Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
TRƯỜNGĐẠIHỌCCẦNTHƠ
KHOAKINHTẾQUẢNTRỊKINHDOANH
CHUYÊNĐỀNGÂNHÀNG
ĐÁNHGIÁTÌNHHÌNHNỢXẤU
CỦACÁCNGÂNHÀNGVIỆTNAM
GIAIĐOẠN20102012
Giáoviênhướngdẫn: Sinhviênthựchiện
ThS.NGUYỄNTHỊLƯƠNG BÙIHẢIĐĂNG
MãsốSV:1081553
Lớp:TàiChínhK34
SVTH:BùiHảiĐăng Trang1
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
CầnThơ2013
SVTH:BùiHảiĐăng Trang2
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
LỜICAMĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu thập và kết
quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất kỳ đề tài nghiên cứu khoa
họcnào.
CầnThơ,ngày27tháng06năm2013
Sinhviênthựchiện
BùiHảiĐăng
SVTH:BùiHảiĐăng Trang3
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
LỜICẢMTẠ
❧❀❧
Trong quá trình học tập và nghiên cứu em được quý thầy cô trường Đại Học Cần Thơ
nói chung và Khoa kinh tế Quản trị kinh doanh nói riêng, đã tận tình truyền đạt những kiến
thứcquýbáu,giúpemcóđủkiếnthứcvàtựtinđểthựchiệnchuyênđềnày.
Để hoàn thành tốt chuyên đề này, ngoài sự cố gắng của bản thân, em xin chân thành
cảm ơn Cô Nguyễn Thị Lương vì những kinh nghiệm quý bào mà Cô đã truyền đạt cũng
nhưsựhướngdẫntậntìnhcủaCôtrongsuốtquátrìnhthựchiệnnghiêncứuchuyênđềnày.
Tuy nhiên, do hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên kết quả cuối cùng sẽ không
tránh khỏi những sai sót. Vì vậy em kính mong nhận được ý kiến quí báo của quý Thầy Cô
đểchuyênđềcủaemđượchoànthiệnhơn.
Cuối cùng em xin kính chúc quý Thầy Cô thật nhiều sức khoẻ và niềm vui để tiếp
tụctruyềnđạtkiếnthứcchochúngemvàthếhệmaisau.
Trântrọng.
CầnThơ,ngày27tháng06năm2013
Sinhviênthựchiện
BùiHảiĐăng
SVTH:BùiHảiĐăng Trang4
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
NHẬNXÉTCỦAGIÁOVIÊNHƯỚNGDẪN
CầnThơ,ngày…tháng…năm2013
Giáoviênhướngdẫn
NguyễnThịLương
SVTH:BùiHảiĐăng Trang5
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
SVTH:BùiHảiĐăng Trang6
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
MỤCLỤC
PHẦNGIỚITHIỆU
1.Lýdochọnđềtài
2.Mụctiêunghiêncứu
2.1.Mụctiêuchung
2.2.Mụctiêucụthể
3.Phươngphápnghiêncứu
3.1.Phươngphápthuthậpsốliệu
3.2.Phươngphápxửlýsốliệu
4.Phạmvinghiêncứu
4.1.Phạmvikhônggian
4.2.Phạmvithờigian
PHẦNNỘIDUNG
CHƯƠNG1
THỰCTRẠNGVÀĐÁNHGIÁTÌNHHÌNHNỢXẤU
CỦAHỆTHỐNGNGÂNHÀNGVIỆTNAM
GIAIĐOẠN20102012
1.1.TìnhhìnhnợxấucủahệthốngNHTMtronggiaiđoạn20102011
1.2.TìnhhìnhnợxấucủahệthốngNHTMtronggiaiđoạn20112012
1.3.Tỷlệnợxấutheolĩnhvựcchovayvàđốitượngvay
1.3.1.Tỷlệnợxấuđốivớitíndụngbấtđộngsảnvàchovayphisảnxuất
1.3.2.Tỷlệnợxấuđốivớinhữngkhoảnvayđầutưchứngkhoán
1.3.3.Tỷlệnợxấuđốivớicácdoanhnghiệpnhànước
1.4.CácnhântốảnhhưởngđếnviệcgiatăngtỷlệnợxấucủahệthốngngânhàngViệtNam
tronggiaiđoạn20102012
1.4.1.Cácnhântốchủquan
1.4.2.Cácnhântốkháchquan
1.5.Tácđộngcủaviệcgiatăngnợxấuđốivớingânhàngvànềnkinhtế
1.5.1Nhữngảnhhưởngcủaviệcgiatăngnợxấuđếnbảnthâncácngânhàng
1.5.2.Nhữngảnhhưởngcủaviệcgiatăngnợxấuđếnnềnkinhtế
CHƯƠNG2
GIẢIPHÁPHẠNCHẾTÌNHHÌNHNỢXẤU
ĐỐIVỚICÁCNGÂNHÀNGTHƯƠNGMẠIVIỆTNAM
2.1.Giảiphápđốivớibảnthâncácngânhàng
2.1.1.Nângcaochấtlượngtíndụng
2.1.2.Tuânthủđầyđủcácquyđịnhvàđiềukiệncấptíndụngđốivớicácdoanh
nghiêpnhànước
2.2.Giảiphápđốivớinhànước
PHẦNKẾTLUẬN–KIẾNNGHỊ
1.Kếtluận
2.Kiếnnghị
TÀILIỆUTHAMKHẢO
DANHMỤCHÌNH
DANHMỤCCÁCTỪVIẾTTẮT
SVTH:BùiHảiĐăng Trang7
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
SVTH:BùiHảiĐăng Trang8
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
PHẦNGIỚITHIỆU
1.Lýdochọnđềtài
Hoạt động tín dụng luôn là hoạt động then chốt của các ngân hàng thương mại
(NHTM), do đó vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng luôn là mối quan tâm hàng đầu của các
NHTM. Việc gia nhập WTO đã đặt các NHTM Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội lẫn thách
thức. Khi ấy các NHTM nước ngoài cũng tham gia vào thị trường tài chính Việt Nam, do đó
tính cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng trở nên quyết liệt. Trong khi đó các NHTM Việt
Nam còn nhiều yếu kém không chỉ về vốn mà còn ở năng lực chuyên môn, đặc biệt là trong
việc đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng. Điều đó ảnh hưởng lớn đến con số nợ xấu,
một chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng ở ngân hàng. Hiện nay nợ xấu đang là một trong
những lo ngại hàng đầu của các các NHTM trong nước. Tính đến cuối quý 1 năm 2012,
nhiều ngân hàng đang phải đối mặt với con số nợ xấu lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Theo các
báo cáo tài chính quý 1/2012 của các ngân hàng như Ngân Hàng TMCP Ngoại Thương
(Vietcombank), Ngân Hàng TMCP Công Thương (Vietinbank), Ngân Hàng TMCP Á Châu
(ACB), Ngân Hàng TMCP Sài GònHà Nội (SHB), Ngân Hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu
Việt Nam (Eximbank), dư nợ cho vay thì sụt giảm trong khi nợ xấu thì tăng nhanh. Hiện
tượng này xảy ra ở cả các NHTM quốc doanh lẫn khối NHTM cổ phần tư nhân, ở cả các
ngân hàng lớn cũng như những ngân hàng nhỏ. Trong khi đó những ngân hàng kể trên từng
được đánh giá là có tình hình tài chính lành mạnh, khả năng quản trị tốt, được cấp chỉ tiêu
tăng trưởng tín dụng 17% và được Ngân Hàng Nhà Nước xếp nhóm 1 về tăng trưởng tín
dụng. Nếu vậy thì đối với các ngân hàng được xếp vào các nhóm thấp hơn về tăng trưởng
tín dụng thì tình hình nợ xấu sẽ đi đến đâu? Các con số về chỉ tiêu nợ xấu ở các ngân hàng
thay đổi như thế nào qua các năm? Việc gia tăng tỷ lệ nợ xấu sẽ ảnh hưởng như thế nào đối
với hoạt động của các ngân hàng ? Những nguyên nhân nào làm cho tỷ lệ nợ xấu tăng lên?
Giải pháp hạ thấp tỷ lệ nợ xấu là gì? Tất cả những câu hỏi này sẽ được làm rõ qua chuyên đề
mangtên:“ĐánhgiáthựctrạngnợxấucủahệthốngngânhàngViệtNam”.
SVTH:BùiHảiĐăng Trang9
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
2.Mụctiêunghiêncứu
2.1.Mụctiêuchung
Đánh giá và phân tích thực trạng nợ xấu của hệ thống các ngân hàng Việt Nam trong
giaiđoạn20102012nhằmtìmranguyênnhânvàđềragiảiphápkhắcphục.
2.2.Mụctiêucụthể
Mục tiêu 1: Phân tích thực trạng nợ xấu của hệ thống các ngân hàng Việt Nam giai
đoạn20102012.
Mục tiêu 2: Đánh giá thực trạng nợ xấu của hệ thống ngân hàng Viêt Nam giai đoạn
20102012.Từđórútrađượcnhữngtồntạivànguyênnhântồntạicủathựctrạngnợxấu.
Mục tiêu 3: Dựa vào những tồn tại gặp phải, đề ra định hướng khắc phục và các giải
phápnhằmlàmgiảmtỷlệnợxấuởcácngânhàngthưongmạitrongthờigiantới.
3.Phươngphápnghiêncứu
3.1.Phươngphápthuthậpsốliệu
Các số liệu là số liệu thứ cấp được thu thập từ các website của Ngân hàng, qua các
bàibáo,tạpchícóliênquanđếnvấnđềnghiêncứu.
3.2.Phươngphápxửlýsốliệu
Sử dụng phương pháp thống kê mô tả, phương pháp suy luận, phương pháp so sánh
sốtươngđốivàsosánhsốtuyệtđốiđểphântíchsốliệucầnnghiêncứu.
Phân tích số liệu dựa trên lý thuyết, sử dụng phương pháp mô tả để giải thích, nhận
xétvàđánhgiácácvấnđềliênquanđếntỷlệnợxấutrêntổngdưnợ.
4.Phạmvinghiêncứu
4.1.Phạmvikhônggian
ĐềtàiđượcthựchiệnởViệtNam.
4.2.Phạmvithờigian
Sốliệuđượcthuthậptừ20102012.
Thờigianthựchiệnđềtài17/05/2013đến6/2013.
SVTH:BùiHảiĐăng Trang10
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
PHẦNNỘIDUNG
CHƯƠNG1
THỰCTRẠNGVÀĐÁNHGIÁTÌNHHÌNHNỢXẤU
CỦAHỆTHỐNGNGÂNHÀNGVIỆTNAM
GIAIĐOẠN20102012
Nợ xấu ở các ngân hàng là khoảng nợ mà ngân hàng cho khách hàng vay, nhưng
ngân hàng lại không thể thu hồi được do khách hàng làm ăn thua lổ hay phá sản. Theo
Quyết định số 493/2005/QĐNHNN được ban hành ngày 22/4/2005, nợ xấu là các khoản nợ
thuộc các nhóm 3, 4 và 5. Đến ngày 21/1/2013, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 02.
Thông tư này đã sửa đổi, bổ sung cho Quyết định 493 về việc phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng. Theo đó, việc phân loại nợ để trích lập dự phòng cụ
thể được quy định lại theo hướng siết chặt hơn so với Quyết định 493. Cụ thể là các khoản
nợ được xếp vào loại nợ xấu bao gồm những khoản nợ từ Nhóm 2 đến Nhóm 5 và một phần
nợ nhóm 1. Thông tư 02 sẽ được áp dụng từ ngày 1/6/2013. Nhưng vào ngày 27/5/2013
thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số12/2013/TTNHNN sửa đổi một số điều trong
Thông tư 02. Theo đó, ngày áp dụng Thông tư 02/2013/TTNHNN sẽ được gia hạn thêm 1
năm và bắt đầu có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/6/2014. Vì vậy chuyên đề này được nghiên
cứudựatrênQuyếtđịnh493.
Cácnhómnợthuộckhoảnnợxấu:
● Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn): Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày; Các khoản
nợ này được đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn, có khả
năngtổnthấtmộtphầnnợgốcvàlãi.
● Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ): Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày; Các khoản nợ
nàyđượcđánhgiálàcókhảnăngtổnthấtcao
● Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn): Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; Các khoản
nợnàyđượcđánhgiálàkhôngcókhảnăngthuhồi,nguycơmấtvốn
SVTH:BùiHảiĐăng Trang11
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
1.1.TìnhhìnhnợxấucủahệthốngNHTMtronggiaiđoạn20102011
Theo thống kê của Ngân Hàng Nhà nước, cuối năm 2010, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư
nợ cho vay của hệ thống ngân hàng là 2,5%, chưa bao gồm dư nợ của hệ thống ngân hàng
đối với Tập Đoàn Công Nghiệp và Tàu Thủy Việt Nam (Vinashin). Nếu tính thêm cả dư nợ
đối với Vinashin thì tỷ lệ nợ xấu cuối năm 2010 sẽ là 3,2% tổng dư nợ cho vay. Trong đó nợ
xấu từ phía các doanh nghiệp quốc doanh chiếm đến 60% tổng số nợ xấu. Đến cuối năm
2011, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ lại tiếp tục tăng lên đến mức 3,3%. Hầu hết các ngân
hàng niêm yết đều có tỷ lệ nợ xấu tăng mạnh so với năm 2010. Cụ thể là tính đến 30/9/2011,
tổng nợ xấu của 8 NHTM niêm yết là 15.018 tỷ đồng, trong đó nợ có khả năng mất vốn (nợ
nhóm 5) chiếm 55,22% tương ứng với số tiền cụ thể là 8.293 tỷ đồng. Tình hình gia tăng tỷ
lệnợxấutrêntổngdưnợcủa8ngânhàngniêmyếtđượcthểhiệnquabiểuđồsau:
Hình1:BiểuđồtỷlệnợxấutrêntổngdưnợcủacácNHTMtại30/09/2011
(Nguồn:TheoCafeF/TTVN/BCTCcácNHTM)
CTG:NgânhàngTMCPCôngThươngViệtNam
SVTH:BùiHảiĐăng Trang12
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
VCB:NgânHàngTMCPNgoạiThươngViệtNam
STB:NgânHàngTMCPSàiGònThươngTín
EIB:NgânHàngTMCPXuấtNhậpKhẩuViệtNam
ACB:NgânHàngTMCPÁChâu
SHB:NgânHàngTMCPSàiGònHàNội
HBB:NgânHàngTMCPNhàHàNội
NVB:NgânHàngTMCPNamViệt
Biểu đồ trên cho thấy tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng nêu trên đều tăng trong giai
đoạn 20102011. Trong năm 2011, phần lớn các ngân hàng trên có tỷ lệ nợ nhóm 5 (nợ có
khả năng mất vốn) chiếm tỷ trọng cao nhất trong 3 nhóm nợ thuộc nợ xấu. Cũng trong năm
2011, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của Ngân Hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (VCB)
là cao nhất (3,4%), cao hơn cả tỷ lệ nợ xấu bình quân của cả hệ thống ngân hàng (3,3%) ở
cùng thời điểm. Bên cạnh đó, Ngân Hàng TMCP Nhà Hà Nội, Ngân Hàng TMCP Nam Việt
cũng có tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ khá cao (2,8%). Bên cạnh những ngân hàng đang lo
ngại về tỷ lệ nợ xấu khá cao, thì cũng có những ngân hàng với tỷ lệ nợ xấu thấp như Ngân
Hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (0,6%). Dù tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng năm 2011
khôngđồngđềunhau,nhưngnhìnchungcáctỷlệnợxấuđềutăngsovớinăm2010.
1.2.TìnhhìnhnợxấucủahệthốngNHTMtronggiaiđoạn20112012
Ngân hàng Nhà nước cho biết, đến thời điểm cuối tháng 10, nợ xấu của toàn hệ thống
chiếm khoảng 8,8 10% trên tổng dư nợ và tốc độ tăng nợ xấu đã chậm lại kể từ sau tháng
6. Còn theo báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng
đều tăng trong 9 tháng qua. Nợ xấu đặc biệt tăng mạnh tại các ngân hàng như Vietcombank
tăng 1,21%, ACB tăng 1,2%, Sacombank tăng 0,83%, BaoVietBank tăng 1,57%, NaviBank
tăng 1,05%. Tuy nhiên, một số ngân hàng vẫn giữ được tốc độ nợ xấu tăng không quá
mạnh, như ở Techcombank chỉ tăng 0,12%, KienLongBank 0,01%. Riêng ngân hàng
PGBank giảm được nợ xấu từ 3,06% (cuối năm 2011) xuống còn 2,96%. Cụ thể, tỷ lệ nợ
xấu9thángđầunămcủamộtsốcácNHTMđượcthểhiệnquabiểuđồsau:
SVTH:BùiHảiĐăng Trang13
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
Hình2:Biểuđồtỷlệnợxấucủamộtsốngânhàngqua9thángđầunăm2012
(Nguồn:TheoCafeF/TTVN/BCTCcácNHTM)
Đáng lưu ý trong bức tranh nợ xấu của các ngân hàng thời gian qua là nhóm nợ có
khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) mà ngân hàng phải trích dự phòng rủi ro 100%. Theo báo
cáo tài chính, hiện nay tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn trên dư nợ cho vay khách hàng của
BaoVietBank đang ở mức cao nhất với 2,93%, tiếp đến là của LienVietPostBank với 1,46%;
của Vietcombank là 1,42%; của BIDV là 1,22%; của MB là 1,07%; của KienLongBank là
1,36%. Nợ có khả năng mất vốn của các ngân hàng khác trong khi đó cũng xấp xỉ mức 1%
nhưVietinbanklà0,86%;củaTechcombank0,99%;củaACBlà0,81%;PGBank0,83%
SVTH:BùiHảiĐăng Trang14
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
Hình3:Biểuđồtỷlệnợcókhảnăngmấtvốntrêntổngdưnợchovaykháchhàng
tạithờiđiểm30/9/2012
(Nguồn:TheoCafeF/TTVN/BCTCcácNHTM)
Về con số cụ thể, ngân hàng BIDV có khoản nợ có khả năng mất vốn cao nhất, lên
tới 3.984,4 tỷ đồng tại thời điểm cuối tháng 9/2012; của Vietcombank cũng hơn 3.200 tỷ
đồng; của Vietinbank là 2.578 tỷ đồng. Ngân hàng ACB hiện có 829,1 tỷ đồng nợ có khả
năng mất vốn; MB có 629,4 tỷ đồng; Techcombank là 610,8 tỷ đồng So với thời điểm
cuối năm 2011, nợ có khả năng mất vốn của các ngân hàng đặc biệt tăng rất mạnh, ngoại trừ
KienLongBank giảm gần 4%. Có thể kể đến một số cái tên như LienVietPostBank tăng đến
53 lần so với cuối 2011 (từ 4,48 tỷ đồng lên 243,8 tỷ đồng); của BaoVietBank tăng hơn 6
lần từ 23,5 tỷ đồng lên hơn 170 tỷ đồng. Một số khác cũng có mức tăng nợ nhóm 5 khá
mạnh như tại Techcombank là 1,7 lần; của ACB gần 1,8 lần; Sacombank hơn 1,5 lần,
Vietinbank 1,82 lần Ngân hàng Vietcombank tăng nợ nhóm 5 thêm 41%; của MB tăng
33,5%;củaNavibanktăng79%.
Qua đó cho thấy tốc độ nợ xấu vẫn tăng chóng mặt so với các năm trước, khi năm
2008 tỷ lệ nợ xấu chỉ là 2,17%; năm 2009 là 2,2%; 2010 là 2,14% và 2011 là 3,3% trên tổng
SVTH:BùiHảiĐăng Trang15
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
dư nợ thì đến năm 2012 tỷ lệ này đã tăng gần gấp đôi và hiện đạt mức 6% (theo công bố của
ThốngđốcNHNNNguyễnVănBìnhtạithờiđiểmđầunăm2013).
Hình4:Biểuđồthểhiệnsựtăngtrưởngcủatỷlệnợxấutínhđếncuốinăm2012
(Nguồn:TheoTTVN/BCTCcácNHTM)
Trong đó, tồn tại những ngân hàng có nợ xấu rất cao, điển hình như Agribank với nợ
xấu chiếm 5,8% trên tổng dư nợ và con số tuyệt đối là 27.803 tỷ đồng. Nợ xấu của Agribank
cũng tương đương với tổng nợ xấu của Vietcombank, BIDV, Vietinbank, SHB và ACB
cộng lại. Ngân hàng SHB năm 2012 có tỷ lệ nợ xấu cũng rất cao, tới 8,53% tương đương
4.844tỷđồngdongânhàngnàyphảigánhthêmnợxấusaukhihợpnhấtvớiHabubank.
1.3.Tỷlệnợxấutheolĩnhvựcchovayvàđốitượngvay
Nợ xấu là một trong những con số nhạy cảm, những thông tin chi tiết về nợ xấu của
toàn hệ thống ngân hàng mà được công bố thì rất hiếm hoi. So với năm 2010 thì chỉ có năm
2011 những thông tin về nợ xấu mới được thống đốc ngân hàng nhà nước công bố một cách
chi tiết hơn. Do đó khi phân tích tỷ lệ nợ xấu theo lĩnh vực cho vay thì đề tài này chỉ tập
trungvàonăm2011.
1.3.1.Tỷlệnợxấuđốivớitíndụngbấtđộngsảnvàchovayphisảnxuất
SVTH:BùiHảiĐăng Trang16
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
Như đã biết thì hầu hết các ngân hàng thường cho vay ở nhiều lĩnh vực khác nhau
như cho vay sản xuất và cho vay phi sản xuất, xuất khẩu, phát triển nông thôn. Theo như các
chuyên gia kinh tế phân tích thì những khoản cho vay phi sản xuất thường không được ưu
tiên và khuyến khích so với các lĩnh vực khác bởi vì tỷ lệ rủi ro cao và dễ gây ra nợ xấu. Đó
là lí do tại sao Ngân Hàng Nhà Nước quy định tỷ lệ tối đa các ngân hàng cho vay vào lĩnh
vực phi sản xuất không vượt quá 16% (theo Chỉ thị số 01/CTNHNN, thống đốc Ngân hàng
Nhà nước đã ban hành vào ngày 1/3/2011). Tỷ trọng cho vay phi sản xuất tính đến cuối năm
2011 là 14,7%. Tương ứng với con số cụ thể hơn 400.000 tỷ đồng cho vay ở lĩnh vực “phi
sảnxuất”.
Thống kê toàn hệ thống ngân hàng đến 31/12/2011, tổng dư nợ cho vay bất động sản
là 201.000 tỷ đồng giảm 14,25% so với 31/12/2010 (Cafeland số liệu từ báo cáo của
NHNN), chiếm khoảng 8,45% tổng dư nợ của toàn hệ thống. Nếu chỉ xét trên toàn hệ thống
ngân hàng của Việt Nam, thì tỷ lệ nợ xấu trong lĩnh vực bất động sản chỉ chiếm 8,45% tổng
dư nợ, nhưng khi xét riêng các ngân hàng trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh, nơi mà thị
trường bất động sản được đánh giá là khá sôi động, thì tỷ lệ này lại là một con số rất đáng
quan tâm. Theo báo cáo của Ngân Hàng Nhà Nước chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, tính
đến cuối 7/2011, dư nợ cho vay bất động sản lên đến 89.530 tỷ đồng, chiếm 11,96% so với
tổng dư nợ, giảm 8,88% so với năm 2010. Nợ xấu bất động sản chiếm 3,8% trong tổng dư
nợ bất động sản, trong đó khối ngân hàng cổ phần có tỷ lệ nợ xấu bất động sản cao nhất,
chiếm2,61%trongtổngdưnợchovaybấtđộngsảncủakhốinày.
Đến 31/8/2012 dư nợ tín dụng bất động sản khoảng 203.000 tỷ đồng, trong đó nợ xấu
chiếm 6,6% (Vneconomy số liệu từ báo cáo của NHNN). Trong khi đó, dư nợ tín dụng liên
quan đến bất động sản, như vay kinh doanh bất động sản, vay đầu tư sản xuất kinh doanh và
thế chấp bằng bất động sản… vào khoảng 57% tổng dư nợ, tức là khoảng hơn 1 triệu tỷ
đồng.
1.3.2.Tỷlệnợxấuđốivớinhữngkhoảnvayđầutưchứngkhoán
Cùng với tín dụng bất động sản, tín dụng đầu tư chứng khoán cũng được xem là lĩnh
vực không được khuyến khích phát triển tín dụng. Do đó Ngân hàng Nhà Nước giới hạn tỷ
trọng dư nợ cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư, kinh doanh chứng khoán không
SVTH:BùiHảiĐăng Trang17
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
vượt quá 16% tổng dư nợ tín dụng. Chỉ có những ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ
không vượt quá 3% thì mới đủ diều kiên để cấp tín dụng cho những khách hàng đầu tư
chứng khoán. Nếu căn cứ theo quy định này thì tổng dư nợ cho vay đầu tư chứng khoán tính
trên toàn hệ thống phải rất thấp vì không được mấy ngân hàng đủ tiêu chuẩn để cho vay đối
với những khách hàng đầu tư chứng khoán, hầu hết các ngân hàng đều có tỷ lệ nợ xấu vượt
mức 3% trên tổng dư nợ. Tuy nhiên trên thực tế thì lại khác, theo thống kê của Ngân hàng
Nhà Nước hiện nay dư nợ cho vay để đầu tư, kinh doanh cổ phiếu của các ngân hàng thương
mại Việt Nam chiếm 6,5% vốn tự có, và tổng dư nợ cho vay ở lĩnh vực này lên đến hơn
10.000 tỷ đồng, nếu tính cả chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tính đến ngày 31/5/2012, dư
nợ cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán khoảng 12.000 tỷ đồng tương đương 6,5% dư nợ
cho vay đầu tư kinh doanh BĐS và con số nợ xấu cho vay BĐS chiếm 10,3% tổng nợ xấu
củahệthốngvànợxấukhoảng485tỷđồng(tapchitaichinhbáocáocủacácTCTD).
Cùng với kết quả nghiên cứu của nhóm chuyên gia thuộc Trung tâm nghiên cứu
Kinh tế và Chính sách (VEPR) thì tỷ trọng dư nợ chứng khoán và bất động sản chiếm 10
đến 12% tổng dư nợ hệ thống ngân hàng. Kết hợp với tỷ lệ dư nợ bất động sản của toàn hệ
thống ngân hàng là 8,45% tổng dư nợ (nguồn báo cáo của NHNN) thì tỷ lệ dư nợ của những
khoảnvayđầutưvàochứngkhoántínhtoánđượclà1,553,55%.
Nhìn chung thì cho vay bất động sản và cho vay đầu tư chứng khoán là những vực
không đước khuyến khích, nhưng trên thực tế thì dư nợ trong hai lĩnh vực này lại khá cao,
dođónguycơnợxấucũngcóxuhướngtăng.
1.3.3.Tỷlệnợxấuđốivớicácdoanhnghiệpnhànước
Trong những đối tượng vay tín dụng ở ngân hàng, thì các doanh nghiệp quốc doanh
là một trong những khách hàng lớn của các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng quốc
doanh hoặc các ngân hàng mà cổ phần nhà nước chiếm đại đa số như Vietinbank,
Vietcombank, Agribank, Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam Vì vậy tỷ lệ nợ xấu
ở những ngân hàng này cao hơn mức bình quân của toàn ngành là 3,3% (tính đến cuối năm
2011). Cụ thể, nợ xấu của các NHTM Nhà nước là 3,76% và của NHTM cổ phần ngoài
quốc doanh lên tới 4,73%. Đơn cử trong nhóm NHTM Nhà nước, Agribank có tỷ lệ nợ xấu
SVTH:BùiHảiĐăng Trang18
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
cao nhất lên tới 6,14%, xấp xỉ gấp đôi mức bình quân của ngành, tiếp theo là Vietcombank
3,55%(báoDânTríbáocáocủacácTCTD).
Theo thống kê năm 2010, nợ xấu từ phía các doanh nghiệp quốc doanh chiếm 60%
tổng số nợ xấu. Thêm vào đó đến thời điểm tháng 9/2012, theo báo cáo trình Ủy ban thường
vụ Quốc hội thì DNNN sử dụng vốn tín dụng chiếm tới khoảng 70% tổng số nợ xấu, trong
đócáctậpđoànkinhtế,tổngcôngtychiếm53%sốnợxấu.
Tốc độ tăng của tỷ lệ nợ xấu từ phía các DNNN giai đoạn 20102011 là 16,67%
(nguồn Internet). Theo những số liệu từ Bộ Tài chính, tính đến 09/2011, tổng dư nợ vay tại
các ngân hàng của các DNNN lên đến 415.000 tỷ đồng, tương đương 16,9% tổng dư nợ tín
dụng. Từ thực tế trên có thể thấy được dư nợ tín dụng của các doanh nghiệp nhà nước tại
các ngân hàng thương mại nói chung và các ngân hàng mà cổ phần nhà nước chiếm đại đa
số nói riêng, đang tăng lên trong giai đoạn 20102011, và kéo theo tỷ lệ nợ xấu của các
doanh nghiêp quốc doanh tăng từ 60% lên đến 70%. Những con số này đã góp phần đẩy tỷ
lệ nợ xấu bình quân của toàn ngành tăng lên mức mức 3,3% năm 2011 và sau đó là 6% năm
2012.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc gia tăng tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt
Namtronggiaiđoạn20102012
1.4.1.Cácnhântốchủquan
Thứ nhất, chính sách quản lí việc cho vay của các ngân hàng chưa được tốt. Đa phần
các ngân hàng tập trung vào cho vay để kinh doanh bất động sản và đầu tư vào chứng
khoán. Trong đó dư nợ bất động sản chiếm 8,45%, dư nợ đầu tư chứng khoán là 3,55%.
Điển hình nhất là trường hợp của Agribank, lãnh đạo của Agribank đã thừa nhận là phần lớn
số nợ xấu của ngân hàng là nằm đọng trong bất động sản và những dự án đầu tư từ những
năm 2008, 2009. Tiến Sĩ Lê Xuân Nghĩa, Phó Chủ tịch Ủy Ban Tài Chính quốc gia đã dẫn
chứng ra trong 2,39 triệu tỷ đồng dư nợ, thì dư nợ bất động sản chiếm 10,8%. Tỷ lệ nợ xấu
bất động sản trong tổng dư nợ cho vay bất động sản là 4%. Theo nhận định của chuyên gia
kinh tế Huỳnh Bữu Sơn, trước đây quá nhiều ngân hàng chú tâm vào việc cho vay bất động
sản. Tuy nhiên, vốn cho lĩnh vực bất động sản bị siết chặt, bong bóng bất động sản vỡ tan.
Nhiều dự án đóng băng khiến các doanh nghiệp địa ốc điêu đứng Điều này đã khiến cho
SVTH:BùiHảiĐăng Trang19
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
tỷ lệ nợ xấu tăng cao. Những năm gần đây các ngân hàng luôn có xu hướng cho vay ở các
lĩnh vực có rủi ro cao như chứng khoán, vì ngân hàng luôn kỳ vọng sẽ thu được lãi suất cao
đối với những khoản vay đó. Nhưng vốn dĩ bản chất của chứng khoán là rủi ro cao, nên
cũng không thể loại trừ khả năng các khoản cho vay chứng khoán trở thành những con số nợ
xấukhổnglồởcácngânhàngvàthựctếđãchứngminhđiềuđó.
Thứ hai là do quá trình tăng trưởng tín dụng quá nóng ở các ngân hàng, với áp lực về
vốn, nhiều ngân hàng phải tìm cách để tăng trưởng tín dụng. Khi ấy ngân hàng phải tăng lãi
suất huy động lên, điều này kéo theo lãi suất cho vay cũng tăng lên. Lúc này doanh nghiệp
càng gặp nhiều khó khăn hơn vì phải gánh thêm một mức chi phí vốn đang tăng cao, hoạt
động sản xuất trở nên bế tắc, dẫn đến nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản, suy
giảm sản xuất hoặc tạm đóng cửa, và những khoản vay ngân hàng của những doanh nghiệp
đó đã góp phần làm cho tỷ lệ nợ xấu của toàn ngành tăng lên. Bên cạnh đó với áp lực tăng
vốn và một số ngân hàng chưa đạt chuẩn về vốn ban đầu nên vẫn đang cố tìm cách để huy
động vốn và đạt tăng trưởng tín dụng nhanh, khi ấy các ngân hàng sẽ nới lỏng các tiêu
chuẩn cho vay để đảm bảo hiệu quả trên đồng vốn. Cả những khách hàng không đủ các điều
kiện đảm bảo cần thiết cũng được chấp nhận cho vay. Chính điều này là nguyên nhân xuất
hiệnconsốnợxấusaunày.
1.4.2.Cácnhântốkháchquan
Do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế, nền kinh tế vĩ mô trong nước chưa ổn định, tỷ lệ
lạm phát tăng cao, tỷ giá thay đổi làm giá cả nguyên nhiên vật liêu tăng cao, đã làm cho chi
phí đầu vào của doanh nghiệp tăng cao, đầu ra găp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó chính phủ
lại thắt chặt chính sách tiền tệ làm cho lãi suất ngân hàng tăng lên, trong khi doanh nghiệp
lại gặp khó khăn trong sản xuất, thị trường hàng hóa thu hẹp, sản xuất bị đình trệ khiến cho
tình hình tài chính của doanh nghiệp càng xấu hơn, nên nợ xấu của hệ thống ngân hàng tăng
lênlàđiềutấtyếu.
Từ thực trạng của Vinashin cho thấy các cơ quan có thẩm quyền nước ta vẫn có xu
hướng khuyến khích các ngân hàng cấp tín dụng vượt quá mức an toàn thương mại cho
phép để đạt được mục tiêu tăng trưởng đề ra. Bên cạnh đó, chính phủ luôn cứu vớt các
doanh nghiêp quốc doanh gặp vấn đề như là tái cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước thua lỗ,
SVTH:BùiHảiĐăng Trang20
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
nhận các khoản nợ xấu và cố gắng trì hoãn việc đóng cửa các tổ chức tài chính mất khả năng
thanh khoản. Điển hình là thực trạng nợ xấu không thể thu hồi của Vinashin tính đến thời
điểm hiện tại là trên 10.000 tỷ đồng. Thông lệ cứu vớt này đã làm giảm nhu cầu cải thiện
tính hiệu quả ở các ngân hàng, khiến chúng vẫn tiếp tục theo đuổi những dự án đầy rủi ro.
Điều này giải thích tại sao trong 8 ngân hàng niêm yết 9/2011, thì Vietcombank (95% cổ
phần thuộc sở hữu nhà nước – năm 2011, hiện tại là 77,11%) có tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ
cho vay là cao nhất (3,4%), trong khi đó, tỷ lệ nợ xấu ở ngân hàng Sacombank rất thấp
(0,6%) (xem hình 1 trang 4). Hơn nữa, mối quan hệ truyền thống lâu dài giữa các ngân hàng
ngân hàng quốc doanh và các doanh nghiệp nhà nước làm cho chi phí giao dịch với các
doanh nghiệp nhà nước nhỏ hơn so với các doanh nghiệp tư nhân, càng làm tăng thêm xu
hướng các ngân hàng cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước hơn là doanh nghiệp tư
nhân. Đó là lý do tại sao 60% tổng nợ xấu tính trên toàn hệ thống ngân hàng năm 2010 lại
nằm ở các doanh nghiệp quốc doanh. Không những thế mà con số này lại tiếp tục tăng lên
đến 70% vào năm 2011 và 2012. Bên cạnh đó sự can thiệp của chính phủ dẫn đến xu hướng
các doanh nghiệp có tính rủi ro cao thì lại càng được các ngân hàng cho vay nhiều hơn vì
những doanh nghiệp này là mối bận tâm của chính phủ, buộc chính phủ phải tăng cường chỉ
đạocácngânhàngchovay.
Ngoài ra chất lượng tín dụng thấp ở các ngân hàng quốc doanh còn do người quản lý
của các ngân hàng được trao quyền tự chủ trong việc ra quyết định cho vay, nhưng lại
không hoàn toàn chịu trách nhiệm cho chất lượng các khoản cho vay theo quyết định của
họ.
1.5.Tácđộngcủaviệcgiatăngnợxấuđốivớingânhàngvànềnkinhtế
1.5.1Nhữngảnhhưởngcủaviệcgiatăngnợxấuđếnbảnthâncácngânhàng
Việc tỷ lệ nợ xấu tăng đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động của các ngân hàng. Bởi vì
khi con số nợ xấu tăng cao sẽ làm tăng chi phí hoạt động, vì phải trích lập dự phòng nhiều
hơn đối với các khoản nợ nhóm 3, 4, 5. Trong trường hợp thu hồi được vốn nhưng lợi nhuận
thu được giảm so với tính toán khi ký kết hợp đồng tín dụng. Khi lợi nhuận giảm thì những
khoản đóng góp vào ngân sách cũng giảm đi, kéo theo việc đầu tư vào hiện đại hóa công
nghệ ngân hàng, đào tào và nâng cao trình độ cán bộ nhân viên cũng giảm sút. Bên cạnh đó
SVTH:BùiHảiĐăng Trang21
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
khi tỷ lệ nợ xấu tăng cao gấp 2 đến 4 lần tín dụng quốc tế thì uy tín và hệ số tín nhiệm của
ngân hàng bị sụt giảm nghiêm trọng. Một ngân hàng mà mang con số nợ xấu quá cao thì dễ
gây tâm lý hoang mang cho khách hàng lẫn nhân viên. Trong trường hợp ngân hàng mất
vốn, phải khoanh nợ, giảm nợ thậm chí là xóa nợ, ngoài phần lớn phần vốn do ngân sách
cấp bù đắp, chủ yếu do các ngân hàng trích lập dự phòng rủi ro, phải giảm thu nhập, giảm
lương, và lại phải bắt đầu đối mặt với tình trạng cán bộ nghĩ việc, thiếu nhân viên có đủ
năng lực làm việc, mà nguồn nhân lực chất lượng cao thì rất quan trọng đối với hệ thống
ngânhàng,dẫnđếnkếtquảhoạtđộngkinhdoanhcàngđixuống.
1.5.2.Nhữngảnhhưởngcủaviệcgiatăngnợxấuđếnnềnkinhtế
Việc tăng cao của tỷ lệ nợ xấu có tác động gián tiếp đến nền kinh tế thông qua mối
quan hệ hữu cơ ngân hàng – khách hàng – nền kinh tế. Trước tiên nợ xấu sẽ ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh của ngân hàng, sau đó ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế.
Bởi vì khi nợ xấu phát sinh và tăng cao sẽ làm hạn chế khả năng khai thác và đáp ứng vốn,
dịch vụ của ngân hàng cho nền kinh tế. Mặt khác nếu nợ xấu phát sinh do khách hàng hoặc
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả sẽ tác động đến toàn bộ nền kinh tế vì
nguồn vốn bị ứ động và việc sản xuất bị đình trệ làm cho nền kinh tế bị trì trệ, thậm chí là
tuộtdốctheotácđộngdâychuyền.
Bên cạnh đó nợ xấu cao sẽ dẫn đến rủi ro vỡ thanh khoản cao, vỡ cơ cấu kỳ hạn của
ngân hàng trong trường hợp không thu hồi được nợ. Do những mối liên hệ trên thị trường
tài chính nói chung và thị trường liên ngân hàng nói riêng, nên bất kỳ một ngân hàng nào
gặp phải những rủi ro trên thì đều có khả năng sẽ ảnh hưởng đến cả hệ thống. Tỷ lệ nợ xấu
trên tổng dư nợ tăng cao không những ảnh hưởng tiêu cực đến bản thân các ngân hàng mà
còn ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế, do đó giải pháp làm giảm tỷ lệ nợ xấu là hết sức cần
thiết.
SVTH:BùiHảiĐăng Trang22
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
CHƯƠNG2
GIẢIPHÁPHẠNCHẾTÌNHHÌNHNỢXẤU
ĐỐIVỚICÁCNGÂNHÀNGTHƯƠNGMẠIVIỆTNAM
2.1.Giảiphápđốivớibảnthâncácngânhàng
2.1.1.Nângcaochấtlượngtíndụng
Theo nhiều chuyên gia ngân hàng, trước bối cảnh nền kinh tế vĩ mô còn khó khăn,
lạm phát cao, các ngân hàng nên thận trọng trong việc phát triển tín dụng để tránh nguy cơ
rủi ro. Duy trì tốc độ tăng trưởng tín dụng bền vững, đặt chất lượng tín dụng lên hàng đầu.
Thay vì cứ phát triển tín dụng vào lĩnh vực bất động sản, đầu tư chứng khoán như trước đây,
các ngân hàng nên tăng cường giải ngân tín dụng vào các lĩnh vực như nông nghiệp, nông
thôn, xuất khẩu và sản xuất – kinh doanh. Phát triển tín dụng vào lĩnh vực này được cho là ít
rủi ro, ít nợ xấu hơn so với các lĩnh vực như bất động sản, chứng khoán Các ngân hàng
cần nổ lực hơn nữa trong việc giảm dần mặt bằng lãi suất cho vay về mức chấp nhận được
đối với các doanh nghiệp, đồng thời tăng cường tái cơ cấu tín dụng giải ngân vào các lĩnh
vựcantoànhơnđểgiảmthiểutỷlệnợxấu.
2.1.2.Tuânthủđầyđủcácquyđịnhvàđiềukiệncấptíndụngđốivớicácdoanh
nghiêpnhànước
Do ảnh hưởng bởi cơ chế bao cấp của chính phủ đối với những DNNN, nên hầu hết
các DNNN đều khá dễ dàng khi vay vốn tại các ngân hàng quốc doanh hoặc các ngân hàng
có cổ phần nhà nước chiếm đại đa số. Bên cạnh đó sự lỏng lẻo trong thẩm định điều kiện
vay vốn, phương án vay vốn chính là nguyên nhân khiến nợ xấu thuộc về phía DNNN
chiếm tỷ lệ không nhỏ trong tổng nợ xấu của các ngân hàng. Giải pháp bền vững là phải
thay đổi cơ chế cho vay, DNNN cũng như các ngân hàng đều cần phải tuân thủ quy định,
quytrìnhthẩmđịnhvàhạnmứctíndụngnhưkhichovaycáckháchhàngkhác.
2.2.Giảiphápđốivớinhànước
Duytrìnềnkinhtếvĩmôổnđịnh
SVTH:BùiHảiĐăng Trang23
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
Bên cạnh những nỗ lực của các ngân hàng để giảm tỷ lệ nợ xấu, thì cần phải có
những biện pháp đồng bộ từ phía chính phủ: duy trì một nền kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát
được kiềm chế tốt, giảm lãi suất cho vay để khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh.
Song song với những giải pháp mang tính vĩ mô thì Chính Phủ cũng đã đưa ra một số
biện pháp cứng rắn nhằm giải quyết vấn đề nợ xấu còn tồn động như: tái cơ cấu lại các ngân
hàng hoạt động kém hiệu quả, cổ phần hóa các NHTM Nhà Nước nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động cũng như lập ra tổ chức VAMC Công ty quản lý tài sản quốc gia (Nghị định 53
ngày 18/5/2013) nhằm xử lý nợ xấu, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý cho nền kinh tế.
Đồng thời NHNN cũng đã tiến hành phân loại lại các khoản nợ xấu (Thông tư
02/2013/TTNHNN).
SVTH:BùiHảiĐăng Trang24
Chuyênđềngânhàng
GVHD:NguyễnThịLương
PHẦNKẾTLUẬN–KIẾNNGHỊ
1.Kếtluận
Nhìn chung tình hình nợ xấu trên tổng dư nợ ở toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam
tăng dần trong giai đoạn 20102012. Trong đó tỷ lệ nợ xấu tăng cao nhất là vào năm 2011
và năm 2012. Nguyên nhân của thực trạng trên xuất phát từ phía các ngân hàng, lẫn các
nhân tố khách quan bên ngoài, chủ yếu là từ phía chính phủ. Về phía các ngân hàng, năng
lực quản lý chất lượng tín dụng chưa được tốt, chưa xác định đúng đối tượng và lĩnh vực để
phát triển tín dụng. Một số ngân hàng chưa đảm bảo được điều kiện vốn nên sa vào tình
trạng tăng trưởng tín dụng nóng, dẫn theo hàng loạt hậu quả, và cuối cùng làm cho tỷ lệ nợ
xấu trên tổng dư nợ tăng lên. Ngoài ra, con số nợ xấu tăng cao là do những yếu tố khách
quan bên ngoài như tình hình kinh tế vĩ mô chưa ổn định, tỷ lệ lạm phát cao và các chính
sách của chính phủ. Từ thực trạng và nguyên nhân tăng của tỷ lệ nợ xấu được nêu trên thì
nhữnggiảiphápkhắcphụccũngđãđượcđềra
2.Kiếnnghị
Trong những nguyên nhân đã được phân tích ở trên có cả chính sách ưu ái của chính
phủ đối với các doanh nghiệp nhà nước. Rõ ràng đây là một nhân tố quan trọng làm cho tỷ
lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng tăng cao, và số nợ xấu thuộc về các doanh nghiệp
quốc doanh lại chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số nợ xấu trên toàn hệ thống ngân hàng,
nhưng vẫn chưa có biện pháp nào để khắc phục tình trạng này. Liệu có phải là giải pháp tốt
nhất khi chính phủ cứ giang tay cứu vớt, cơ cấu lại tổ chức các doanh nghiệp quốc doanh
mỗi khi vỡ nợ? Không thể loại bỏ được khả năng các doanh nghiệp ỷ lại phía sau họ có
chính phủ chống lưng, bởi họ có làm kiểu gì chăng nữa, chính phủ cũng sẽ cứu họ. Thử hỏi
các doanh nghiệp nhà nước cứ mãi trong vòng tay mẹ thì biết đến bao giờ mới trưởng
thành? Trước thực trạng đó việc chính phủ cần xem lại cách thức quản lý đối với các doanh
nghiệp quốc doanh là hết sức cần thiết vì không chỉ để giải quyết tình trang nợ xấu tăng cao,
mà còn để tạo điều kiện và thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển bên vững, để các doanh
nghiệpViệtNamcóđủbảnlĩnhvànănglựccạnhtranhkhibướcvàosânchơitoàncầu.
SVTH:BùiHảiĐăng Trang25