Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ GIÁO DỤC THẾ GIỚI TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA MAKARENKO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.18 KB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA TÂM LÝ – GIÁO DỤC
MÔN: LỊCH SỬ GIÁO DỤC THẾ GIỚI
ĐỀ TÀI NHÓM
TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA
MAKARENKO
Giảng viên bộ môn: TS. Hồ Văn Liên
Nhóm thực hiện: Quang Thục Hảo
Nguyễn Thị Thu Hồng
Nguyễn Thị Huyền Trang
(Lớp Tâm lý giáo dục 3)
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 12 năm 2012
I. VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI CỦA MAKARENKO
Anton Makarenko là một nhà văn nhà giáo dục xô viết lỗi lạc,ông sinh ngày
13/3/1888 tại thành phố Beloplie huyện Sumsky,tỉnh Kharkov trong một gia đình công
nhân. Cha là một thợ sơn nhà máy xe lửa, sự giáo dục của gia đình ảnh hưởng rất tốt đến
tính tình của Makarenko.
Năm 12 tuổi, ông được vào học một trường Cao Đẳng tiểu học, vì trường không
phải dành cho mình nên cha Makarenko dặn dò không được đem điểm 4 về nhà mà phải
là điểm 5 điều đó cũng ảnh hưởng đến ông giúp ông luôn cố gắng học tập và luôn đạt
điểm cao,sau khi tốt nghiệp ông vào học một lớp sư phạm rồi được bổ dạy học ở công
trường thuộc nhà máy xe lửa Cô-riu-cô-vô. Năm 1914, ông được cử vào trường Cao Đẳng
sư phạm Pôn-ta-va ông tốt nghiệp đúng lúc Cách mạng tháng mười Nga giành thắng lợi,
ông trở về trường cũ Cô-riu-cô-vô, ông hân hoan chào đón thắng lợi vì chỉ có chế độ xô
viết mới giúp ông thực hiện được những ước mơ.
Năm 1920, do thực tiễn ông được cử ra giáo dục trẻ em phạm pháp, trại giáo dục
này ông đặt tên là Goocki. Ông bắt đầu lại từ đầu từ hai bàn tay trắng và những quan
điểm sai lầm, phản động có những lúc ông đã bị bắt vì kiên quyết thực hiện những
nguyên tắc giáo dục cộng sản chủ nghĩa. Sau thành công ở trại Goocki ông được giao phó
phụ trách công xã Decdinxki (1928-1937). Tuy là trại mới nhưng trên thực tế đã kế thừa
tiếp thu kinh nghiệm nhờ đó mà thành công của Makarenko ở công xã Decdinxki thật


vững chắc và rực rỡ. Chỉ 8 năm đầu đã có 127 đoàn đại biểu của 30 nước ghé thăm.
Thành công của ông ở công xã Decdinxki là sự thực hiện sáng tạo việc kết hợp quá
trình giáo dục với tổ chức lao động sản xuất, giáo dục tổng hợp trí dục, thể dục, mỹ dục là
kết quả của sự giáo dục và tổ chức tự rèn luyện của tập thể trẻ em.
Từ thực tiễn và những năm kinh nghiệm năm 1932 ông hoàn thành tác phẩm
“Hành khúc năm 30” nhằm mô tả lại hoạt động của công xã Decdinxki nhưng chưa được
chú ý. Sau đó Makarenco đã viết “Bài Ca Sư Phạm” được xuất bản làm nhiều phần từ
1933-1935 nhằm mô tả lại hoạt động của trại Goocki. “Bài Ca Sư Phạm” được đánh giá là
tác phẩm nổi tiếng nhất và Makarenko là nhà văn ưu tú nhất thời đó.
Mùa thu 1935 ông được bầu làm phó giám đốc phụ trách trại lao động thuộc Bộ
dân ủy Nội vụ nước Cộng hòa Ucren và tiếp tục phụ trách công xã Decdinxki. Năm 1937-
1938 Makarenco cho ra mắt bạn đọc tiểu thuyết “Danh Dự” và bổ sung hoàn chỉnh “
Hành khúc năm 30” thành “Ngọn cờ trên tháp”. Do thực tế ở công xã Decdinxki có liên
quan đến vấn đề giáo dục gia đình nên ông nghiên cứu và viết tác phẩm “Cuốn sách giành
cho các bậc cha mẹ”.
Makarenko đang xây dựng đề cương cho một tác phẩm lý luận giáo dục lớn gồm 4
tập với đầu đề ‘Phương pháp giáo dục cộng sản chủ nghĩa’ nhằm phân tích tổng hợp để
rút ra những quy luật phổ biến của giáo dục cộng sản,nhưng tiếc rằng cái chết đột ngột
của ông vì bệnh tim đã bỏ dở giấc mơ của ông.
Do đóng góp lớn của mình 1951 chính phủ Liên Xô quyết định thành lập Viện bảo
tàng Makarenko tại nơi ông bắt đầu sự nghiệp.
Di sản của ông đã được nghiên cứu nhiều năm và gần 40 luận án phó tiến sĩ và
tiến sĩ bảo vệ,hàng ngàn người viết về ông.
Ở hầu như các nước đã dịch những tác phẩm của ông. Riêng Việt Nam lý luận dạy
học của Makarenco đã được phổ biến rỗng rãi trong các trường sư phạm, cơ quan nghiên
cứu, đoàn thanh niên, công an, phụ nữ…
II. TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA MAKARENKO
1. Mục tiêu giáo dục
1.1. Lý tưởng sư phạm
Quan điểm giáo dục của Makarenkô phản ánh một cách rõ rệt những đặc điểm của

nền giáo dục Xô viết, tức là chủ nghia nhân đạo và niềm lạc quan XHCN trong cách mạng.
a. Khái niệm chủ nghĩa nhân đạo dưới góc nhìn của Makarenko:
Theo quan điểm của Makarenko, thì nhân đạo và lạc quan là: “yêu thương con
người vô hạn”, “tất cả vì con người”.
“Nhân đạo và lạc quan XHCN trong giáo dục thể hiện ở chỗ nhìn con người, đánh
giá con người trong sự phát triển biện chứng giữa con người và hoàn cảnh xã hội, có
lòng vị tha đối với sai lầm và tạo điều kiện cho con người vươn lên trên những lỗi lầm”.
Vì Makarenko đứng trên lập trường Marsxit, thêm nữa ông hiểu và tiếp thu một
cách sáng tạo chủ nghĩa nhân đạo của Goocki nên ông đã áp dụng những lý thuyết ấy vào
thực tiễn giáo dục của mình
b. Biểu hiện:
- Ông có được niềm tin lớn lao vào con người, vào những học sinh của mình với những khả
năng tiềm ẩn, phẩm chất tốt đẹp, tính năng động cũng như những ước mơ muốn vươn
tới ngày mai. Ông đấu tranh không mệt mỏi cho con người, cho lý tưởng giáo dục xã hội.
- Nhìn và đánh giá con người trong sự phát triển biện chứng giữa con người và hoàn cảnh
xã hội.
- Hạt nhân của chủ nghĩa nhân đạo và lạc quan XHCN là ở chỗ tôn trọng và yêu cầu cao ở
con người, vạch ra phương hướng, tạo điều kiện cho con người hoạt động, rèn luyện để
tự khẳng định trong tập thể, trong xã hội.
- Chủ nghĩa nhân đạo còn là tính nghiêm khắc, sự không khoan nhựong đối với quan điểm
phản động, sai lầm đối với thế hệ trẻ. Cũng như những hành vi sai trái quy định của tập
thể.
Ta có thể tóm gọn quan điểm về chủ nghĩa nhân đạo và lạc quan XHCN của
Makarenko trong giáo dục là: thể hiện sự sâu sắc trong cái logic sư phạm giữa tình yêu
thương_ tôn trọng_tin tưởng_yêu cầu_nghiêm khắc.
- Đối với ông, muốn giáo dục một con người để họ có thể tuân thủ những kỷ luật và tự giác
thực hiện việc tự rèn luyện bản thân là hãy cho họ tình thương, sự tin tưởng chân thành
từ nhà giáo dục.
• Tình thương theo ông không phải là sự ban ơn mà ngược lại là sự thương yêu, quý trọng,
hy vọng tin tưởng và phải tạo điều kiện cho con người phát triển. Phải mạo hiểm đặt ra

những giả thiết tốt đẹp nơi con người, dù đôi khi những giả thuyết ấy có sai lầm.
• Để làm được điều này, nhà giáo dục phải có lòng vị tha đối với sai lầm và tạo điều kiện
cho con người vươn lên những sai lầm ấy. Ông luôn tâm niệm: “Không có khái niệm trẻ
em hư hỏng, chí có những nhà sư phạm tồi và sử dụng phương pháp giáo dục chưa đúng
mà thôi”.
- Để thể hiện sự tôn trọng và yêu cầu cao đối với học sinh, nhà giáo dục phải:
• Vạch ra phương hướng, tạo điều kiện cho con người hoạt động, rèn luyện để tự khẳng
định trong tập thể, trong xã hội.
• Càng yêu cầu cao đối với con người càng tốt, càng tôn trọng con người càng tốt. Bởi ông
tin rằng, khi mình hy vọng vào họ, họ sẽ không làm mình thất vọng.
Vd: Trong số học sinh của ông có một em nổi tiếng đầu trộm đuôi cướp, các đời hiệu
trưởng trước đều phải kiềng mặt em này. Makarenko cho gọi em lên gặp. Thầy trò nói
chuyện một lúc ông phát hiện em này bản chất tốt nhưng vì mang tiếng là người xấu nên
nhiều khi bị nghi oan mà nói chẳng ai tin. Mấy ngày sau, Makarenko giao cho em mang
một số tiền lên thành phố mua cái máy khoan cho trường. Ai ngờ em làm hết sức chu đáo,
mua được máy tốt lại đem tiền thừa về trả tài vụ không thiếu một xu. Đầu tuần em được
thầy hiệu trưởng tuyên dương thành tích dưới cờ. Từ đó mọi người nhìn em với con mắt
khác và ít lâu sau em trở thành học sinh xuất sắc của trường.
- Tính nghiêm khắc trong chủ nghĩa nhân đạo của Makarenko thể hiện:
• Sự đòi hỏi, yêu cầu trước sau như một, không nhu nhược nuông chiều những điều vô lý.
• Ông khuyên các nhà sư phạm phải biết “nhẫn tâm”, nghĩa là phải tự chủ, kiên nhẫn, hợp
lý trong công tác giáo dục chứ không phải hà khắc, đánh mắng khi trẻ làm sai và sau đó
lại buông lơi không quan tâm để trẻ lại phát triển những tật xấu một cách tự nhiên.
Makarenko muốn rằng con người được học tập và lao động với tinh thần lạc
quan; muốn rằng người ta dùng chủ nghĩa lạc quan để động viên nhau làm tròn nhiệm
vụ; muốn rằng sinh hoạt của mọi người tràn đầy niềm vui trong lao động, niềm vui về
thắng lợi của ngày mai.
1.2. Mục tiêu giáo dục trên bình diện xã hội
Không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều nhà giáo dục đã nhận xét về tư tưởng giáo
dục của Makarenko như là một hệ thống giáo dục vô cùng hoàn chỉnh. Rõ ràng, để có

được nội dung giáo dục hay, phương pháp giáo dục dục phù hợp và được kiểm nghiệm
thành công trong thực tiễn thì chính nhà giáo dục đó phải xác định rất cụ thể và chính
xác mục tiêu giáo dục của mình, nói cách khác, nhà giáo dục đã hình dung về một mẫu
nhân cách phù hợp để rồi tổ chức, định hướng học sinh vươn đến. Mục tiêu giáo dục của
Makarenko có những điểm chính sau:
- Giáo dục phụ thuộc vào bối cảnh, hệ thống chính trị, hoạt động của quá trình
giáo dục cộng sản chủ nghĩa trong nhà trường hay ngoài xã hội phải xuất phát từ yêu
cầu của chế độ Xô Viết, của việc đào tạo con người xã hội chủ nghĩa (XHCN). "Điều chủ
yếu nhất là ở nội dung giai cấp tự nhiên của nó, tức là xuất phát không phải từ bản thân
khoa học giáo dục mà từ nhiệm vụ chính trị của khoa học giáo dục". Đây có thể xem là
mục tiêu bao trùm toàn bộ tư tưởng giáo dục của Makarenko, là hạt nhân của lôgic học
biện chứng của quá trình giáo dục. Ông kết luận: "Nếu chúng ta khước từ lôgic xuất phát
từ yêu cầu công dân (chính là yêu cầu của xã hội, của Đảng, của sự nghiệp giải phóng
nhân loại đối với mỗi con người XHCN mà quá trình giáo dục phải hình thành ở thế hệ trẻ
thì có nghĩa chúng ta khước từ toàn bộ công tác giáo dục".
1.3. Giáo dục trên bình diện nhân cách
- Giáo dục toàn diện, đề cao phẩm giá con người, là làm cho con người hạnh phúc.
"Chúng ta không những chỉ giáo dục nên những con người giàu óc sáng tạo, những công
dân có khả năng tham gia có hiệu quả nhất vào sự nghiệp xây dựng Tổ quốc, mà phải
giáo dục những con người nhất thiết có hạnh phúc". Muốn vậy chúng ta phải giáo dục
hành vi, phẩm chất của con người có tinh thần trung thực, ý chí dũng cảm, tính chính xác,
tính tháo vát, tính tổ chức, kỷ luật, trọng danh dự", "Phải cung cấp cho họ học vấn, tốt
nhất là học vấn trung học trình độ lành nghề phải giáo dục tình cảm nghĩa vụ và khái
niệm danh dự , phải có phẩm giá của mình, phẩm giá của giai cấp mình và phải tự hào
về nó, phải thấy trách nhiệm của mình trước giai cấp, phải phục tùng đồng chí và ra lệnh
cho đồng chí , phải là con người lịch thiệp và nghiêm khắc, tốt bụng và nhân tâm - tùy
theo những điều kiện của cuộc sống và cuộc đấu tranh của họ. Họ phải là nhà tổ chức tích
cực, phải kiên trì, phải làm chủ bản thân và gây ảnh hưởng tới người khác , phải tôn
trọng tập thể và hình phạt của tập thể, phải vui vẻ, yêu đời, nghiêm chỉnh… phải là người
như vậy không phải trong tương lai mà ngay trong từng ngày hiện nay".

- Làm rõ hơn mô hình nhân cách người học của mình, Makarenko còn nhấn mạnh
rằng, giáo dục cộng sản là phải xuất phát từ việc phát huy quá trình tự rèn luyện, ý thức
năng lực tự quản của mỗi cá nhân. Giáo dục không phải là một “ông thầy” cứ gánh trên
lưng một học sinh và cõng nó qua rừng, qua suối đến cuối cuộc đời. Không thể nào có một
xã hội theo kiểu cách ấy! Sau khi giáo dục mà học sinh không thể tự lập thì bao nhiêu
điều tốt đẹp: nào là hạnh phúc, nào là lý tưởng cộng sản, nào là phát triển toàn diện,…
chẳng còn nghĩa lý gì.
Từ việc khái quát mục tiêu giáo dục của Makarenko thành ba ý trên, chúng tôi
cũng cho rằng định hướng về cái đích cuối cùng ông đặt ra là thống nhất và tương đối
chỉnh chu. Điều này phản ánh tầm nhìn rộng lớn của một nhà giáo dục vĩ đại. Những điều
ông đã vạch ra không chỉ có giá trị nhất thời cho thời đại mà ông sinh sống mà dường
như đã trở thành chân lý, trở thành sứ mạng chung cho khoa học giáo dục XHCN. Liệu
điều chúng tôi khẳng định có là quá đề cao? Chúng ta cùng phân tích và đối chiếu mục
tiêu giáo dục ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Điều 2, chương 1, Luật Giáo dục 2005 nước ta quy định: Mục tiêu giáo dục là đào
tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và
nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và
bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như vậy, rõ ràng nội hàm mục tiêu giáo dục nước ta
tương đồng phần lớn với mục tiêu giáo dục mà Makarenko đã đề ra. Điều này gián tiếp
nói lên quy mô tầm ảnh hưởng của một tư tưởng giáo dục.
2. Nội dung giáo dục
2.1. Giáo dục lao động và kỹ thuật tổng hợp kết hợp với các mặt giáo dục khác
Theo Makarenko, giáo dục lao động sản xuất là nhằm giáo dục ý thức, tinh thần tập
thể, trang bị tri thức cơ bản thiết thực, rèn luyện kỹ năng lao động kỹ thuật từ đơn giản
đến phức tạp, tính tổ chức, năng động, sáng tạo, nhanh nhẹn khả năng hạch toán kinh tế
và kế hoạch hóa quá trình sản xuất.
- Với Makarenko “chỉ trong quá trình sản xuất mới tạo được tính cách chân chính của con
người, thành viên của tập thể sản xuất xã hội. Chính trong quá trình đó con người mới
học được cách cư xử sâu sắc, tinh thần trách nhiệm đối với từng chi tiết khi phải hoàn

thành toàn bộ kế hoạch tài chính công nghiệp”.
- Nhất thiết giáo dục lao động và giáo dục lao động sản xuất phải tiến hành trong tập thể,
hoạt động tập thể và xuất phát từ mục đích vì tập thể, vì xã hội, trong đó có cá nhân.
- Tổ chức lao động sản xuất trong nhà trường phải quán triệt tinh thần kỹ thuật tổng hợp,
nghĩa là phải đảm bảo tính khoa học, tính chính xác, vừa cung cấp tri thức và hình thành
kỹ năng lao động kỹ thuật của các ngành sản xuất xã hội.
- Đời sống lao động tập thể là điều kiện quan trọng nhất để bồi dưỡng ý thức kỷ luật và ý
thức tổ chức cho con người; là cơ sở cho người học thấy con người ta sống là phải có
nghĩa vụ, bổn phận đối với tập thể.
Để trẻ em đạt được những nội dung trên, nhà giáo dục cần:
- Cung cấp những tri thức, những khái niệm về các quá trình lao động, đồng thời rèn cho
các em có được những kỷ năng, thói quen lao động có tổ chức, có kỷ luật, có óc sáng tạo,
có tinh thần trách nhiệm, có năng xuất cao trong lao động ở các dạng, các hình thức khác
nhau.
- Phải tổ chức hợp lý, hợp đối tượng, có kết quả kinh tế cho tập thể và cá nhân; phải xách
định mục đích, yêu cầu của quá trình lao động sản xuất, phải biến yêu cầu giáo dục lao
động sản xuất thành nhu cầu, hứng thú của trẻ em. Vì thế, phải để các em làm chủ quá
trình lao động sản xuất.
- Phải tiến hành luân phiên các dạng lao động khác nhau, để không những trang bị tri
thức mà còn rèn luyện năng lực, kỹ năng lao động phức tạp như tính tổ chức, kỷ luật, sự
khéo léo, độ chính xác trong thao tác, sự dẻo dai trong hoạt động lao động.
Makarenko là người đầu tiên trong lịch sử đã kết hợp công tác giảng dạy và lao
động sản xuất thành những hoạt động sản xuất có tổ chức đến cao độ. Tại công xã
Decdin-ki, ông tổ chức cho học sinh của mình lao động trong một xí nghiệp thực sự và thu
được nguồn lợi từ việc sản xuất ấy.
Ông cho rằng giáo dục trong lao động là một điều kiện quan trọng của đức dục, của
sự nghiệp giáo dục. Có lẽ vì thế mà ông không trả lương cho học sinh của mình, bởi ông
quan niệm “khi làm việc không lương các em công xã viên làm mọi điều chúng định làm,
vượt kế hoạch, tiêu chuẩn và không tranh cãi về khía cạnh vật chất của cuộc sống”. Điều
này cho thấy, ông không đề cao giá trị vật chất trong giáo dục. Theo ông, giá trị con

người tạo ra được trong sản xuất không phải chỉ là vật chất mà còn là giá trị ở những
điều mà học sinh hoc được trong quá trình sản xuất, đó là những: kỹ năng, tinh thần tập
thể, sự nhường nhịn, tình yêu lao động,
Makarenko còn đề ra một loại kỷ luật gọi là “Kỷ luật đấu tranh và khắc phục khó
khăn”. Đây là loại kỷ luật khiến người ta đấu tranh để giành lấy những phẩm chất cao
hơn và để kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ. Để hình thành được đức tính này, chí có môi
trường lao động mới cho học sinh trãi nghiệm và rèn luyện được.
Ông đề cao tác dụng của lao động trong việc hình thành nên nhận thức thế giới
quan đúng đắn của con người về giá trị của lao động “Chỉ có tham gia lao động tập thể
mới khiến người ta yêu mến và thân thiết với tất cả những người lao động, khiến người
ta căm giận và chê trách những kẻ thích an nhàn và ghét lao động”. Lao động cũng giúp
hình thành ở học sinh sự tôn trọng, tự giác thực hiện mọi quy tắc của nhà trường và vui
lòng nhắc nhở người khác cũng làm như mình. Bởi họ đã được rèn luyện trong môi
trường lao động có trật tự và kỷ luật cao.
Vì những điều ấy nên Makarenko khẳng định giáo dục và việc tổ chức sản xuất lao
động trong nhà trường phải đảm bảo tính khoa học, tính chính xác; vừa phải cung cấp tri
thức (tri thức khoa học và tri thức xã hội) và hình thành kỹ năng lao dộng kỷ thuật các
ngành sản xuất xã hội.
2.2. Giáo dục thẩm mỹ
Nếu ai đã từng đọc qua nhiều tác phẩm giáo dục của Makarenko thì cũng đều phải
thừa nhận rằng, ông có một quan niệm rất tinh tế về giáo dục thẩm mĩ. Theo ông, cái đẹp
thể hiện ở hai phương diện: nội dung và hình thức. Hai phương diện này bổ sung, thống
nhất với nhau, kết cấu thành cái đẹp hoàn mĩ và chính tư tưởng này cũng quy định nội
dung giáo dục thẩm mĩ theo hai chiều hướng:
- Với cái đẹp nội dung, ông cho rằng chính kỷ luật làm cho tập thể và cá nhân thêm
đẹp. Thông qua tập thể, học sinh phải được giáo dục tinh thần kỷ luật, tính nề nếp ngăn
nắp và đó chính là nét thẩm mĩ từ sâu ở nhận thức biểu hiện ra hành vi. Bên cạnh đó,
lòng tin cậy cũng là một vẻ đẹp đặc biệt: Đội giỏi nhất, vì giỏi nhất phải làm công việc
nặng nhất, kém thú vị nhất và khó khăn nhất. Đây chính là cái đẹp từ lòng tin, từ sự nỗ
lực được ghi nhận và từ sự cao thượng. Như thế, những điều mà học sinh được giáo dục

thẩm mĩ về nội dung cũng giao thoa với giáo dục đạo đức, giáo dục lao động, giáo dục trí
tuệ. Nói cách khác, đó là sự kết hợp để đạt đến đỉnh cao của vẻ đẹp chân chính bên trong
con người.
- Với cái đẹp hình thức, Makarenko nhấn mạnh, thầy cô giáo phải đẹp về diện mạo.
Điều này một mặt tạo được lòng tin, sự hứng khởi cho học sinh, mặt khác gián tiếp giáo
dục học sinh chú trọng vẻ đẹp bên ngoài. Về việc đòi hỏi một vẻ ngoài lịch sự, mỹ thuật,
ông nói: “Một tập thể giáo dục không chỉ chú trọng nội dung mà còn phải chú trọng cả
hình thức. Hình thức của một tập thể trẻ em phải hấp dẫn. Sự hấp dẫn là một trạng thái
không thể bỏ qua được. Bề ngoài đẹp mắt của một con người, của một phòng ngủ, một
cầu thang, một công cụ máy cũng quan trọng như một hành vi tốt. Vẻ mỹ quan của hành
vi là gì? Là hạnh kiểm có hình thức, hình thức nó là một dấu hiệu văn hóa cao. Vẻ mỹ
quan là một nhân tố giáo dục”.
2.3. Giáo dục thể chất
Giáo dục thể chất cũng được Makarenko coi trọng, biểu hiện ở những nội dung sau:
- Tập thể giáo dục phải được rèn luyện sức khỏe đều đặn, tham gia tập thể dục và
chơi thể thao. Đây là một nội dung giáo dục riêng dựa trên thời gian sinh hoạt được
hoạch định sẵn, bên cạnh đó, việc phát triển thể lực cho trẻ em cũng được lồng ghép
thông qua quá trình các em lao động.
- Việc có kỷ luật trong nếp sống, sinh hoạt với thời gian đều đặn cũng là một hình
thức rèn luyện thể chất hữu hiệu.
2.4. Giáo dục đạo đức
Nổi bật trong nội dung giáo dục mà Makarenko đề xướng là giáo dục đạo đức: đó là
nề nếp trong sinh hoạt, đó là kỷ luật tự giác, đó là chủ nghĩa tập thể.
Muốn xây dựng một tập thể lành mạnh, vững vàng, nhà giáo dục phải là người tạo
ra dư luận và những truyền thống tập thể tốt đẹp. Trong quan điểm giáo dục của ông,
truyền thống tập thể được biểu hiện trước hết ở việc có kỷ luật. Thực chất mà nhìn nhận,
kỷ luật không phải là phương pháp mà là nội dung, kết quả giáo dục. Nhà giáo dục có
nhiệm vụ giúp học sinh giác ngộ đầy đủ công dụng của kỷ luật, từ đó học sinh mới tin và
rèn luyện. Nhắc về kỷ luật của Makarenko, người ta không thể không thốt lên: KỶ LUẬT
LÀ TỰ DO. “Tại sao tôi giáo dục được trẻ hư hỏng có kỷ luật. Vì chúng nó đã quá đau khổ

với xã hội vô kỷ luật”.
Đời sống tập thể là điều kiện quan trọng nhất để bồi dưỡng ý thức kỷ luật và ý thức
tổ chức cho học sinh. Kỷ luật là kết quả của công tác giáo dục, kỷ luật phải xây dựng trên
sự tin tưởng ở học sinh. Makarenko cho rằng không có một người nào hoàn toàn hư
hỏng. Ông nói: “Trẻ em hư hỏng chỉ chứng tỏ rằng thầy giáo đã thất bại mà thôi”. Kỷ luật
hay nhất là thứ kỷ luật khiến cho học sinh tự mình muốn tôn trọng mọi quy tắc của nhà
trường và vui lòng nhắc nhở người khác cũng làm như mình. Đối với những học sinh
không cố ý tuân theo kỷ luật thì có cần dùng phương pháp trừng phạt không? Makarenko
cho rằng gạt bỏ việc trừng phạt là thể hiện của chủ nghĩa nhân đạo giả dối. Theo ông,
một chế độ trừng phạt hợp lý có thể giúp cho việc hình thành một nhân cách kiên cường,
một tinh thần trách nhiệm cao, một ý chí sắt đá. Chế độ trừng phạt phải được xây dựng
trên cơ sở bảo vệ lợi ích của tập thể mà không hại đến một cá nhân nào.
Ví dụ về biểu hiện của giáo dục kỷ luật tại Công xã Decdinxki, dựa theo nguyên văn
lời mô tả của Makarenko:
“Mỗi ngày có một nhân viên ban y tế làm nhiệm vụ. Nhân viên đó có thể là nam hoặc
nữ phải đeo găng tay có chữ thập đỏ và có quyền hạn rất lớn. Khi họ mời bất cứ thành
viên nào của tập thể ra khỏi bàn ăn để rửa tay thì thành viên đó phải lẳng lặng tuân
hành. Họ có quyền đền thăm nhà của bất cứ cán bộ nào có rác rưởi hoặc để bẩn”.
Về giáo dục đạo đức, ông chú trọng giáo dục tính tự kiềm chế, tinh thần tôn trọng
phụ nữ, trẻ em, người già, tự trọng. Bên cạnh đó, tùy vào thực trạng mà ông đưa ra
những nội dung giáo dục phù hợp, chẳng hạn như khi tình trạng trộm cắp xảy ra nhiều,
ông sẽ tăng cường dạy về đức tình thật thà.
Tóm lại, giáo dục đạo đức là cơ bản và kết quả là học sinh phải có một thái độ đúng
đắn đối với bản thân, phải chấp nhận quan điểm vững vàng nhất về hành vi của mình.
2.5. Giáo dục trí tuệ
Phân tích nội dung giáo dục trí tuệ, ta có thể thấy sự đa dạng trong cách thể hiện.
Điều đầu tiên phải kể đến đó là giáo dục phát huy tính sáng tạo cho trẻ em thông qua
hoạt động. Ông nói: “Kẻ nào sợ công việc, sợ hoạt động thì không bao giờ có thể sáng tạo
được”. "Cần phải đào tạo con người mới theo cách mới" - đó là nguyên tắc giáo dục của
người thầy lỗi lạc Makarenko. Không phải là "nhấn chìm" lũ trẻ với những lầm lạc trong

quá khứ mà phải biết khơi dậy - thức tỉnh - động viên - ủng hộ những mầm mống của
năng lực. Phải có phương thức, biện pháp cụ thể để "thiết kế cái tốt" trong mỗi bản thân
con người. Quá trình xây dựng trại giáo dưỡng thành một tập thể đoàn kết, tổ chức cuộc
sống lao động, sáng tạo - đó là biện pháp hàng đầu của Makarenko. Quá trình đó cũng là
cơ sở nội dung tác phẩm "Bài ca sư phạm".
Song song với việc phát huy tính sáng tạo của trẻ em, Makarenko còn đề cao việc
phát huy kiến thức và kỹ năng xã hội. Và đương nhiên, ông cũng không chọn một môi
trường nào khác hơn để giáo dục những điều này ngoài môi trường lao động. Thông qua
yêu cầu của lao động sản xuất, lao động công ích, trẻ em bắt đầu đặt vấn đề và có mong
muốn tìm hiểu tri thức và kỹ năng liên qua, từ đây việc truyền đạt thông tin và quy trình
hoạt động trở nên có hiệu quả hơn bao giờ hết.
Có thể khẳng định rằng, nội dung giáo dục do Makerenko đề xuất và áp dụng phần
lớn dựa trên cơ sở thực tiễn cuộc sống, ước mong của trẻ em, đồng thời là tầm nhìn của
một nhà giáo dục có chiến lược, có định hướng. Mặc dù việc phân bố và đầu tư, chú trọng
cho mỗi nội dung vẫn còn có sự chông chênh, tuy nhiên năm nội dung: giáo dục đức dục,
trí học, thể dục, mĩ dục và giáo dục lao động có thể xem là đầy đủ trong hệ thống nội dung
giáo dục mà đến ngày nay vẫn còn đang sử dụng.
Thực tiễn giáo dục Việt Nam cũng đưa ra 5 nội dung giáo dục với sự phân chia cụ
thể và rõ ràng hơn. Thế nhưng, rõ ràng tư tưởng giáo dục của Makarenko được xem như
bao trùm và ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay.
1. Giáo dục đạo đức
Đức là gốc của nhân cách, Bác Hồ đã nói: "dạy cũng như học, phải biết chú trọng cả
tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách máng. Đó là cái gốc rất quan trọng". Nhân cách của học
sinh trước hết thể hiện ở bộ mặt đạo đức. Giáo dục đạo đức là một nhiệm vụ cực kỳ quan
trọng trong các loại hình trường, là nền tảng của các mặt giáo dục khác.
Những nhiệm vụ cụ thể của giáo dục đạo đức:
- Giáo dục cho người học thế giới quan khoa học, hiểu được tính qui luật cơ bản của
sự phát triển tự nhiên, xã hội; nhận thức đúng về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của
mỗi cá nhân với tư cách là những công dân chân chính đối với xã hội và cộng đồng, có ý
thức phấn đấu thực hiện tốt nghĩa vụ của người công dân trong việc thực hiện mục tiêu

xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Giáo dục cho người học hiểu và nắm vững những vấn đề cơ bản trong đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước, những cơ sở pháp luật của hiến pháp, các luật pháp
hiện hành, có ý thức, hành động và lối sống theo pháp luật.
- Giáo dục cho người học thấm nhuần các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức do xã
hội qui định về lối sống, phong cách và thái độ ứng xử trong cộng đồng như lòng yêu
nước, ý thức dân tộc, thái độ lao động, lòng nhân ái, ý thức công dân…
- Giáo dục cho người học tính tích cực tham gia các hoạt động lao động, xã hội,
chính trị… có ý thức đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, lối sống lạc hậu, lỗi thời
không phù hợp với xã hội hiện đại.
2. Giáo dục trí tuệ
Giáo dục trí tuệ (trí dục) có vai trò to lớn trong việc phát triển trí tuệ, là điều kiện
quan trọng để phát triển toàn diện nhân cách con người. Nhờ có sự phát triển trí tuệ, con
người có phương tiện phát triển nhu cầu nâng cao trình độ học vấn và tự hoàn thiện
nhân cách…
Những nhiệm vụ cụ thể của giáo dục trí tuệ.
- Tổ chức, điều khiển người học nắm vững hệ thống tri thức khoa học, phổ thông,
cơ bản, hiện đại, phù hợp với những yêu cầu của thực tiễn về tự nhiên, xã hội, con người.
- Rèn luyện cho người học hệ thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, phát triển năng lực
và phẩm chất trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo.
- Bồi dưỡng cho người học thế giới quan khoa học, những phẩm chất đạo đức tốt
đẹp của người công dân.
3. Giáo dục thẩm mỹ
Trong nhà trường, giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng của quá trình
giáo dục nhân cách, bởi vì văn hóa thẩm mỹ là một bộ phận hợp thành nền tảng của trình
độ ván hóa nói chung. Văn hóa thẩm mỹ của người học bao gồm trình độ phát triển nhất
định về mặt thẩm mỹ của ý thức, tình cảm, hoạt động và hành vi. Đó là những rung cảm
thẩm mỹ, nhãn quan thẩm mỹ (tri thức, quan niệm, lý thuyết, chuẩn mực về những giá trị
thẩm mỹ), hứng thú, nhu cầu, năng lực sáng tạo cái đẹp… Giáo dục thẩm mỹ là quá trình
hướng vào việc tổ chức cho người học lĩnh hội những nền tảng của văn hóa thẩm mỹ.

Nhiệm vụ cụ thể của giáo dục thẩm mỹ:
- Giáo dục cho học sinh năng lực nhận thức và cảm thụ cái đẹp trong trong tự
nhiên, trong cuộc sống và trong nghệ thuật vẻ đẹp chân chính ở mỗi con người.
- Bồi dưỡng cho học sinh những xúc cảm, tình cảm, những thị hiếu thẩm mỹ đúng
đắn trước cái đẹp… Từ đó giáo dục học sinh thái độ đúng đắn khi nhận xét, đánh giá cái
đẹp trong cuộc sống cũng như trong nghệ thuật và vẻ đẹp của mỗi con người.
- Bồi dưỡng cho học sinh năng lực vận đụng và sáng tạo cái đẹp trong tự nhiên,
trong cuộc sống và nghệ thuật, góp phần làm cho cuộc sống ngày càng đẹp hơn.
4. Giáo dục thể chất
Phát triển thể chất là một mặt quan trọng của sự phát triển toàn diện nhân cách,
là quá trình biến đổi và hình thành những thuộc tính tự nhiên về mặt hình thái và về mặt
chức năng của cơ thể trong cuộc sống con người. Trong cuộc sống và hoạt động của con
người, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công. Bác Hồ nói: "Mỗi một người dân yếu
ớt, tức là nước yếu ớt, mỗi người dân mạnh khoẻ tức là nước mạnh khỏe".
Giáo dục thể chất là một bộ phận hữu cơ của quá trình giáo dục có mục tiêu, nội
dung, phương pháp và hình thức tác động nhằm củng cố sức khỏe và bảo đảm phát triển
thể chất đúng đắn cho học sinh, đồng thời phát triển văn hóa thể chất ở họ. Trong quá
trình giáo dục, giáo dục thể chất được xem là một nhiệm vụ quan trọng vì nó ảnh hưởng
tích cực đến sự phát triển chung về thể lực, điều chỉnh sự phát triển của cơ thể con người,
kể cả những khuyết tật bẩm sinh, làm cho cơ thể trở nên cân đối hài hòa. Giáo dục thể
chất cũng có tác dụng rất tích cực đối với trí dục, đức dục, mỹ dục và giáo dục lao động…
Nhiệm vụ cụ thể của giáo dục thể chất:
- Truyền đạt và lĩnh hội hệ thống tri thức phổ thông, cơ bản, hiện đại về thể dục,
thể thao, vệ sinh thường thức, giữ gìn, chăm sóc, bảo vệ và phát triển sức khỏe, rèn luyện
kỹ năng cơ bản về các bài tập thể dục phổ thông theo chương trình giáo dục thể chất của
nhà trường phổ thông.
- Hình thành cho học sinh hứng thú, nhu cầu, ý chí, nghị lực thói quen rèn luyện
TDTT và giữ gìn vệ sinh để nâng cao sức khoẻ; Giáo dục học sinh ý thức giữ gìn, bảo vệ và
rèn luyện sức khỏe cho học sinh, góp phân phát triển đúng đắn thể chất và nâng cao năng
lực làm việc cho cơ thể.

- Phát hiện và bồi dưỡng nhân tài thể dục thể thao.
- Giáo dục cho học sinh những phẩm chất đạo đức khác.
5. Giáo dục lao động
Lao động là một loại hình đặc biệt của con người nhằm sản xuất ra các sản phẩm
vật chất và tinh thần cho xã hội. Lao động là hoạt động cơ bản của con người và là nguồn
gốc của mọi sự tiến bộ xã hội. Lao động cũng là điều kiện cần thiết cho sự phát triển nhân
cách mỗi con người…
Giáo dục lao động là một bộ phận hữu cơ của hoạt động giáo dục, là quá trình tổ
chức đưa học sinh vào hoạt động lao động và bằng lao động mà hình thành thái độ tích
cực đối với lao động, trang bị cho học sinh những tri thức và kỹ năng lao động cần thiết,
đồng thời bồi dưỡng những năng lực và phẩm chất của người lao động mới.
Nhiệm vụ của giáo dục lao động:
- Truyền đạt và lĩnh hội hệ thống tri thức cơ bản về các loại hình lao động phổ
biên, giúp học sinh nắm vững nguyên tắc chung của lao động, những kỹ năng sử dụng các
công cụ lao động phổ thông, phổ biến, những hiểu biết ban đầu về kinh tế, bước đầu hình
thành tư duy kỹ thuật, sáng tạo và tổ chức lao động tập thể.
- Hình thành những cơ sở ban đầu của phẩm chất người lao động trong thời đại
mới, những thói quen và kỹ năng lao động tập thể, kết hợp lao động trí óc và lao động
chân tay, giữ gìn vệ sinh trong lao động…
- Tạo mọi điều kiện hợp lý để học sinh vận dụng tri thức, kỹ năng vào cuộc sống.
Giúp học sinh bước đầu đóng góp sức mình xây dựng xã hội.
Các nhiệm vụ giáo dục có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau, đan
xen, chứa đựng trong nhau, tạo thành nội dung giáo dục toàn diện nhân cách. Nhiệm vụ
này vừa là tiền đề, vừa là điều kiện cho sự vận động và phát triển của các nhiệm vụ khác.
Vì vậy trong quá trình thực hiện phải đồng bộ, không được coi nhẹ một nhiệm vụ nào.
Như vậy, điểm cốt lõi của cả 5 nội dung giáo dục đều phù hợp với những gì mà
Makarenko đã đề ra. Bên cạnh đó, có thể thấy rằng chính môi trường làm việc với trẻ em
hư hỏng và xuất phát tấm lòng cao đẹp của người thành trong chế độ XHCN, Makarenko
là một nhà giáo dục rất đề cao giáo dục đạo đức và giáo dục lao động dành nhiều sự
quan tâm cho hai nội dung này. Đó cũng là vấn đề cần được những nhà giáo dục Việt

Nam quan tâm ở vị trí cao, đặc biệt là trong xã hội hiện nay.
3. Giáo dục tập thể
3.1. Lý luận tập thể và tập thể cơ sở:
a) Định nghĩa
Tập thể cơ sở:
Theo Makarenko tập thể cơ sở là một tập thể mà trong đó những thành viên riêng
biệt của nó đoàn kết với nhau một cách thường xuyên về công việc chung, về tình bạn,
thống nhất về sinh hoạt và tư tưởng. Tập thể cơ sở được tổ chức đặc biệt nhằm mục đích
giáo dục.
Ví dụ: một tổ trong lớp của chúng ta có thể gọi là một tập thể cơ sở, bởi ta có công
việc chung, lợi ích chung và cùng hợp tác lâu dài với nhau.
Tập thể:
Theo ông, một tập thể là một số đông người trong một công cuộc lao động chung, có
một chế độ về quyền hạn và trách nhiệm nhất định, có một mối liên quan chặt chẽ với
nhau và cùng theo đuổi một mục đích chung.
Vd: lớp học gồm nhiều tổ.
Makarenko cho rằng: “Cái công cụ chính và có thể nói là độc nhất của nền giáo dục
cộng sản là một tập thể cần cù và sinh động”.
- Đối với Makarenko, nhà giáo dục không phải chỉ cải tạo vài ba tên hư hỏng mà là “giáo
dục một mẫu công dân nhất định”. Và mục đích ấy chỉ có thể thực hiện được khi “rèn
luyện được toàn bộ tập thể”.
- Vì thế, trong công tác giáo dục của mình ông luôn nhấn mạnh rằng “một đội là một tiểu
Xô Viết nhỏ” có đầy đủ trách nhiệm, có tinh thần phục vụ và hoạt động công tác xã hội đối
với đời sống của xã hội, của nhân dân. Muốn như thế, họ phải là một công dân, một con
người.
- Trong giáo dục cần phải đạt được cái nguyên tắc lý tưởng là lợi ích cá nhân và lợi ích tập
thể hoàn toàn thống nhất (diều này chỉ có thể có được trong xã hội XHCN). Và muốn như
thế thì phải có người hướng dẫn và đó là nhà giáo dục.
- Điều mới trong cách giáo dục của Makarenko - lý luận mà ông gọi là “tác động giáo dục
song hành”, là giáo dục cá nhân nhưng không cho cá nhân biết họ là đối tượng giáo dục

và ông không làm việc trực tiếp với cá nhân, ông làm việc với cá nhân thông qua đội (tập
thể cơ sở). (Bởi thông qua kinh nghiệm giáo dục ông hiểu rằng: đối với các nhà giáo dục
thì những con người ấy là đối tượng giáo dục (học sinh), nhưng với họ thì họ tự coi mình
là con người sinh động với những niềm vui, đau khổ, cảm xúc họ đã trãi qua trong cuộc
sống và gom góp thành kinh nghiệm, họ không cần ai chỉ dạy thêm nữa. Vì thế,
Makarenko “chỉ đặt vấn đề với đội mà thôi”.)
- Makarenko dựa vào ý thức tập thể để rèn luện ý thức cá nhân. (Thực tế cho bạn thấy
rằng, khi bạn ở trong một tập thể thì bạn phải tuân thủ những kỷ luật của tập thể ấy
giống như bạn sống trong môi trưởng quân đội, và từ đó dần hình thành cho bạn thói
quen tốt, nhân cách tốt.)
- Một đội của ông bao gồm từ 10→12 người học và họ tự nguyện ở cùng nhau, gồm nhiều
độ tuổi khác nhau. (Như vậy sẽ giúp các em nhỏ tuổi học được kinh nghiệm, tiếp thu kiến
thức, lối sống và đạo dức của những người đi trước, từ đó có kinh nghiệm cho bản thân.
Tập thể ấy phải có kỷ luật, khuôn mẫu tăng dần theo mức độ phức tạp, đòi hỏi cao nhằm
buộc mọi thành viên phải luôn cố gắng nhiều hơn nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục).
- Đội chịu trách nhiệm trước toàn bộ tập thể về thành viên của mình và ngược lại tập thể
chỉ tiếp xúc với cá nhân thông qua đội. (Và thực tế đã chứng minh rằng với một đội như
thế, ông rèn luyện và dạy dỗ một cách rất hiệu quả cho các em “lang thang, hư nhất”).
- Nhiệm vụ trọng đại của thầy giáo trong phương pháp mới này là xây dựng một tập thể
vững mạnh và tự giác. Cái tập thể đó phải cùng với thầy giáo và dưới sự chỉ đạo của thầy
giáo, tiến hành công tác giáo dục mọi người trong tập thể.
- Tuy nhiên, giáo dục trong tập thể không phải là gạt bỏ phương pháp giáo dục cá nhân,
Makarenko nói: “Mọi người không thể hoàn toàn giống nhau được”. Ông thầy và tập thể
phải chú ý đến những cá tính muôn màu, muôn vẻ, chứ không phải chỉ đóng khung trong
một phương pháp chung chung, bất di bất dịch.
Như vậy, ta có thể hiểu ngắn gọn như thế này, tập thể cơ sở là trung gian cho việc
giáo dục nhân cách cá nhân và hình thành nên một tập thể lớn như lý tưởng mà nhà giáo
dục đề ra. Nói cách khác, tập thể cơ sở là con đường trung gian mà Makarenko dùng để
hình thành nơi cá nhân: nhận thức, tình cảm, hành vi, thói quen tập thể phù hợp với lý
tưởng và yêu cầu xã hội. Từ đó hình thành nên một tập thể, một tổ chức, một xã hội như

nhà giáo dục mong muốn.
b) Tập thể vừa là môi trường vừa là phương tiệp giáo dục.
Giáo dục trong tập thể, bằng tập thể và vì tập thể. Trong tập thể mỗi cá nhân phải
sắp xếp nguyện vọng của mình cho khớp với nguyện vọng của người khác, trước hết với
với tập thể lớn và đến tập thể cơ sở, làm thế nào mà tất cả đều theo một hướng mà, mục
tiêu riêng không mâu thuẫn với mục tiêu chung, đó là cái yêu cầu quan trọng nhất trong
yêu cầu giáo dục của Makarenko.
Có thể nói, giáo dục tập thể theo Makarenko là hình thành ở thế hệ trẻ khả năng giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa quyền lợi cá nhân và tập thể, cống hiến và hưởng thụ,
quyền lợi và trách nhiệm, tự do và kỷ luật, nhận thức và tình cảm, hành động và tư duy vì
tập thể và xã hội XHCN.
Thành tựu của Makarenko đã chứng minh cho lý luận của ông, sau 16 năm hoạt
động ở trại Gooc-ki và công xã Decdinxki, Makarenko đã đào tạo được 3000 công dân tốt,
phầm lớn đã trở nên những cán bộ ưu tú trong giáo giới, trong quân đội, trong công
nghiệp, trong y tế.
* Liên hệ thực tiễn giáo dục:
Hiện nay, giáo dục trong tập thể và bằng tập thể đã trở thành một nguyên tắc quan
trọng trong hoạt động giáo dục. Ngoài việc phân bố thành các lớp học, các tổ chức Đoàn
– Hội – Đội, các Câu lạc bộ - Đội nhóm ra đời cũng nhằm mục đích áp dụng và phát huy
nguyên tắc này.
Để thực hiện một cách có hiệu quả, những nhà giáo dục Việt Nam đã đề ra những
lưu ý như sau:
- Các hoạt động giáo dục cần được tổ chức theo hình thức hoạt động tập thể hoặc
theo hội, đội, nhóm chuyên trách.
- Cần xây dựng tập thể HS thành tập thể vững mạnh; làm cho tập thể thực sự là môi
trường và phương tiện giáo dục tích cực.
- Phát huy vai trò tự quản của HS.
- Lôi cuốn HS vào hoạt động tập thể, thống nhất vai trò chủ đạo của GV và vai trò
chủ động của HS.
- Xây dựng các mối quan hệ và giao lưu đúng đắn, lành mạnh trong tập thể như

quan hệ trách nhiệm - học tập; quan hệ nhân ái và các quan hệ riêng tư.
- Phát huy khả năng nhận xét, phê phán và tự nhận xét của HS.
- Xây dựng dư luận tập thể lành mạnh, khuyến khích nhận thức, thái độ và hành vi
đúng đắn, đồng thời ngăn chặn, lên án những hành vi sai trái làm ảnh hưởng xấu đến lợi
ích chung, đi ngược lại những chuẩn mực đã được thừa nhận.
- Coi trọng đúng mức lợi ích của các thành viên trong sự thống nhất với lợi ích
chung, kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể.
- Tuyệt đối tránh các tình trạng: cực đoan hoá lợi ích cá nhân hoặc lợi ích chung của
tập thể, đối lập lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể không được chèn ép nguyện vọng chính
đáng của cá nhân.
4. Phương pháp giáo dục
4.1. Phương pháp giáo dục song song
Là một nhà giáo dục đề cao vai trò của tập thể, Makarenko đã đề ra một phương
pháp giáo dục cũng cần có một yếu tố tiên quyết, đó là tập thể - phương pháp giáo dục
tác động song song. Để hiểu phương pháp giáo dục bằng tác động song song, trước hết
cần biết "phương pháp tác động trực tiếp" còn gọi là "phương pháp tác động tay đôi" là
gì?
Phương pháp tác động trực tiếp là nhà giáo dục tác động thẳng tới từng đối
tượng được giáo dục bằng chăm lo, săn sóc, khen thưởng, khích lệ, phê bình, khiển trách,
kỷ luật hay ra mệnh lệnh buộc phải thực hiện các yêu cầu giáo dục. Hình thức tác động
này xuất hiện trong lịch sử giáo dục cùng với sự ra đời hiện tượng giáo dục và dạy học.
“Tác động tay đôi” là phương pháp giáo dục cá nhân riêng lẻ. Sức mạnh của
phương pháp này là quyền uy, cương vị của nhà giáo dục khuất phục, hoặc thuyết phục
đối tượng phải tuân theo một cách hài lòng tự giác hoặc không hài lòng, bắt buộc phải
thực hiện.
- Phương pháp giáo dục tác động song song là nhà giáo dục chỉ tiếp xúc với đội
không tiếp xúc với cá nhân riêng lẻ, đó là cách biểu hiện chính thức, còn thực chất đó là
hình thức tác động tới chính cá nhân. Nhưng biểu hiện thì lại diễn ra song song với thực
chất.
Về bản chất, tác động song song cũng có mục đích là nhằm giáo dục các cá nhân,

nhưng thông qua tác động của tập thể cơ sở mà trong đó cá nhân sống và hoạt động.
Dùng dư luận của tập thể lành mạnh để điều chỉnh hành vi suy nghĩ, hoạt động của mỗi
cá nhân. Chúng ta có thể hiểu tác động song song là hình thức tác động gián tiếp tới đối
tượng giáo dục thông qua sự tác động của các thành viên trong tập thể cơ sở để các
thành viên trong tập thể tác động lẫn nhau.
Makarenko thường sử dụng phương pháp tác động song song trong 3 trường hợp:
+ Có thể thông qua đội ngũ tự quản. Ví dụ Petrenkô đi làm không đúng giờ, ông
gặp đội trưởng đội I và nói "Đội I có người đi làm chậm" để đội trưởng về họp đội I rút
kinh nghiệm, nhắc Petrenkô. Hôm sau, lại Petrenkô đi làm muộn. Ông triệu tập cả đội 1,
ông tuyên bố "ở đội các em Petrenkô đi làm muộn lần thứ 2". Đội hứa sẽ không xảy ra
nữa. Tất nhiên sau đó đội đã họp và bàn mọi cách giúp Petrenkô để không đi làm muộn.
Như vậy, Makarenko đã tác động tới cả đội - tập thể cơ sở. Khi tác động lần thứ 2 là ông
đã kết hợp giữa tác động song song và tác động tay đôi. Hiệu quả của tác động toàn đội
sẽ mạnh hơn chỉ tác động vào đội trưởng hay đội ngũ tự quản.
Một trường hợp khác: Một đội 12 thành viên, có 2 thành viên chưa tốt, 10 thành
viên loại ưu nhưng cả đội đều được vé đi xem phim. Tại sao hai thành viên chưa tốt vẫn
được vé xem phim, trong trường hợp này họ nghĩ như thế nào? Lúc này, hai thành viên
chưa tốt tự cảm thấy mặc cảm khi mình không đóng góp gì cho đội hay chưa thể hiện tốt
mà vẫn được xem phim. Tự bản thân họ sẽ nỗ lực cố gắng lần sau.
+ Trường hợp thứ ba Makarenko dùng là mời lên phòng ông uống trà, ông nói về
một điều gì đó mà không ám chỉ một ai, hoặc một đội nào, nhưng các em liên hệ và tự
đoán ra Makarenko định nói gì?
Một ví dụ cụ thể khác: Một em học sinh nam mắng học sinh nữ. Ông biết chuyện và
đưa cho những “nhân viên liên lạc” (đây là những em bé khoảng 10 tuổi nhanh nhẹn, sắc
sảo) phong bì đựng mảnh giấy có ghi: “Đồng chí Epxtinêép vui lòng đến văn phòng 11 giờ
đêm nay”. Ông biết rằng “nhân viên liên lạc” này sẽ xem trước nội dung trong thư nhưng
vẫn giả vờ không biết gì. Khi Epxtinêép nhận được thư cảm thấy rất bối rối và vào phòng
ông lúc 3 giờ, ông nói 11 giờ hãy quay lại đây. Khi Epxtinêép về phòng, các “nhân viên liên
lạc” xúm lại là hỏi Epxtinêép điều gì đã xảy ra, ông sẽ trừng phạt như thế nào và mọi
người lên án hành vi cũng như khuyến khích Epxtinêép sửa chữa. Đến 11 giờ Epxtinêép

đến phòng ông và trình bày tất cả những nhận thức của mình về vấn đề và hứa sẽ không
tái phạm nữa.
Hình thức này dùng khi các tập thể cơ sở có đội ngũ tự quản vững vàng, có dư
luận lành mạnh các đội viên có ý thức trách nhiệm cao đối với công việc chung. Vì vậy,
những vấn đề nêu ra của nhà sư phạm không phải là một yêu cầu trực tiếp với tập thể
nào, mà chỉ như là một mong muốn, một nguyện vọng, một đề xuất đối với phong trào
chung. Về hình thức gây dư luận ngẫu nhiên, để mỗi tập thể cơ sở và cá nhân tìm các biện
pháp sáng tạo xây dựng tập thể, thực hiện các mục tiêu giáo dục đặt ra.
Phương pháp tác động song song sẽ tạo ra ảnh hưởng dây chuyền: Đối tượng cần
tác động được cả tập thể giám sát, giúp đỡ quản lý, tập thể phải có trách nhiệm với cá
nhân đó và ngược lại cá nhân cần giáo dục cũng nhận thấy trách nhiệm trước tập thể cơ
sở. Phương pháp này chỉ có thể sử dụng khi tập thể cơ sở đã phát triển đến giai đoạn 2 và
giai đoạn 3, nghĩa là những yêu cầu của nhà giáo dục luôn luôn có một lực lượng nòng
cốt sẵn sàng giúp đỡ thực hiện, có dư luận tập thể lành mạnh sẵn sàng ủng hộ phần tử
tích cực và hành vi tích cực, đồng thời dư luận không tha thứ cho những ai xâm phạm
đến truyền thống danh dự quyền lợi chung của tập thể. Và điều quan trọng là nhà sư
phạm phải có uy tín, có kinh nghiệm, được tập thể tin yêu.
Dùng tác động song song có thể đối với cả nhóm, hoặc tập thể cơ sở trong tập thể
lớn. Ví dụ nếu nhà sư phạm muốn đập tan một nhóm hay một bè phái có hại, thì không
nên tác động trực tiếp tới nhóm mà nên tiến hành tác động toàn tập thể để cả tập thể chú
ý tới nhóm, hoặc bè phái dư luận có hại đó.
Có thể nói phương pháp giáo dục bằng tác động song song là phương pháp giáo
dục đặc trưng của nền giáo dục XHCN, dựa trên cơ sở mục đích của chủ nghĩa xã hội, xây
dựng một xã hội công bằng văn minh, quan hệ người với người là bạn, luôn quan tâm tới
sự tiến bộ của nhau.
Tóm lại, tác động song song là phương pháp nhà giáo dục sử dụng sức mạnh của
dư luận tập thể nhằm điều chỉnh suy nghĩ, hành động của cá nhân hoặc một nhóm theo
yêu cầu giáo dục. Như vậy, là cùng một tác động giáo dục cả tập thể và đối tượng giáo
dục đều chịu ảnh hưởng. Vì lẽ đó người ta ví hiệu quả của phương pháp này như một mũi
tên bắn hai đích (cả tập thể và cá nhân).

Cần nhớ tác động song song không phải như một số người hiểu là cùng một lúc đối
tượng vừa chịu tác động của nhà sư phạm vừa chịu tác động của tập thể. Nếu hiểu như
vẫn là hiểu theo tác động tay đôi.
Makarenko cho rằng "Giáo dục Xô Viết là khoa học giáo dục không tác động trực
tiếp mà là sự tác động song song", vì chỉ có phương pháp đó mới phát huy hết ý thức
trách nhiệm, tinh thần tự giác của mỗi em trong quá trình tự giáo dục, mới biến quá
trình giáo dục thành tự rèn luyện của thế hệ trẻ.
b) Phương pháp giáo dục bằng hệ thống viễn cảnh
Theo Makarenko, chúng ta có thể hiểu phương pháp giáo dục trong hệ thống viễn
cảnh là dựa trên yêu cầu của quá trình giáo dục, căn cứ vào nhu cầu của tập thể và cá
nhân, xuất phát từ đặc điểm của tập thể đối tượng, nhà giáo dục giúp cho tập thể xây
dựng một hệ thống mục tiêu, một chương trình nội dung, kế hoạch giáo dục, hoạt động,
tổ chức thực hiện để đạt tới những dự định đã vạch ra.
Hệ thống viễn cảnh đó bao gồm từ viễn cảnh gần, trung bình đến xa. Điều chủ yếu
là nhà sư phạm phải biến dự kiến cá nhân hình thành mong muốn, thành phong trào của
tập thể cơ sở để mỗi thành viên thực hiện một cách tự giác dưới sự điều khiển của đội
ngũ tự quản. Có như vậy hệ thống viễn cảnh mới trở thành phương pháp giáo dục.
Viễn cảnh gần là những mục tiêu đơn giản, thời gian thực hiện ngắn, thỏa mãn
nhu cầu cá nhân, thậm chí đó là những nhu cầu vật chất "có thể bắt đầu từ một bữa ăn
ngon hoặc một buổi xem xiếc, nhưng phải luôn luôn gợi ra và mở rộng từng bước những
triển vọng của cả tập thể" và hạn chế những tham vọng vật chất và quyền lợi cá nhân.
Nhà sư phạm làm sao giải quyết tốt mâu thuẫn giữa viễn cảnh cá nhân và viễn cảnh của
tập thể, phải loại trừ dần những khao khát vật chất, những thói quen tầm thường, sự vui
thích vì cá nhân. Chỉ xây dựng những viễn cảnh gần trên nguyên tắc thích thú thì sẽ là
một sai lầm nặng, dù ở đây có những yếu tố ích lợi. Theo cách đó chúng ta sẽ tập cho trẻ
em quen với một chủ nghĩa hưởng lạc hoàn toàn không thể chấp nhận được khi tập thể
đã trở thành một gia đình hòa thuận thì mọi hình thức hoạt động tập thể đều được thừa
nhận như một viễn cảnh gần vui thích. Một trong những nhiệm vụ của các nhà sư phạm,
các cơ quan giáo dục là tổ chức những viễn cảnh như vậy, nghĩa là luôn luôn mơ ước đến
ngày mai tràn đầy cố gắng và thắng lợi của tập thể. Với ý nghĩa đó cuộc sống của tập thể

sẽ chan chứa niềm vui niềm vui không phải của sự giải trí, của sự thỏa mãn chốc lát vì cá
nhân, mà là niềm vui của sự cố gắng lao động căng thẳng và tin tưởng vào thắng lợi
thành công của tập thể và bản thân trong tương lai.

×