.
Mô hình phân tử nước
Nước là một hợp chất hóa học của ôxy và hiđrô, có công thức hóa học là H
2
O. Với các
tính chất lí hóa đặc biệt (ví dụ như tính lưỡng cực,liên kết hiđrô và tính bất thường của
khối lượng riêng) nước là một chất rất quan trọng trong nhiều ngành khoa học và trong
đời sống. 70% diện tích của Trái Đất được nước che phủ nhưng chỉ 0,3% tổng lượng
nước trên Trái Đất nằm trong các nguồn có thể khai thác dùng làm nước uống.
Bên cạnh nước "thông thường" còn có nước nặng và nước siêu nặng. Ở các loại nước
này, các nguyên tử hiđrô bình thường được thay thế bởi các đồng vị đơteri và triti. Nước
nặng có tính chất vật lý (điểm nóng chảy cao hơn, nhiệt độ sôi cao hơn, khối lượng
riêng cao hơn) và hóa học khác với nước thường.
Cấu tạo và tính chất của phân tử nước
Hình học của phân tử nước
Phân tử nước
Phân tử nước bao gồm hai nguyên tử hiđrô và một nguyên tử ôxy. Về mặt hình học thì
phân tử nước có góc liên kết là 104,45°. Do các cặp điện tử tự do chiếm nhiều chỗ nên
góc này sai lệch đi so với góc lý tưởng của hình tứ diện. Chiều dài của liên kết O-H là
96,84 picômét.
Tính lưỡng cực
Tính lưỡng cực
Ôxy có độ âm điện cao hơn hiđrô. Việc cấu tạo thành hình ba góc và việc tích điện từng
phần khác nhau của các nguyên tử đã dẫn đến cực tính dương ở các nguyên tử hiđrô
và cực tính âm ở nguyên tử ôxy, gây ra sự lưỡng cực. Dựa trên hai cặp điện tử đơn độc
của nguyên tử ôxy, lý thuyết VSEPR đã giải thích sự sắp xếp thành góc của hai nguyên
tử hiđrô, việc tạo thành moment lưỡng cực và vì vậy mà nước có các tính chất đặc biệt.
Vì phân tử nước có tích điện từng phần khác nhau nên một số sóng điện từ nhất định
như sóng cực ngắn có khả năng làm cho các phân tử nước dao động, dẫn đến việc
nước được đun nóng. Hiện tượng này được áp dụng để chế tạo lò vi sóng.
[sửa]Liên kết hiđrô
Liên kết hiđrô
Các phân tử nước tương tác lẫn nhau thông qua liên kết hiđrô và nhờ vậy có lực hút
phân tử lớn. Đây không phải là một liên kết bền vững. Liên kết của các phân tử nước
thông qua liên kết hiđrô chỉ tồn tại trong một phần nhỏ của một giây, sau đó các phân tử
nước tách ra khỏi liên kết này và liên kết với các phân tử nước khác.
Đường kính nhỏ của nguyên tử hiđrô đóng vai trò quan trọng cho việc tạo thành các liên
kết hiđrô, bởi vì chỉ có như vậy nguyên tử hiđrô mới có thể đến gần nguyên tử ôxy một
chừng mực đầy đủ. Các chất tương đương của nước, thí dụ như đihiđrô sulfua (H
2
S),
không tạo thành các liên kết tương tự vì hiệu số điện tích quá nhỏ giữa các phần liên
kết. Việc tạo chuỗi của các phân tử nước thông qua liên kết cầu nối hiđrô là nguyên
nhân cho nhiều tính chất đặc biệt của nước, thí dụ như nước mặc dù có khối lượng mol
nhỏ vào khoảng 18 g/mol vẫn ở thể lỏng trong điều kiện tiêu chuẩn. Ngược lại, H
2
S tồn
tại ở dạng khí cùng ở trong những điều kiện này. Nước có khối lượng riêng lớn nhất ở
4 độ Celcius và nhờ vào đó mà băng đá có thể nổi lên trên mặt nước; hiện tượng này
được giải thích nhờ vào liên kết cầu nối hiđrô.
Các tính chất hóa lý của nước
Cấu tạo của phân tử nước tạo nên các liên kết hiđrô giữa các phân tử là cơ sở cho
nhiều tính chất của nước. Cho đến nay một số tính chất của nước vẫn còn là câu đố
cho các nhà nghiên cứu mặc dù nước đã được nghiên cứu từ lâu.
Nhiệt độ nóng chảy và nhiệt độ sôi của nước đã được Anders Celsius dùng làm hai
điểm mốc cho độ bách phân Celcius. Cụ thể, nhiệt độ nóng chảy của nước là 0 độ
Celcius, còn nhiệt độ sôi (760 mm Hg) bằng 100 độ Celcius. Nước đóng băng được gọi
là nước đá. Nước đãhóa hơi được gọi là hơi nước. Nước có nhiệt độ sôi tương đối
cao nhờ liên kết hiđrô
Dưới áp suất bình thường nước có khối lượng riêng (tỷ trọng) cao nhất là ở 4 °C:
1 g/cm³ đó là vì nước vẫn tiếp tục giãn nở khi nhiệt độ giảm xuống dưới 4 °C. Điều này
không được quan sát ở bất kỳ một chất nào khác. Điều này có nghĩa là: Với nhiệt độ
trên 4 °C, nước có đặc tính giống mọi vật khác là nóng nở, lạnh co; nhưng với nhiệt độ
dưới 4 °C, nước lại lạnh nở, nóng co. Do hình thể đặc biệt của phân tử nước (với góc
liên kết 104,45°), khi bị làm lạnh các phân tử phải dời xa ra để tạo liên kết tinh thể lục
giác mở. Vì vậy mà tỉ trọng của nước đá nhẹ hơn nước thể lỏng.
[1]
Khi đông lạnh dưới 4 °C, các phân tử nước phải dời xa ra để tạo liên kết tinh thể lục giác mở.
Nước là một dung môi tốt nhờ vào tính lưỡng cực. Các hợp chất phân cực hoặc có tính
ion như axít, rượu và muối đều dễ tan trong nước. Tính hòa tan của nước đóng vai trò
rất quan trọng trong sinh học vì nhiều phản ứng hóa sinh chỉ xẩy ra trong dung dịch
nước.
Nước tinh khiết không dẫn điện. Mặc dù vậy, do có tính hòa tan tốt, nước hay có tạp
chất pha lẫn, thường là các muối, tạo ra các ion tự do trong dung dịch nước cho phép
dòng điện chạy qua.
Về mặt hóa học, nước là một chất lưỡng tính, có thể phản ứng như một axit hay bazơ.
Ở 7 pH (trung tính) hàm lượng các ion hydroxyt (OH
-
) cân bằng với hàm lượng của
hydronium (H
3
O
+
). Khi phản ứng với một axit mạnh hơn thí dụ như HCl, nước phản ứng
như một chất kiềm:
HCl + H
2
O ↔ H
3
O
+
+ Cl
-
Với ammoniac nước lại phản ứng như một axit:
NH
3
+ H
2
O ↔ NH
4
+
+ OH
-
Nước trong đời sống
Cuộc sống trên Trái Đất bắt nguồn từ trong nước. Tất cả các sự sống trên Trái
Đất đều phụ thuộc vào nước và vòng tuần hoàn nước.
Nước có ảnh hưởng quyết định đến khí hậu và là nguyên nhân tạo ra thời tiết.
Năng lượng mặt trời sưởi ấm không đồng đều các đại dương đã tạo nên các
dòng hải lưu trên toàn cầu. Dòng hải lưu Gulf Stream vận chuyển nước ấm từ
vùng Vịnh Mexico đến Bắc Đại Tây Dương làm ảnh hưởng đến khí hậu của
vài vùng châu Âu.
Nước là thành phần quan trọng của các tế bào sinh học và là môi trường của
các quá trình sinh hóa cơ bản như quang hợp.
Hơn 70% diện tích của Trái Đất được bao phủ bởi nước. Lượng nước trên
Trái Đất có vào khoảng 1,38 tỉ km³. Trong đó 97,4% là nước mặn trong các đại
dương trên thế giới, phần còn lại, 2,6%, là nước ngọt, tồn tại chủ yếu dưới
dạng băng tuyết đóng ở hai cực và trên các ngọn núi, chỉ có 0,3% nước trên
toàn thế giới (hay 3,6 triệu km³) là có thể sử dụng làm nước uống. Việc cung
cấp nước uống sẽ là một trong những thử thách lớn nhất của loài người trong
vài thập niên tới đây. Nguồn nước cũng đã là nguyên nhân gây ra một trong
những cuộc chiến tranh ở Trung Cận Đông.
Nước được sử dụng trong công nghiệp từ lâu như là nguồn nhiên liệu (cối xay
nước, máy hơi nước, nhà máy thủy điện), là chất trao đổi nhiệt.
Nhà triết học người Hi Lạp Empedocles đã coi nước là một trong bốn nguồn
gốc tạo ra vật chất (bên cạnh lửa, đất và không khí). Nước cũng nằm
trong Ngũ Hành của triết học cổ Trung Hoa.