Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh THCS của huyện Thanh Trì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.67 KB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
PHẠM NGUYÊN NHUNG
BIỆN PHÁP
QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH THCS
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ - HÀ NỘI
TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60 14 05
Người hướng dẫn khoa học:
TS Vũ Quốc Anh
HÀ NỘI - 2012
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới TS. Vũ
Quốc Anh – Người thầy đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn em
trong quá trình thực hiện luận văn thạc sỹ này.
Em xin chân thành cảm ơn các GS, PGS, TS, PTS, các thầy cô giáo
Học viện Quản lý giáo dục đã cho em kiến thức, ý thức, tâm thức trong
suốt quá trình em học Cao học Quản lý giáo dục tại Học viện.
Xin được gửi lời tri ân tới gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn
động viên, khích lệ tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu.

Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 1 năm 2012
Tác giả
2
A. Mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu
III. Khách thể và đối tượng nghiên cứu


IV.Giả thuyết nghiên cứu
V. Nhiệm vụ nghiên cứu
VI. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
VII. Hệ thống các phương pháp nghiên cứu
VIII. Cấu trúc luận văn
B. Nội dung
Chương I . CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề đạo đức và quan niệm về GDĐĐ
1.2. Khái niệm về quản lý, quản lý giáo dục và quản lý giáo dục đạo đức `
1.3. Khái niệm GDĐĐ và chuẩn mực ĐĐtheo các thời kì của xã hội.
1.3.1 Khái niệm đạo đức:
1.3.2. Một số đặc điểm cơ bản của phạm trù đạo đức:
1.3.3. Các chức năng của đạo đức
1.4. Giáo dục đạo đức, mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục đạo đức
cho học sinh trong trường trung học cơ sở.
1.5. Đặc điểm học sinh trung học cơ sở
1.8. Vai trò của gia đình và xã hội đối với việc giáo dục đạo đức học sinh
THCS
1.9. Mối quan hệ giáo dục đạo đức với các hoạt động giáo dục khác.
Chương II .THỰC TRẠNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ CỦA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN
Trang
2
2
5
5
6
6
6

6
8
11
11
17
19
19
19
24
27
29
45
46
3
THANH TRÌ
2.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội, giáo dục của huyện Thanh Trì
2.2. Thực trạng về vấn đề quản lý giáo dục đạo đức học sinh THCS trên địa
bàn huyện Thanh Trì.
2.3. Một số hành vi vi phạm đạo đức của học sinh trong nhà trường:
2.4. Các hoạt động giáo dục đạo đức học sinh ở trường trung học cơ sở
2.5. Thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh
THCS trên địa bàn huyện Thanh Trì
2.6. Thực trạng sự phối hợp các lực lượng trong công tác giáo dục đạo đức
cho học sinh THCS trên địa bàn huyện Thanh Trì.
2.7. Đánh giá chung về thực trạng quản lý giáo dục đạo đức học sinh THCS
trên địa bàn huyện Thanh Trì.
Chương III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
HỌC SINH THCS TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
3.1. Một số nguyên tắc đề xuất biện pháp

3.2. Một số biện pháp quản lý giáo dục đạo đức học sinh THCS trên địa
bàn huyện Thanh Trì
3.3. Mối liên hệ giữa các biện pháp QL giáo dục đạo đức học sinh THCS
3.4. Khảo sát mức độ cần thiết và khả thi của các biện pháp quản lý giáo
dục đạo đức học sinh THCS trên địa bàn huyện Thanh Trì
Kết luận và kiến nghị
1. Kết luận.
2. Kiến nghị
46
48
54
55
59
63
66
67
69
71
75
77
80

4
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
ATGT : An toàn giao thông
CBQL : Cán bộ quản lý
CB, GV : Cán bộ, giáo viên
GD & ĐT : Giáo dục và đào tạo
GDĐĐ : Giáo dục đạo đức
GDNGLL : Giáo dục ngoài giờ lên lớp

GDCD : Giáo dục công dân
GDPL : Giáo dục pháp luật
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
PHHS : Phụ huynh học sinh
THCS : Trung học cơ sở
TNCS HCM : Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
TNTP HCM : Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh
UBND : Uỷ ban nhân dân
XHHGD : Xã hội hoá giáo dục
5
Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Công tác giáo dục đạo đức trong nhà
trường là một bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của giáo dục trong
nhà trường XHCN. Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả đức lẫn tài.
Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng” (Lời Bác Hồ khi về
thăm trường ĐHSP Hà Nội ngày 21.10.1964). Nhiệm vụ của nhà trường là phải làm
sao tìm những biện pháp có hiệu quả trong công tác giáo dục đạo đức cho học
sinh.
Hội nghị lần thứ II, Ban chấp hành TW khoá VIII đã khẳng định:
“Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển
mạnh, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển
nhanh và bền vững để thực hiện mục đích dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”. Phát triển nguồn lực con người là phát triển
đức và tài, hai mặt của nhân cách mà nhà trường giữ vai trò quan trọng trong
sự hình thành nhân cách.
Một trong những tư tưởng đổi mới GD& ĐT hiện nay là tăng cường giáo
dục đạo đức cho học sinh, được thể hiện trong nghị quyết của Đảng, Luật
Giáo dục và các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Luật Giáo dục năm

2005 đã xác định: “ Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp cho học sinh
phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng
cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ
nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân… ( Điều 23-Luật Giáo
dục).
Qua hơn 25 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn
về kinh tế - văn hóa xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
nâng lên rõ rệt. Hội nhập kinh tế quốc tế ngoài mặt tích cực nó còn làm nảy
6
sinh những vấn đề mà chúng ta cần quan tâm: Bản sắc văn hóa dân tộc bị đe
dọa, sự du nhập những sản phẩm đồi trụy, phản nhân văn, lối sống tự do, vô
chính phủ làm xói mòn những giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân
tộc.
Hiện nay một số bộ phận thanh thiếu niên, học sinh có dấu hiệu sa sút
nghiêm trọng về đạo đức, nhu cầu cá nhân phát triển lệch lạc, thiếu ý thức
cộng đồng, thiếu niềm tin trong cuộc sống, không có tính tự chủ, dễ bị lôi
cuốn vào những hành động xấu, có lối sống thực dụng, thiếu ước mơ và hoài
bão, thiếu ý chí lập thân, lập nghiệp.
Trong nhà trường phổ thông nói chung và các trường THCS nói riêng, số
học sinh vi phạm đạo đức có chiều hướng gia tăng, tình trạng học sinh kết
thành băng nhóm bạo hành trong trường học đáng được báo động. Một số cán
bộ quản lý, giáo viên chưa thật sự là tấm gương sáng cho học sinh, chỉ lo chú
trọng đến việc dạy tri thức khoa học, xem nhẹ môn Giáo dục công dân, không
chú ý đến việc giáo dục tình cảm đạo đức cho học sinh. Mặt khác, do chương
trình và sách giáo khoa còn nhiều bất cập; một số trường nặng về dạy chữ hơn
là dạy người; Những tiêu cực trong dạy thêm và học thêm làm cho tình cảm
thầy và trò bị tổn thương, truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc dần mai
một.
Bên cạnh đó, những tệ nạn xã hội và ma tuý, tình trạng bạo lực gia đình,
bạo lực học đường đã và đang thâm nhập vào các nhà trường và có xu thế gia

tăng. Những điều này đã gây ra nhiều khó khăn phức tạp trong công tác quản lý
giáo dục đạo đức của các nhà trường. Mặt khác, do cơ chế thị trường, sự du
nhập văn hoá phẩm đồi truỵ, phim ảnh, Internet làm ảnh hưởng đến những
quan điểm về tình bạn, tình yêu, tình dục trong lứa tuổi thanh thiếu niên học
sinh mà nhất là các em chưa được trang bị và thiếu kiến thức về những vấn
đề này.
7
Học sinh THCS là lứa tuổi có sự thay đổi về cơ cấu, về sinh lý, tâm lý,
đặc biệt sự phát triển về “con người sinh lý” lại nhanh hơn “con người xã
hội”, nên nếu không được giáo dục đúng cách sẽ dẫn đến có những hành vi tự
phát thiếu văn hoá, phi đạo đức, do ý thức không kiềm chế được bản năng. Vì
vậy, chỉ nói trong năm 2010, 2011, có rất nhiều tình trạng thanh thiếu niên
phạm tội, những hành vi mất hết nhân tính, những “sát thủ máu lạnh”: giết
người, cướp của, 14 tuổi một cô gái đã làm nhóm trưởng một băng nhóm
chuyên lừa gạt để cướp của, hiếp dâm, học sinh nữ 12 tuổi đã phải làm mẹ
Trong những năm tới cần tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư
tưởng đạo đức, lòng yêu nước, tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động
xã hội, văn hoá, thể thao phù hợp với lứa tuổi và với yêu cầu giáo dục toàn
diện.
Thanh Trì là một huyện ngoại thành liền kề với trung tâm của thành
phố Hà Nội mở rộng, đang trên đà đô thị hoá nhanh. Diện tích đất nông
nghiệp bị thu hẹp, huyện Thanh Trì dễ dàng và nhanh chóng tiếp thu ảnh
hưởng những mặt tích cực cũng như tiêu cực trong quá trình hội nhập, đặc
biệt là lối sống thành thị với những nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần cao.
Những thực trạng nêu trên đã, đang xảy ở huyện Thanh Trì và có chiều hướng
ngày càng gia tăng, vì vậy các nhà quản lý giáo dục cần nhận thức sâu sắc về
vấn đề này đặc biệt là việc nghiên cứu quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.
Đương nhiên việc tổng kết kinh nghiệm để rút ra những kết luận khoa học
về việc nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh THCS trên địa
bàn huyện Thanh Trì chưa được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu

khoa học; Vì vậy tôi mạnh dạn chọn đề tài “Biện pháp nâng cao hiệu quả quản
lý giáo dục đạo đức cho học sinh THCS của huyện Thanh Trì” với mong
muốn góp phần hoàn thiện hơn việc quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trước
8
hết ở các trường THCS của huyện Thanh Trì và sau đó có thể mở rộng trên các
địa bàn khác.
9
2. Mục đích nghiên cứu:
Qua việc nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng công tác giáo dục
đạo đức học sinh THCS trên địa bàn huyện Thanh Trì, đề xuất một số biện
pháp quản lý giáo dục đạo đức, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện cho học sinh ở các trường THCS huyện Thanh Trì- Hà Nội.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể:
Công tác quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh các trường THCS
huyện Thanh Trì ( Duyên Hà,Vạn Phúc, Yên Mỹ, Đông Mỹ, Ngũ Hiệp, Văn
Điển, Tam Hiệp, Liên Ninh, Tả Thanh Oai ).
3.2. Đối tượng:
Quản lý công tác giáo dục đạo đức học sinh THCS huyện Thanh Trì.
4. Giả thuyết nghiên cứu:
Việc quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh huyện Thanh Trì còn một
số các hạn chế. Nếu có những biện pháp quản lý hợp lý có chỉ đạo chặt chẽ, tổ
chức thực hiện tốt, kiểm tra đánh giá chính xác thì sẽ khắc phục được các tồn
tại và nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh THCS.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
5.1. Xác định cơ sở khoa học của quản lý giáo dục đạo đức học sinh
THCS.
5.2. Khảo sát, đánh giá, phân tích thực trạng quản lý giáo dục đạo đức
cho học sinh ở các trường THCS huyện Thanh Trì.
- Thực trạng việc xây dựng và tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch giáo

dục đạo đức.
- Việc kiểm tra đánh giá công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
- Một số vấn đề hiệu quả qu¶n lý giáo dục đạo đức cho học sinh. Phân
tích nguyên nhân của hiện trạng.
10
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
giáo dục đạo đức cho học sinh THCS huyện Thanh Trì trong bối cảnh hiện
nay.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài được tiến hành nghiên cứu ở Phòng GD&ĐT huyện Thanh Trì
và 9/16 trường THCS trong huyện.
- Người được nghiên cứu: Cán bộ quản lý, giáo viên chủ nhiệm, giáo
viên bộ môn, phụ huynh và học sinh thuộc sự quản lý của Phòng GD&ĐT
huyện Thanh Trì và 9/16 trường THCS trong huyện.
7. Hệ thống các phương pháp nghiên cứu:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Nghiên cứu lý thuyết về giáo dục, giáo dục đạo đức, quản lý giáo dục,
quản lý giáo dục đạo đức.
Nghiên cứu tài liệu về hoạt động của cán bộ quản lý, giáo viên chủ
nhiệm, Đoàn thanh niên, nghị quyết Chi bộ. Phân tích tổng hợp, phân loại, hệ
thống hoá thông tin.
7.2. Nhjm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra
bằng phiếu hỏi; Phương pháp quan sát các hoạt động giáo dục đạo đức của
nhà trường; Phương pháp phỏng vấn; Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Sử dụng 4 loại phiếu:
- Xin ý kiến của 92 cha mẹ học sinh tại 5 trường THCS. Nội dung các câu
hỏi nhằm tìm hiểu về sự quan tâm của cha mẹ đến việc học tập và giáo dục đạo
đức con mình, sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc giáo dục đạo
đức.
11

- Xin ý kiến của 95 giáo viên chủ nhiệm ở 5 trường. Nội dung các câu
hỏi nhằm tìm hiểu về sự quản lý giáo dục đạo đức của Hiệu trưởng, về công
tác quản lý giáo dục đạo đức ở lớp chủ nhiệm.
- Xin ý kiến CBQL của 5 trường (12 Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng và
20 tổ trưởng chuyên môn). Nội dung tìm hiểu về công tác quản lý giáo dục
đạo đức của Hiệu trưởng.
- Trưng cầu ý kiến của 341 học sinh của 5 trường. Nội dung tìm hiểu về
các hoạt động của giáo viên chủ nhiệm trong lớp, ý kiến về các hoạt động do
Đoàn Thanh niên tổ chức, động cơ học tập của học sinh.
7.2.3. Phương pháp quan sát
Quan sát các hoạt động nhà trường: Họp hội đồng giáo dục, sinh hoạt
dưới cờ, sinh hoạt Đoàn thanh niên, sinh hoạt lớp chủ nhiệm, sinh hoạt ngoại
khóa, hoạt động ngoài giờ lên lớp .
Qua thực tế hoạt động của nhà trường, tiến hành nhiều biện pháp giáo
dục học sinh. Tuy nhiên, trong những biện pháp đó, biện pháp mang lại hiệu
quả thiết thực nhất là thông qua tiết chào cờ đầu tuần. Kết quả là học sinh hào
hứng tham gia giờ chào cờ với các hoạt cảnh, câu chuyện ngắn, chương trình
văn nghệ, sinh hoạt chuyên môn với những món quà nhỏ sinh động và bổ ích.
Sinh hoạt dưới cờ là một diễn đàn để Hiệu trưởng thực hiện nhiệm vụ GDĐĐ
học sinh.
Trách nhiệm GDĐĐ học sinh trong nhà trường thuộc về tất cả CB,GV
nhưng Hiệu trưởng vẫn giữ vai trò nồng cốt. Hiệu trưởng xác định nội dung,
quyết định các hình thức phân công cho các thành viên trong nhà trường.
Hiệu trưởng còn là người trực tiếp tham gia GDĐĐ học sinh thông qua nhiều
hoạt động. Để hoàn thành nhiệm vụ lớn lao trên, người Hiệu trưởng phải tìm
cho mình những biện pháp giáo dục phù hợp với đối tượng học sinh.
12
7.2.4. Phương pháp phỏng vấn:
Phỏng vấn các CBQL của 5 trường:
+ Bí Thư đoàn thanh niên: Nội dung tìm hiểu các hoạt động của Đoàn

Thanh niên, sự tạo điều kiện của Hiệu trưởng, sự phối hợp với các lực lượng
giáo dục trong trường.
+ Hiệu trưởng: về một số vấn đề liên quan đến công tác quản lý giáo
dục đạo đức.
7.2.5. Phương pháp thống kê xử lý số liệu:
Sử dụng phương pháp xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 10.0.
Đối với các câu hỏi có đánh giá mức độ khác nhau thì tính độ trung
bình. Cách cho điểm từ thấp nhất 1 điểm đến cao nhất 4 điểm.
Đối với các câu hỏi được khảo sát ở 2 khách thể khác nhau thì tính độ
lệch chuẩn để so sánh sự đồng nhất của hai dãy số liệu, dãy nào có độ lệnh
chuẩn nhỏ hơn được xem là đồng nhất hơn.
Đối với các câu hỏi có sự lựa chọn thì tính tỷ lệ phần trăm.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và khuyến nghị, phần nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận về quản lý giáo dục đạo đức học sinh Trung
học cơ sở.
Chương 2. Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức học sinh Trung học cơ
sở huyện Thanh Trì.
Chương 3. Một số biện pháp quản lý giáo dục đạo đức học sinh Trung
học cơ sở huyện Thanh Trì.

13
Chương1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề đạo đức và quan niệm về GDĐĐ
1.1.1. Ở nước ngoài
Một trong những tư tưởng triết học Phương Đông cổ xưa mà ý nghĩa
của nó vẫn còn có giá trị cho đến ngày nay về vấn đề luân lý, đạo đức, chính

trị- xã hội đó là những tư tưởng triết học của Nho gia. Nho gia xuất hiện vào
khoảng thế kỷ VI trước công nguyên, dưới thời Xuân Thu, người sáng lập là
Khổng tử (1551 tr CN-479 trCN). Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được
Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng khác nhau;
duy tâm và duy vật, trong đó dòng Nho gia Khổng- Mạnh có ảnh hưởng rộng
và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận. Kinh điển
của Nho giáo thường kể tới là Tứ thư (Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh
Tử) và Ngũ Kinh (Thư, Thi, Lễ, Dịch, Xuân Thu). Những tư tưởng triết học
về đạo đức của Nho gia được khảo sát chủ yếu trong sách Luận ngữ, Ngũ
kinh: “Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu” và các sách khác như Đại học, Trung
dung.
Quan điểm về đạo đức của Nho gia được thể hiện ở những tư tưởng chủ
yếu sau:
- Tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền. Trước hết là mối quan
hệ “tam cương”, Khổng Tử đã đề cao tư tưởng “chính danh”. Để thực hiện
chính danh, Khổng Tử đặc biệt coi trọng “Nhân trị” chứ không phải “pháp
trị”.
14
- Lý tưởng của Nho gia là xây dựng một “xã hội đại đồng”. Đó là một
xã hội có trật tự trên dưới. Trong việc trị nước cũng như tu thân, học đạo sửa
mình để đạt được đức nhân, “lễ” được Khổng Tử rất mực chú trọng. Lễ ở đây
là những quy phạm nguyên tắc đạo đức. Phải dùng lễ để khôi phục lại chính
danh.
- Nho giáo lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý
tưởng “đại đồng”. Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã hội,
cho nên, nền giáo dục dục Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức
con người. Trong bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là
“Nhân”. Những chuẩn mực khác như: Lễ, nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu đều là
những biểu hiện của Nhân. Chữ Nhân trong triết học Nho gia được Khổng Tử
đề cập với ý nghĩa sâu rộng nhất. Nó được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản,

quy định bản tính con người và những quan hệ giữa người với người từ trong
gia tộc đến xã hội. Khổng Tử đã chủ trương dùng nhân đức để giáo hoá con
người, cải tạo xã hội. Người có đức nhân là người làm được năm điều trong
thiên hạ “cung, khoan, tín mẫu, huệ”. Như vậy “nhân” là đức tính hoàn thiện,
là cái gốc đạo đức của con người, nên “nhân” chính là đạo làm người.
- Quan điểm của Mạnh Tử: “bản tính người vốn là thiện” (Nhân chi sơ,
tính bản thiện). Thiện là tổng hợp những đức tính vốn có của con người từ khi
mới sinh như: nhân, lễ, nghĩa nên Nho gia đề cao sự giáo dục để con người
trở về đường thiện với những chuẩn mực đạo đức sẵn có. Đối lập với Mạnh
Tử, Tuân Tử lại coi bản tính con người vốn là ác. Mặc dù bản thân con người
ác, nhưng có thể giáo hoá thành thiện. Xuất phát từ quan điểm đó về tính
người, Tuân tử đã chủ trương đường lối trị nước kết hợp Nho gia với pháp
gia.
Những tư tưởng triết học của Nho gia xuất hiện vào thế kỷ VI trước
công nguyên, trải qua hơn hai ngàn năm cho đến nay, Nho gia đã để lại cho
đời những tư tưởng triết học về luân lý, đạo đức, chính trị – xã hội rất sâu sắc
15
và vô cùng quý giá. Nhất là trong giai đoạn hiện nay nước ta đang chuyển
sang nền kinh tế thị trường, mở cửa quan hệ với các nước trên thế giới, với sự
du nhập của văn hoá phương Tây, ở một khía cạnh nào đó, một số giá trị đạo
đức cũng bị thay đổi, thì những tư tưởng về chữ Nhân của con người có ý
nghĩa rất lớn trong việc giáo dục lối sống cho thế hệ trẻ hiện nay. Hiện nay,
trong mối quan hệ thầy trò, mối quan hệ giữa người với người trong xã hội,
chữ “lễ”, chữ “nghĩa” đôi khi đã bị xem nhẹ. Do vậy, vận dụng những tư
tưởng đạo đức của Nho gia vào việc giáo dục con người là hết sức có ý nghĩa.
Ở phương Tây, vấn đề đạo đức từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà tư tưởng. Cho đến nay, người ta vẫn coi nhà triết học Xôcrát (469-
399TCN) là người đầu tiên đặt nền móng cho cho đạo đức học. Ông cho rằng
đạo đức và sự hiểu biết quy định lẫn nhau. Có được đạo đức là nhờ ở sự hiểu
biết, do vậy chỉ sau khi có hiểu biết mới trở thành có đạo đức. Còn Aristoste

(384-322TCN) viết bộ sách Đạo đức học với 10 cuốn, trong đó ông đặc biệt
quan tâm đến phẩm hạnh con người. Nội dung của phẩm hạnh chính là chỗ biết
định hướng đúng, biết làm việc thiện. Ông cho rằng không phải hy vọng vào
Thượng đế áp đặt để có người công dân hoàn thiện về đạo đức, mà việc phát
hiện nhu cầu trên trái đất mới tạo nên được con người hoàn thiện trong quan hệ
đạo đức.
Những nhà triết học duy tâm khách quan từ Platôn đến Hêghen nghiên
cứu đạo đức gắn liền ý niệm với gia đình, nhà nước, công dân; gắn đạo đức với
pháp luật, với trật tự thiên định của các tầng lớp xã hội. Đạo đức học của các nhà
thần học đã gắn chặt đạo đức với ý niệm về chúa. Những nhà triết học duy tâm
chủ quan coi những mệnh lệnh tuyệt đối, ý chí tự do, linh hồn bất diệt là đối
tượng nghiên cứu của Đạo đức học. Đạo đức học của Cantơ cố chứng minh sự
hòa giải giữa khoa học và tôn giáo, giữa trí thức và tín ngưỡng.
Trước C.Mác và Ph. Ăngghen có rất nhiều khuynh hướng xây dựng các
học thuyết về đạo đức khác nhau. Có các lí thuyết quan niệm đạo đức như một
16
hiện tượng vĩnh cửu chung cho mọi dân tộc, mọi thời đại, mọi giai cấp. Có lí
thuyết nghiên cứu về đạo làm người, về tính thiện và tính ác của con người như
một phẩm chất đạo đức bẩm sinh. Có lí thuyết gắn đạo đức của con người với xã
hội. Có lí thuyết quan niệm đạo đạo đức như là một ban phát của thượng đế, đạo
đức như một lí trí tối cao, đạo đức như một tinh thần tự do bất diệt… Các lí
thuyết đạo đức của C.Mác và Ph. Ăngghen đều phát triển sâu sắc các quan
niệm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Bác bỏ lí luận duy tâm coi đạo
đức đứng trên và đứng ngoài lịch sử, C.Mác và Ph. Ăngghen đã coi đạo đức
gắn với sự vận động của hiện thực, gắn với lợi ích giai cấp và lợi ích xã hội.
Đạo đức học Mác - Lênin dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nghiên cứu sự vận động của các quan hệ
đạo đức giữa con người và con người, giữa con người và tự nhiên, coi các vấn
đề chuẩn mực và thiện ác là trung tâm, lợi ích là khâu cơ bản, nhân cách đạo
đức là biểu hiện tập trung nhất.

1.1.2. Ở trong nước
1.1.2.1. Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của
người cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước.
Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi
của mọi công việc. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có
nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà
không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì
cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách
mạng Việt Nam gồm những điểm sau:
Một là, trung với nước, hiếu với dân. Không chỉ là lời kêu gọi hành
động mà còn là định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt Nam
không chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn mãi sau này.
17
Hai là, yêu thương con người. Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương
con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Mỗi con
người đều có thiện và ác ở trong lòng, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi
con người nảy nở và phần xấu bị mất dần đi. Đối với những người có thói hư
tật xấu phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người
nảy nở để đẩy lùi phần ác.
Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Cần tức là lao động cần cù,
siêng năng; Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền
của của dân, của nước, của bản thân mình; Liêm tức là luôn luôn tôn trọng giữ
gìn của công và của dân; Chính tức là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Chí
công vô tư: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc". “Khi làm
bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi
sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ". (Tiên thiên hạ, chi ưu nhi ưu,
hậu thiên hạ, chi lạc nhi lạc)
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Có tài mà không có đức thì là người vô

dụng”. Người coi trọng mục tiêu, nội dung giáo dục đạo đức trong các nhà
trường như: “Đoàn kết tốt”, “Kỷ luật tốt”, “Khiêm tốn, thật thà dũng cảm”,
“Con người cần có bốn đức: cần - kiệm - liêm - chính, mà nếu thiếu một đức
thì không thành người”.
1.1.2.2. Các nhà nghiên cứu khác tuy đưa ra những định nghĩa khác nhau
về đạo đức và quan niệm về giáo dục đạo đức nhưng tựu trung lại cho rằng
đạo đức là môn học về cách cư xử của con người không phải chỉ để tìm thấy
sự thật như thực của sự vật mà còn tìm hiểu giá trị hay điều thiện của các
hành vi của con người; là khoa học về đức tính con người, liên hệ đến sự phán
xét về bổn phận hay nghĩa vụ (cái đúng / cái sai / cái phải làm) và liên hệ tới
các phán xét về giá trị (tốt / xấu).
Ý thức đạo đức được hình thành trong quá trình sống và hoạt động xã
hội của con người và mỗi hình thái kinh tế xã hội có những điều cấm kị hoặc
18
khuyến khích khác nhau nhằm ngăn chặn những hành vi xấu xa hoặc kích
thích những hành động tốt đẹp trên quan điểm vì lợi ích chung của xã hội.
Tuy nhiên, điều mà các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều nhất hiện nay là sự
suy thoái cả về chính trị, tư tưởng và đạo đức; nói cho cùng là sự suy thoái
văn hoá. Trong bài phát biểu tại Hội thảo Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế với phát triển văn hoá, văn học nghệ thuật trong thời kì công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, Nguyên Tổng Bí thư BCH TW Đảng Lê Khả Phiêu nói: “Đảng
là đạo đức, là văn minh. Tình hình hiện nay ở một bộ phận không nhỏ trong
Đảng đang có sự suy thoái về chính trị- tư tưởng- tổ chức- lối sống, phai nhạt
lí tưởng xã hội chủ nghĩa, đó là suy thoái văn hoá. Suy thoái văn hoá là trách
nhiệm của Đảng cầm quyền thì Đảng và Nhà nước phải tự giải quyết cho
chính mình.”
Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rẳng, sự tăng trưởng về kinh tế, đương
nhiên là rất quan trọng và cần thiết, chưa chắc đã đảm bảo cho một xã hội
lành mạnh hơn, văn minh hơn. Bằng chứng là trong những năm gần đây, kinh
tế tăng trưởng nhanh thì sự phân biệt giàu nghèo lại ngày càng dữ dội. Người

giàu thì biệt thự, xe hơi, máy bay hạng sang, sở hữu có tới trăm ngàn tỉ đồng;
còn người nghèo thì:
Phơi lưng mưa nắng giữa trời
Mồ hôi đổ xuống, nụ cười nhen lên
Khác nhau giọng nói, cái tên
Giống nhau phận bạc cùng chen chợ người
(Hoàng Anh Tuấn, Chợ người, Văn nghệ số 52, ngày 24/12/2011).
Lối sống vị kỉ làm cho tình trạng tham nhũng, lừa đảo, vô lương, thờ ơ
trước cái thiện, dửng dưng trước cái ác và dung túng cho cái ác ngày một
phát triển. Các giá trị về đạo đức và chuẩn mực đạo đức bị đảo lộn. Thật giả
khôn lường, phải trái lẫn lộn.
19
Những thực tế đó cho thấy việc giáo dục đạo đức cho học sinh là khó
đến chừng nào !
1.2. Khái niệm về quản lý, quản lý giáo dục và quản lý giáo dục đạo đức
1.2.1. Khái niệm quản lý:
Có nhiều cách hiểu thuật ngữ quản lý. Có quan niệm cho rằng quản lý
là hành chính, là cai trị . Quan niệm khác lại cho rằng quản lý là điều hành,
là điều khiển, chỉ huy. Tuy nhiên các quan niệm đó không khác nhau về nội
dung, mà chỉ khác về thuật ngữ. Song nếu xem xét dưới góc độ chính trị - xã
hội và góc độ hành động thiết thực, quản lý được hiểu là sự tác động có ý
thức để chỉ huy, điều khiển quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con
người nhằm đạt đến mục tiêu, ý chí của người quản lý và phù hợp với quy
luật khách quan.
Quản lý là hoạt động có ý thức của con người nhằm định hướng, tổ
chức, sử dụng các nguồn lực và phối hợp hành động của một nhóm người hay
một cộng đồng người để đạt được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất.
Bản chất quản lý: Đó chính là các hoạt động của chủ thể quản lý tác
động lên các đối tượng quản lý để đạt mục tiêu đã xác định.
Chức năng quản lý: - Dự báo và lập kế hoạch

- Tổ chức thực hiện kế hoạch
- Lãnh đạo/chỉ đạo thực hiện kế hoạch
- Kiểm tra, đánh giá.
Nguyên tắc quản lý: - Nguyên tắc mục tiêu thu hút sự tham gia của tập
thể; Kết hợp hài hoà giữa các lợi ích; Tiết kiệm và hiệu quả cao; Thích ứng
linh hoạt; Khoa học hợp lý và phối hợp hoạt động các bên có liên quan.
1.2.2. Quản lý giáo dục:
Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội
nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục toàn diện cho các thế hệ trẻ, đáp ứng nhu
cầu về nhân lực cho sự phát triển ngày càng cao của xã hội.
20
Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách
thể quản lý, nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt hiệu quả
nhất.
Quản lý nhà trường phổ thông là quản lý giáo dục được thực hiện trong
phạm vi xác định của một đơn vị giáo dục nhà trường, nhằm thực hiện nhiệm
vụ giáo dục thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội.
Nói cách khác:
*Quản lý giáo dục ở cấp độ vĩ mô (Quản lý hệ thống giáo dục)
Quản lý giáo dục là những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có
kế hoạch, có hệ thống và hợp qui luật,…) của chủ thể quản lý giáo dục đến tất
cả các mắt xích của hệ thống giáo dục nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu
quả việc tổ chức, huy động, điều phối, giám sát và điều chỉnh,… các nguồn
lực (nhân lực, vật lực, tài lực và thông tin) để hệ thống giáo dục vận hành đạt
được mục tiêu phát triển giáo dục.
*Quản lý giáo dục ở cấp độ vi mô (Quản lý một cơ sở giáo dục)
Quản lý giáo dục là hệ thống tác động tự giác (có ý thức, có mục đích,
có kế hoạch, có hệ thống và hợp qui luật,…) của chủ thể quản lý một cơ sở
giáo dục đến đội ngũ giảng viên, giáo viên, nhân viên, người học và các lực
lượng tham gia giáo dục khác trong và ngoài cơ sở giáo dục đó, nhằm thực

hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu đào tạo của cơ sở giáo dục.
1.2.3. Quản lý giáo dục đạo đức: 4 nhiệm vụ cơ bản:
Xây dựng kế hoạch quản lý giáo dục đạo đức: Phân tích thực trạng
giáo dục đạo đức trong năm học của ngành, trường, địa phương; xác định điều
kiện giáo dục như cơ sở vật chất, tài chính, quỹ thời gian, sự phối hợp với
lực lượng giáo dục trong trường và ngoài trường.
Tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức: Giải thích mục tiêu, yêu
cầu, của kế hoạch giáo dục đạo đức; thảo luận biện pháp thực hiện kế hoạch;
sắp xếp bố trí nhân sự, phân công trách nhiệm quản lý, huy động cơ sở vật
21
chất, kinh tế; định rõ tiến trình, tiến độ thực hiện, thời gian bắt đầu, thời hạn
kết thúc.
Chỉ đạo thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức: Là chỉ huy, ra lệnh cho
các bộ phận trong nhà trường thực hiện những nhiệm vụ để bảo đảm việc
giáo dục đạo đức diễn ra đúng hướng, đúng kế hoạch, tập hợp và phối hợp các
lực lượng giáo dục sao cho đạt hiệu quả.
Kiểm tra, đánh giá giáo dục đạo đức: Kiểm tra định kỳ, thường xuyên,
đột xuất, trực tiếp, hoặc gián tiếp để giúp học sinh hiểu rõ hơn về những hoạt
động của mình, khẳng định được mình, từ đó hoạt động tích cực hơn, tự giác
hơn, biết tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với yêu cầu chung của xã
hội.
1.3. Khái niệm giáo dục đạo đức và chuẩn mực đạo đức theo các thời kì
của xã hội.
1.3.1 Khái niệm đạo đức:
Đạo đức là một hiện tượng xã hội, phản ánh các mối quan hệ hiện thực
bắt nguồn từ bản thân cuộc sống con người; đạo đức là một hình thái ý thức
xã hội, là tổng hợp những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đó con
người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích hạnh
phúc của con người và tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con
người, giữa cá nhân với xã hội.

1.3.2. Một số đặc điểm cơ bản của phạm trù đạo đức:
Đạo đức học xây dựng lên một hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy
luật của mình để phản ánh đời sống đạo đức xã hội, con người. Những hiện
tượng ấy được các nhà đạo đức học khái quát lên thành những phạm trù như
lẽ sống, nghĩa vụ, hạnh phúc, lương tâm, thiện ác Những phạm trù này được
coi như những tiêu chuẩn để xem xét, đánh giá những suy nghĩ và hành động
của con người về mặt đạo đức. Như vậy, cũng như các phạm trù của các khoa
học khác, các phạm trù đạo đức học mang tính phổ biến và khái quát cao.
22
Bên cạnh đấy, còn có những đặc điểm riêng biệt:
Các phạm trù Đạo đức học mang nội dung thông báo và đánh giá. Một
mặt, các phạm trù đạo đức học thông báo về tính chất của hành vi con người
như thiện, ác, có lương tâm hay vô lương tâm, tốt hay xấu Mặt khác chúng
còn thể hiện thái độ của con người đối với các hành vi đó. Chẳng hạn, trước
những hành vi thiện, có lương tâm, tốt, thì được dư luận xã hội đồng tình, cổ
vũ, động viên, khích lệ, noi theo, còn trước những hành vi ác, vô lương tâm,
xấu thì bị phê phán, lên án, đấu tranh để xoá bỏ
Các phạm trù đạo đức học mang tính phân cực rất rõ rệt. Chẳng hạn:
Thiện - ác; Lương tâm - Vô lương tâm; Hạnh phúc - Bất hạnh; Trách nhiệm -
Vô trách nhiệm.
Các phạm trù đạo đức học là sự thống nhất giữa tính khách quan và
tính chủ quan. Tính khách quan của các phạm trù đạo đức học chính là những
mối quan hệ và hành vi của con người được phản ánh vào trong các phạm trù
đạo đức học. Còn tính chủ quan của các phạm trù đạo đức học chính là những
xúc cảm, ý thức trách nhiệm và sự lựa chọn của con người trước những hiện
tượng đạo đức cũng như sự nỗ lực phấn đấu của mỗi con người nhằm có được
những giá trị đạo đức đích thực trong cuộc sống.
Các phạm trù đạo đức học còn mang tính giai cấp và tính lịch sử, bởi
các giai cấp khác nhau thì có những quan niệm khác nhau về các phạm trù
đạo đức học, thậm chí đối lập nhau, đồng thời các phạm trù đạo đức học

không nhất thành bất biến mà luôn luôn vận động, biến đổi cùng với sự vận
động, biến động của xã hội. Qua các giai đoạn lịch sử, các phạm trù đạo đức
học không chỉ phát triển về mặt số lượng mà cả về mặt nội dung - nội dung
của các phạm trù đạo đức học luôn luôn được bổ sung, được làm giàu bởi
những hiện tượng đạo đức xã hội, con người ngày càng trở nên đa dạng,
phong phú.
Một số phạm trù cơ bản của đạo đức:
23
* Lẽ sống hay ý nghĩa cuộc sống là vấn đề trung tâm của đời sống con
người. Lẽ sống là quan niệm sống của mỗi người, trong đó có sự thống nhất
giữa hạnh phúc và nghĩa vụ thông qua hoạt động thực tiễn, hoạt động xã hội
của con người. Hoặc, lẽ sống chính là ý nghĩa cuộc sống mà con người tự
nhận thức được và tự giác hành động vì nó. Chính vì vậy, từ xưa đến nay,
nhiều nhà tư tưởng đồng nhất lẽ sống với lý tưởng tối cao.
Lẽ sống của con người là ở sự lao động và sáng tạo ra những giá trị vật
chất và tinh thần cho xã hội, là ở sự nghiệp đấu tranh cho hoà bình, dân chủ,
dân sinh và tiến bộ xã hội, ở cuộc đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự
phồn vinh của đất nước và nền văn minh nhân loại.
* Hạnh phúc: Hạnh phúc là một trong những phạm trù cơ bản của đạo
đức học, là một trong những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời
sống con người và xã hội. Nó là một trong những nền tảng tinh thần giúp con
người từ đó xây dựng được những lí tưởng, mục tiêu, thái độ sống, đồng thời là
thước đo, định hướng giúp con người xác lập các quan niệm về thiện, ác, phẩm
giá và hàng loạt những quan niệm đạo đức khác, nó tạo ra một động lực thúc
đẩy con người hành động và tự hoàn thiện bản thân. Hạnh phúc không phải là
cái gì có sẵn, bẩm sinh hay trời phú cho, mà nó được hình thành trong hoạt
động thực tiễn của con người, đó là hoạt động lao động sản xuất, là đấu tranh
xã hội, là hoạt động nghiên cứu khoa học, thực nghiệm khoa học đó là cả một
quá trình phấn đấu, kiên trì, bền bỉ đôi khi có cả những mất mát, đau thương.
Hạnh phúc chân chính của con người là được cống hiến nhiều nhất

những giá trị trị của mình cho xã hội và được sống trong xã hội thực sự tự do,
dân chủ, giàu mạnh, văn minh và thân thiện.
* Nghĩa vụ: Là một trong những phạm trù cơ bản của đạo đức học.
Nghĩa vụ là một trong những nét đặc trưng cơ bản của đời sống con người,
phản ánh mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể và
24
giữa cá nhân với xã hội. Nghĩa vụ có một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời
sống xã hội, bao gồm nghĩa vụ pháp lí và nghĩa vụ đạo đức.
Nghĩa vụ pháp lí là những nghĩa vụ do pháp luật quy định, có tính chất
bắt buộc phải thực hiện. Còn nghĩa vụ đạo đức là những nghĩa vụ do những
yêu cầu của đạo đức quy định.
Nghĩa vụ đạo đức là sự thể hiện trách nhiệm đạo đức của con người
trước lợi ích chung (cộng đồng, giai cấp, dân tộc, nhân loại) vì lợi ích của
người khác, là ý thức về cái cần phải làm và mong muốn được làm vì những
lợi ích đó. Để có nghĩa vụ đạo đức nhất thiết phải có 3 điều kiện: tự giác, tự
do và vì cái thiện.
Để đạt được 3 điều kiện trên đây, đòi hỏi công tác giáo dục đạo đức
phải được tiến hành thường xuyên và lâu dài, mặt khác các chủ thể đạo đức
cũng phải không ngừng tự rèn luyện, tự tu dưỡng. Chỉ khi nào ý thức nghĩa vụ
phát triển, chuyển thành tình cảm nghĩa vụ, thành niềm tin vững chắc như
động cơ thôi thúc từ bên trong, thành bản tính thường trực của các chủ thể thì
lúc đó cái tất yếu mới trở thành cái hoàn toàn tự do. Từ đó mới có điều kiện
để nảy sinh những giá trị đạo đức chân chính, lành mạnh. Trong lịch sử nhân
loại, chúng ta cũng bắt gặp những nhà khoa học, những chiến sỹ đấu tranh
cho lẽ phải, tự do và công lý, do nhận thức rõ mục đích và kết quả của việc
thực hiện các nghĩa vụ mà đã chấp nhận tù đầy hoặc hi sinh, chứ nhất định
không chịu khuất phục trước cường quyền để giữ gìn phẩm chất đạo đức. Họ
là những người có nghĩa vụ đạo đức cao cả và tốt đẹp.
*Lương tâm là một đặc trưng cơ bản nhất của hiện tượng đạo đức, nó là
dấu hiệu, thước đo sự trưởng thành của đời sống đạo đức cá nhân, xã hội.

Lương tâm luôn tồn tại như một minh chứng cho sự hiện diện của đời sống
đạo đức cá nhân. Các khái niệm “lương tâm” và “vô lương tâm” thường được
sử dụng như sự khẳng định hay phủ định tình trạng có đạo đức hay vô đạo
đức ở con người.
25

×