Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Chia tài sản chung của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình việt nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.09 KB, 64 trang )

Lời nói đầu
Xã hội loài người đã trải qua nhiều hình thái gia đình khác nhau.
Gia đình là sản phẩm của xã hội, đã phát sinh và phát triển cùng với sự
phát triển của xã hội. Các điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn
phát triển nhất định là nhân tố quyết định tính chất và kết cấu của gia
đình. Do vậy gia đình là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, là tế bào của xã
hội. Quan điểm này đã được Ph.Angghen nhấn mạnh như một nguyên
lý của nội dung lý luận Macxit về hôn nhân và gia đình trong tác phẩm
nổi tiếng “ Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà
nước.”(1884)
Gia đình là tế bào của xã hội, sự ổn định và phát triển lành mạnh
của gia đình sẽ góp phần vào sự phát triển chung của toàn bộ xã hội.
Mỗi gia đình được xây dựng dựa trên những sợi dây liên kết của hôn
nhân, huyết thống và nuôi dưỡng trong đó quan hệ hôn nhân có thể xem
là quan hệ nền tảng của mỗi gia đình.
Nhận định được vị trí của gia đình trong xã hội, Đảng và Nhà
nước ta luôn chú trọng quan tâm đến việc xây dựng gia đình hòa thuận,
hạnh phúc. Biểu hiện ở việc, Nhà nước ban hành các quy phạm pháp
luật, điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình cho phù hợp với sự phát
triển của xã hội.
Trong quan hệ vợ chồng, bên cạnh đời sống tình cảm, tình yêu
thương lẫn nhau không thể không quan tâm tới đời sống vật chất. Quan
hệ tài sản giữa vợ chồng là một vấn đề hết sức quan trọng, nó là một
trong những tiền đề giúp cho vợ chồng xây dựng cuộc sống hạnh phúc,
đáp ứng những nhu cầu về vật chất tinh thần cho gia đình.
Xuất phát từ bản chất của quan hệ hôn nhân và gia đình là các yếu
tố nhân thân và tài sản gắn liền với các chủ thể nhất định, không thể
tách rời và không có tính đền bù ngang giá. Chính sự ràng buộc này
1
làm nảy sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa họ với nhau mà chia
tài sản chung của vợ chồng là một vấn đề không thể thiếu trong pháp


luật hôn nhân và gia đình .
Không phải là quy định mới trong Luật HN&GĐ năm 2000
nhưng trên cơ sở sự kế thừa Luật HN&GĐ năm 1986 (Điều 18), quy
định này đã dần có những bước thay đổi tích cực cho phù hợp với sự
phát triển của xã hội. Kể từ khi Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực,
các quy định về chia tài sản chung của vợ chồng đã từng bước đi vào
cuộc sống, phát huy được hiệu quả điều chỉnh, góp phần xây dựng củng
cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam .
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì việc áp dụng
các quy định trên vào thực tiễn không tránh khỏi những vướng mắc,
khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản ở
các cấp Tòa án. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề “ chia tài sản chung
của vợ chồng” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc nhằm đảm bảo
cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống.
Là sinh viên sau 4 năm được học tập tại trường, với mong muốn
góp một phần nhỏ vào việc làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn của việc
chia tài sản chung của vợ chồng; em đã mạnh dạn chọn đề tài “Chia tài
sản chung của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam – Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của
mình.
Trong phạm vi một khóa luận tốt nghiệp, đề tài chỉ tập trung
nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của các quy định pháp
luật về tài sản chung, chia tài sản chung và hậu quả pháp lý của việc
chia tài sản chung của vợ chồng theo Pháp luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam hiện hành. Đồng thời qua thực tiễn áp dụng Luật, phát hiện
những bất cập và đưa ra những kiến nghị nhằm bổ sung hoàn thiện các
quy định của pháp luật trong lĩnh vực này.
2
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là dựa trên
phép biện chứng của lý luận khoa học Mac – LeNin và tư tưởng Hồ Chí

Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực hôn nhân
và gia đình. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu khác như so sánh, phân tích, tổng hợp….

Kết cấu của khóa luận bao gồm :

Lời nói đầu.

Chương 1: Khái niệm chung về chế độ tài sản của vợ chồng và
chia tài sản chung của vợ chồng theo hệ thống pháp luật hôn nhân và
gia đình Việt Nam.

Chương 2 : Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng
theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.

Chương 3 : Thực tiễn áp dụng pháp luật về chia tài sản chung
của vợ chồng và một số kiến nghị.

Kết luận

Trong phạm vi khuôn khổ của khóa luận tốt nghiệp, với trình độ
chuyên môn và nhận thức còn hạn chế, cùng nguồn tài liệu nghiên cứu
còn chưa nhiều, do vậy khóa luận không tránh khỏi những khiếm
khuyết nhất định. Rất mong được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy,cô
giáo và các bạn quan tâm đến vấn đề này.
3
Chương 1
Khái niệm chung về chế độ tài sản của vợ
chồng và chia tài sản chung của vợ
chồng theo hệ thống pháp luật hôn

nhân và gia đình việt nam

1.1.kháI niệm chung về chế độ tài sản của vợ chồng 1.1.1.Khái niệm
chế độ tài sản của vợ chồng
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Nhận
thức rõ điều này Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng quan tâm, bảo hộ
hôn nhân và gia đình.
Để cho gia đình tồn tại và phát triển, cần phải có các điều kiện vật
chất- cơ sở kinh tế nuôi sống gia đình. Do vậy, chế độ tài sản của vợ
chồng luôn được nhà làm luật quan tâm như là một trong những chế định
cơ bản, quan trọng nhất của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Trong quan hệ hôn nhân, quan hệ nhân thân là chủ yếu nhưng quan
hệ tài sản của vợ chồng cũng là một vấn đề hết sức quan trọng, nó là một
trong những tiền đề giúp cho vợ chồng xây dựng cuộc sống hạnh phúc,
đáp ứng những nhu cầu về vật chất, tinh thần cho gia đình mình.
Hôn nhân và gia đình là những hiện tượng xã hội mang tính giai cấp
sâu sắc. Trong quan hệ hôn nhân không chỉ có ý nghĩa riêng tư giữa hai
vợ chồng mà còn tồn tại lợi ích của nhà nước và xã hội. Chính vì vậy giai
cấp thống trị đều thông qua Nhà nước, bằng pháp luật điều chỉnh các
quan hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. Chế
độ tài sản chung của vợ chồng được hầu hết các quốc gia ghi nhận, song
tùy thuộc vào chế độ chính trị – xã hội, phong tục, tập quán của mỗi nước
4
mà quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng cũng
khác nhau.
Pháp luật Việt Nam dựa trên cơ sở nền tảng là pháp luật Xã hội chủ
nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Do bản
chất của quan hệ hôn nhân xã hội chủ nghĩa tài sản không có ý nghĩa
quyết định trong việc xác lập quan hệ vợ chồng. Việc thiết lập và xây
dựng quan hệ hôn nhân gia đình đều dựa trên cơ sở tình cảm. Tài sản là

biện pháp, phương tiện để ổn định quan hệ gia đình, tạo điều kiện để gia
đình thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình.
Trong pháp luật của Nhà nước ta, cho đến nay vẫn chưa có một khái
niệm về chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong một văn bản cụ
thể của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Chế độ tài sản của vợ chồng
được quy định trong pháp luật như là một tất yếu khách quan, nhằm điều
chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng, góp phần ổn định các quan hệ xã hội.
Từ những phân tích trên ta có thể rút ra khái niệm về chia tài sản của
vợ chồng như sau : “Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh về tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy
định về xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản
chung, tài sản riêng; nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ và chồng”.
1.1.2. Nội dung chế độ tài sản chung của vợ chồng theo Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Vậy
nhà nước sẽ làm gì để “ bảo hộ hôn nhân và gia đình” ? Có rất nhiều biện
pháp mà một biện pháp không thể thiếu được là việc Nhà nước ban hành
các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình. Trong
gia đình Xã hội chủ nghĩa, vợ chồng cùng nhau nhau chăm lo gánh vác
công việc gia đình, do đó tài sản của vợ chồng không chỉ để phục vụ cho
bản thân mà còn cho cả các thành viên khác trong gia đình. Luật
5
HN&GĐ năm 2000 trên cơ sở xem xét mối liên hệ của tài sản và cuộc
sống vợ chồng từ thực tiễn đã quy định vợ chồng có tài sản chung.
*Căn cứ xác định tài sản chung:
Tài sản chung của vợ chồng là toàn bộ những quy định của pháp
luật về việc hình thành khối tài sản chung của vợ chồng và quyền nghĩa
vụ của vợ chồng đối với tài sản ấy.Trong chế độ xã hội chủ nghĩa nam nữ
kết hôn với nhau trên cơ sở tình yêu chân chính, bình đẳng và tự nguyện.
Khi trở thành vợ chồng tính chất cộng đồng tài sản giữa họ được xác lập.

Theo quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000:
“ 1.Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập hợp pháp khác của vợ,
chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung
hoặc tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài
sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được là tài sản chung của vợ
chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được trước khi két hôn, được
thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà
pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận
quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ
chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài
sản chung”.
Như vậy ngoài việc dự liệu nguồn gốc, căn cứ thành phần các loại
tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, thì nhà làm luật còn căn cứ vào
nguyên tắc suy đoán để xác định những tài sản thuộc sở hữu của vợ
chồng đang có tranh chấp, nhưng không đủ cơ sở để xác định tài sản
riêng của vợ chồng thì coi là tài sản chung. Đây là quy định mới của Luật
HN&GĐ năm 2000, nó xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, thông qua công
6
tác xét xử và nhằm hướng tới việc đảm bảo cao nhất quyền và lợi ích của
các bên.
Căn cứ pháp lý để xác định khối tài sản chung của vợ chồng là sự ra
đời và tồn tại của quan hệ vợ chồng. Luật quy định, những tài sản được
vợ chồng tạo ra “trong thời kỳ hôn nhân” mới đuợc coi là tài sản chung
của vợ chồng.
“Thời kỳ hôn nhân” là thời gian quan hệ vợ chồng tồn tại. Thời kỳ
hôn

nhân bắt đầu từ khi kết hôn và chấm dứt khi một bên chết hoặc ly hôn.
Tuy nhiên trong thực tế có nhiều trường hợp vợ chồng lấy nhau không có
đăng ký kết hôn, khi phát sinh mâu thuẫn thì đưa nhau ra toà xin ly hôn
và phân chia tài sản. Để giải quyết tình trạng hôn nhân thực tế còn tồn
đọng từ trước, khi xem xét hậu quả của việc chia tài sản chung của vợ
chồng theo hôn nhân thực tế sẽ theo quy định tại Nghị quyết số
35/2000/QH 10 của Quốc hội ngày 9/6/2000, Nghị quyết số 02/2000/NQ-
HĐTP của TANDTC ngày 23/12/2000.
Như vậy căn cứ để xác lập tài sản chung của vợ chồng, trước hết
phải dựa trên cơ sở “thời kỳ hôn nhân” của vợ chồng. Toàn bộ tài sản do
vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân này được coi thuộc khối tài sản
chung của vợ chồng.
- Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong
thời kỳ hôn nhân.
Đây là tài sản chủ yếu quan trọng đối với khối tài sản được coi là tài
sản chung của vợ chồng, bởi bản chất của cuộc sống chung giữa vợ chồng
là cùng nhau chung vai gánh vác mọi công việc gia đình, tạo ra tài sản để
đáp ứng mọi nhu cầu tinh thần, vật chất của gia đình mình.
Do tính chất của cuộc sống chung vợ chồng, tài sản chung của vợ
chồng không nhất thiết phải là tài sản do cả hai vợ chồng cùng tạo ra
7
trong thời kỳ hôn nhân, mà chỉ cần vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ
hôn nhân cũng sẽ là tài sản chung của vợ chồng.
Tài sản do vợ, chồng tạo ta có thể là tài sản tự tay vợ hoặc chồng
tạo ra phục vụ cho nhu cầu của gia đình, thể hiện dưới dạng vật chất cụ
thể như nhà cửa, xe cộ, vật dụng trong gia đình…Hiểu theo nghĩa rộng tài
sản do vợ chồng tạo ra không chỉ là những tài sản do chính tay vợ hoặc
chồng tạo ra, mà còn là những tài sản mà vợ hoặc chồng bỏ tiền vàng,
công sức để tạo ra. Vì lẽ đó, chúng ta phải hiểu tài sản do vợ, chồng tạo ra

theo cả hai nghĩa như thế mới thấu suốt được tinh thần điều luật.
Trong cuộc sống vợ, chồng có thể tham gia lao động, sản xuất kinh
doanh để tạo ra tài sản, nhưng đó phải là những lao động hợp pháp. Thu
nhập từ lao động là thu nhập cơ bản, chính đáng chủ yếu của người lao
động. Trong xã hội ta, lao động vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ của mỗi
công dân. Quyền tự do sản xuất kinh doanh của cá nhân được Nhà nước
ghi nhận là một quyền hiến định, Nhà nước luôn khuyến khích và tạo
điều kiện cho các cá nhân có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh. Bởi
nó một mặt vừa mang lại tài sản để duy trì ổn định và phát triển của gia
đình, mặt khác góp phần thúc đẩy sự phát triển cũng như làm giàu cho xã
hội.
Việc các bên thu nhập nhiều hay ít, cao hay thấp không phải là căn
cứ để luật phân định công sức đóng góp của các bên vợ chồng. Như vậy
dù vợ chồng ở nhiều ngành nghề khác nhau, mức thu nhập khác nhau,
song mọi thu nhập từ lao động nghề nghiệp, sản xuất kinh doanh theo quy
định của Luật HN&GĐ năm 2000 đều là tài sản chung.
- Các thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Theo hướng dẫn tại điểm a, mục 3 Nghị quyết số 02/2000/HĐTP
thì “những thu nhập hợp pháp khác” của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân còn có thể là tiền lương, tiền trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số…
mà vợ chồng có được hoặc tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở
8
hữu theo quy định của BLDS năm 2005 tại các Điều 240 (xác lập
quyền sở hữu đối với vật bị chôn giấu, chìm đắm được tìm thấy), Điều
239 (xác lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được
ai là chủ sở hữu), Điều 243 (xác lập quyền sở hữu đối với gia cầm bị
thất lạc), Điều 244 ( xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước),
Điều 242 ( xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc).
Như vậy, chỉ nhưng tài sản có nguồn gốc hợp pháp do vợ chồng
cùng tạo ra hoặc được xác lập quyền sở hữu trong thời kỳ hôn nhân mới

là tài sản chung của vợ chồng.
- Tài sản chung của vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng
cho chung là tài sản chung của vợ chồng.
Đây là loại tài sản chung của vợ chồng có nguồn gốc đặc biệt là
“tặng cho”. Tài sản này thường không nhiều bởi vì khi xây dựng gia
đình vợ chồng bao giờ cũng mong muốn cùng nhau tạo lập tài sản để
phát triển kinh tế gia đình. Tuy vậy nó lại mang ý nghĩa xã hội sâu sắc,
thể hiện sự đùm bọc, che chở yêu thương giữa những người thân và bạn
bè.
Ngoài ra vợ chồng còn được nhận di sản thừa kế, trừ thừa kế
theo di chúc, vợ chồng có quyền lợi ngang nhau trong việc hưởng phần
di sản bằng nhau khi thừa kế theo pháp luật.
Tài sản chung của vợ chồng còn được tạo lập bởi sự thoả thuận
của vợ chồng, bao gồm tài sản mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung
và tài sản do vợ chồng nhập từ tài sản riêng vào thành tài sản chung.
Việc nhập tài sản riêng của một bên vào khối tài sản chung của vợ
chồng nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản của một bên thì vô hiệu. Đây là
quy định rất mềm dẻo, linh hoạt nhằm bảo vệ quyền lợi của người thứ
ba tham gia vào quan hệ tài sản đối với vợ hoặc chồng.
Đối với tài sản không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ
chồng đang tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó cũng
9
là tài sản chung. ở đây nhà làm luật đã áp dụng nguyên tắc suy đoán để
giải quyết tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng. Đây chính là điểm
mới của Luật HN&GĐ năm 2000.
Điều 5 Nghị định số 70/2000/NĐ- CP ngày 3/10/2001 của Chính
phủ quy định các tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng khi đăng ký
quyền sở hữu phải ghi tên cả vợ và chồng như : nhà ở, quyền sử dụng
đất….Với quy định này đã thể hiện sự bình đẳng giữa vợ chồng trong
quá trình chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

Như vậy Lụât HN&GĐ năm 2000 đã quy định các căn cứ xác lập
tài sản chung của vợ chồng, dựa vào thời kỳ hôn nhân và nguồn gốc các
loại tài sản, đảm bảo cho quyền lợi của vợ chồng đối với tài sản chung.
Đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho các Toà án nhanh chóng giải quyết các
tranh chấp về tài sản của vợ chồng.
* Nội dung quyền sở hữu tài sản.
Theo quy định tại Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2000 : “ Vợ, chồng
đều có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản chung. Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu
cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng”.
Như vậy về mặt nguyên tắc vợ, chồng có quyền nghĩa vụ ngang
nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung, nó xuất phát
từ quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản chung. Khoản 3 Điều 28
Luật HN&GĐ năm 2000 còn quy định : “ Việc xác lập, thực hiện và
chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn, hoặc
là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư
kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thoả thuận, trừ tài sản chung đã
được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29”.
Cụ thể hoá quy định trên Luật HN&GĐ đã có hướng dẫn chi tiết tại Điều
4 Nghị đinh số 70/2000/NĐ- CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ.
10
Như vậy, so với Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000
đã quy định khá cụ thể và đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối
với tài sản chung.
Bên cạnh việc quy định chế độ tài sản chung của vợ chồng, Luật
HN&GĐ năm 2000 còn quy định vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.
Quy định này góp phần làm lành mạnh hoá các quan hệ hôn nhân và gia
đình, tạo cơ sở để xây dựng những gia đình hoà thuận, hạnh phúc.
1.2.khái lược vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong pháp luật
việt nam.

1.2.1.Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng.
Mục đích của kết hôn là nhằm xây dựng một gia đình hạnh phúc,
cùng nhau chung sống suốt đời nhưng cuộc sống gia đình không phải lúc
nào cũng “êm đềm”.Trong quan hệ vợ chồng, yếu tố tình cảm thường được
đưa lên vị trí hàng đầu, không có sự phân biệt rạch ròi nguồn gốc tài sản và
tài sản của ai, nhưng cuộc sống gia đình không tránh khỏi việc phát sinh
các mâu thuẫn, bất đồng quan điểm trong việc quản lý, sử dụng, định đoạt
tài sản chung. Chỉ đến khi mâu thuẫn trong gia đình phát sinh, lúc đó các
tranh chấp về tài sản mới đựơc đặt ra, tuỳ theo mức độ khác nhau mà họ có
thể yêu cầu ly hôn hay xin chia tài sản chung mà không yêu cầu ly hôn.
Chính vì vậy việc quy định chế định chia tài sản chung của vợ chồng
trở thành một nhu cầu tất yếu đáp ứng được nhu cầu thực tế đặt ra. Một
mặt giải toả được những xung đột, mâu thuẫn trong gia đình, giúp cho các
cá nhân tự phát huy được các khả năng của mình trong xã hội. Mặt khác
giúp cho các Toà án giải quyết nhanh chóng các vụ việc.
Xuất phát từ thực tế trên, Luật HN&GĐ năm 2000 trên cơ sở kế thừa
Luật HN&GĐ năm 1986 đã tiếp tục quy định chia tài sản chung của vợ
chồng. Trong nhiều năm qua chế định này đã từng bước đi vào cuộc sống
phát huy được hiệu quả điều chỉnh, góp phần xây dựng, củng cố chế độ
hôn nhân và gia đình Việt Nam.
11
Vậy chia tài sản chung của vợ chồng là gì? Từ những phân tích trên
ta có thể đưa ra khái niệm về chế định chia tài sản chung của vợ chồng như
sau:
“Chia tài sản chung của vợ chồng là việc vợ chồng tự thoả thuận
hoặc yêu cầu Toà án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng dựa
trên những điều kiện nhất định, nhằm bảo đảm cho các bên tự chủ trong
việc sử dụng, định đoạt, tài sản của mình trong khối tài sản chung”.
1.2.2. Sơ lược các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong hệ
thống pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam.

1.2.2.1.Cổ luật Phong kiến.
ở thời kỳ này quan hệ gia đình mang nặng tính chất gia trưởng, quyền
uy, phục tùng trong đó người vợ phụ thuộc tuyệt đối vào người chồng. Chế
độ sở hữu chung của vợ chồng cũng được xác lập nhưng vẫn còn hạn chế.
Tiêu biểu ở giai đoạn này là hai bộ luật : Quốc Triều Hình Luật
(QTHL) dưới triều Lê và bộ Hoàng Việt Luật Lệ dưới thời nhà Nguyễn. Cả
hai bộ luật này đều ghi nhận sự tồn tại chế độ sở hữu chung về tài sản của
vợ chồng, đấy chính là “tần tảo điền sản”.
Về vấn đề chia tài sản chung cổ luật phong kiến Việt Nam quy định
hai trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng : khi một bên chết trước và
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
QTHL quy định khi vợ hoặc chồng chết thì điền sản đều được chia
đôi mỗi người một phần. Đây là một quy định tiến bộ thể hiện sự bình
đẳng của người vợ đối với người chồng trong quan hệ tài sản. Tuy nhiên
do hạn chế của xã hội bấy giờ nên quyền lợi của người vợ cũng chưa thực
sự được đảm bảo, thể hiện ở chỗ: “nếu người vợ còn sống mà cải giá thì
phải trả lại điền sản đã được chia”
Trường hợp vợ chồng ly hôn, việc phân chia tài sản chung được quy
định trong QTHL như sau : Nếu ly hôn mà có con thì tài sản chung không
được chia; nếu vợ chồng không có con mà ly hôn thì tài sản chung của vợ
12
chồng được chia đôi cho hai người. Trường hợp người vợ “phạm gian” mà
ly hôn thì không những không được chia tài sản chung, mà còn không lấy
lại được tài sản riêng.
Như vậy luật Phong kiến do vẫn còn mang nặng tư tưởng lễ giáo, gia
trưởng, đề cao coi trọng vị trí, vai trò của người chồng trong gia đình,
người đàn ông trong xã hội, nên quyền lợi của người phụ nữ vẫn chưa
được bình đẳng và chưa được bảo đảm.
1.2.2.2.Thời kỳ Pháp thuộc.
Sau khi hoàn tất tiến trình xâm lược, để đảm bảo và duy trì nền móng

cai trị thực dân ở nước ta, thực dân Pháp đã chia nước ta ra làm 3 miền với
ba chế độ để dễ bề cai trị. ở mỗi miền áp dụng các Bộ luật Dân sự riêng,
trong đó quy định điều chỉnh các quan hệ về hôn nhân và gia đình.
- Tại Bắc kỳ áp dụng các quy định trong Bộ dân luật năm 1931.
- Tại Trung kỳ áp dụng các quy định trong Bộ dân luật năm 1936.
- Tại Nam kỳ áp dụng các quy định trong Bộ dân luật Giản yếu năm
1883.
Pháp luật thời kỳ này vẫn duy trì hai trường hợp chia tài sản chung
của vợ chồng như cổ luật là chia khi một bên chết trước và chia tài sản
chung khi ly hôn.
Đối với trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
BDLBK quy định, nếu vợ chồng có con mà ly hôn thì tài sản chung của vợ
chồng sẽ không được chia theo nguyên tắc chia đôi mà người vợ chỉ được
chia một phần trong tài sản chung tuỳ theo kỷ phần mà người vợ đã đóng
góp. Nếu “phạm gian” mà ly hôn thì phần mà người vợ được chia sẽ bị bớt
đi một nửa. Nếu người vợ ly hôn mà không có con thì sẽ được lấy lại kỷ
phần của mình và một nửa tài sản chung.
Trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên chết trước,
bộ DLBK quy định không chia mà giữ nguyên, chỉ đặt ra vấn đề chia khi
người vợ còn sống mà cải giá.
13
Trong bộ dân luật Giản yếu 1883 không thừa nhận chế độ cộng đồng
tạo sản, toàn bộ tài sản trong gia đình đều thuộc sở hữu của người chồng.
Do đó không đặt ra vấn đề chia tài sản.
Như vậy chế độ hôn nhân của nước ta ở thời kỳ Pháp thuộc là công
cụ pháp lý của giai cấp thống trị nhằm củng cố và bảo vệ lợi ích của mình.
Thời kỳ này quyền lợi của người phụ nữ, người vợ hầu như không đươc
pháp luật xem xét, coi trọng.
1.2.2.3.Thời kỳ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nhà nước Việt Nam dân chủ

cộng hoà ra đời. Dù còn bận chống thù trong giặc ngoài, nhưng Đảng và
Nhà nước ta vẫn chú trọng tới việc soạn thảo xây dựng hệ thống pháp luật
nhằm củng cố và bảo vệ thành quả của Cách mạng.
Năm 1950 Nhà nước ta đã ban hành hai sắc lệnh đầu tiên về hôn
nhân gia đình là : Sắc lệnh số 97-SL và sắc lệnh số 159-SL. Sắc lệnh vẫn
duy trì các trường hợp chia tài sản chung của luật cũ, tuy nhiên việc quy
định về vấn đề chia tài sản còn rất chung chung, Sắc lệnh chưa quy định rõ
về cách thức chia, nguyên tắc chia cũng như hậu quả pháp lý của việc chia
tài sản chung.
ở thời kỳ này Nhà nước ta chưa ban hành bộ luật Dân sự mới, thay
vào đó là việc duy trì áp dụng BDLBK và BDLTK trên cơ sở có chọn lọc
các yếu tố tiến bộ, xóa bỏ các quy định hủ tục, lạc hậu. Mà theo các bộ dân
luật này quy định, chế độ tài sản chung của vợ chồng là chế độ cộng đồng
toàn sản. Do đó việc Sắc luật chỉ quy định các trường hợp chia mà chưa dự
liệu nguyên tắc chia thì vẫn áp dụng nguyên tắc chia đôi.
Năm 1959, lần đầu tiên Luật hôn nhân và gia đình được ra đời, hay
còn gọi là Đạo luật số 13. Theo Luật HN&GĐ năm 1959 tài sản chung của
vợ chồng là tài sản chung hợp nhất, tức mọi tài sản mà vợ chồng có trước
và sau khi kết hôn đều là tài sản chung của vợ chồng, luật không thừa nhận
14
tài sản riêng. Luật quy định hai trường hợp chia tài sản chung của vợ
chồng là:chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên chết trước và chia
khi ly hôn.
Trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên chết trước
(Điều 16) thì sẽ chia như khi ly hôn. Còn khi ly hôn việc chia tài sản sẽ căn
cứ vào sự đóng góp về công sức của mỗi bên, tình hình tài sản, tình trạng
cụ thể của gia đình…
Luật HN&GĐ năm 1959 đã khắc phục được những hạn chế của hai
sắc lệnh khi quy định rõ nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng. Đồng
thời khẳng định được bản chất pháp luật xã hội chủ nghĩa, là công cụ pháp

lý của Nhà nước, phục vụ nhân dân lao động, là nền móng để từng bước
xây dựng nghành luật hôn nhân và gia đình trong hệ thống pháp luật Xã
hội chủ nghĩa của Nhà nước ta.
Luật HN&GĐ năm 1986 được Nhà nước ban hành vào những năm
đầu của thời kỳ đổi mới.
Về quy định chia tài sản chung của vợ chồng so với Luật HN&GĐ
năm 1959 có điểm tiến bộ hơn, đó là quy định chia tài sản chung của vợ
chồng trong ba trường hợp : Chia khi ly hôn, chia khi một bên chết trước
và chia trong thời kỳ hôn nhân.Về nguyên tắc chia tài sản khi một bên chết
trước và chia trong thời kỳ hôn nhân sẽ chia như khi ly hôn, đồng thời áp
dụng cả pháp luật về thừa kế theo thông tư số 81/1988. Còn khi ly hôn sẽ
theo nguyên tắc chia đôi.
Kế thừa Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 cũng quy
định việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong ba trường hợp trên.
Như vậy trong từng thời kỳ, phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử và thực
tế lúc bấy giờ mà việc quy định về chia tài sản chung của vợ chồng có khác
nhau. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam đang ngày một củng cố và
hoàn thiện, góp phần điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình ngày
15
một tốt hơn. Đồng thời thúc đẩy xã hội ngày một tiến lên, xây dựng đất
nước ngày càng vững mạnh.
Chương 2
Các trường hợp chia tài sản chung của
vợ chồng theo luật hôn nhân và gia
đình việt nam năm 2000
2.1.Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
2.1.1.Mục đích quy định việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân
Kế thừa và phát triển Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm
2000 cũng quy định về việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ

hôn nhân tại Điều 29 và quy định hậu quả chia tài sản chung của vợ chồng
tại Điều 30.
Về nguyên tắc, khi hôn nhân còn tồn tại thì tài sản chung vẫn còn tồn
tại, chế độ tài sản này chỉ chấm dứt về mặt pháp lý như : ly hôn, một bên vợ
hoặc chồng chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết. Nhưng các nhà làm luật
vẫn đặt ra vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, là
16
xuất phát từ thực tiễn đời sống xã hội, của các quan hệ hôn nhân và gia đình
trong những năm vừa qua.
Một số trường hợp vợ chồng dù có mâu thuẫn sâu sắc, tình cảm không
còn, nhưng vì lý do nào đó như : sợ ảnh hưởng tới hòa khí trong gia đình,
ảnh hưởng tới con cái, hàng xóm chê cười, tới danh dự uy tín của nhau… mà
họ không yêu cầu ly hôn, chỉ yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng.
Chính vì vậy, việc chia tài sản chung khi hôn nhân tồn tại trở thành một nhu
cầu tất yếu, đáp ứng được thực tế đặt ra cho các cá nhân tự phát huy các khả
năng của mình trong xã hội. Mặt khác, vừa giảm thiểu một tỷ lệ lớn các cặp
vợ chồng xin ly hôn, hạn chế thấp nhất các tranh chấp phát sinh giữa vợ và
chồng.
Ngoài ra, việc quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân cũng thể hiện được tư tưởng lập pháp tiến bộ của nhà nước ta, đó
là quan tâm đến lợi ích của từng cá nhân trong gia đình và trong các mối
quan hệ ngoài xã hội.Với việc quy định vấn đề chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân sẽ là cơ sở pháp lý để Tòa án giải quyết các
tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng.
Sự vận động không ngừng của các quan hệ xã hội đòi hỏi việc ban
hành pháp luật phải kịp thời, do đó việc đặt ra chế định chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là hết sức cần thiết, phù hợp với cuộc
sống và tâm lý nguyện vọng của nhân dân.
2.1.2.Điều kiện chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Theo quy định tại Điều 29, khoản 1 Luật HN&GĐ năm 2000 thì : “Khi

hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực
hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lí do chính đáng khác thì vợ chồng có thể
thỏa thuận chia tài sản chung”
Như vậy, để đảm bảo được mục đích của việc chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì cần phải đáp ứng các điều kiện sau :
- Vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng.
17
- Vợ chồng thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng.
- Vợ chồng có lý do chính đáng khác.
2.1.2.1. Chia tài sản chung khi vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng
Xuất phát từ quy định tại Điều 57 Hiến pháp năm 1992 “công dân có
quyền tự do kinh doanh theo pháp luật”. Việc ghi nhận quyền chia tài sản
chung của vợ chồng để đầu tư kinh doanh riêng là sự cụ thể hóa một trong
những quyền hiến định của công dân.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp vợ chồng đầu tư
kinh doanh riêng, xuất phát từ việc tôn trọng quyền tự do của cá nhân, nếu
một trong hai vợ chồng muốn đầu tư kinh doanh riêng thì có thể chia tài sản
chung của vợ chồng.
Nhà nước ta ngày càng mở cửa thị trường đã tạo ra nhiều cơ hội cho
các chủ thể tham gia vào hoạt động đầu tư kinh doanh. Bên cạnh những “cơ
hội làm giàu” thì nền kinh tế thị truờng cũng đặt ra không ít thử thách, đòi
hỏi các chủ thể kinh doanh phải luôn nhạy bén, tỉnh táo để nắm bắt tốt “ thời
cơ ” và điều quan trọng là phải chủ động về vốn. Cho nên nhiều khi chỉ ví
một lý do nào đó mà vợ chồng không thống nhất được với nhau trong việc
sử dụng tài sản chung vào việc đầu tư kinh doanh nên để “lỡ mất cơ hội”.
Quy định này một mặt tạo điều kiện cho vợ, chồng có tài sản riêng làm
vốn đầu tư kinh doanh hoặc “chớp thời cơ” khi tài sản riêng của một bên
không đủ, mà bên kia lại không đồng ý sử dụng vào công việc kinh doanh,
buôn bán đó. Mặt khác quy định này còn nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình,
bảo đảm cuộc sống ổn định của các thành viên trong gia đình tránh khỏi

những ảnh hưởng tiêu cực, hạn chế rủi ro do hoạt đồng đầu tư kinh doanh
gây ra.
2.1.2.2. Chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên thực hiện nghĩa vụ
dân sự riêng.
Đây là trường hợp vợ chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng như :
trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân, người vợ hoặc người chồng
18
đó đã vay nợ sử dụng vào nhu cầu riêng, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do
hành vi trái pháp luật gây ra, nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng người khác…
Nếu tài sản riêng không có hoặc không đủ mà vợ chồng không thỏa thuận
được về việc lấy tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ riêng cho một bên thì
vợ, chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để
người vợ, chồng lấy phần tài sản của mình trong khối tài sản chung của vợ
chồng nhằm thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng của mình một cách độc lập mà
không làm ảnh hưởng tới quyền lợi của phía bên kia.
2.1.2.3. Chia tài sản chung của vợ chồng khi có lý do chính đáng khác.
ở đây hiểu thế nào là “có lý do chính đáng khác”của vợ, chồng để chia
tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại, cho đến nay dù đã có hai văn bản
hướng dẫn là Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của
HĐTPTANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ
năm 2000 và Nghị định số 70/2001/NQ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành Luật HN&GĐ năm 2000 nhưng vẫn chưa có một
hướng dẫn đề cập vấn đề này.
Việc chưa có hướng dẫn cụ thể về “có lý do chính đáng khác” nên
trong thực tiễn áp dụng luật còn gặp nhiều vướng mắc. Sự tùy tiện nhiều khi
mang đậm màu sắc chủ quan của các thẩm phán khi xét xử trong việc công
nhận có hay không có lý do chính đáng sẽ dẫn đến tình trạng thiếu sự thống
nhất trong cách thức giải quyết của Tòa án, Tòa án này thì cho một vụ việc
cụ thể nào đó là có lý do chính đáng nhưng Tòa án khác thì lại cho rằng đó
không phải là lý do chính đáng và không cho chia tài sản chung của vợ

chồng
Theo em, pháp luật cần phải cụ thể hơn thế nào là có lý do chính đáng,
tạo sự đồng bộ trong cách hiểu và áp dụng pháp luật của các cấp xét xử. Có
thể coi là có lý do chính đáng khi thuộc một trong các trường hợp sau:
+ Một bên vợ hoặc chồng bị tuyên bố mất tích theo quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án.
19
+ Vợ chồng tính tình không hợp nhau nhưng con cái đã lớn hoặc là
người có địa vị trong xã hội, có bằng cấp họ có mâu thuẫn với nhau nhưng
không muốn ly hôn vì sợ ảnh hưởng đến danh dự, uy tín.
+ Một bên vợ chồng có hành vi phá tán tài sản của gia đình như rượu
chè, cờ bạc, nghiện hút…thì bên kia có thể yêu cầu chia tài sản chung khi
hôn nhân tồn tại.
+ Do mâu thuẫn giữa con chung và con riêng hoặc mâu thuẫn trong
cách quản lý, sử dụng tài sản vì nhu cầu của gia đình.
Như vậy với việc quy định cụ thể, rõ ràng về lý do chính đáng sẽ tạo
điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho việc áp dụng của các Tòa án.
Ngoài ra Luật HN&GĐ năm 2000 còn quy định việc chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phải lập thành văn bản. Trong trường
hợp vợ chồng không thỏa thuận được về việc chia tài sản chung thì có quyền
yêu cầu Tòa án giải quyết. Vấn đề đặt ra là “bản thỏa thuận” về chia tài sản
chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại, nên chăng cần phải được sự công
nhận của Tòa án hay một cơ quan nhà nước có thẩm quyền và sự “can thiệp”
của Tòa án chỉ đặt ra khi vợ chồng không thỏa thuận được việc chia tài sản
chung? Thiết nghĩ cần phải có các văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này,
để tránh tình trạng vợ chồng dựa vào các lý do không chính đáng để chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Để hạn chế các cặp vợ chồng trong thực tế lạm dụng quyền trong việc
chia tài sản chung nhằm mưu cầu lợi ích trái pháp luật, xâm phạm tới quyền
lợi của người khác, khoản 2 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định :

“Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ
về tài sản không được pháp luật công nhận”. Cụ thể hóa điều này, Điều 11
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ có hướng dẫn
các trường hợp được coi là “ trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản” như
sau:
“1.Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng người khấc theo quy định của pháp luật.
20
2.Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.
3.Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
4.Nghĩa vụ nộp thuế và nghĩa vụ tài chính khác đối với nhà nước.
5.Nghĩa vụ trả nợ cho người khác.
6.Các nghĩa vụ về tài sản khác theo quy định của pháp luật.”
Như vậy, nếu phát hiện việc vợ chồng có yêu cầu chia tài sản chung
“nhằm trốn tránh nghĩa vụ về tài sản” thì phán quyết của Tòa án phải bị hủy
bỏ.
Quy định về chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại
không phải gián tiếp quy định về chế độ ly thân. Theo các bộ luật dân sự cũ
thì ly thân được hiểu là trường hợp vợ chồng sống cách biệt nhau trong một
thời gian nhất định và tài sản của vợ chồng được thực hiện theo chế độ biệt
sản. Nghĩa là phần tài sản của mỗi người được chia trong khối tài sản
chung và mọi tài sản mà mỗi bên tạo ra khi sống ly thân là tài sản riêng của
mỗi
người. Theo Ph.Angghen, ly thân có nguồn gốc từ tôn giáo và được giải
quyết dựa trên cơ sở lỗi của vợ chồng. Nhà làm luật tư sản cho rằng ly thân
là một giải pháp nhằm giải tỏa xung đột trong quan hệ vợ, chồng; mặt khác,
thời hạn mà vợ chồng ly thân do Tòa án quyết định sẽ tạo cơ hội để vợ
chồng suy xét lại, nhằm hàn gắn mâu thuẫn giữa vợ chồng, vợ chồng chung
sống đoàn tụ không phải ly hôn [18,tr 120]. Hay nói cách khác đi chia tài
sản khi
hôn nhân tồn tại chủ yếu xuất phát từ những lý do về mặt tài sản, còn với

trường hợp ly thân bao giờ cũng xuất phát từ yếu tố tình cảm.
Như vậy Luật HN&GĐ của Nhà nước ta không quy định về vấn đề ly
thân, điều này hoàn toàn phù hợp với bản chất của hôn nhân được xác lập
dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa.
21
2.1.3.Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân.
Về phương diện chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân, Luật HN&GĐ năm 2000 cho phép vợ chồng tự thỏa thuận chia tài sản
chung bằng văn bản hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết.
2.1.3.1.Nguyên tắc tự thỏa thuận của vợ chồng.
Trên cơ sở tôn trọng quyền tự định đoạt của vợ chồng đối với tài sản
chung, Luật HN&GĐ năm 2000 quy định vợ chồng có thể tự thỏa thuận chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Đây chính là điểm mới của Luật
HN&GĐ năm 2000 so với Luật HN&GĐ năm 1986.
Để tránh việc “thỏa thuận” của vợ chồng nhằm mục đích tẩu tán, trốn
tránh nghĩa vụ tài sản, Luật HN&GĐ năm 2000 quy định việc thỏa thuận
của vợ chồng phải lập thành văn bản và ghi rõ các nội dung như : lý do chia
tài sản, phần tài sản chia, phần tài sản còn lại không chia (nếu có), thời điểm
có hiệu lực của việc chia tài sản chung và những nội dung khác nếu có. Văn
bản thỏa thuận có thể có người làm chứng hoặc được công chứng, chứng
thực theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc theo quy định của pháp luật (Điều 6
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ ). Nếu việc
thỏa thuận này nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản
không được pháp luật công nhận.
Thực tiễn xét xử cho thấy, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau
về các vấn đề đang có tranh chấp sẽ là biện pháp hữu hiệu hơn cả, tránh
được những mâu thuẫn bất đồng khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân.
Vợ chồng có thể thỏa thuận về hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã

chia là sở hữu riêng của mỗi người hay là tài sản chung hoặc có thể thỏa
thuận về thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu
nhập hợp pháp khác của một bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng
22
của vợ, chồng hay vẫn là tài sản chung ( Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-
CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ ).
Như vậy Luật HN&GĐ năm 2000 rất đề cao nguyên tắc tự thỏa thuận
khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.Tuy nhiên ở đây
đòi hỏi sự thỏa thuận của vợ chồng phải trung thực, tự nguyện, không được
lừa dối, cưỡng ép, có như vậy mới đảm bảo được quyền lợi của các bên vợ
chồng.
2.1.3.2.Nguyên tắc vợ chồng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trường hợp vợ, chồng không thỏa thuận được việc chia tài sản chung
thì cả hai bên hoặc một bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.Tuy nhiên
Luật lại không quy định rõ nguyên tắc chia như thế nào, dẫn đến thực tế áp
dụng ở các Tòa án hiện nay gặp rất nhiều vướng mắc.
Luật HN&GĐ năm 1986, tại Điều 18 có quy định việc chia tài sản
chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại như chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn. Nên chăng Luật HN&GĐ năm 2000 cũng nên quy định
như vậy! Vì vậy theo em cần phải có văn bản hướng dẫn quy định cụ thể về
vấn đề này tạo cơ sở pháp lý cho các Tòa án khi giải quyết việc chia tài sản
chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại.
2.1.4.Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân.
2.1.4.1.Hậu quả pháp lý về nhân thân.
Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt
quan hệ vợ chồng trước pháp luật, giữa hai bên vẫn tồn tại mọi quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng như nghĩa vụ chăm sóc, giúp dỡ lẫn nhau; nghĩa vụ
chung thủy, có quyền lựa chọn nghề nghiệp chính đáng , quyền lựa chọn nơi
cư trú, quyền thừa kế tài sản của nhau khi một bên chết trước…Việc vợ

chồng ở chung hay ở riêng với nhau sau khi chia tài sản chung là tùy thuộc
vào thực tế đời sống cụ thể của vợ chồng, điều này không làm hạn chế các
quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng theo quy định của pháp
23
luật.Vì vậy, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không có nghĩa là
quy định về chế độ ly thân. Do quan hệ hôn nhân vẫn đang tồn tại nên trên
cơ sở tính chất cộng đồng của hôn nhân, khối tài sản chung của vợ chồng
phát sinh sau khi chia tài sản chung về nguyên tắc vẫn là sở hữu chung hợp
nhất, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
2.1.4.2.Hậu quả pháp lý về tài sản.
Điều 30 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: “Hoa lợi, lợi tức phát sinh
từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản
còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng”. Như vậy, nếu vợ
chồng thỏa thuận chia một phần tài sản chung thì phần đã chia, hoa lợi, lợi
tức phát sinh từ phần tài sản đã chia đó thuộc sở hữu riêng của vợ chồng;
phần tài sản chung còn lại vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
Vấn đề đặt ra là, trường hợp vợ chồng yêu cầu chia toàn bộ tài sản
chung thì không còn căn cứ phát sinh tài sản chung nữa, như vậy việc chi
dùng trong gia đình và các nghĩa vụ chung của vợ chồng sẽ được giải quyết
như thế nào? Trách nhiệm của các bên trong việc duy trì sự ổn định và phát
triển của gia đình sẽ được giải quyết ra sao? Vô hình chung quy định này có
thể làm ảnh hưởng tới sự ổn định của gia đình, mất đi bản chất, chức năng
của gia đình xã hội chủ nghĩa! Bởi vậy nhà làm luật cần phải có những quy
định chặt chẽ hơn nhằm đảm bảo cuộc sống ổn định của gia đình.
Mặt khác Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của
Chính phủ còn quy định : “Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh
doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản
chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận
khác”. Theo quy định này thì sau khi chia tài sản chung, mọi thu nhập mà
mỗi bên có được sẽ không thuộc sở hữu chung hợp nhất nữa. Điều này có

nghĩa là kể từ khi chia tài sản chung của vợ chồng, chế độ sở hữu chung hợp
nhất của vợ chồng sẽ chấm dứt.
24
Quy định này là mâu thuẫn với khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ năm
2000 vì xuất phát từ tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân, thì tài sản do vợ
chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng,
không phân biệt mức đóng góp, thu nhập của mỗi bên, không đòi hỏi phải do
cả hai bên cùng trực tiếp tạo ra, do đó cần kịp thời có sửa đổi quy định này.
Hơn nữa với quy định này sẽ tao ra “lỗ hổng pháp luật” cho việc “trốn
tránh” trách nhiệm đóng góp của vợ chồng vào đời sống chung của gia
đình.Vì vậy theo em, cần phải có quy định cụ thể về trách nhiệm của vợ
chồng đối với đời sống chung của gia đình khi chia tài sản chung.
Qua phân tích trên cho thấy, quy đinh về hậu quả pháp lý của việc chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là chưa đầy đủ, chưa hợp lý và chính
xác. Luật HN&GĐ cần quy định rõ hơn trách nhiệm của các bên đối việc
duy trì sự ổn định và phát triển của gia đình sau khi chia tài sản chung. Và
quy định rõ những tài sản mà vợ chồng có được sau khi chia tài sản chung
do được thừa kế chung, tặng cho chung là tài sản chung của vợ
chồng, trừ trường hợp người để lại di sản thừa kế, người tặng cho tài sản đã
có sự phân định rõ quyền của mỗi bên vợ, chồng trong khối tài sản đó.
Sau khi chia tài sản, vợ chồng có thể khôi phục lại chế độ tài sản
chung, trên cơ sở có văn bản thỏa thuận giữa vợ chồng về việc khôi phục tài
sản chung và có người làm chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của vợ,
chồng hoặc theo quy định của pháp luật.( Điều 9 Nghị định số 70/2001/NĐ-
CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ).
Với điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, việc quy định chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là rất cần thiết, đáp ứng được xu
thế phát triển của xã hội và nhu cầu của thực tiễn. Tuy nhiên để đảm bảo
hiệu quả điều chỉnh của pháp luật, giải quyết tốt các tranh chấp có thể xảy ra
thì pháp luật cần quy định về vấn đề này một cách chặt chẽ, logic và hợp lý

hơn.
25

×