Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cao su Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.78 KB, 54 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời Mở Đầu

1.Tính cấp thiết của đề tài.
Cây cao su là cây công nghiệp dài ngày,có khả năng thích ứng rộng,tính chống
chịu với điều kiện bất lợi cao và mang giá trị kinh tế lớn do chất lỏng tiết ra từ cây
hay còn goi là “mủ cao su” là nguyên liệu công nghiệp chính sản xuất ra cao su .Việt
Nam và các nước thuộc khu vực Đông Nam Á có được lợi thế vô cúng lớn từ khí
hậu,đất đai thuận lợi cho sự phát triển của cây cao su.Bởi vậy cây cao su đã trở thành
nguồn lợi kinh tế lớn đặc biệt cho ngành và cho sự phát triển của đất nước.
Nhìn nhận thấy tiềm năng phát triển lớn của cây cao su,Việt Nam đã chú trọng
trồng trọt,khai thác chế biến cao su rộng rãi trên cả nước.Các sản phẩm cao su không
chỉ nhằm phục vụ cho nhu cầu trong nước và đồng thời đóng góp một tỷ trọng lớn
vào kim ngạch xuất khẩu của đất nước,có mặt ở hầu hết tất cả các thị trường trên thế
giới.
Tuy nhiên sản phẩm cao su của Việt Nam còn gặp nhiều trở ngại năng lực cạnh
tranh còn yếu kém so với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực như Thái
Lan,Malayxia,Indonexia.. cũng như năng lực cạnh tranh của ngành còn yếu kém so
với các ngành kinh tế khác
Do đó, làm sao phát huy hết nội lực, hết lợi thế để cao su Việt Nam có thể đứng
vững và phát triển trên thị trường thế giới vẫn là một câu hỏi bất cập cần có lời giải
đáp.
Đề tài “Giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cao su Việt
Nam “ mà em chọn là một đóng góp nhỏ ý kiến của bản thân mong góp phần giải
quyết câu hỏi đó.
Em xin trân trọng cảm ơn Thầy giáo-Ths Nguyễn Hà Hưng về sự hướng dẫn
hết sức tận tình và quý báu, giúp em trong suốt quá trình hoàn thánh báo cáo. Em
cũng xin chân thành cảm ơn các cô chú và anh chị trong Vụ kinh tế Nông nghiệp –
Bộ kế hoạch đầu tư đã giúp em trong thời gian qua
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
1


Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở kết hợp giữa lý luận về năng lực cạnh tranh,và phân tích năng lực
cạnh tranh ngành cao su Việt Nam,đồng thời tìm ra điểm mạnh điểm yếu của ngành
so với các đối thủ cạnh tranh và so với các ngành cạnh tranh khác.Đề tài sẽ đưa ra
giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành hàng cao su Việt Nam trong
thời gian tới
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
+ Đối tượng nghiên cứu.Năng lực cạnh tranh ngành cao su Việt Nam
+Phạm vị nghiên cứu: năng lực cạnh tranh ngành cao su Việt Nam từ 2000-2009
4. Phương pháp nghiên cứu.
Vận dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tê như chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử,phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp
thống kê và phương pháp so sánh theo cách tiếp cận hệ thống để phân tích rõ thực
trạng từ đó nhận định tình hình ,đưa ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
ngành cao su Việt Nam trong thời gian tới.
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần Lời mở đầu và kết luận chuyên đề gổm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh
Chương II: Thực trạng về khả năng cạnh tranh của ngành cao su
Việt Nam
Chương III: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành
cao su Việt Nam
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH
VÀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
1.1. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường

1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là một khái niệm rất phổ biến của kinh tế, là một đặc trưng
của nền sản xuất hàng hóa. Cạnh tranh, hiểu theo nghĩa khái quát, là sự ganh đua giữa
những người theo cuối cùng mục đích nhằm đánh bại đối thủ và giành cho mình lợi
thế nhiều nhất. Theo ý nghĩa kinh tế, cạnh tranh là quá trình kinh tế mà trong đó các
chủ thể kinh tế ganh đua , tìm mọi biện pháp( cả nghệ thuật kinh doanh lẫn thủ đoạn)
để đạt được mục tiêu kinh tế chủ yếu của mình như chiếm lĩnh thị trường, tối đa hóa
lợi ích, nâng cao vị thế…Trên bình diện toàn nền kinh tế, cạnh tranh có vai trò thúc
đẩy kinh tế phát triển. Cạnh tranh khiến cho các nguồn lưc được phân bổ một cách có
hiệu quả nhất thông qua việc kích thích các doanh nghiệp sử dụng tối ưu các nguồn
lực, hạn chế các méo mó của thị trường, góp phần phân phối lại thu nhập và nâng cao
phúc lợi xã hội. Trên bình diện doanh nghiệp, bằng sự hấp dẫn của lợi nhuận từ việc
đi đầu về chất lượng, mẫu mã cũng như áp lực phá sản, cạnh tranh buộc các doanh
nghiệp luôn cải tiến phương thức sản xuất, nâng cao trình độ công nghệ, đổi mới tổ
chức, quản lý để thích ứng với những biến động của thị trường. Nâng cao năng lực
cạnh tranh đã trở thành tiền đề, động lực và mục tiêu theo đuổi liên tục trong suốt quá
trình phát triển doanh nghiệp. Trên bình diện người tiêu dùng, cạnh tranh tạo ra sự
lựa chọn rộng rãi hơn về chủng loại, chất lượng, giá cả, mẫu mã của hàng hóa và dịch
vụ. Cạnh tranh bảo đảm rằng cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng không thể áp đặt
giá cả một cách tùy tiện. Với khía cạnh đó, cạnh tranh là yếu tố điều tiết thị trường và
lành mạnh hóa các mối quan hệ xã hội. Trên bình diện quốc tế, cạnh tranh thúc ép các
doanh nghiệp mở rộng, tìm kiếm thị trường với mục đích như tiêu thụ, đầu tư, huy
động vốn, lao động, công nghệ, quản lý…trên thị trường thế giới. Thông qua cạnh
tranh quốc tế, các doanh nghiệp thấy được những lợi thế so sánh cùng những yếu
kém của mình để hoàn thiện và phát triển. Như vậy, cạnh tranh cũng như các quy
luật, hiện tượng kinh tế, xã hội khác chỉ xuất hiện và phát triển khi có các điều kiện
như nhu cầu cạnh tranh, môi trường cạnh tranh và vận hành tốt khi có môi trường
cạnh tranh hiệu quả .
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
3

Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1.2. Phân loại cạnh tranh
1.1.2.1. Cạnh tranh quốc gia.
Năng lực cạnh tranh quốc gia được định nghĩa là năng lực của một nền kinh tế
đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế, xã hội,
nâng cao đời sống của người dân.Theo đó thì một quốc gia có khả năng cạnh tranh
cao hay thấp so với các quốc gia khác trên thế giới thì phải cần xem xét tính bền vững
ổn định của nền kinh tế đó,thu hút lượng đầu tư bao nhiêu và có đảm bảo ổn
định,nâng cao đời sống người dân tại quốc gia đó hay không.
1.1.2.2 Cạnh tranh giữa ngành
Xét theo phạm vi ngành kinh tế, cạnh tranh được chia làm hai loại :
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành : là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng
sản xuất kinh doanh một loại dịch vụ. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là một cuộc
cạnh tranh tất yếu phải xảy ra, tất cả đều nhằm vào mục tiêu cao nhất là lợi nhuận của
doanh nghiệp. Chính vì vậy, mỗi doanh nghiệp phải cải tiến kỹ thuật, năng lực quản
lý...nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm để tìm lợi nhuận siêu
ngạch.
- Cạnh tranh giữa các ngành : là cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm mục tiêu
lợi nhuận, vị thế và an toàn. Cạnh tranh giữa các ngành tạo ra xu hướng di chuyển
của vốn đầu tư sang các ngành kinh doanh thu được lợi nhuận cao hơn và tất yếu sẽ
dẫn đến sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
1.1.2.3. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
Cạnh tranh giữa các doanh nghiêp trong ngành thực chất là cuộc cạnh tranh có
sự thủ tiêu lẫn nhau để giành khách hàng và thị trường chiếm được thị phần lớn
hơn,cuộc cạnh tranh dẫn đến là giá cả giảm xuống và có lợi cho người tiêu
dùng,Trong khi đó đối với những doanh nghiệp khi tham gia thị trường không chịu
được sức ép và sẽ phải từ bỏ thị trường,nhường thị phần của mình cho các doanh
nghiệp có sức cạnh tranh mạnh hơn
1.1.2.4. Cạnh tranh sản phẩm.

Trong hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường của các doanh nghiệp,
vấn đề sản phẩm bán tới tay khách hàng được coi trọng hàng đầu. Bởi sản phẩm là
đại diện cho thương hiệu của doanh nghiệp, cho sự lớn mạnh hoặc yếu kém trong
lĩnh vực cung cấp mặt hàng cùng công cụ sử dụng. Cạnh tranh về sản phẩm thường
được thể hiện qua các mặt:
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Cạnh tranh về trình độ sản phẩm: tuỳ theo những sản phẩm khác nhau để
chúng ta lựa chọn những nhóm chỉ tiêu khác nhau có tính chất quyết định trình độ
của sản phẩm. Doanh nghiệp sẽ chiến thắng trong cạnh tranh nếu như lựa chọn trình
độ sản phẩm phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng.
- Cạnh tranh về chất lượng: Tùy theo từng sản phẩm với đặc điểm khác nhau
để lựa chọn chỉ tiêu phản ánh chất lượng khác nhau. Nếu tạo ra nhiều lợi thế cho chỉ
tiêu này thì sản phẩm càng có nhiều cơ hội giành thắng lợi cạnh tranh trên thị trường.
- Cạnh tranh về bao bì: Cùng với việc thiết kế bao bì cho phù hợp, doanh
nghiệp còn phải lựa chọn cơ cấu sản phẩm phù hợp, lựa chọn cơ cấu hàng hóa và cơ
cấu chủng loại hợp lý.
- Cạnh tranh về nhãn mác, uy tín sản phẩm. Doanh nghiệp sử dụng công cụ
này để đánh trực tiếp vào trực giác của người tiêu dùng.
- Cạnh tranh do khai thác hợp lý chu kỳ sống của sản phẩm. Sử dụng biện
pháp này, doanh nghiệp cần phải có những quyết định sáng suốt để đưa ra một sản
phẩm mới hoặc dừng việc cung cấp một sản phẩm đã lỗi thời.
1.2. Một số vấn đề lý luận về khả năng cạnh tranh
1.2.1 Khái niệm về khả năng cạnh tranh
Theo đề án quốc gia về “Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch
vụ Việt Nam” (do Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế của Việt Nam thực
hiện) thì năng lực cạnh tranh (hay khả năng cạnh tranh, tính cạnh tranh) được xem xét
ở ba cấp độ: năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh của ngành/ doanh
nghiệp và năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ. Năng lực cạnh tranh quốc

gia được hiểu là năng lực của một nền kinh tế có thể đạt được sự tăng trưởng bền
vững, đảm bảo ổn định kinh tế và nâng cao đời sống của dân cư. Đề án đưa ra 8
nhóm tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia dựa theo các tiêu chí của Diễn
đàn kinh tế thế giới(WEF) bao gồm: Độ mở cửa nền kinh tế vai trò và hiệu lực của
chính phủ. Sự phát triển của hệ thống tài chính, tiền tệ. Trình độ phát triển công nghệ,
trình độ phát triển cơ sở hạ tầng, trình độ quản lý doanh nghiệp. Số lượng và chất
lượng lao động, trình độ phát triển thể chế, năng lực cạnh tranh của ngành/ doanh
nghiệp là năng lực bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và được thể hiện qua thị phần của
sản phẩm và dịch vụ trên thị trường.
Năng lực cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp được xác định trên cơ sở bốn
nhóm yếu tố cơ bản bao gồm: Chất lượng và khả năng cung ứng, mức độ chuyên
môn hóa đầu vào, công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ. Nhu cầu đối với sản phẩm, dịch vụ
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
và yêu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Mức độ cạnh tranh trên
lĩnh vực mà ngành/doanh nghiệp kinh doanh và vị thế của ngành/ doanh nghiệp so
với các ngành/ doanh nghiệp khác.
Năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ là cơ sở tạo nên sức cạnh tranh
của ngành/ doanh nghiệp và tổng hợp năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ
tạo nên sức cạnh tranh của một quốc gia. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch
vụ thể hiện tập trung ở 4 yếu tố: Giá cả, chất lượng, tổ chức tiêu thụ và uy tín của
doanh nghiệp. Trên thực tế, cấp độ cạnh tranh này thường được phân tích lồng ghép
với phân tích cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp. Ba cấp độ năng lực cạnh tranh có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Năng lực cạnh tranh quốc gia là tổng hợp năng lực
cạnh tranh của các ngành/ doanh nghiệp trong khi năng lực cạnh tranh của ngành/
doanh nghiệp lại được phản ánh qua năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ.
Đồng thời, năng lực cạnh tranh quốc gia có tác động trực tiếp đến năng lực cạnh
tranh cấp doanh nghiệp/ ngành. Còn năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ
chịu tác động của cả năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp/ ngành và năng lực cạnh

tranh quốc gia.
Tóm lại, hiểu được mối quan hệ chặt chẽ giữa ba cấp độ này để thấy được sự
khác biệt trong việc đánh giá năng lực cạnh tranh ở từng cấp độ cũng như sự tác động
qua lại giữa năng lực cạnh tranh ở một cấp với năng lực cạnh tranh ở hai cấp độ còn
lại. Đối tượng của khóa luận là năng lực cạnh tranh ở cấp độ ngành. Do vậy, nó sẽ
chịu tác động qua lại của cả năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam và năng
lực cạnh tranh của các sản phẩm trong chính ngành cao su
1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của ngành hàng nông sản
Năng lực sản phẩm của ngành hàng nông sản được thể hiện thông qua nhiều
chỉ tiêu. Thật khó để xác định chỉ tiêu nào là bao quát, là quyết định. Ngành hàng có
rất nhiều tác nhân tham gia nên để đánh giá vai trò và mức độ tác động của chúng quả
là điều không đơn giản.
1.2.2.1 Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Ta biết rằng sản phẩm là đại diện cho một ngành sản phẩm chỉ khi sản phẩm
có năng lực cạnh tranh thì mới chứng tỏ ngành sản phẩm đó có khả năng tồn tại và
phát triển được
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm thể hiện ở lợi thế cạnh tranh của nó tức là
sự biểu hiện tính trội của mặt hàng đó về chất lượng, cơ chế vận hành của nó trên thị
trường, tạo nên sức hấp dẫn và thuận lợi cho khách hàng trong quá trình dùng sản
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phẩm. Một phẩm chất không thể thiếu được trong thời đại ngày nay là phải đảm bảo
tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường, tạo sự an toàn cho người tiêu dùng, không thể thiếu
được trong đời sống thường nhật thì nó phải là sản phẩm có tính an toàn cao. Sản
phẩm có năng lực cạnh tranh cao được sản xuất ở các doanh nghiệp có khả năng cạnh
tranh cao.
Điều mà người tiêu dùng quan tâm đầu tiên ở sản phẩm là chất lượng sản
phẩm, giá cả, khối lượng. Một hàng hóa có khả năng cạnh tranh là hàng hóa đó phải
thỏa mãn và tạo niềm tin cho khách hàng hiện tại, thuyết phục khách hàng trong

tương lai ở trong và ngoài nước.
Như vậy để một ngành tồn tại và phát triển được trong môi trường cạnh tranh
quốc tế thì giá cả của sản phẩm ( đã điều chỉnh theo chất lượng) phải tương đương
hoặc thấp hơn giá cả của các sản phẩm cạnh tranh.
Pj E < p
Trong đó Pj : giá cả của sản phẩm j tính theo đồng nội tệ
E : tỷ giá hối đoái
P : giá quốc tế của sản phẩm cạnh tranh
Quy mô của sản phẩm trên thị trường cũng thể hiện năng lực cạnh tranh của
ngành sản phẩm. Quy mô đó có thể hiểu là sản phẩm đó có nhiều trên thị trường hoặc
không? Dựa vào lợi thế về mặt quy mô và lợi thế tuyệt đối để phát triển quy mô sản
phẩm đó lên.
Giá thành của sản phẩm là tiêu chí quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh
của sản phẩm. Giá thành là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí vật chất, dịch vụ,
lao động và tiền tệ đã chi ra để sản xuất ra sản phẩm. Nó là căn cứ quan trọng để
đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Giá thành 1 đơn vị sản phẩm mà cao thì
chứng tỏ sản phẩm đó tiêu tốn nhiều các yếu tố khác, do đó nó khó có thể bán với giá
mà có cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Chỉ tiêu giá trị sản phẩm
quốc gia là một chỉ số thể hiện khả năng cạnh tranh của sản phẩm thông qua mức độ
liên kết bổ trợ đa ngành trong sản xuất. Giá rị sản phẩm của một quốc gia được tính
bằng tỷ lệ chi phí nhập khẩu trong cơ cấu giá thành sản phẩm sản xuất trong nước.
Nếu chỉ số này cao có giá trị cao chứng tỏ sản xuất sản phẩm còn phụ thuộc vào bên
ngoài từ khâu chuẩn bị các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất, phải nhập từ bên
ngoài, kể cả vốn vay, cho đến đầu tư cơ bản cho xây dựng và vận hành máy móc chế
biến do đó dẫn đến làm tăng chi phí sản xuất và phải chịu ảnh hưởng nhiều về biến
động giá của các đầu vào phải nhập khẩu.
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.2.2 Mức huy động các yếu tố nguồn lực

Các yếu tố nguồn lực là yếu tố đầu vào quan trọng của mỗi quá trình sản xuất.
Trong ngành hàng nông sản thì điều thì điều này thể hiện rõ nét hơn. Ngành hàng nào
mà huy động được nhiều các yếu tố nguồn lực vào quá trình sản xuất sản phẩm thì
chắc chắn có điều kiện tạo ra năng lực cạnh tranh cho ngành.
Số lượng và chất lượng của các yếu tố nguồn lực được huy động vào quá trình
sản xuất của một ngành hàng là nói lên khả năng phát triển của ngành đó. Tỷ lệ tham
gia của mỗi yếu tố nguồn lực vào quá trình sản xuất từng loại nông sản tùy thuộc vào
các tính chất của quy trình kỹ thuật và tiến bộ công nghệ. Điều đó có nghĩa là tùy
thuộc vào tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong ngành hàng đó
mà quyết định những tỷ lệ về số lượng và chất lượng của mỗi yếu tố nguồn lực được
huy động vào sản xuất.
Ngành hàng nông sản chịu tác động rất lớn của các yếu tố nguồn lực vì xuất
phát từ những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp. Khả năng cạnh tranh của một
ngành sản phẩm nông nghiệp tùy thuộc vào mức độ huy động được nhiều các yếu tố
đó với chất lượng cao thì khả năng cạnh tranh của nó sẽ tăng lên. Nhưng đây chỉ là
điều kiện cần, còn điều kiện đủ là các chủ thể trong ngành hàng phải có trình độ quản
lý, biết tổ chức sử dụng có hiệu quả các yếu tố nguồn lực.
1.2.2.3 Các mối liên kết
Ta biết rằng bất kỳ một chuỗi ngành hàng, hiệu quả của nó được quyết định
bởi mối quan hệ giữa các tác nhân trong chuỗi. Các mối quan hệ này có ảnh hưởng
đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm cuối cùng do tác động trực tiếp đến chi phí
trung gian, điều kiện giao nhận hàng và chất lượng của sản phẩm. Giá thành của sản
phẩm cuối cùng là tổng chi phí của tất cả các khâu trong chuỗi cộng với chi phí giao
dịch giữa các khâu và chi phí này được quyết định bởi mối quan hệ từng khâu. Ngành
sản phẩm là chuỗi các tác nhân tham gia vào ngành. Giữa các tác nhân có mối quan
hệ rất chặt chẽ với nhau. Sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất của các tác nhân này
là sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất của các tác nhân tiếp theo. Ngành hàng
chỉ phát triển được khi quá trình sản xuất của các tác nhân được thông suốt, diễn ra
liên tục, không bị gián đoạn ở bất kỳ tác nhân nào.
Một đặc điểm kinh doanh nông nghiệp là chịu nhiều rủi ro cao. Do đó ngoài

việc sản xuất sản phẩm chuyên môn hóa cần phải sản xuất sản phẩm bổ trợ. Bên cạnh
sản phẩm đem lại sự sinh lời nhiều nhất, người nông dân cũng phải phân phối sự đầu
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tư cho các sản phẩm khác để san sẻ rủi ro. Vì vậy cần lưu ý đến sự bổ sung của các
ngành sản phẩm khác.
1.2.2.4 Trình độ quản lý, năng lực cạnh tranh của các tác nhân trong ngành
Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành sản
phẩm nông sản. Trong cơ chế thị trường hiện nay, chỉ những cơ sở kinh doanh nào
có trình độ quản lý thực sự mới tồn tại và thích ứng được. Là các mắt xích trong
ngành hàng, các tác nhân có trình độ tổ chức quản lý tốt thì ngành hàng mới phát
triển bền vững. Trình độ tổ chức quản lý của các tác nhân mà tốt thì cũng thể hiện
năng lực cạnh tranh của ngành. Nếu trong ngành mà có một tác nhân yếu kém thì tất
yếu ảnh hưởng đến kết quả chung của toàn ngành. Vì vậy muốn nâng cao năng lực
cạnh tranh của toàn ngành thì phải nâng cao trình độ của tất cả các tác nhân.
1.2.3 Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành hàng cao su
Từ sự phân tích các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của ngành sản
phẩm ta nhận thấy để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành hàng ta phải nâng cao
các chỉ tiêu đó.
1.2.3.1 Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Có thể nói chất lượng của sản phẩm quyết định năng lực cạnh tranh của sản
phẩm. Đứng về góc độ người tiêu dùng thì điều mà họ quan tâm nhất là chất lượng
của sản phẩm. Một sản phẩm có chất lượng sẽ khiến cho người tiêu dùng cảm thấy an
tâm khi sử dụng hơn là sản phẩm kém chất lượng, không có nguồn gốc. Một mặt
hàng có những chuẩn mực riêng về chất lượng song đại thế đó là yêu cầu đẹp, tiện
dụng, phù hợp thói quen tiêu dùng và văn hóa mỗi dân tộc, bao bì hấp dẫn, thương
hiệu tin cậy.
Giá bán của sản phẩm cũng là mối quan tâm của người tiêu dùng, giá bán của
sản phẩm mà thấp hơn giá bán của sản phẩm cùng loại mà chất lượng của nó cao hơn

hoặc ngang bằng thì người tiêu dùng chắc sẽ lựa chọn sản phẩm mà giá thành thấp
hơn. Muốn có giá bán thấp hơn thì giá thành của sản phẩm phải thấp. Do đó để nâng
cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm thì phải hạ giá thành của sản phẩm. Muốn làm
được điều này thì tất cả các tác nhân trong ngành cùng tìm các biện pháp để hạ giá
thành trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình.
Với những sản phẩm nông nghiệp thì chất lượng sản phẩm thể hiện trên nhãn
mác, bao bì, hương vị, mùi, cấu trúc bên ngoài và sự mới lạ, chúng làm tăng hoặc
giảm tính hấp dẫn của sản phẩm.
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Giá thành của sản phẩm nông nghiệp thường do nhiều tác nhân chi phối. Do
đó muốn hạ giá thành của sản phẩm thì các tác nhân trong chuỗi ngành hàng nông sản
cùng chủ động mổ xẻ, phân tích từng khâu trong quy trình sản xuất và tiêu thụ để
phát hiện ra những mặt yếu kém, từ đó áp dụng những biện pháp hữu hiệu nhằm vừa
nâng cao chất lượng sản phẩm vừa hạ giá thành sản phẩm.
Chỉ tiêu năng lực cạnh tranh của sản phẩm tăng lên, thị phần của sản phẩm
được mở rộng, doanh thu bán hàng tăng…Khi một sản phẩm mà thị phần của nó
tăng, doanh thu bán hàng không ngừng tăng lên là một tín hiệu tốt cho doanh nghiệp,
chứng tỏ việc kinh doanh của doanh nghiệp đang tiến triển tốt đẹp nhưng cũng cần
lưu ý xem xét đây là giai đoạn nào của chu kỳ sống của sản phẩm để có phương án
kinh doanh hợp lý.
1.2.3.2 Huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố nguồn lực
Việc huy động các yếu tố nguồn lực chủ yếu được các tác nhân ban đầu trong
chuỗi ngành hàng thực hiện, đó là các hộ nông dân trực tiếp sử dụng các yếu tố đầu
vào cho quá trình sản xuất sản phẩm. Cũng không thể không kể đến các doanh nghiệp
thực hiện vai trò chế biến sản phẩm. Để huy động được nhiều yếu tố nguồn lực thì
các doanh nghiệp phải biết tận dụng những nguồn lực sẵn có và không ngừng tìm
kiếm các nguồn lực khác. Nhưng điều không kém phần quyết định trong việc nâng
cao năng lực cạnh tranh là phải sử dụng có hiệu quả của các nguồn lực đó. Điều đó

lại tùy thuộc vào trình độ, năng lực tổ chức, quản lý của các doanh nghiệp, của các hộ
nông dân.
1.2.3.3 Phát triển các mối liên kết
Như trên đã phân tích, các mối liên kết trong ngành hàng nông sản phẩm có
vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành hàng.
Để phát triển các mối liên kết, các tác nhân phải thấy được tầm quan trọng của
mình cũng như tầm quan trọng của các tác nhân khác trong chuỗi ngành hàng, phải
xây dựng cho mình mối quan hệ tốt với các tác nhân khác. Đặc biệt để các nhà máy
sản xuất và chế biến cao su có thể tồn tại và phát triển, tiền đề không thể thiếu là phát
triển các vùng cao su nguyên liệu. Xét về bản chất thì các nhà máy sản xuất và chế
biến cao su với vùng cao su nguyên liệu là các tổ hợp nông - công nghiệp hoàn chỉnh,
tức là nhà máy đường và những người nông dân trồng cao su nguyên liệu phải “cộng
sinh” với nhau, bởi nghề trồng cao su nguyên liệu muốn phát triển thì không thể thiếu
nhà máy chế biến cao su, và ngược lại, nhà máy sản xuất và chế biến cao su muốn tồn
tại thì cũng không thể thiếu vùng cao su nguyên liệu. Nhưng trên thực tế, giữa hai
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thành phần này vẫn thiếu “sự kết dính” đủ chắc chắn bằng những quyền lợi và nghĩa
vụ rành mạch và thỏa đáng.
1.2.3.4 Nâng cao trình độ, năng lực tổ chức, quản lý của các tác nhân trong
ngành
Ngày nay công tác này càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế
trí thức đang hình thành và ành hưởng sâu rộng với tư duy quản lý, tư duy kinh tế và
phương thức sản xuất kinh doanh. Nâng cao trình độ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ
của cán bộ công nhân trong các doanh nghiệp, đồng thời nâng cao trình độ sản xuất,
cung cấp kiến thức nông nghiệp đối với người nông dân. Để nâng cao chỉ tiêu này,
các hộ nông dân, các doanh nghiệp ngoài việc tự mình chủ động cải thiện năng lực
của mình, phối hợp cùng nhau để học hỏi kinh nghiệm và bổ sung kiến thức, cũng
cần sự hỗ trợ của Nhà nước.

1.2.4. Kinh nghiệm về nâng cao khả năng cạnh tranh ngành cao su của một số nước
Với mục đích có được định hướng và giải pháp đúng đắn để phát triển ngành
cao su của Việt Nam một cách bền vững,dưới đây là kinh nghiệm của một số nước
sản xuất và xuất khẩu cao su đã đạt được những thành công trong thời gian qua như
Thái Lan,Indonexia,Malayxia để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trên con
đường phát triển
1.2.4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan
a) Khái quát tình hình sản xuất và xuất khẩu cao su.
Thái Lan hiện nay là nước sản xuất và xuất khẩu cao su lớn nhất trên thế
giới.Về khai thác mủ cao su hiện nay diện tích trồng cao su của Thái Lan lên đến 2,28
triệu ha(năm 2007),sản lượng tương ứng đạt trên 3,02 triệu tấn,xét cả giai đoạn từ
năm 2002 trở về đây ,sản lượng cao su của Thái Lan thu được trung bình trên 2 triệu
tấn với năng suất thu hoạch cao su là 1.600-1.800 kg/ha/năm.
Về công nghệ chế biến cao su,Thái Lan được đánh giá là nước có trình độ công
nghệ chế biến cao và hiện đại nhất trong khu vực Đông Nam Á,điều này thể hiện rõ
ràng qua chủng loại cao su được sản xuất ra,cao su RSS,STR là chiếm thị phần cao
nhất trong các chủng loại cao su.Đấy là hai sản phẩm đã được chế biến ở mức độ cao.
Từ năm 2002-2008 sản lượng xuất khẩu cao su của Thái Lan luôn đạt mức
doanh thu trung bình là 2,3 tỷ USD.Thị phần cao su xuất khẩu của Thái Lan luôn đạt
khoảng 35% nhiều nhất so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thế giới.Thị trường
nhập khẩu cao su của Thái Lan với số lượng lớn như Trung Quốc,Nhật Bản,Mỹ…
tương ứng với mức xuất khẩu là 827.000 tấn,405.000 tấn,213.000 tấn
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đạt được những kết quả như trên nhờ vào chiến lược phát triển của Thái Lan cụ
thể như sau:
b) Các công cụ biện pháp của chính phủ Thái Lan
Thái Lan xác định nông nghiệp là bệ phóng cho nền kinh tế quốc dân và không
chỉ có thế,mục tiêu cốt lõi là tạo ưu đãi”tam nông”để ổn định chính trị xã hội.Trong

chính sách nông nghiệp của Thái Lan có những công cụ biện pháp chung và riêng ảnh
hưởng trực tiếp đến việc phát triển sản xuất và chế biến cao su.Cụ thể như sau:
+ Quy hoạch trồng trọt
Mặc dù bình quân diện tích canh tác nông nghiệp Thái Lan gấp 4 lần Việt Nam
nhưng nhờ những hướng đi đúng đắn trong đào tạo nguồn nhân lực nên những vùng đất
hoang,địa hình đồi núi dốc và cả những vùng khô cằn không chỉ dành riêng cho cây
ngô,lúa nương mà nhiều loại lúa cao sản đã được triển khai và cho năng suất cao.
+ Các biện pháp ưu đãi về vốn,các biện pháp về thuế,phi thuế,những trợ cấp sản
xuất.
Nhà nước ưu đãi về vốn và tăng cường bảo hiểm cho người nông dân được thực
hiện:thuế nông nghiệp được bãi bỏ.Năm 2007,chính phủ Thái Lan đã trợ cấp 31,3 tỷ
Baht cho lĩnh vực nông sản(chủ yếu là trợ giá) bằng 157% mức cam kết trợ giá nông
sản mà Thái Lan cam kết với WTO(theo giáo sư Nipon Poapongsakorn của Đại học
Thammasat,Thái Lan).Mức trợ cấp này đã gia tăng hàng năm so với mức trung bình
50%(19 tỷ Baht/năm) mà Thái Lan đã cam kết với WTO,nông sản được trợ giá chủ
yếu là gạo,cao su,trái cây
-Với cao su xuất khẩu,chính sách tỷ giá hối đoái được sử dụng như một công cụ
đắc lực cho tăng cường xuất khẩu,chính sách tài chính tín dụng tập tung vào việc
cung cấp tín dụng dài hạn,ngắn hạn,và hình thức tín dụng cả gói.Đây là một loại tín
dụng thương mại trực tiếp tăng cường xuất khẩu cao su,đáp ứng nhu cầu xuất khẩu
cao su trong giai đoạn cả trước và sau khi hàng hóa rời cảng.Bên cạnh đó,hệ thống
ngân hàng trong đó có Ngân hàng Thương Mại và Ngân hàng Trung Ương tập trung
lớn vào việc tài trợ cho các hoạt động xuất khẩu,trong đó có xuất khẩu cao su bằng
hình thức triết khấu các hối phiếu
+ Xúc tiến thương mại và hỗ trợ xuất khẩu.
Chính phủ hỗ trợ các chương trình tiếp thị ,tìm hiểu và tìm kiếm địa điểm xuất
khẩu những sản phẩm sau thu hoạch và chế biến nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho
ngạch tiêu thụ nông sản phát triển bằng cách đẩy mạnh hình thức hợp đồng(chính phủ
với chính phủ)
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48

12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+Thúc đẩy phát triển công nghệ.
Tại hội chợ gạo năm 2007,Thủ tướng Thái Lan Sarayud Chulanon nhấn
mạnh”Thái lan sẽ đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ kĩ thuật hiện đại đồng thời
kết hợp kinh nghiệm truyền thống để ổn định sản lượng theo triết lỹ”kinh tế đầy
đủ”.Có thể nói việc đầu tư áp dụng khoa học công nghệ mới đã quyết định tốc độ
tăng trưởng của quốc gia Đông Nam Á này trong suốt thời gian qua.Do diện tích đất
nông nghiệp có hạn nên Thái Lan không thể mãi tiếp tục theo đuổi phát triển nông
nghiệp theo hướng mở rộng đất canh tác mà thay vào đó là đưa công nghệ áp dụng
tiến bộ khoa học kĩ thuật cải tạo đất trồng,lai tạo các giống cây mới siêu năng suất,có
khả năng thích ứng với vùng đất canh tác bạc màu,khô hạn.Hữu cơ hóa đất nông
nghiệp thông qua sử dụng các loại phân bón hữu cơ,phân vi sinh và thuốc trừ sâu sinh
học cải tạo đất thoái hóa,nâng cao độ màu mỡ của đất.Điều này vừa giúp sử dụng quỹ
đất hiệu quả,giảm nhập khẩu phân bón lại nâng cao chất lượng hàng hóa nông sản
sạch
+Thu hút đầu tư
Mở cửa thị trường khi thích hợp;chính phủ Thái Lan đã xúc tiến đầu tư thu hút
mạnh các nhà đầu tư nước ngoài vào liên doanh với các nhà sản xuất trong nước để
phát triển ngành công nghiệp chế biến,thông qua việc mở cửa cho các quốc gia dù lớn
hay nhỏ vào đầu tư kinh doanh với các chính sách trợ cấp ban đầu cho các nhà máy
chế biến và đầu tư trực tiếp vào cơ sở hạ tầng như:cảng kho lạnh,sàn đấu giá,đầu tư
vào hoạt động nghiên cứu và phát triển
1.2.4.2 Kinh nghiệm của Indonexia
a) Khái quát chung về tính hình sản xuất và xuất khẩu cao su
Indonexia là một đất nước quần đảo,bao gồm hơn 13.600 đảo lớn nhỏ với
tổng diện tích đất tự nhiên lên đến 1,9 triệu km2.Hơn 2/3 dân số sống ở vùng nông
thôn và lao động nông nghiệp chiếm 54% tổng lao động xã hội.Trong đó sản xuất và
xuất khẩu cao su đã đóng góp rất lớn vào ngân sách Nhà nước.Trên thế giới
Indonexia là nước sản xuất và xuất khẩu cao su lớn thứ 2 sau Thái Lan

Mỗi năm Indonexia khai thác được2791 triệu tấn cao su trên tổng số diện tích
3,43 triệu ha ,năng suất đạt 1.400 kg/tấn/năm.Sản phẩm cao su xuất khẩu của
Indonexia có mặt ở hầu hết tất cả các thị trường chiếm 27,6% thị phần cao su thế
giới.
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
b)Các biện pháp
Cũng giống như Thái Lan,Malayxia,Indonexia đều nhất quán chủ trương liên
minh hợp tác toàn diện giữa 3 nước sản xuất và xuất khẩu cao su lớn nhất thế
giới,đồng thời kêu gọi thêm các nước sản xuất,xuất khẩu cao su ở Đông Nam Á tham
gia liên minh nhằm mục tiêu tạo thế lực điều tiêý thị trường cao su tự nhiên trên toàn
thế giới
+Về thu hút đầu tư
Indonexia ưu tiên cho đầu tư nước ngoài trong khâu chế biến,sản xuất bao tiêu
sản phẩm theo từng thị trường xuất khẩu trọng điểm.Tức là ưu tiên đầu tư công
nghệ,kĩ thuật chế biến theo nhu cầu của thị trường đảm bảo gắn kết việc tăng cường
kĩ thuật công nghệ chế biến cao su với thị hiếu tiêu dùng và nhu cầu của từng thị
trường cụ thể
+Về tổ chức hoạt động sản xuất chế biến
Thành lập khu công nghiệp cao su tập trung tạo ra sự liên hoàn và thuận lợi
trong sản xuất,chế biến và giám sát các tiêu chuẩn chất lượng.Indonexia ưu tiên phát
triển những trang trại đồn điền cao su trên quy mô lớn tạo ra sự thuận lợi,đồng bộ
trong việc tăng cường và phát huy năng lực của hệ thống công nghệ mới.Thành lập
các phòng thí nghiệm chuyên dụng cao su do Nhà nước quản lý thống nhất để đảm
bảo chất lượng cao su theo tiêu chuẩn quốc tế,tăng cường tính cạnh tranh của sản
phẩm cao su xuất khẩu
1.2.4.3 Kinh nghiệm của Malayxia
a) Khái quát tình hình sản xuất và xuất khẩu cao su
Malayxia là nước thứ 3 đang chiếm lĩnh thị trường cao su thế giới.Với diện

tích đất trồng cao su không lớn chỉ đạt khoảng 1,35 triệu ha nhưng cùng với năng
suất khai thác cao 1.430kg/ha/năm.Do vậy Malayxia thu được sản lượng khá lớn và
ổn định ở mức trên 2.000 tấn cao su.Cao su của Malayxia được khai thác chủ yếu là
phục vụ cho hoạt động xuất khẩu.Bởi vậy đến nay vị thế của Malayxia vẫn đứng
vững so với tất cả các nước xuất khẩu cao su.
b) Các biện pháp và công cụ.
+Về tổ chức sản xuất
Các vườn cây cao su được tổ chức theo nhóm có thể được trợ giúp dưới hình
thức tín dụng,được cung ứng các yếu tố đầu vào và các điêù kiện tiếp thị.Malyaxia đã
thành lập hội đồng ngành cây cao su nhằm mục đích xúc tiến sự liên kết giữa các khu
vực Nhà nước và tư nhân.Mạng lưới của Hội đồng ngành gồm có các đại diện của
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các cục,công ty,trường Đại học, và các đơn vị tư nhân có liên quan đến sự phát triển
của ngành cao su,tạo nên sự liên kết chặt chẽ có trách nhiệm trong các khâu sản
xuất,chế biến và xuất khẩu
+Về hỗ trợ sản xuất:
Nhận thức được tầm quan trọng của sản xuất cao su và những thuận lợi có được
Chính phủ Malayxia đã đưa ra những chính sách đầy hấp dẫn về tài chính,đầu tư,thuế
nhằm hỗ trợ và bảo hộ người sản xuất và nhiều chương trình hỗ trợ cho sự phát triển
như hỗ trợ về tài chính,kĩ thuật,công nghệ và tư vấn sản xuất,tư vấn tiếp thị.Sau khi
nhận thấy giới hạn của sự phát triển cao su với tốc độ cao Malayxia đã điều chỉnh
chính sách khuyến khích về tài chính tiền tệ nhằm phát triển sản xuất và xuất khẩu
những nông sản có quy mô lớn,đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.Tất cả các đơn vị
tham gia vào việc trồng cây bao gồm HTX,các tổ hợp,các nông hội,các công ty cổ
phần……đều có quyền được hưởng các khuyến khích về thuế.Chẳng hạn các đơn vị
mới tham gia kinh doanh được miễn trừ thuế trong vòng 5 năm kể từ khi bắt đầu thực
hiện dự án nông nghiệp đi vào hoạt động,được bộ tài chính chấp thuận,các chi phí cơ
bản ban đầu cũng được khấu trừ về khai hoang,trồng mới,xây dựng đường xá,cầu

cống,xây dựng công trình thủy lợi.
1.2.4.4 Những bài học kinh nghiệm rút ra đối với Việt Nam
Qua nghiên cứu các chính sách và các biện pháp của một số nước ta rút ra được
những bài học kinh nghiệm đáng quý như sau:
-Về quy hoạch đất trồng. Học tập kinh nghiệm của Thái Lan,hạn chế việc mở
rộng diện tích thâm canh trồng cây cao su thay vào đó Việt Nam cần tập trung vào
việc cải thiện đất trồng,làm tăng độ màu mỡ cho đất bằng các biện pháp khoa học
nhằm cải tạo đất.Bên cạnh đó,ở những nơi đất đai khô cằn không phù hợp cho sự
phát triển cây cao su,Việt Nam cần tận dụng trồng những loại cây phù hợp hơn hoặc
có những biện pháp khắc phục độ màu mỡ của đất như bón phân ,làm đất…
-Về tổ chức hoạt động sản xuất như Malayxia và Indonexia trong thời gian qua
thực hiện khai thác chế biến cao su theo một chuỗi liên hoàn bằng cách tổ chức xây
dựng các khu công nghiệp cao su bao gồm trang trại cao su với quy mô rộng lớn bởi
vì cao su thường phát triển tốt khi trồng theo đồn điền rộng,tạo môi trường thuận lợi
cho cao su.Bên cạnh đó,việc xây dựng cơ sở sản xuất liền kề sẽ giúp giảm thời gian
và chi phí vận chuyển trong sản xuất.
-Về phát triển công nghệ:Việt Nam nên tập trung phát triển theo hướng cải tạo
đất trồng,cải thiện và nâng cao chất lượng giống cây trồng và công nghệ sinh học
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giúp sản xuất chế tạo sản phẩm cao su đảm bảo vệ sinh an toàn,giữ môi trường
sạch.Đây là những biện pháp hữu hiệu từ Thái Lan nhằm đưa ngành cao su đến vị trí
hàng đầu như hiện nay
-Về các biện pháp hỗ trợ thuế và tài chính.Trước hết Nhà nước cần bảo hiểm
cho người công nhân khai thác và chế biến cao su bởi cao su mang tới nguồn lợi lớn
nhưng cũng là loại cây mang lại những độc hại lớn cho người tiếp xúc thường xuyên
và nhiều.Tiếp theo đó Nhà nước có thể áp dụng chiến lược như của Thái Lan trong
việc Nhà nước hỗ trợ cung cấp giống cây cao su,phân bón chất lượng cao và cuối
cùng đảm bảo đầu ra,tập trung thu mua phân phối ra thị trường thế giới .

-Về thu hút đầu tư. Việt Nam nên tập trung thu hút đầu tư từ các nước nhập
khẩu cao su lớn của Việt Nam như Trung Quốc,Hàn Quốc…..Bên cạnh đó nên tăng
cường thu hút đầu tư từ các nước có nhu cầu nhập khẩu cao su lớn của Việt Nam
nhưng thị phần của Việt Nam tại các nước này còn thấp.Từ đó ta sẽ hiểu được nhu
cầu thị trường và đáp ứng được một cách hiệu quả tối đa.Cuối cùng là việc thu hút
đầu tư chủ yếu vào việc phát triển dây chuyền chế biến và sản xuất cao su
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA
NGÀNH CAO SU VIỆT NAM
2.1.Tổng quan về ngành cao su thế giới
Tình hình Cung – Cầu cao su tự nhiên thế giới tương đối cân bằng trong năm
2009. Nguồn cung cao su tự nhiên toàn thế giới năm 2009 đạt 9,36 triệu tấn, giảm
6,21% so với năm 2008 do các nước sản xuất chính cùng nhau cắt giảm sản lượng để
nâng đỡ giá. Nhu cầu tiêu thụ cao su tự nhiên tiếp tục sụt giảm 1,7% so với năm 2008
đạt 9,56 triệu tấn.
Giá cao su tự nhiên biến động mạnh trong năm 2008 theo biến động của giá dầu.
Sau khi đạt đỉnh vào giữa năm đã quay đầu rớt mạnh và duy trì ở mức thấp. Tuy
nhiên, từ quý 2/2009 giá cao su tự nhiên có xu hướng tăng lại.
Ngành cao su chia làm 2 mảng chính: cao su tự nhiên và cao su nhân tạo. Thành
phần chính của cao su tự nhiên là mủ khai thác từ cây cao su. Cao su nhân tạo có
nguồn gốc từ dầu mỏ. Hiện nay, nhu cầu tiêu thụ cao su tự nhiên chiếm khoảng 40-
45% tổng nhu cầu cao su toàn thế giới.
Nguồn gốc cây cao su có xuất phát từ các nước Nam Mỹ nhưng các quốc gia ở
Châu Á mới là các nước sản xuất chính
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Chu kỳ sinh trưởng cây cao su trung bình 26-28 năm (xây dựng vườn cây cơ
bản 6-8 năm, thời gian khai thác mủ 20 năm). Phần lớn mủ khai thác dùng làm
nguyên liệu cho ngành sản xuất ô tô, các ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm
cao su khác như găng tay, sản phẩm y tế, các mặt hàng giàydép, nệm cao su… Hết
thời gian khai thác mủ sẽ tiến hành thanh lý vườn cao su khai thác gỗ phục vụ cho
các ngành khác
2.1.1. Nguồn cung cao su thế giới
Tổ chức nghiên cứu cao su thế giới (IRSG) dự báo sản lượng cao su tự nhiên
toàn thế giới năm 2009 đạt 9,36 triệu tấn, giảm 6,21% so với năm 2008. Nguyên
nhân chính do các nước sản xuất chính cùng nhau cắt giảm sản lượng để nâng đỡ giá
sau khi giá cao su xuống mức thấp vào những tháng cuối năm 2008.
Trong 7 nước sản xuất cao su tự nhiên lớn của thế giới, IRSG dự báo Trung
Quốc tăng sản lượng cao su tự nhiên trong năm 2009 chủ yếu do sản lượng của
nước này năm trước đã giảm 9,9% (ảnh hưởng của thời tiết). Năm 2009 sản lượng
cao su tự nhiên của Trung Quốc tăng 13,73% so với năm 2008. Thực tế 6 tháng đầu
năm 2009, sản lượng đạt 202 nghìn tấn, tăng 77.97% so với cùng kỳ.
Diện tích cao su tự nhiên tại 7 quốc gia sản xuất cao su lớn nhất thế giới trong
năm 2009 được giữ ở mức ổn định tương đương năm 2008. Tuy nhiên tổng sản
lượng cao su tự nhiên khai thác tại các nước này năm 2009 được dự báo sẽ giảm
3,2% so với năm 2008
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Diện tích cao su tự nhiên tại 7 quốc gia sản xuất cao su lớn nhất thế giới trong
năm 2009 được giữ ở mức ổn định tương đương năm 2008. Tuy nhiên tổng sản
lượng cao su tự nhiên khai thác tại các nước này năm 2009 đã giảm 3,2% so với năm
2008.
2.1.2. Nhu cầu cao su thế giới
Năm 2008 tổng mức tiêu thụ cao su toàn thế giới khoảng 22,15 triệu tấn, giảm
3,7% so với năm 2007. Riêng mặt hàng cao su tự nhiên, mức tiêu thụ chỉ đạt 9,72

triệu tấn, giảm 1,6% so với năm trước đó. Đây cũng là lần giảm sút đầu tiên trong
những năm gần đây. Nguyên nhân chính từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Năm 2009, kinh tế thế giới tiếp tục sụt giảm làm giảm nhu cầu hàng hoá, trong
đó có mặt hàng ô tô. Nhu cầu tiêu thụ cao su từ các nhà sản xuất ô tô tại các thị
trường quan trọng như Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản giảm trong năm nay cộng với giá cao
su tổng hợp giảm do giá dầu thô đứng ở mức thấp đã tác động mạnh đến nhu cầu tiêu
thụ cao su tự nhiên.
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trung Quốc là thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất trên thế giới, tỷ lệ tiêu thụ
chiếm hơn 26% tổng mức tiêu thụ cao su toàn cầu. Thị trường Trung Quốc có tốc độ
tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu cao su năm 2008 lớn nhất thế giới, ở mức 39,27%.
Năm 2009, trong khi các thị trường tiêu thụ chính như Mỹ, Nhật, Ấn Độ, Hàn
Quốc… đều có sự sụt giảm lớn nhưng Trung Quốc vẫn là thị trường tiềm năng nhập
khẩu cao su lớn trên thế giới
Mỹ là thị trường tiêu thụ cao su tự nhiên lớn thứ hai thế giới, trong 6 tháng đầu
năm 2009 thị trường này sụt giảm mạnh về nhu cầu tiêu thụ. Nhập khẩu cao su tự
nhiên giảm 78,7% về lượng, giảm 34,7% về giá trị. Tình hình này cũng diễn ra tương
tự ở Nhật Bản, thị trường tiêu thụ cao su lớn thế ba thế giới. Tổng tiêu dùng cao su tự
nhiên của Ấn Độ (thứ tư thế giới về tiêu thụ cao su) năm 2009 dự kiến giảm hơn 2%
so với năm 2008 do sự giảm sút đáng kể của ngành ô tô nước này.
Nhập khẩu cao su tự nhiên của các nước (nghìn tấn)
Nguồn: báo cáo ngành cao su quý 3/2009,AGRO
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.1.3.Giá cao su tự nhiên trên thị trường thế giới
Từ năm 2002 giá cao su tự nhiên trên thị trường thế giới tăng liên tục
và đạt mức đỉnh vào cuối quý 2/2008 (trên 3000USD/tấn). Tuy nhiên, bước sang quý

3/2008 giá cao su quay đầu giảm mạnh. Tại thời điểm cuối năm 2008, giá cao su tự
nhiên chỉ còn 1.200-1.300USD/tấn, giảm gần 60% so với mức đỉnh. Sự thay đổi đột
ngột này bắt nguồn từ giá dầu thô tăng cao kỷ lục vào tháng 6, tháng 7/2008 (gần
147USD/thùng) và sau đó giảm mạnh, chỉ còn 40-42USD/thùng vào cuối năm 2008
khiến xu hướng sử dụng cao su tổng hợp từ dầu tăng trở lại.
Nguồn:MHBS tổng hợp từ IRSG
Diễn biến giá cao su tự nhiên trên thị trường thế giới có xu hướng tăng trở lại từ
tháng 1/2009 đến nay. Tháng 1/2009, giá cao su RSS2 (FOB Bangkok) ở mức 1.455
USD/tấn, tăng 6,8% so với mức 1.362 USD/tấn vào tháng 12/2008. Giá cao su RSS 3
(FOB Bangkok), trong tháng 1/2009, cũng đã tăng 19,1% so với tháng 12/2008. Sang
quý 2, giá cao su RSS2 (FOB Bangkok) đạt mức 1.718 USD/tấn, tăng 13,1% so với
mức 1.518 USD/tấn của quý 1. Tương tự, giá cao su RSS3 (FOB Bangkok) cũng đạt
1.729 USD/tấn, tăng 12,4%.
Tính đến cuối tháng 8/2009, giá cao su RSS2 (FOB Bangkok) đã đạt
1.930USD/tấn, tăng hơn 14% so với tháng trước đó và tăng 32,6% so với đầu năm
2009. Giá cao su RSS3 (FOB Bangkok) cuối tháng 8 đạt 2020USD/tấn, tăng 30,7%
so với đầu năm.
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Giá cao su trên thị trường thế giới tăng trở lại do một số nguyên nhân tác động: Nhu
cầu tiêu thụ cao su trên thế giới đang trên đà hồi phục, trong khi sản lượng cao su của
các nước sản xuất cao su lớn trên thế giới đều suy giảm; suy thoái kinh tế thế giới
chạm đáy và bắt đầu hồi phục kéo theo sự hồi phục của giá dầu thô; nhu cầu tăng dự
trữ cao su của Trung Quốc….
2.2. Thực trạng khả năng cạnh tranh ngành cao su Việt Nam
2.2.1. Tổng quan về ngành cao su Việt Nam
2.2.1.1 Cây cao su và điều kiện sản xuất cao su ở Việt Nam
Ngành cao su là một trong những ngành sản phẩm nông nghiệp của Việt
Nam,đã có lịch sử hình thành và phát triển trên 100 năm.Cây cao su được trồng ở

Việt Nam từ năm 1897 đã đang và sẽ là một cây công nghiệp quan trọng của nước
ta.Ngành cao su đang dần trở thành ngành sản xuất và xuất khẩu mũi nhọn của Việt
Nam.Theo thống kê hàng năm cho thấy lượng cao su xuất khẩu luôn đứng ở vị trí thứ
4 trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.Mỗi năm đem lại
nguồn lợi ,doanh thu lớn khoảng 1,3 tỷ USD và tăng lên nhanh chóng giữ tỷ trọng ở
mức 4% so với tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.Diện tích trồng cao su cũng
tăng lên 750.000 ha trong năm 2008 gấp 2 lần so với năm 2002.Cao su là ngành sản
phẩm có định hướng sản xuất để xuất khẩu so vậy khoảng 85-95%là xuất khẩu chiếm
5,4% thị phần cao su toàn thế giới.Cao su được đánh giá là ngành có năng lực cạnh
tranh khá.
Cây cao su là cây công nghiệp dài ngày, có khả năng thích ứng rộng, tính chống
chịu với điều kiện bất lợi cao và là cây bảo vệ môi trường nên được nhiều nước có
điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội thích hợp quan tâm phát triển trên qui mô diện tích
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lớn. Hiện nay, Việt Nam chỉ trồng và khai thác cây cao su tự nhiên. Các giống cao su
đang được trồng là GT1, PR 225, PR 261, Hevea brasiliensis…. và một số giống mới
như RRIV 4, RRIV 2.
Thời gian khai thác của cây cao su thường kéo dài khoảng 20 năm. Giai đoạn
thiết kế cơ bản của lô cao su tính từ năm trồng được qui định tuỳ theo mức độ thích
hợp của vùng đất canh tác, trung bình giai đoạn này kéo dài từ 6-8 năm. Giai đoạn
này đòi hỏi nhiều sự đầu tư về vật chất, kỹ thuật, phân bón cũng như là sự chăm sóc.
Tuy nhiên, đây là giai đoạn cây cao su cho ít mủ nhất. Lô cao su kiến thiết cơ bản
Vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và một số khu vực tại Nam
Trung Bộ là những nơi có điều kiện khí hậu và đất đai phù hợp với cây cao su, nên
diện tích cao su phần lớn được trồng ở các khu vực này. Trong đó, Đông Nam Bộ là
khu vực có diện tích lớn nhất.
Mặc dù cao su có nguồn gốc từ Nam Mỹ, nhưng các quốc gia ở Châu Á mới là
các quốc gia sản xuất chính ngành hàng này. Trong đó Malaysia, Thái Lan,

Indonesia, Ấn Độ, Trung Quốc và Việt Nam là các nước sản xuất chính. Các nước
xuất khẩu chính là Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Việt Nam. Thái Lan là quốc gia
đứng đầu trên thế giới về diện tích, năng suất và sản lượng cao su. Đứng vị trí thư hai
và thứ ba là Indonesia và Malaysia. Việt Nam đứng thứ tư trên thế giới về nguồn
cung cấp cao su thiên nhiên có từ 70% trở lên số cây hữu hiệu đạt tiêu chuẩn mở cạo
thì được đưa vào cạo mủ.
2.2.1.2 Tình hình sản xuất cao su.
2.2.1.2.1 Về diện tích
Diện tích trồng cao su cả nước và tại các vùng trồng cao su chính của Việt Nam
liên tục tăng trong những năm vừa qua. Từ năm 2000 đến 2008, tốc độ tăng trưởng
bình quân về diện tích cao su của cả nước đạt hơn 4%/năm. Diện tích cao su cả nước
năm 2008 đạt 601,8 nghìn ha và năng suất bình quân của cả nước đạt 10,7 tạ/ha.
Do diện tích trồng mới và diện tích khai thác cao su từ năm 1995-2008 của cả
nước liên tục tăng, cùng với việc tăng năng suất nên sản lượng cao su của cả nước
tăng mạnh từ 290,8 nghìn tấn năm 2000 lên đạt 644,2 nghìn tấn năm 2008. Với mức
sản lượng của năm 2008, sản xuất cao su của Việt Nam hiện đứng thứ 5 thế giới
(chiếm khoảng 5,4% sản lượng cao su thế giới), đứng sau Thái Lan, Indonesia,
Malaysia và Ấn Độ.
2.2.1.2.2 Năng suất ngành
Do điều kiện canh tác, đất đai khác nhau nên năng suất cao su của Việt Nam có
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sự khác nhau giữa các vùng, dẫn đến chi phí sản xuất, chế biến ở một số tỉnh cũng
khác nhau tương đối lớn, ảnh hưởng rất lớn tới lợi nhuận từ quá trình sản xuất chế
biến cao su. Trong thời gian qua, ngành cao su Việt Nam đã chú trọng đầu tư thâm
canh nên đã nâng cao đáng kể được năng suất trên mỗi diện tích vườn cây, từ 1,73
tấn/ha năm 1995, tăng lên 1,96 tấn/ha năm 2006 và 2,07 tấn năm 2007, đưa Việt Nam
xếp thứ 2 trên thế giới về năng suất.
Năng suất cạo mủ của công nhân, có ảnh hưởng lớn đến năng suất khai thác mủ

cao su, tùy thuộc vào kinh nghiệm và sức khỏe của công nhân. Nguồn lực lao động
dồi dào, chi phí lao động thấp cộng với việc áp dụng phương pháp canh tác hiệu quả
nên đã tạo ra lợi thế cạnh tranh của ngành cao su so với các ngành khác.
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các giống cây cao su được trồng chủ yếu ở Việt Nam:
STT Tên giống Năng suất trung bình
(kg/ha/năm)
1 PB235 1.685
2 GT1 1.225
3 PB260 1.522
4 RRIM600 (ươm trồng tại Tây 1.275
Nguyên)
5 VM515 1.708
6 PB255 1.918
2.2.1.3 Tình hình tiêu thụ sản phẩm.
a) Thị trường tiêu thụ trong nước
Thị trường tiêu thụ cao su tự nhiên trong nước khá nhỏ bé so với thị trường xuất
khẩu. Nhu cầu tiêu thụ cao su tự nhiên của thị trường trong nước chiếm khoảng 10-
15% tổng sản lượng mủ cao su sản xuất hàng năm. Do công nghiệp chế biến cao su
còn thấp nên hiện nay chỉ có khoảng 20% cao su tự nhiên được chế biến để xuất
khẩu. Các sản phẩm chế biến từ cao su tiêu thụ tại thị trường trong nước chủ yếu bao
gồm: các loại săm lốp, găng tay y tế, băng chuyền, đai, phớt dùng trong sản xuất
công nghiệp…
Trong nước có 3 doanh nghiệp lớn sản xuất các sản phẩm từ cao su: Công ty cao
su Sao Vàng (SRC), Công ty cao su Miền Nam (CSM) và Công ty cao su Đà Nẵng
(DRC). Ngoài ra các công ty liên doanh sản xuất các sản phẩm từ cao su gia tăng
đáng kể những năm gần đây.
b) Thị trường xuất khẩu.

Liên tục trong 3 năm (từ 2006 đến 2008), kim ngạch xuất khẩu cao su luôn đạt
trên 1 tỉ USD và là một trong 11 mặt hàng chủ lực đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ
USD mỗi năm. Số lượng và giá trị xuất khẩu cao su tự nhiên tăng đều qua các năm.
Trong giai đoạn 2004-2008, tỷ trọng giá trị cao su xuất khẩu chiếm 2,2-3,2% trong
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
SV: Nguyễn Thị Thường KTNN & PTNT 48
25

×