Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tiểu luận Vấn đề vi phạm bản quyền ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.72 KB, 11 trang )

I. Vi phạm bản quyên :
1. Khái niệm :
1.1. Đối vói một tác phấm :
• Sao chép nguyên văn một phần hay toàn bộ tác phẩm đã có tù' trước nhưng
không có giấy cho phép của người hay giới có bản quyền.
• Bản văn không bị sao chép nguyên văn nhưng toàn bộ ý tưởng chi tiết cũng
như thứ tự trình bày của một tác phẩm bị sao chép. Dạng vi phạm này khó
phát hiện hơn nhưng vẫn có thể cho là một dạng vi phạm bản quyền nếu như
có bằng chứng là "bản sao" bắt chước theo nguyên mẫu.
• Bản văn không bị sao chép nguyên văn nhưng bị thông dịch lại các ỷ tưởng
sáng tạo (thành ngôn ngữ khác hay thành các dạng khác).
1.2. Đối vói một sáng chế :
• Sử dụng lại ý tưởng đã được công bố là sáng chế và baằng sáng chế nguyên
thủy vẫn còn đang trong vòng hiệu lực của luật pháp, cần lưu ý rằng một bằng
sáng chế tại một quốc gia hay địa phương này, sẽ khó có thể dùng để chứng
minh rằng: một ứng dụng nào đó (dựa trên sáng chế đó) tại một quốc gia khác
là vi phạm bản quyền, trù' khi bằng sáng chế đó có sự công nhận của quốc tế.
• Mô phỏng lại, hay viết lại (bằng một ngôn ngữ khác hay cách viết khác)
miêu tả của một ý kiến sáng tạo đã được công nhận là một sáng chế còn trong
thời hạn định nghTa bởi chủ quyền cũng là một dạng vi phạm bản quyền.
Dạng này tương đối khó phát hiện nhưng những dấu tích về cấu trúc ý tưởng
hay phương cách dàn dựng kỹ thuật sè có thê là những dấu tích chứng minh
rằng một sáng chế đã bị đánh cắp hay không. Thí dụ: việc sao chép lại các
sáng chế trong phần mềm bằng cách dùng ngôn ngữ
2
lập trình khác hơn ngôn ngữ của sáng chế nguyên thuỷ vấn thường bị xem là
vi phạm bản quyền nếu người viết lại đó mô phỏng theo ý tưởng đã được cấp
bằng sáng chế.
1.3. Một số điều cần lưu ý :
• Có rất nhiều trường họp hai sáng chế có thế tương tự nhau và không thế xem
là ăn cắp của nhau. Việc chứng minh rằng hai sáng chế là tù’ các ý tưởng độc


lập thường được dựa vào các chi tiết như là ngày tháng, người chứng kiến
(làm chứng) và, quan trọng hơn, các chi tiết chứng tở có sự khác nhau về
nguồn gốc, động lực, hay cách cấu trúc của sáng chế.
• Tuỳ theo quốc gia, các bằng sáng chế sẽ chỉ có hiệu lực trong một thời gian
pháp định nào đó. Các bằng sáng chế có tính quốc tế thường chỉ có hiệu lực
tối đa là 20 năm. Sau thời hạn pháp định này, thì các ý tưởng sáng tạo sẽ mặc
nhiên được xem là kiến thức chung của nhân loại và mọi người sẽ được sử
dụng nó mà không phải xin phép tác quyền.
2. Vấn đề vi phạm bẳn quyền phần mềm tại Việt Nam :
2.1. Những số liệu liên quan đến tình trạng vi phạm bản quyền phần mềm :
a. Trên thế giới :
Hiện nay có khoảng 35% trong tổng số máy tính trên thế giới là sử dụng phần
mềm lậu nhưng tống thiệt hại lên tới 35,6 tỷ USD. Việt Nam và Zimbabwe là 2 quốc
gia đứng đầu bảng vi phạm bản quyền phần mềm với tỷ lệ là 90%, Indonesia đứng
thứ nhì với 87%, Trung Quốc và Pakistan đồng hạng 3 với 86% Ngoài Mỳ ra, các
quốc gia có tỷ lệ vi phạm bản quyền thấp nhất thế giới gồm New Zealand 23%; Áo
26% và Phần Lan 26%. Xu thế hiện nay, tình trạng vi phạm bản quyền đã giảm bớt
tại một số nước có tỷ lệ vi phạm cao như Nga và Trung quốc nhưng nhìn chung thiệt
hại do việc vi phạm bản quyền trên toàn thế giới cũng không hề nhỏ. Có thể lấy dẫn
3
chứng như sau : Mỹ là quốc gia có tỷ lệ vi phạm thấp nhất, chỉ 21%, nhưng với tỷ
trọng tiêu thụ phần mềm lớn nhất thế giới thì 21 % “ít ỏi” này vẫn “móc túi” các nhà
sản xuất phần mềm đến nhừng 6,1 tỷ USD. 84% của Trung Quốc cũng đạt đến con số
“móc túi” là 3,9 tỷ USD và với tỷ lệ vi phạm 47% thì người dùng lậu tại Pháp cũng
đã “tranh thủ” được đến 3,2 tỷ USD.
b. Tại Việt Nam : Là nước có tỷ lệ vi phạm bản quyền phầm mềm thuộc loại lớn
nhất trên thế giới - 90% !
Theo tính toán sơ bộ của Tố chức Phần mềm Thương mại Thế giới (BSA), hiện
VN có tỉ lệ vi phạm bản quyền phần mềm cao nhất thế giới: 90%. Mức độ vi phạm
hằng năm trên 50 triệu USD. Tỉ lệ này trên thực tế còn cao hơn, vì đây mới chỉ là con

số được tính dựa trên phần mềm Microsoft, căn cứ theo đầu máy tính cá nhân có sử
dụng hệ điều hành Microsoft Windows và Microsoft Office, mà chưa kể đến các
phần mềm hệ thống, phần mềm chuyên dụng và các phần mềm cài đặt sẵn trong máy
tính nhập khấu. Thực trạng của ta hiện nay là sờ đâu cũng thấy vi phạm bản quyền
phần mềm, kể cả ở các cơ quan Nhà nước. Tình trạng này khi Việt Nam đã vào WTO
đang được nhà nước cố gắng khắc phục. Neu Chính phủ cứ quyết định "phạt", thì sờ
đâu cũng sẽ "phạt", và sẽ liên tiếp "phạt". "Phạt" càng nhiều, thì số doanh nghiệp
phá sản càng lớn, chứ không hề giúp gì cho việc hạn chế nạn vi phạm bản quyền
phần mềm tại Việt Nam.
Gần đây là vụ việc Thanh tra Bộ Văn hóa Thông tin phối họp với Phòng chống
tội phạm công nghệ cao (C15) tiến hành kiểm tra đột xuất và phát hiện Công ty Gạch
men Mỹ Đức tại Quận 10, TP.HCM đang sử dụng 30 CPU máy tính có cài đặt rất
nhiều phần mềm bất hợp pháp như Từ Dien Lạc Việt; Vietkey, WinZip, WinRar,
Adobe Tống giá trị phần mềm bị vi phạm lên tới 1,5 tỷ đồng. Trước đó không lâu,
vào ngày 5/10/2006, trong đợt thanh tra đột xuất tại Công ty Daewoo-Hanel (Sài
Đồng, Hà Nội), thanh tra liên ngành đã phát hiện nhiều phần mềm vi phạm bản quyền
đang đuợc sử dụng, với trị giá ước tính gần
4
I tỷ đồng. Phạm vi vi phạm, không chỉ những sản phấm phần mềm của nước ngoài
mà cả chính những sản phấm phần mềm trong nước cũng bị vi phạm trên diện rộng
tại các doanh nghiệp có sử dụng phần mềm. Tại Công ty tin học IDC (17 Lý Nam
Đe) và SingPC (số 5 Quốc Tử Giám), co quan chức năng vừa phát hiện nhiều máy
tính, đĩa CD-ROM lậu có chứa các phần mềm bất hợp pháp khác nhau. Riêng SingPC
từng bị xử phạp hành chính về việc vi phạm bản quyền phần mềm hồi tháng 5/2005.
Theo các đơn vị thanh tra, tống giá trị các phần mềm bất họp pháp được cài đặt sẵn
trong các máy tính nói trên khoảng 400 triệu đồng. Tại công ty phát triến tin học
IDC, đoàn thanh tra liên ngành của Bộ Văn hóa Thông tin và Đơn vị phòng chống tội
phạm công nghệ cao, Cục cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức
vụ (Bộ Công an) đã phát hiện
II máy tính thương hiệu Mekong Green và 18 chiếc đĩa CD-ROM lậu có chứa các

chương trình phần mềm khác nhau. Còn Công ty tin học SingPC cũng bị lập biên bản
vì có 15 máy tính thuơng hiệu SingPC được cài đặt sẵn nhiều phần mềm bất họp
pháp để bán cho khách hàng và sử dụng nội bộ như Microsoft Windows, Microsoft
Office, Microsoft Frontpage, Từ điển Lạc Việt, Vietkey, Symantec Norton Antivirus,
WinRAR.
Nhìn chung, các cơ quan chức năng và Chính phủ Việt Nam đã tăng cường việc
thanh tra, xử phạt nhằm đấy lùi tình trạng vi phạm bản quyền phần mềm tràn lan như
hiện nay. Tuy nhiên, khi mức thu nhập bình quân đầu người mỗi năm của Việt Nam
(khoảng trên 600 USD) còn thấp hơn giá của một bộ phần mềm hệ điều hành
Windows XP Professional (trên 300 USD) cùng với bộ phần mềm văn phòng
Microsoft Office 2003 (trên 400 USD) cài trên một chiếc PC, thì áp lực về tài chính
sẽ buộc người sử dụng nghĩ tới giải pháp mua và sử dụng phần mềm lậu với giá chưa
tới 1 USD. Do vậy, nỗ lực ngăn chặn tình trạng vi phạm bản quyền tại Việt Nam
luôn luôn là một bài toán nan giải.
2.2. Những thiệt hai do vi phạm bản quyền phần mềm gây ra :
5
Tệ nạn vi phạm bản quyền có những ảnh hưởng rất xấu về mặt kinh tế như cản trở
sự phát triến của ngành công nghiệp phần mềm trong nước, thất thu thuế và các cơ
hội việc làm của địa phương. "Nhiều người thắc mắc rằng Việt Nam có tỷ lệ vi phạm
bản quyền phần mềm cao nhưng giá trị thiệt hại do vi phạm thực tế lại thấp. Trong
khi đó, tỷ lệ vi phạm ở Mỹ chỉ trên 25% nhưng mức thiệt hại lên tới hơn 7 tỷ USD
mỗi năm", nhưng thực chất điều đó nói lên rằng ngành công nghiệp phần mềm của
Việt Nam gần như không thế phát triến vì nạn xâm phạm bản quyền đã cản trở nó,
không cho tạo ra giá trị đáng kể nào ! Và nếu xét trên khía cạnh là một thị trường ĨT
đang trên đà phát triển, Việt Nam sẽ gặp những khó khăn rất lớn khi thu hút đầu tư và
vấp phải sự quan ngại của các nước khác trong khu vục, trên thế giới.
Tình trạng vi phạm bản quyền sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triến của
lĩnh vực công nghiệp phần mềm -một trong những ngành được xem là sẽ có mức
đóng góp không nhỏ vào sự phát triến của nền kinh tế đất nước. Việc xâm phạm bản
quyền phần mềm sẽ là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của ngành CNTT. Tệ nạn

này không chỉ gây thiệt hại cho các chủ sở hừu mà còn gây ảnh hưởng tai hại đến
chính người tiêu dùng các sản phẩm đó. Không những vậy, sản phẩm được sản xuất
ra tù' sự vi phạm còn có khả năng ảnh hưởng dây chuyền đến cả hệ thống sản xuất
của một ngành, một địa phương. Mặt khác, vi phạm bản quyền còn làm suy yếu cả
nền Công nghiệp phần mềm Việt Nam vốn đã rất yếu: các công ty không nhiệt tình
đầu tư phát triển sản phẩm, chất xám bị phung phí vì những người giỏi không muốn
sáng tạo, thị trường mất đầu tư công nghệ cao của nước ngoài, nhà nước mất tiền
thuế
Phần mềm ra đời và để bảo hộ các quyền của tác giả, chủ sở hữu của nó, pháp
luật đặt ra quy định về bản quyền phần mềm. Với mục đích đó và nhằm khuyến khích
việc phát triển phần mềm, tạo sự lưu thông pháp lý cho hoạt động
6
kinh doanh, sử dụng phần mềm hợp pháp, bản quyền phần mềm phải được tôn trọng
và thực thi để thúc đây sự phát triển xã hội và công nghệ. Khi CNTT và ứng dụng
CNTT trong doanh nghiệp ngày càng phát triển, việc phố dụng trái phép các phần
mềm máy tính không chỉ tạo ra sự thất thiệt cho các doanh nghiệp phần mềm, mà còn
tạo ra sự cạnh tranh không bình đắng giừa các doanh nghiệp. Câu chuyện về bản
quyền phần mềm trở nên quan trọng hơn bao giò' hết, khi cơ chế pháp lý đế phát triển
và bảo hộ quyền tác giả có tác động đến cả cộng đồng doanh nghiệp và sự tăng
trưởng của nền kinh tế.
Vi phạm bản quyền phần mềm không chỉ ảnh hưởng đến kinh tế, làm Nhà nước
thất thu thuế, tăng tỷ lệ thất nghiệp, giảm thu nhập của những người hoạt động trong
lTnh vực phần mềm, khiến doanh nghiệp sản xuất phần mềm không thế thu hồi vốn
và tái đầu tư về tài chính lẫn nguồn lực đế làm ra những sản phẩm tốt hơn, mà còn
làm tổn thương uy tín của Việt Nam.
2.3. Những ảnh hưởng của vấn đề vi phạm bản quyền phần mềm khi Việt Nam
hội nhập :
a. Nguyên nhân của tình trạng vi phạm bản quyền phần mềm :
• Do bắt nguồn tù’ nhận thức lệch lạc về bản quyền kèm theo tác động của giá
bán các phần mềm sao chép lậu rất rẻ. Theo ông Nguyễn Phước Hải, giám

đốc Công ty máy tính CMS : “Không doanh nghiệp nào không biết một
phép tính đơn giản sau: nếu trả bản quyền phần mềm máy tính mất hơn 100
USD/license, trong khi bình thường họ chỉ cần mua 8.000 đồng/đĩa mềm đế
cài đặt cho hàng loạt máy tính của mình. Mặc dù các doanh nghiệp biết
mình đang phạm luật, nhưng thực tế việc vi phạm này được coi là “chiêu
thức cạnh tranh” giữa các doanh nghiệp”.
7
• về mặt pháp lý, hệ thống văn bản pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
của VN đã cơ bản thỏa mãn theo yêu cầu chung của quốc tế, đặc biệt là các
yêu cầu của Tố chức Thuơng mại Thế giới (WTO). Các chủ sở hữu phần
mềm máy tính có đầy đủ các biện pháp để bảo vệ quyền của mình, bao gồm
các biện pháp dân sự, hình sự và các biện pháp hành chính. Tuy nhiên, thực
tế các doanh nghiệp phần mềm trong và ngoài nuớc vẫn phải "hứng chịu"
tình trạng vi phạm bản quyền tới 90% của người dân sử dụng. Lý do rất
nhiều như: các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam chủ
yếu nằm trên giấy, thực tế ít được thực hiện; Biện pháp thực thi chưa đúng;
Thiếu các quy định về trình tự, thủ tục
• Sự phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật còn yếu, hình phạt chưa có
tác dụng răn đe, ngăn chặn Việc xử lý tình trạng vi phạm còn chưa
nghiêm khắc, với mức phạp còn quá thấp nên chưa có tính răn đe.
• Đã có nhiều cố gắng trong việc áp dụng các chế tài nhằm bảo vệ các quyền
sở hừu trí tuệ chống lại các hành vi xâm phạm và đã thu được một số kết
quả nhất định. Mặc dù vậy, nhìn chung hiệu quả bảo đảm thực thi vẫn còn
rất khiêm tốn là do cơ chế bảo đảm thực thi chưa được hoàn thiện, chưa
phát huy đúng mức. Cách tố chức bảo đảm thực thi cũng chưa thực sự phù
hợp. Năng lực chuyên môn về sở hữu trí tuệ của chính hệ thống bảo đảm
thực thi còn chưa đáp ứng với đòi hỏi của thực tiễn.
• về mặt chính quyền, trong cuộc chiến chống tình trạng này, các cơ quan
thực thi còn thiếu sự quyết liệt cần thiết.
b. Những lợi ích thu được từ việc hạn chế vi phạm bản quyền phần mềm :

• Tỷ lệ vi phạm bản quyền giảm xuống còn 84% trong năm 2006 có thế tạo
3.000 việc làm mới trong ngành công nghệ thông tin (CNTT), tăng doanh
thu của ngành CNTT trong nước thêm 750 triệu USD (bao gồm ngành sản
xuất phần cứng và phần mềm CNTT, các dịch vụ CNTT), đóng góp thêm
31 triệu USD tiền thuế thu nhập doanh nghiệp. Neu từ nay đến 2009, tỷ lệ
vi phạm bản quyền ở VN giảm thêm 10 điểm nữa thì sẽ tạo ra 4.097 việc
làm trong ngành công nghệ, thêm 43 triệu USD tiền thuế và 726 triệu USD
doanh thu cho ngành phần mềm trong nước.
Neu giảm tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm thêm 10%, Việt Nam còn có
cơ sở đế hi vọng nâng tốc độ tăng trưởng của ngành công nghệ thông tin từ
76% lên trên 150% trong thời gian tới.
9
II. Thực trạng và giải pháp :
• Thực trạng của ta hiện nay là sò' đâu cũng thấy vi phạm bản quyền phần mềm,
kế cả ở các cơ quan Nhà nước. Tình trạng này khi Việt Nam đã vào WTO đang được
nhà nước cố gắng khắc phục. Neu Chính phủ cứ quyết định "phạt", thì sờ đâu cũng sẽ
"phạt", và sẽ liên tiếp "phạt". "Phạt" càng nhiều, thì số doanh nghiệp phá sản càng
lớn, chứ không hề giúp gì cho việc hạn chế nạn vi phạm bản quyền phần mềm tại
Việt Nam. Nhưng nếu không áp dụng khung pháp lý nghiêm khắc hơn, thì phải giải
quyết tình trạng vi phạm bản quyền phần mềm ra sao? Neu chọn cách mua bản quyền
phần mềm Microsoft thì sẽ tốn một khoản tiền khống lồ. Theo tính toán của các
chuyên gia, trong vòng 5 năm tới, sẽ có khoảng 6 triệu PC mới được sử dụng, có
nghĩa là sẽ phải trả khoảng 3 tỉ USD cho bản quyền phần mềm thông dụng nhất. Neu
Chính phủ mua bản quyền cho các cơ quan Nhà nước, sẽ phải chi khoảng 1 tỉ USD
cho một họp đồng giá trị 3 năm.
Chỉ tính riêng tại TP.HCM, nếu trung bình mỗi công chức chỉ sử dụng một máy
tính, thì số tiền mà ngân sách thành phố phải chi cho bản quyền phần mềm đã lên đến
5 triệu USD bằng mức đầu tư từ ngân sách cho ngành công nghệ thông tin thành phố
trong một năm! Hiện cả nước mới chỉ có 3 đơn vị thực thi đầy đủ bản quyền phần
mềm. Đó là Bộ Tài chính - cơ quan Chính phủ đầu tiên dùng phần mềm có bản quyền

đầy đủ trong toàn bộ hệ thống công nghệ thông tin với việc ký thỏa thuận với
Microsoft để sở hữu 15.000 giấy phép sử dụng Office 2003. Ke đó là Vietcombank
và FPT. Đây toàn là những họp đồng trị giá bạc triệu USD. Do đó các doanh nghiệp
nhỏ không thể áp dụng được phương pháp này.
Vì thế, việc cần thiết hiện nay là Chính phủ cần phải vào cuộc, bằng cách đàm
phán với các nhà sản xuất phần mềm thông dụng nước ngoài có chính sách
10
giá ưu đãi, phù họp với "sức mua", mức thu nhập của người dân Việt Nam.
Điều đó sẽ góp phần khuyến khích người dân sử dụng phần mềm có bản quyền.
• Sử dụng phần mềm có bản quyền cũng là một lối mở trong quá trình hội
nhập của Việt Nam, vì chúng ta buộc phải tuân theo luật bản quyền quốc tế khi tiến
hành hội nhập. Neu chúng ta không tôn trọng luật chung, thì khó mà được các quốc
gia khác tôn trọng, và các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tiếp tục ái ngại khi quyết định
đầu tư vào Việt Nam. Khi chúng ta đã gia nhâp WTO nhưng đế có thế hội nhập một
cách có hiệu quả, tận dụng được mọi lơi thế thì điều kiện chúng ta phải có là tôn
trọng bản quyền, không có cách nào khác là chúng ta đành chấp nhận mất đi vài chục
triệu USD đế các cơ quan nhà nước và người dân được sử dụng các phần mềm có bản
quyền. Chính sách bán phần mềm giá rẻ cho các quốc gia đang phát triển chưa bao
giò' được các hãng phần mềm công nhận một cách chính thức. Họ thường lồng ghép
vào một số chương trình bán sản phẩm có ưu đãi cho một ngành nghề nào đó. Hoặc
đưa trục tiếp vào những bộ máy tính được lắp ráp tại các thị trường khu vực với giá
thấp hơn giá mặt bằng trên thế giới. Vì vậy, chúng ta cần phải khai thông lối mỏ' này
để nhanh chóng bắt tay với các nước có nền kinh tế phát triến. Trong năm nay, hy
vọng sẽ có một bộ phận chuyên trách mang tính xã hội hoá về việc chống nạn sao
chép phần mềm. Đồng thời, các cơ quan quản lý nhà nước sẽ từng bước xây dựng
nhận thức về sử dụng phần mềm có bản quyền từ những cơ quan công quyền cho đến
từng hộ gia đình.
• Việt Nam cũng cần có kế hoạch phát triển phần mềm mã nguồn mở và đưa
những phần mềm có chất lượng này vào sử dụng rộng rãi trong dân chúng. Cụ thể,
trước mắt, thay vì dùng Photoshop giá 800 USD, chúng ta có thể dùng một phần

mềm chỉnh sửa ảnh không chất lượng bằng, nhưng đủ thỏa mãn yêu cẩu công việc
với mức giá chỉ khoảng 100 USD. Đó cũng có thê là một giải pháp cần chính phủ
nghiên cứu !
1
1
III. Kiến nghị:
• Tìm hiểu tận gốc nguyên nhân của tình trạng vi phạm bản quyền, đặc biết là
những nguyên nhân mang tính chất xã hội.
• Nâng cao nhận thức về sử dụng phần mềm có bản quyền ở mọi cấp độ :
Chính Phủ, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân.
• Chính phủ xác địng quan điếm về sở hữu trí tuệ thật rõ ràng. Xây dựng môi
trường pháp lý cho lĩnh vực phần mềm với các điều luật nghiêm minh và thực thi
chặt chẽ.
• Các cơ quan Chính phủ phải đi tiên phong trong việc sử dụng phần mềm họp
pháp.
• Đẩy mạnh việc xây dựng một thương hiệu phần mềm Việt Nam và củng cố
uy tín phần mềm Việt Nam trên thị trường quốc tế.
• Có sự khen thưởng , động viên thích đáng đối với những cơ quan, tố chức
thực hiện nghiêm chỉnh luật sở hữu trí tuệ, luật bản quyền.
• Cần có những chính sách phát triến hợp lý, một bộ luật chặt chẽ về bản
quyền cũng với những văn bản thực thi cụ thế cùng với một cơ chế có hiệu quả và đủ
mạnh đế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

×