,rộng về cuộc đời.
=>Từ những bài thơ đó,người đọc chúng ta cảm nhận được một phong thái,một hình tượng vĩ đại của vị cha già dân tộc

Hồ Chí Minh.Đó là một tâm hồn thi sĩ ẩn trong một tinh thần của người chiến sĩ Cách Mạng kiên cường,lạc quan;đó cũng
là phong thái của một nhà hiền triết,một bậc vĩ nhân vĩ đại không chỉ của dân tộc mà của cả thế giới
________________________
Qua bài thơ "Ngắm trăng"
-Mặc dù ở trong hoàn cảnh bị giam hãm trong tù : ko có rượu cũng chẳng có hoa nhưng Bác Hồ vẫn ko hề chán nản tuyệt
vọng mà ngược lại người vẫn luôn giữ được phong thái ung dung tự tại và hòa mình vào thiên nhiên hơn thế nữa Người
đã hoàn thành một cách ngoạn mục cuộc vượt ngục bằng tinh thần để rồi đắm mình trong không gian rộng lớn mênh
mông và thơ mộng cùng ánh trăng ở ngoài song sắt nhà tù tối tăm dơ bẩn kia
Qua bài thơ:"đi đường"
- Từ nhà ngục này chuyển sang nhà ngục khác mà chân tay lại bị chói nhưng Bác đã vượt lên trên hoàn cảnh ấy vượt qua
bao hiểm trở cũng như khó khăn trên đường đi với tâm hồn thi sĩ Bác đã viết nên những vần thơ rất hay này thể hiện tình
yêu của mình với thiên nhiên , như muốn hòa vào thiên nhiên hùng vĩ với "núi cao rồi lại núi cao trập trùng" mới đọc câu
thơ này lên đã đủ thấy những thử thách to lớn đối với người leo nó và dường như ko ai có thể vượt qua được nhất là ở
trong tình trạng bị áp giài chân tay bị chói chặt như Bác thì khó ai tin được Người có thể vượt qua muôn trùng núi như
vậy thế nhưng Người đã làm được để rồi :"thu vào tầm mắt muôn trùng núi non"
Từ đây ta có thể thấy ý chí quyết tâm vượt qua mọi gian nan của Bác ko điều gì có thể sánh được vượt qua bao núi Bác
tưởng tượng như chính những ngọn núi ấy là bạn đồng hành của mình chứ hoàn toàn ko phải là nhưng trở ngại cản bước
chân của mình
Qua bài thơ "tức cảnh Pác bó"
- ở vảo một hoàn cảnh hoàn toàn khác so với 2 bài trước vì Bác vẫn được tự do nhưng Người lại vấp phải nhưng khó khăn
khác khó khăn về măt vật chất ; Bác đang làm một công việc hết sức trọng đại vạch đượng cho Cách Mạng đó là : "dịch
20
sử Đảng" và đáng nhẽ ra nó phải được thực hiện trong một căn phòng đầy đủ tiện nghi nhưng thực tế Bác đã làm việc đo
trên một chiếc bàn đá lại còn chông chênh không vững nhưng Bác vẫn không hề than vãn mà vẫn làm với một tâm thế rất
khoan thai, thoải mái .Hình ảnh Bác hiện lên là hình ảnh một con người dù cho ở bất kì hoàn cảnh nào Người vẫn luôn
hướng về phía trước và luôn thể hiện niềm vui đối với cách mạng, được sống và hòa mình vào thiên nhiên
Tóm lại, vượt lên trên mọi hoàn cảnh dù là khó khăn nhất Bác vẫn luôn giữ cho mình một phong thái ung dung một tinh
thần thép và 1 tâm thế tĩnh tại khoan thai, Người rất yêu thiên nhiên vì thế trong mọi hoàn cảnh Người lun hòa mình vào
với thiên nhiên và tạo nên những vần thơ mang đầy chất hiện thực này
Suy nghĩ của em về "thú lâm tuyền" trong bài thơ "Tức cảnh Pác Bó" của Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử lỗi lạc của dân tộc ta, là nhà thơ lớn, danh nhân văn hóa thế giới. Cuộc đời thơ ca của
Người luôn song hành với cuộc đời chính trị. Người đã để lại cho đất nước một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong
phú. Trong đó, hay nhất là bài thơ "Tức cảnh Pác Bó" (ra đời tháng 7- 1941), thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, "thú
lâm tuyền" khoáng đạt, tươi sáng của Bác.
Bài thơ được ra đời trong khi nước ta đang cùng đấu tranh chống thực dân Pháp vô cùng khó khăn, gian khổ. Bác sống
và làm việc trong hoàn cảnh hết sức thiếu thốn: ở trong hang Pác Bó; ăn cháo ngô thay cơm, ăn măng rừng thay rau;
bàn làm việc là phiến đá bên bờ suối Lê- nin cạnh hang. Bài thơ đã diễn tả được một tinh thần ung dung, lạc quan của
Bác.
''Sáng ra bờ suối, tối vào hang"
Câu "khai" mở đầu bài như dòng nhật kí tâm tình của Người với một người bạn kể về hoạt động đều đặn, nhịp nhàng của
mình. Với nghệ thuật đối: "sáng- tối", "ra- vào", "bờ suối- hang", Bác đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên động với độ
sáng- tối tương phản thật hài hòa, hợp lí.
"Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng"
Câu "thừa" ở đây mang hai lớp nghĩa. Lớp nghĩa thứ nhất: khi làm việc cách mạng, dù là một nguyên thủ quốc gia, phải
ăn uống kham khổ (cháo bẹ, rau măng) nhưng Bác vẫn sẵn sàng đón nhận. Lớp nghĩa thứ hai: vì Bác làm việc ở vùng núi
nên cháo bẹ, rau măng- những thức ăn thanh đạm luôn có sẵn.
"Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng"
Câu "chuyển" là câu thơ làm nổi bật vẻ đẹp của người chiến sỹ cách mạng. Bên bờ Lê- nin nước chảy róc rách, cạnh đó
là chiếc bàn đá và quyển sách, hình ảnh Bác Hồ hiện lên như một yếu tố quan trọng đưa bức tranh thiên nhiên tươi đẹp
ấy từ tĩnh sang động. "Thú lâm tuyền" của Bác được thể hiện rõ nhất ở câu này. Hoàn cảnh thực tại (bàn đá chông
chênh) dường như không thể cản việc lớn (dịch sử Đảng), ta càng thấy rõ một tinh thần lạc quan, một phong thái ung
dung, một tình yêu thiên nhiên luôn tiềm tàng trong con người của Bác.
"Cuộc đời cách mạng thật là sang"
Câu "hợp" cuối cùng gợi trong lòng người đọc nhiều suy nghĩ. Tuy làm cách mạng gian khổ là vậy nhưng đối với một vị
lãnh tụ lại thật là "sang". Cái "sang" này không phải là "sang" về mặt vật chất mà là "sang" về tinh thần. Được hoạt
động cách mạng để cứu nước là một niềm vui đối với Bác, niềm vui này không thể mua được. Nó là vô giá!
Có thể nói, bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt,nghệ thuật đối, cùng giọng văn hóm hỉnh, bài thơ "Tức cảnh Pác Bó" đã cho
chúng ta thấy "thú lâm tuyền" của Bác thật khoáng đạt, qua đó còn cho thấy tinh thần lạc quan, tình yêu đất nước sâu
nặng luôn tiềm tàng trong con người đáng kính này.
Suy nghĩ của em về thú lâm tuyền của Bác trong bài Tức cảnh Pác Bó

Trước hết ta nên hiểu ”thú lâm tuyền” là : cách chơi vui thú,tao nhã của Bác trong rừng xanh núi đỏ,lâm tuyền là
rừng núi và khe suối nước chảy ,thú vui của Bác là yêu thiên nhiên ,yêu rừng Pắc Bó,cỏ cây hoa lá chim muông và
cả cái tiếng nước róc rách dứoi khe cũng nên thơ hữu tình trong thơ tức cảnh của Người
Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử lỗi lạc của dân tộc ta, là nhà thơ lớn, danh nhân văn hóa thế giới. Cuộc đời thơ ca của
Người luôn song hành với cuộc đời chính trị. Người đã để lại cho đất nước một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong
21
phú. Trong đó, hay nhất là bài thơ "Tức cảnh Pác Bó",được ra đời trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp vô cùng
khó khăn, gian khổ. Lúc bấy giờ Bác phải sống và làm việc trong hoàn cảnh hết sức thiếu thốn: ở trong hang Pác Bó; ăn
cháo ngô thay cơm, ăn măng rừng thay rau; bàn làm việc là bàn đá chông chênh bên bờ suối Lê- nin cạnh hang. Bài thơ
đã diễn tả được phong thái ung dung ,tinh thần lạc quan yêu đời, "thú lâm tuyền" khoáng đạt, tươi sáng của Bác.
Trước hết ta nên hiểu ”thú lâm tuyền” là : cách chơi vui thú,tao nhã của Bác trong rừng xanh núi đỏ,lâm tuyền là rừng núi
và khe suối nước chảy ,thú vui của Bác là yêu thiên nhiên ,yêu rừng Pắc Bó,cỏ cây hoa lá chim muông và cả cái tiếng
nước róc rách dứoi khe cũng nên thơ hữu tình trong thơ tức cảnh của Người .

Mở đầu bài thơ Bác viết:
''Sáng ra bờ suối, tối vào hang"
Ngay câu đầu tiên Bác đã mở ra trước mắt người đọc một nề nếp sinh hoạt rất đều đặn, nhịp nhàng của mình, tuần hoàn
theo thời gian nhất định, từ sáng tới tối đều gắn bó với thiên nhiên .Với nghệ thuật đối: "sáng- tối", "ra- vào", "bờ suối-
hang", Bác đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên sinh động tương phản thật hài hòa, hợp lí.
"Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng”
Nếu câu thơ thứ 1 nói về công việc nơi ở của Bác thì câu thơ thứ 2 lại nói đến cuộc sống sinh hoạt ăn uống thường nhật
của Bác , ở nơi rừng núi thiếu thốn trăm bề , Bác chỉ ăn những thứ sẵn có của núi rừng :cháo bẹ , rau măng .Dù khó khăn
là vậy nhưng Bác vẫn luôn hài long , chấp nhận,sẵn sàng vượt lên khó khăn trắc trở.
Tiếp theo ở câu thứ 3 :
"Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng"

Đã cho thấy vẻ đẹp của người chiến sỹ cách mạng. Bên bờ suối Lê- nin nước chảy róc rách, cạnh đó là chiếc bàn đá và
quyển sách, hình ảnh Bác Hồ hiện lên như một yếu tố quan trọng đưa bức tranh thiên nhiên tươi đẹp ấy từ tĩnh sang động.
"Thú lâm tuyền" của Bác được thể hiện rõ nhất ở câu này.Dù hoàn cảnhở thực tại có khó khăn trắc trở nhưng dường như
không thể cản được việc lớn (dịch sử Đảng) của Bác ,từ đó ta càng thấy rõ hơn tinh thần lạc quan, phong thái ung dung,

tình yêu thiên nhiên luôn tiềm tàng trong con người của Bác .
Câu cuối bài thơ như một lời tự nhận xét của Bác về cuộc đời cách mạng của mình:
"Cuộc đời cách mạng thật là sang"
Câu thơ ấy đã gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ. Tuy làm cách mạng gian khổ là vậy nhưng đối với một vị lãnh tụ lại
thật là "sang". Cái "sang" này không phải là "sang" về mặt vật chất mà là "sang" về tinh thần. Được hoạt động cách mạng
để cứu nước là một niềm vui đối với Bác, niềm vui này không thể mua được. Nó là vô giá!
Có thể nói, bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt,nghệ thuật đối, cùng giọng văn hóm hỉnh, bài thơ "Tức cảnh Pác Bó" đã cho
chúng ta thấy "thú lâm tuyền" của Bác thật khoáng đạt, qua đó còn cho thấy tinh thần lạc quan, tình yêu đất nước sâu
nặng luôn tiềm tàng trong con người đáng kính này.
html
Văn học có tính nhân đạo hóa con người
Xem các bài viết của admin »
Tạo bởi admin
Tags:
22
Văn học là trong những loại hình nghệ thuật có từ rất sớm, gắn bó thiết thân với đời sống tinh thần của con người
ngay từ thuở xa xưa. Dù dưới hình thức nào thì nó vẫn là sự phản ánh thế giới khách quan qua thế giới chủ thể của
nghệ sĩ
Tác phẩm nghệ thuật chân chính là sự giãi bày những tình cảm, những khát vọng sâu xa của nhà văn trước cuộc đời, trước
những vấn đề có ý nghĩa thân thiết đối với con người. Dù văn học viết về những sự cố lớn lao: bão táp cách mạng, chiến
tranh, hay chỉ diễn tả một tiếng chuông chùa, một bờ tre, ruộng lúa… bao giờ ta cũng tìm thấy hình bóng, tâm sự của con
người gửi gắm ở bên trong.
Với tư cách là cụ thể của hoàn cảnh, là động lực của sự phát triển xã hội, là nguồn gốc của mọi sáng kiến, phát minh. Con
người với tất cả niềm vui, nỗi buồn, tâm tư khát vọng, thành đạt hay khổ đau luôn luôn là đối tượng trung tâm của văn
học, là mối quan tâm hàng đầu của nghệ sĩ chân chính. Tình yêu thương đối với con người là nguồn động lực căn bản
nhất thúc đẩy ngòi bút của mọi nhà văn chân chính.
Nhà văn Nga Tolstoi đã từng viết: “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu”. Còn Goethe thì nói: “Những điều
đầu tiên mà thiên nhiên cần là tình yêu nồng nàn đối với cuộc sống”. Nữ văn sĩ Pháp Elsa Trisolet thì diễn tả tình yêu ấy
bằng hình ảnh thật cụ thể: “Nhà văn là người cho máu”. Đó là một tình yêu bao gồm cả sự hi sinh to lớn. Tác phẩm chân
chính đúng là sản phẩm của trí tuệ, trái tim, mồ hôi và cả nước mắt nữa của người nghệ sĩ, là kết quả của quá trình nếm

trải, nung nấu, cảm xúc dào dạt – cái mà người ta gọi là cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật.
Không ai làm thơ làm văn trong trạng thái khô cằn, chai sạn xúc cảm. Cảm hứng ấy có thể bắt đầu từ niềm vui sướng, tự
hào hay tin tưởng, phấn khởi, nhưng với nghệ sĩ chân chính thì chẳng bao giờ có niềm vui hời hợt, giản đơn. Bởi vì cuộc
sống con người, trong tính hiện thực của nó, niềm vui luôn luôn đi đôi với nỗi buồn, ánh sáng luôn tồn tại bên cạnh bóng
tối, cái xấu luôn luôn xen lẫn bên cạnh cái tốt, hạnh phúc thường đi liền với khổ đau, bất hạnh…Và những khổ đau của
con người xưa nay vốn là nỗi nhức nhối, bức xúc nhất thôi thúc người nghệ sĩ cầm bút.
Chính nhà văn Xô viết V.Raxpuchin đã diễn đạt tình cảm ấy một cách giản dị chân thành: “Nếu tôi viết, ấy là vì tôi cảm
thấy đau ở đâu đấy trong người” với Huygo thì bể khổ của nhân loại là hầm mỏ khai thác không vơi cạn của đời ông.
Truyện kiều là tiếng khóc đứt ruột. Chí Phèo là tiếng thét phẫn uất đòi quyền làm người…Những tác phẩm chân chính,
bất tử với thời gian thường là những tác phẩm diễn tả những xung đột có khi đầy bi kịch giữa cái thật và cái giả, giữa cái
thiện và cái ác, giữa bóng tối và ánh sáng, giữa cái cao thượng và cái thấp hèn, ghê tởm … Tuy nhiên “thanh nam châm
thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung”. Đó chính là khả năng nhân đạo mà văn học chân
chính có thể mang lại cho con người.
Ở đây có mấy vấn đề cần lưu ý:
23
Sở dĩ nói văn học chân chính chứ không phải văn học nói chung vì trong sự tồn tại của văn học nhân loại quả là những tác
phẩm vì con người, nâng cao phẩm giá con người nhưng cũng có thứ văn chương làm hạ thấp phẩm giá con nguời. Có
những tác phẩm là kết quả của thao thức khổ đau, hi sinh, trăn trở, nhưng cũng không thiếu thứ văn chương làm thuê, làm
công cụ, bồi bút tô son trát phấn cho giai cấp thống trị trong những xã hội đã suy tàn, mục ruỗng…
Có thứ văn chương bất tử, sống mãi với muôn đời, có thứ văn chương rẻ tiền sẽ bị quên lãng với thời gian. Chủ nghĩa
nhân đạo, lòng yêu thương tôn trọng con người là thước đo căn bản nhất để đánh giá mọi giá trị văn học chân chính .
“Những người khốn khổ” của Hugo, “ Sống lại” của L.Tolstoi, Truyện Kiều của Nguyễn Du… là những tác phẩm trong
đó tác giả còn bộc lộ nhiều quan điểm sai lầm về tư tưởng và những giải pháp cải tạo xã hội, nhiều nhân vật cũng đã trải
qua bao nhiêu vấp ngã, giằng xé, lầm lẫn… nhưng đó lại là những tác phẩm nghệ thuật chân chính sẽ sống mãi với thời
gian; bởi sức mạnh cảm hóa sâu xa, bởi lòng yêu thương con người mênh mông, sâu thẳm; bởi thái độ căm ghét, phẫn uất
trước những thế lực xấu xa, tàn ác đã giày xéo, chà đạp lên con người.
Đó chính là lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn có khả năng nhân đạo hóa con người, làm cho con người tin hơn ở những điều
thiện, ở khả năng vươn tới cái cao cả, cao thượng, kể cả những con người đã trải qua và chịu đựng những điều ác khủng
khiếp do xã hội và có khi do chính mình gây ra.
Mặt khác, nói tới quá trình nhân đạo hóa của văn học không phải chỉ là khả năng gợi lòng trắc ẩn, động tâm, thương cảm

đối với những cảnh ngộ bất hạnh đói nghèo diễn ra trong xã hội, dù điều đó cũng là một phương tiện đáng quí. Khả năng
nhân đạo hóa còn bộc lộ ở sự tự ý thức về bản thân, tự nhận diện bản thân trước những điều xấu, tốt, thiện, ác… mà tác
phẩm gợi lên. Người ta đã nói đến sự “thanh lọc” tâm hồn của văn học, hay hình thức “sám hối” của bản thân trước lương
tâm của quá trình tiếp nhận tác phẩm là như thế.
Đọc Nam Cao không phải chỉ là để cảm thông với Điền, với Thứ, với Hộ… với một cuộc sống bị “cơm áo ghì sát đất”, nó
đang có nguy cơ giết chết những ước mơ và những tình cảm nhân ái, cao thượng. Những tác phẩm của Nam Cao còn như
một tấm gương soi để độc giả hôm nay tự nhận diện chính mình, không ngừng vượt lên hoàn cảnh bản thân để sống một
cách xứng đáng hơn, tốt đẹp hơn.
Nếu trong tác phẩm “Đời thừa”, nhân vật Hộ là một trí thức hoàn toàn tốt thì tác phẩm có thể không làm ta xúc động đến
thế. Sự giằng xé giữa nhân cách cao thượng, hành vi đẹp đẽ, hoài bão to lớn, tấm lòng vị tha của một “chàng trai trẻ vốn
say mê lí tưởng” với những bận rộn tẹp nhẹp vô nghĩa lí, với sự câu thúc của đời sống tầm thường hàng ngày, cả những
cẩu thả, bất lương trong nghề cầm bút và những hành vi “tàn nhẫn của hắn” đối với Từ – người vợ rất đỗi đáng thương
của y và những giằng xé nội tâm không nguôi trong lòng Hộ, lại làm người đọc xót xa thương cảm đến tận đáy lòng.
Chính điều đó đã làm nên giá trị nhân văn rất lớn của tác phẩm.
Chính bản thân tác phẩm "Đời thừa" đã tạo được giá trị đích thực mà tác giả của nó hằng mong mỏi. “Nó chứa đựng được
một cái gì lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm
cho con người gần người hơn”. Những giá trị nhân văn to lớn như thế lại được hình thành từ những mẫu chuyện nhỏ nhặt,
vặt vãnh nhưng đã được viết bằng một ngòi bút chân thực, tài hoa và nhất là bằng một cuộc sống cũng đầy mâu thuẫn,
đau xót, trăn trở của chính nhà văn Nam Cao.
Ở đây có vấn đề viết cái gì và viết như thế nào. Không nên đồng nhất nội dung phản ánh và sự phản ánh. Nói cho rõ hơn,
ở đây tình cảm, lương tri, thái độ trân trọng đối với giá trị tinh thần của con người đã rọi sáng vào từng cảnh ngộ trong
câu văn, làm dấy lên ở người đọc một mối liên tưởng đồng cảm, đau xót. Đó mới là những yếu tố tạo nên sức thuyết phục
sâu xa đối với người đọc.
Đọc “Đời thừa” ta có cảm giác như nhà văn đã rọi vào chỗ sâu kín nhất của tâm tư. Quá trình nhân đạo hóa sẽ hình thành
từ sự đồng cảm ấy. Ở “Lão Hạc” cũng vậy. Tác phẩm gợi lên lòng thương cảm nơi người đọc từ cái chết thê thảm của lão
vì lòng thương con và vì tình trạng khốn quẫn của lão. Nhưng giá trị nhân đạo của tác phẩm chủ yếu lại không chỉ nằm ở
đấy. Tác phẩm gợi lên những tình cảm vị tha, cao thượng đầy tự trọng của một lão già nông dân chất phác, hiền lành: biết
đâu lão tự tử còn vì lòng tự trọng bị tổn thương, bị lương tâm cắn rứt vì nỡ lừa dối một con chó! (trong khi còn biết bao
con người mang mặt người nhưng lòng lang dạ thú “người với người là chó sói”). Phát hiện ở chỗ sâu xa nhất những nét
đẹp lương tri con người, tác phẩm đóng vai trò tích cực trong việc làm cho con người trở nên tốt đẹp, nhân ái hơn.

24
Đó là chưa kể đến những câu văn chan chứa một lòng vị tha độ lượng, một thái độ làm hòa với người khác và với chính
mình, những tình cảm nhân văn, nhân đạo là bài học về cách sống, cách xử thế, cách nhìn nhận và đánh giá con người
làm cho lòng ta trở nên thanh thản hơn, cao thượng hơn. “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tâm
mà hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn là những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao
giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ ta thương… “Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một
người đau chân, có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác hơn. Khi người ta khổ quá thì
người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị nỗi lo lắng buồn đau ích kỷ che lấp mất. Tôi
biết vậy nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận”.
Chao ôi, nếu ai cũng nghĩ được như thế thì quan hệ giữa con người với con người sẽ tốt đẹp biết bao nhiêu. Những câu
văn xót xa mà đẹp đẽ như thế đã vượt ra khỏi muôn khổ của tác phẩm, nó nói về cái tình người muôn thuở cần có, nó có
khả năng nhân đạo hóa con người, làm cho con người trở nên cao thượng và nhân ái hơn.
Ở đây nói nhân đạo hóa để nhấn mạnh sức cảm hóa mạnh mẽ của nghệ thuật. Con người là sản phẩm của tạo hóa, nó vốn
đẹp đẽ “nhân chi sơ, tính bản thiện”. Nhưng xã hội có thể làm tha hóa con người thì văn chương chân chính lại có khả
năng tác động ngược lại. Tình thương, lòng nhân đạo sẽ cảm hóa, thức tỉnh lương tri vốn luôn ẩn chứa trong chiều sâu nội
tâm con người, có khả năng “nhân đạo hóa” con người. Nói “khả năng” vì không nhất thiết bao giờ cũng có thể đạt được
như vậy. Nó còn tuỳ thuộc vào sự tiếp nhận riêng biệt của chủ thể cảm thụ. Nhưng một nhà văn chân chính bao giờ cũng
nung nấu, khát vọng tác phẩm của mình sẽ đem lại một giá trị tinh thần nào đấy, nhằm cứu vãn con người. Ngay cả
Truyện Kiều, dù Nguyễn Du có viết:
“Lời quê chắp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh”
thì ta cũng hiểu đó chỉ là một cách nói khiêm nhường. Khi trút lên ngòi bút bao nỗi đớn đau về cuộc đời, đương nhiên nhà
văn khao khát những tấm lòng tri âm, những giọt nước mắt đồng cảm:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?
Mấy thế kỉ trôi qua, Truyện Kiều và những tác phẩm đầy nhân đạo của Nguyễn Du mãi mãi là người bạn tâm tình, là
nguồn sức mạnh của biết bao thế hệ độc giả, kể cả những độc giả trẻ tuổi hiện nay:
Dẫu súng đạn nặng lòng ra hỏa tuyến
Đi đường dài, em giữ “Truyện Kiều” theo.
(Chế Lan Viên – Gửi Kiều cho em Năm đi đánh Mỹ)

Không thể nào có thể nói hết khả năng nhân đạo hóa của văn học đối với con người. Nhưng quả thật, đọc một tác phẩm
văn học chân chính, ta có cảm giác thật hạnh phúc và sung sướng như đang được đối diện, tâm tình trò truyện với một
người bạn thông minh, nhân ái, từng trải, như đang được chia sẻ nỗi buồn, niềm vui, tâm tư, ước vọng; như đang được
đón nhận ý chí, niềm tin, nghị lực trong cuộc hành trình đầy thử thách của cuộc sống. Biết bao nhiêu tác phẩm văn
chương đã trở thành cuốn sách gối đầu giường của nhiều thế hệ.
Nói như Gorki :“sách vở đã chỉ cho tôi chỗ đứng của mình trong đời sống, nói cho tôi biết rằng con người thật là vĩ đại và
đẹp đẽ, rằng con người luôn luôn hướng về cái tốt đẹp hơn, rằng con người đã làm nên nhiều thứ trên trái đất và vì thế mà
họ đã chịu biết bao đau khổ”. Và cũng chính Gorki đã tuyên ngôn: “Con người – cái tên mới đẹp làm sao, mới vinh quang
làm sao. Con người phải tôn trọng con người”.
Hiểu biết con người, hiểu chính mình, cảm thông chia sẻ với nỗi khổ đau của g của mình trong đời sống, nói cho tôi biết
rằng con người thật là vĩ đại và đebuồn, niềm vui, tâm tư, ước vọng; như đang được đón nhận ý chí, niềm tin, nghị lực
trong cuộc hành trình đầy tà truyện với môcon người, biết căm ghét cái giả dối, ti tiện, tàn ác, biết hướng tới cái chân,
thiện, mĩ; biết sống một cách chân thật, nhân ái, cao thượng… đó là những dấu hiệu của quá trình ‘nhân đạo hóa” mà văn
học chân chính đã và mãi mãi sẽ đem lại cho con người, vì hạnh phúc của con người.
25

×