Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

SỞ GD & ĐT BẮC NINH ĐỀ THI MINH HỌA VÀ ĐÁP ÁN–KÌ THI THPT QG 2015 MÔN NGỮ VĂN ĐỀ SỐ 16

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.09 KB, 6 trang )

SỞ GD & ĐT BẮC NINH
ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA NĂM 2015
MÔN: NGỮ VĂN
Đề 16 Th ờ i gian làm bài: 180 phút
Phần 1: Đọc hiểu (3 điểm)
Đọc đoạn văn sau đây và trả lời các câu hỏi:
"Tôi muốn nhấn mạnh rằng, Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích
chính đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng
liêng. Chúng tôi luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở
bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định
không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình,
hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó." (Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng)
1. Nội dung cơ bản của đoạn trích là gì?
2. Nội dung đó được thể hiện chủ yếu qua phép liên kết nào?
3. Văn bản chủ yếu được viết theo phương thức biểu đạt nào?
4. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ."
Anh/ chị hãy tìm ra thông điệp chung của hai văn bản? Thông điệp đó đã thể
hiện sâu sắc truyền thống cao quí nào trong đời sống tinh thần, tình cảm của
dân tộc?
Phần 2: Làm văn (7 điểm)
Câu 1 (3 điểm)
Trả lời câu hỏi điều tra của nhà bác học Han tơn, nhà bác học Đacuyn nói
về kinh nghiệm thành công của mình như sau:
“ Tôi nghĩ rằng tất cả những gì có giá trị một chút, tôi đều đã thu
nhận được bằng cách tự học”
Anh /chị hãy viết một bài văn ngắn khoảng 400 từ trình bày những suy
nghĩ của mình về câu nói trên.
Câu 2 (4 điểm)
Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ trong truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân.


HẾT
(Yêu cầu giám thị coi thi không giải thích gì thêm)
ĐÁP ÁN THI THỬ THPT QUỐC GIA NĂM 2015
MÔN: NGỮ VĂN
Phần 1: Đọc hiểu (3 điểm)
1. Nội dung cơ bản của đoạn trích là gì? (1 điểm)
Khẳng định ý chí kiên quyết bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của đất nước.
2. Nội dung đó được thể hiện chủ yếu qua phép liên kết nào? (0,5 điểm)
Nội dung đó được thể hiện chủ yếu qua phép lặp với các từ ngữ: chủ quyền,
thiêng liêng, lãnh thổ, biển đảo, vùng biển
3. Văn bản chủ yếu được viết theo phương thức biểu đạt nào? (0,5 điểm)
Phương thức nghị luận.
4. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ."
Anh/ chị hãy tìm ra thông điệp chung của hai văn bản? Thông điệp đó đã thể
hiện sâu sắc truyền thống cao quí nào trong đời sống tinh thần, tình cảm của
dân tộc? (1 điểm)
- Thông điệp chung của cả hai văn bản đều khẳng định ý chí bảo vệ chủ quyền
thiêng liêng của đất nước với bất cứ giá nào, vì "không có gì quí hơn độc lập,
tự do!"
- Thông điệp đó đã thể hiện sâu sắc truyền thống yêu nước cao quí trong đời
sống tinh thần, tình cảm của dân tộc.
Phần 2: Làm văn (7 điểm)
Câu 1 (3 điểm)
Yêu cầu chung: Thí sinh biết vận dụng kiễn thức và kỹ năng về dạng bài nghị
luận xã hội để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ rang, có cảm
xúc, bảo đảm tính liên kết, không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
1- Mở bài : Nêu được vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm)
2- Thân bài: (2 điểm)

1/ Giai thích câu nói của Đácuyn : Chân lý về sự tự học giúp người ta làm
những điều có ý nghĩa. Tự học là thực chất của sự học, tích cực chủ động đế
với kiến thức, là tìm kiếm tri thức ngoài sách vở nhà trường…
2/Bàn luận ( phân tích, chứng minh, bình luận ):
- Con người biết tự học là con người có ước mơ, hoài bão, có lí tưởng đóng
góp cho cuộc sống, vì :
+ Có hoài bão, có mục đích ta mới có phương hướng để tự học,tìm tòi, biết
học có phương pháp ( d/c)
+ Có hoài bão con người mới có kiên trì, bền bỉ tự học, có nghị lực vượt qua
khó khăn (d/c)
( Đác uyn : việc học của ông gắn liền với hoài bão khoa học của ông)
-Muốn có kiến thức thực sự thì học sinh phải tự học ngay từ khi ngồi trên ghế
nhà trường: xác lập hoài bão, mục đích để định hướng tự học, rèn luyện thói
quen tự học, chuẩn bị tinh thần tự học, tận dụng các điều kiện để tự học (sách,
báo, internet…)
3- Kết bài : (0,5 điểm)
- Đánh giá , nhận xét vấn đề: phát biểu của Đácuyn là một kinh nghiệm quý
báu
- Rút bài học và liên hệ bản thân : chúng ta phải biết tự học để thành tài, lập
nghiệp cho mình và đóng góp cho đất nước
Câu 2 (4 điểm)
Yêu cầu chung: Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị
luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục đầy đủ, có cảm xúc, thể
hiện khả năng cảm thụ văn học tốt. Không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
1- Mở bài: Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, nhân vật. (0,5 điểm)
2- Thân bài: (3 điểm)
a. Sự ngạc nhiên đến sững sờ
Tình huống đặc biệt làm cho bà cụ Tứ ngạc nhiên, ấy là việc con trai
mình đã lấy vợ. Bà cụ ngạc nhiên vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư lại
đang thời buổi đói khát, nuôi thân chẳng xong. Tràng còn dám lấy vợ, rước

thêm miệng ăn. Khi bà cụ đi làm về muộn, thấy người đàn bà ngồi ở đầu
giường con mình bà rất ngạc nhiên, càng ngạc nhiên hơn khi được người đàn
bà chào bẳng u và được Tràng giới thiệu: “Kìa nhà tôi nó chào u” "Nhà tôi nó
mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”. Bà ngạc nhiên đến mức không còn tin được
vào mắt và tai mình nữa: “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà
lão thấy mắt minh nhoèn thì phài. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn
chưa nhận ra người nào. Bà lão quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu”.
b. Vừa mừng vừa tủi
- Khi đã vỡ lẽ, đã hiểu ra con mình “nhặt" được vợ, bà “cúi đầu nín lặng. Bà
liên tưởng đến bao cơ sự “oái ăm” “ai oán” “xót thương" cho số kiếp của đứa
con mình. Bà liên tưởng đến người chồng quá cố, đến đứa con gái đã qua đời,
lòng bà trĩu nặng tủi buồn, xót xa.
- Bà cụ Tứ mừng cho con từ nay yên bề gia thất, tủi thân làm mẹ không lo nổi
vợ cho con. Giờ đây giữa lúc người chết đói "như ngả rạ" lại có người theo con
trai bà về làm vợ. Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng
quẫn. Biết lấy gì để cúng tổ tiên, để trình làng khi con đã có vợ. Bà cụ Tứ khóc
vì mừng con có vợ, khóc vì thương con dâu không biết làm sao vượt qua nỗi khó
khăn này.
“Trong kẽ mắt kém nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt". “Chúng mày
lấy nhau lúc này, u thương quá! ” “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp
với nhau, u cũng mừng lòng ” . "Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ
mỏi chân”. Bao nhiêu tình yêu thương chân thành tha thiết của người mẹ thể
hiện trong những lời giản dị mộc mạc ấy.
- Bà cụ xót xa thương dâu, thương con, tủi phận mình: Bà cụ nghẹn lời không
nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng". Bao nhiêu lo lắng ngổn
ngang trong lòng.
c. Nỗi lo
Bà cụ Tứ lo lắng thực sự cho con trai, con dâu, lo cho cái gia đình nghèo túng
của bà giữa lúc đói kém này liệu có nuôi nổi nhau? Tương lai rồi sẽ ra sao. .
Bà chấp nhận cái “hạnh phúc” oái oăm éo le của gia đình. Ngẫm cái phận

nghèo bà tự nhủ: “Có gặp bước khó khăn, đói khổ này người ta mới lấy đến
con mình. Mà con mình mới có vợ được ". Bà chỉ biết khuyên con, khuyên dâu
thương yêu nhau, ăn ở hoà thuận với nhau để cùng vượt qua cơn khốn khó. Đó
là nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng sâu thẳm đối
với con mình. Trong sự lo lắng tủi hờn vẫn nhen nhóm một niềm tin.
d. Niềm tin
- Trong cái mừng, cái tủi, cái lo, người đọc vẫn thấy được niềm vui của bả cụ.
Một niềm vui tội nghiệp không sao cất cánh lên được, cứ bị cái buồn, cái lo níu
kéo xuống. Nhưng bà cụ Tứ cố vui và gắng làm cho con, cho dâu vui.
* Vui trong ý nghĩ tốt đẹp về tương lai: “Rồi ra may mà ông giời cho khá " ai
giàu ba họ ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau. Bà cụ “nói toàn
chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này’’.
* Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa. Bà cụ giẫy cỏ cho sạch
vườn. “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu
dọn, quét tước nhà cừa".
* Vui trong bữa cơm sáng, bữa cơm đầu tiên có con dâu đó là một bữa “tiệc"
với món cháo loãng và món “chè khoán” đắng chát - một bữa ăn ngày đói rất
thảm hại nhưng bà cụ cố tạo ra niềm vui để động viên an ủi con trai, con dâu.
- Mặc dù cuộc sống khắc nghiệt, ngặt nghèo đến tàn bạo đã đầy đoạ mẹ con bà.
Bà vẫn cố tạo không khí hoà thuận ấm cúng trong gia đình và kể chuyện làm
ăn, nuôi gà tươi cười đon đả múc cho con dâu những bát cháo cám.
Tuy nhiên cái vui ấy, dù là rất nhỏ bé mà vẫn mong manh, vẫn chìm đi trong cái
tăm tối hiện tại: Tiếng khóc, mùi đốt đống rấm ờ những nhà có người chết đói.
Bà cụ nghĩ đến ông lão, đến đứa con út, đến cuộc đời cực khổ dài dặc dặc của
mình, đến cái “đói to" trước mắt. Bà cụ phấp phỏng nghĩ về con trai, về con
dâu.
• Nhân vật bà cụ Tứ mang nét đạo lí truyền thống:
Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ, với “cái mặt bủng beo, u tối” bà vẫn
nung nấu một ý chí sống mãnh liệt. Bà là hiện thân của những người mẹ nghèo
khổ mà từng trải, hiểu biết: hết lòng thương yêu con, yêu thương những cảnh

đời tội nghiệp, oái oăm. Bà nung nấu một khát vọng về cuộc sống gia đinh hạnh
phúc.
3- Kết bài: (0,5 điểm)
Qua nhân vật bà cụ Tứ, với những diễn biến tâm trạng phức tạp - dưới ngòi bút
nhân đạo của Kim Lân - nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động của “Vợ nhặt”
đã động chạm đến nơi sâu thẳm nhất của lòng người, bắt độc giả phải khóc,
phải cười, phải sống cùng nhân vật của mình.

×