Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Giải pháp tăng cường xuất khẩu gạo của Việt Nam.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.25 KB, 77 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Lúa gạo là ngành sản xuất truyền thống của Việt Nam, xuất khẩu gạo chiếm
vị trí quan trọng trong nền Kinh tế quốc dân, là nguồn thu ngoại tệ quan trọng của
đất nước vì kim ngạch xuất khẩu gạo hiện đang đứng đầu trong kim ngạch xuất
khẩu hàng nông sản. Sản phẩm gạo của nước ta do hàng triệu hộ nông dân sản xuất
ra, là một mặt hàng có vị trí hết sức quan trọng bảo đảm an ninh lương thực quốc
gia. Từ chỗ là nước nhập khẩu gạo, Việt Nam đã vươn lên sản xuất đủ ăn, có thừa
để xuất khẩu và xuất khẩu với số lượng đứng thứ hai trên thế giới. Do có những lợi
thế cạnh tranh nên nhiều năm qua dù phải đối mặt với những khó khăn thách thức
nhưng ngành trồng lúa của Việt Nam, hạt gạo của Việt Nam vẫn cạnh tranh được
trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật; nhu
cầu tiêu dùng của thị trường thế giới và thị trường trong nước đòi hỏi ngày càng cao
hơn về chất lượng, tiện lợi trong tiêu dùng; sự cạnh tranh ngày càng gay gắt . Thực
tế ấy đã đặt ra cho mỗi chủ thể của nền kinh tế nói chung, các chủ thể kinh doanh
gạo nói riêng nếu muốn tồn tại, đứng vững và phát triển trong cuộc cạnh tranh đó
phải có chiến lược cạnh tranh thích hợp; phát huy lợi thế so sánh nâng cao sức cạnh
tranh… Đó là những yêu cầu bức xúc cả về lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải có lời
giải đáp vừa mang tính khoa học vừa đảm bảo tính khả thi. Căn cứ vào tình hình và
yêu cầu thực tiễn, việc khai thác triệt để hơn nữa những tiềm năng to lớn của đất
nước trong sản xuất cũng như tìm kiếm cách thức tiếp cận thị trường, giữ vững và
phát triển thị phần mặt hàng gạo có hiệu quả tối ưu luôn là vấn đề đòi hỏi sự nghiên
cứu và giải quyết. Đó không chỉ là vấn đề mà xã hội đang quan tâm, là vấn đề cấp
bách trước mắt mà còn là vấn đề lâu dài bảo đảm sự sống còn của ngành; là vấn đề
rất lớn của nông dân, nông nghiệp, nông thôn khi hội nhập kinh tế quốc tế. Với mục
đích tim hiểu những vấn đề lớn liên quan đến xuất khẩu gạo trong giai đoạn hiện
nay và thử tìm một số giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu gạo Việt Nam, em đã quyết
định lựa chọn chuyên đề : “Giải pháp tăng cường xuất khẩu gạo của Việt Nam”
Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp được vận dụng tổng hợp là
phương pháp thu thập thông tin số liệu từ các nguồn, nghiên cứu thực tiễn các
doanh nhiệp và phương pháp chuyên gia là sự hướng dẫn chuyên môn của giáo
Chuyên đề thực tập


viên hướng dẫn. Đây là một chuyên đề với vấn đề được đề cập tương đối rộng nên
không thể tránh khỏi những thiếu sót, em mong được sự góp ý của mọi người.
Nội dung Chuyên đề thực tập được chia làm ba phần:
Chương 1 : Tổng quan về hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam
Chương 2 : Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian qua
Chương 3 : Phương hướng và giải pháp tăng cường xuất khẩu gạo Việt Nam
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
2
Chuyên đề thực tập
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO
CỦA VIỆT NAM
1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền Kinh tế quốc dân
Xuất khẩu là hoạt động cơ bản của nền Kinh tế quốc dân, là công cụ, phương
tiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Do vậy, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề
có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Vai trò của xuất khẩu thể hiện ở các mặt sau:
- Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá hiện đại
hoá.
Để có được một lượng vốn cho nhập khẩu có thể được hình thành từ nhiều
nguồn như: liên doanh đầu tư nước ngoài với nước ta; vay nợ, viện trợ, tài trợ; hoạt
động du lịch, dịch vụ; xuất khẩu hàng hoá, lao động Nhưng vẫn quan trọng hơn cả
là xuất khẩu hàng hoá. Bởi vì các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ
tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hoặc cách khác. Ngoại tệ thu
được qua các hoạt động du lịch, dịch vụ hiện nay chỉ là rất nhỏ so với nhu cầu về
vốn của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xuất khẩu lao động
không ổn định đang có xu hướng giảm dần. Do vậy, nguồn ngoại tệ quan trọng nhất
chi dùng cho nhập khẩu chính là từ xuất khẩu.
- Đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển:
Việc coi thị trường và đặc biệt là thị trường quốc tế là hướng quan trọng để

tổ chức sản xuất chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản
xuất. Điều này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển. Sự tác động đến sản xuất thể hiện ở chỗ:
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển thuận lợi.
+ Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần thúc đẩy sản
xuất phát triển và ổn định.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất,
nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
3
Chuyên đề thực tập
+ Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao
năng lực sản xuất trong nước thông qua việc thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ từ các
nước phát triển và Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước tạo ra một
năng lực sản xuất mới.
+ Thông qua xuất khẩu, hàng hóa của Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh
tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi
chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được
với mọi thị trường.
+ Xuất khẩu còn đòi hỏi Doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công
việc quản trị sản xuất và kinh doanh.
- Xuất khẩu có tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống nhân dân:
Việc xuất khẩu sản phẩm hàng hoá qua các thị trường quốc tế phải cần một
lượng lớn nhân công để sản xuất và hoạt động xuất khẩu thu về một lượng ngoại tệ
đáng kể để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu
ngày càng đa dạng, phong phú của nhân dân.
- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối
ngoại của nước ta:
Quan hệ kinh tế đối ngoại bao các hoạt đông giao lưu giữa các nước với

nhau. Trong đó xuất khẩu là một hình thức của hoạt động kinh tế đối ngoại. Điều
này làm cho hoạt động xuất khẩu cùng với các mối quan hệ kinh tế quốc tế khác
làm cho nền kinh tế nước ta gắn chặt với nền kinh tế thế giới và tham gia vào phân
công lao động quốc tế.
2. Tiềm năng sản xuất lúa gạo của Việt Nam
2.1. Đặc điểm về lao động, sản xuất, đất đai, thời tiết, khí hậu của Việt Nam và
khả năng cung ứng thóc gạo
2.1.1. Đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu thuận lợi
Việt Nam là nước nông nghiệp nhiệt đới, đồng thời cũng là một nước có
nghề trồng lúa nước phát triển từ lâu đời và đã đạt đỉnh cao của nền văn minh lúa
nước. Người nông dân Việt Nam đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong nghề
trồng lúa. Điều kiện tự nhiên nhìn chung là thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp nói
chung và sản xuất lúa nói riêng. Nhiệt độ trung bình hàng năm 22-27
0
C, hàng năm
có khoảng 1500-2000 giờ nắng và khoảng 100 ngày mưa với lượng mưa trung bình
1500-2000 mm, độ ẩm trung bình 80-87%. Trên mặt đất có 2860 con sông ngòi với
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
4
Chuyên đề thực tập
653,6 nghìn ha ao; 85 nghìn ha đầm lầy. Sự hội tụ của những yếu tố này cùng với
khoảng 21% đất nông nghiệp chiếm trong tổng diện tích đất tự nhiên bảo đảm thuận
lợi cho việc phát triển nông nghiệp nói chung và ngành trồng lúa nói riêng.
Nói về vùng lúa, đã từ lâu: Việt Nam có hai vùng châu thổ: sông Hồng và
sông Cửu Long với điều kiện tự nhiên thuận lợi, đất đai màu mỡ đã phát triển nghề
trồng lúa sớm và cũng là hai vùng có sản lượng lúa lớn cung cấp cho cả nước và
cho xuất khẩu.
Vùng đồng bằng sông Hồng: đất đai màu mỡ, độ phì cao, với những cánh
đồng bằng phẳng thích hợp cho phát triển cây lúa nước. Tuy nhiên cũng có những
khó khăn nhất định. Vụ lúa chiêm xuân được bắt đầu vào mùa đông giá rét, có

những lúc nhiệt độ xuống quá thấp (dưới 10
0
C) gây khó khăn cho việc gieo mạ, cấy
lúa, nhiều khi phải gieo đi gieo lại (do mạ chết rét) có những thời kỳ phải gieo mạ
trên sân để tránh rét sau đó chuyển ra cấy đại trà tại ruộng. Qua mùa rét, trời sang
xuân, mưa xuân đến, cây phát triển nhưng cũng là môi trường thuận lợi cho sâu
bệnh phát triển. Vụ lúa mùa thường gặp bão lụt, ngập úng xảy ra đã gây nhiều khó
khăn cho công tác phòng chống bảo vệ đê điều, phòng chống bão lụt hạn chế tác hại
của thiên tai.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long: nhìn chung khí hậu ôn hòa hơn những
vùng khác và đặc biệt là vùng duy nhất ít và không bị ảnh hưởng của bão lũ và rét.
Khí hậu ở đây hình thành nên hai mùa rõ rệt: gọi là mùa nắng và mùa mưa. Mùa
năng (khô) kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4, mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng
10 hàng năm. Nhiệt độ trung bình trong năm khoảng 27
0
c, số giờ nắng trung bình
khoảng 2500 giờ, lượng mưa trung bình khoảng 1500-2000mm.
Đất đai ở vùng đồng bằng sông Cửu Long bằng phẳng, độ phì cao, có điểm
phù sa dầy tới 70m. Quỹ đất để phát triển nông nghiệp ở vùng này rất lớn, chiếm tới
35,5% tổng diện tích đất nông nghiệp của cả nước và nó gấp khoảng 3 lần diện tích
đất nông nghiệp của vùng đồng bằng sông Hồng. Đây là vựa lúa lớn nhất của cả
nước, chiếm tới 50% sản lượng. Mùa vụ trong năm liên tục kế tiếp nhau, vì thế việc
sản xuất, thu hoạch chế biến cung ứng cho tiêu dùng và xuất khẩu diễn ra quanh
năm. Trong tổng diện tích đất nông nghiệp ở đây điểm đáng chú ý nhất là vùng phù
sa nước ngọt nằm ven và nằm giữa hai con sông lớn: Tiền Giang và Hậu Giang, với
diện tích khoảng 1200 nghìn ha (chiếm 29,2% diện tích đất đồng bằng) rất thích
hợp cho việc trồng cấy và phát triển cây lúa nước.
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
5
Chuyên đề thực tập

Tuy đồng bằng sông Cửu Long là vùng thuận lợi và có nhiều tiềm năng phát
triển nông nghiệp nhất so với các vùng khác của cả nước, nhưng như vậy không
phải là không có những khó khăn thách thức con người. Những khó khăn đó nó
đang đòi hỏi trí thông minh, lòng dũng cảm, sự cần mẫn của con người Việt Nam
muốn phát triển phải chủ động khắc phục và khống chế những tác hại do nó gây ra.
Hiện nay, diện tích bị nhiễm phèn mặn còn đang chiếm khoảng 60% tổng diện tích
mùa lũ về, khi nước sông vượt quá lưu tốc 25.000m
3
/giây thì không chủ động khống
chế được lũ tràn gây ra cho khoảng 25% diện tích bị ngập nước, có nơi ngập đến
4m. Khi mùa khô đến dòng chảy ở mức dưới 6.000m
3
/giây thì nhiều nơi khan hiếm
nước ngọt và nước biển tràn vào, do sông rạch nhiều nên nước biển vào rất sâu
trong đất liền, có nơi sâu tới 50km gây ra diện tích bị nhiễm mặn lớn và rất tác hại
cho việc sinh trưởng của cây lúa nước.
Tuy có khó khăn nhưng hai vùng đồng bằng châu thổ có những thuận lợi là
cơ bản. Chúng ta hoàn toàn có khả năng, điều kiện để phát huy những thuận lợi và
hạn chế những khó khăn nêu trên.
Ngoài hai châu thổ trồng lúa lớn nhất cả nước như trên, Việt Nam còn có
những vùng trồng lúa khác với diện tích ít hơn và nằm xen kẽ với những vùng thuận
lợi cho phát triển cây công nghiệp như vùng miền núi phía Bắc và Tây nguyên,
vùng Trung du bán sơn địa, ven biển miền trung. Mỗi vùng đều có điều kiện tự
nhiên khác nhau và cây lúa luôn được cấy trồng như một nghề truyền thống của
người làm nông nghiệp.
Với những điều kiện như trên, tiềm năng sản xuất lúa gạo của nước ta là rất
lớn.
2.1.2. Đặc điểm về khả năng cung ứng thóc gạo
Do diện tích trồng lúa có “tính giới hạn” nhất định, nên xét tổng thể trong
một mùa vụ lượng thóc gạo cung ứng ra thị trường là một đại lượng xác định và nó

kém co giãn đối với sự biến động của giá cả. Bởi vì: ngay sau khi thu hoạch, cùng
một thời điểm, do nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất và nhu cầu tiêu dùng cho cuộc
sống của chính người trồng lúa đòi hỏi (mua vật tư, phân bón, giống, phục vụ chu
kỳ sản xuất tiếp theo và các hàng tiêu dùng hàng ngày) buộc những người trồng lúa
cùng đưa thóc, gạo ra bán, bất luận giá trên thị trường cao hay thấp, dẫn đến cung
vượt quá cầu tại thời điểm đó gây ra giá thóc gạo giảm, thậm chí có thời điểm giảm
thấp hơn chi phí sản xuất, người sản xuất có thể bị lỗ vốn nhưng họ không thể giữ
sản phẩm của mình lại để chờ khi nào giá trên thị trường tăng lên mới đưa sản phẩm
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
6
Chuyên đề thực tập
ra bán, vì nếu làm như vậy sẽ không có vốn để tiếp tục thực hiện chu kỳ sản xuất
mới. Đặc điểm này càng đậm nét ở những vùng sản xuất lúa tập trung như ĐBSCl.
Điệp khúc “được mùa, rớt giá” chính là ở những thời điểm này mà người sản xuất
không tự mình khắc phục được.
2.1.3. Lợi thế về nguồn nhân lực
Yếu tố nhân lực không chỉ có ưu thế lớn về số lượng nhân lực mà còn có ưu
thế lớn về chất lượng, về sự tinh thông, am hiểu nghề trồng lúa. Lịch sử sản xuất lúa
của Việt Nam đã trải qua hơn 6000 năm kể từ thưở cộng đồng nguyên thuỷ người
Việt cho đến khi ra đời nhà nước Văn Lang và cho tới nay, đã được các thế hệ đúc
rút và để lại nhiều tri thức, kinh nghiệm quí báu. Kho tàng kinh nghiệm đó thực sự
là một lợi thế đặc biệt, nó cho phép khai thác triệt để những lợi thế thông thường
của các tài sản thiên nhiên như tài sản đất, tài sản nước, tài sản khí hậu.
Tóm lại, Việt Nam có nhiều lợi thế cơ bản trong sản xuất và xuất khẩu gạo.
2.2. Đặc điểm về thị trường giá cả
Xét về tổng thể cầu thóc gạo cũng kém co giãn đối với sự biến động của giá
cả. Bởi vì: cho dù giá thóc gạo trên thị trường cao hay thấp, người tiêu dùng cũng
chỉ sử dụng một khối lượng nhất định, không vì giá hạ tại thời điểm cung lớn hơn
cầu mà họ mua quá nhiều để tiêu dùng nhiều hơn do đó càng tạo ra xu hướng ép giá
hạ xuống, ngược lại, không vì quá đắt mà họ không ăn, mua ít đi đến mức không đủ

duy trì sự sống.
Từ khi hộ gia đình nông dân được công nhận là đơn vị kinh tế tự chủ thì thóc
gạo cung ứng ra thị trường do hàng triệu hộ nông sân sản xuất tạo nên một thị
trường cạnh tranh hoàn hảo. Ở thị trường đó mỗi người sản xuất chỉ cung ứng ra thị
trường một khối lượng thóc gạo rất nhỏ so với tổng lượng cung của xã hội, mỗi
người sản xuất không thể độc quyền được về lượng cung nên họ cũng không độc
quyền về giá cả mà phải chấp nhận mức giá hình thành trên thị trường; họ tham gia
hay rút khỏi thị trường cũng không ảnh hưởng đến mức giá đã hình thành. Đồng
thời họ cũng không có vị trí biệt lập trên thị trường bởi người mua có thể tự do lựa
chọn người bán mà không cần biết người bán đó là ai, loại thóc, gạo đó sản xuất ở
vùng nào.
Trong lịch sử của thị trường thóc gạo đã xảy ra nhiều trường hợp giá thóc gạo
giảm mạnh, gây thiệt hại cho người sản xuất; đáng chú ý nhất là năm 1989 khi cuộc
giải phóng cơ chế bao cấp chuyển sang sản xuất kinh doanh thóc gạo theo cơ chế thị
trường, bắt đầu tình trạng dự trữ lúa gạo “tích cốc phòng cơ” của hàng triệu hộ nông
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
7
Chuyên đề thực tập
dân không còn, tình trạng găm hàng của các Doanh nghiệp kinh doanh giảm thiểu;
khối lượng thóc gạo đó được đưa ra thị trường cộng với vụ mùa thu hoạch thắng lợi
tạo ra một lượng cung lớn hơn cầu, làm cho giá thóc trên thị trường giảm, giảm đến
mức ngang và thấp hơn chi phí sản xuất và giá thành, người sản xuất sau khi bán
sản phẩm của mình không bù đắp đủ chi phí sản xuất, người nông dân thua lỗ
nặng…
Bên cạnh đặc điểm trên, việc mua, bán lúa hiện nay ở vùng ĐBSCL có nhiều
điểm đáng chú ý: Các Doanh nghiệp xuất khẩu chỉ tổ chức mạng lưới mua lúa trực
tiếp của người sản xuất được khoảng 20%, 80% còn lại mua qua “trung gian” và lực
lượng này luôn ép giá bán của người sản xuất xuống dưới giá mà các Doanh nghiệp
xuất khẩu mua; vì vậy lợi nhuận của người sản xuất luôn bị giảm sút.
Từ những luận giải trên cho thấy: quy luật tự điều chỉnh của thị trường luôn tác

động làm dịch chuyển (thậm chí phá vỡ) cơ cấu sản xuất, cơ cấu cây trồng làm cho
sản xuất không ổn định, người sản xuất không yên tâm đầu tư do giá cả không ổn
định, có thể dẫn đến thua lỗ, phá sản. Trong quá trình kinh doanh người trồng lúa
cũng nhận biết được điều đó nhưng dù họ cố gắng cũng không thể tự khắc phục để
giảm thiểu sự tác động bất lợi của thị trường mà đỏi hỏi phải có sự can thiệp, hỗ trợ
của Nhà nước.
3. Những nhân tố tác động đến xuất khẩu gạo Việt Nam
3.1. Nhóm nhân tố trực tiếp:
3.1.1. Những nhân tố tác động từ bên ngoài
3.1.1.1. Cung- cầu, giá cả gạo trên thị trường thế giới
Các nước đang phát triển sản xuất khoảng 90% sản lượng lúa thế giới, tập
trung chủ yếu ở châu Á với hai cường quốc đứng đầu về sản xuất lúa gạo là Trung
Quốc và Ấn Độ, tiếp đến là Bangladesh, Việt Nam, Thái Lan, Nhật Bản, Philippin.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự báo: mậu dịch gạo thế giới sẽ tăng vững với tốc độ
2,4%/năm, đạt tới 33,3 triệu tấn vào năm 2012 . Trong 10 năm tới ba nước xuất
khẩu gạo lớn nhất thế giới là Thái Lan, Ấn Độ và Việt Nam sẽ tăng xuất khẩu với
tốc độ nhanh: 2,3%/năm (Thái Lan), 4%/năm (Ấn Độ) và 3,7%/năm (Việt Nam).
Các nước nhập khẩu gạo được chia làm hai nhóm: nhóm các nước thường
xuyên phải nhập khẩu và nhóm các nước nhập khẩu không thường xuyên. Nhóm
các nước nhập khẩu thường xuyên chiếm tỷ trọng 80-90% tổng lượng gạo trao đổi
trên thị trường, bao gồm các nước ở khu vực Trung Đông, Châu Mỹ La tinh, Châu
Phi và một vài nước châu Á. Tại châu Á, Bộ Nông nghiệp Mỹ dự báo: Indonesia sẽ
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
8
Chuyên đề thực tập
là nước nhập khẩu gạo lớn nhất trong 10 năm tới với tốc độ tăng cao nhất: bình
quân 7,3%/năm; kế đó là các nước ở Trung Đông như I Rắc. I Ran, Ả rập Xê út,
tăng: 2%-2,5%/năm. Nhóm các nước nhập khẩu không thường xuyên, chỉ tiến hành
những thương vụ nhập khẩu nhất định khi sản xuất lúa gạo trong nước xảy ra tình
trạng cung bị thiếu hụt so với cầu như Trung Quốc, Philippin…

Chính nhu cầu không ổn định về nhập khẩu của những nước này là nguyên
nhân gây ra những biến động về cung – cầu và sự không ổn địng của giá gạo trên thị
trường thế giới. Mặt khác, vì sản xuất lúa gạo phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, nếu
thời tiết không thuận gây ra mất mùa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cung cầu, giá cả.
Trong tình thế như vậy, gạo Vỉệt Nam lại chưa chắc chắn trên thị trường thế giới
nên phải chấp nhận giá hình thành khách quan trên thị trường, đó là một thách thức
rất lớn trong quá trình cạnh tranh quốc tế.
3.1.1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa thương mại
• Thị trường được mở rộng, khả năng cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam
được tăng cường.
Hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa thương mại có đặc trưng là những “rào
cản” không hợp lý sẽ bị dỡ bỏ, hàng hóa lưu thông tự do; cơ chế bảo hộ vi phạm
luật pháp và thông lệ quốc tế không được áp dụng. Điều đó sẽ giúp cho Việt Nam
có thêm cơ hội thâm nhập vào những thị trường lớn, ổn định và những thị trường
cao cấp như Mỹ, Nhật Bản, châu Âu, Singapore. Thị trường được mở rộng, đến lượt
nó sẽ tác động tích cực trở lại đối với sản xuất lúa gạo trong nước về các yêu cầu
nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu, đa dạng hóa các loại gạo, chất lượng gạo đáp
ứng yêu cầu của từng loại thị trường.
Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ cho phép tiếp cận thị trường nhiều hơn, giúp tốc
độ buôn bán tăng hơn khi chưa hội nhập bởi số người tiêu dùng tăng, sức mua tăng.
• Tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh và do đó làm giảm chi phí
sản xuất, chi phí lưu thông.
Với lộ trình hội nhập kinh tế và tự do hóa thương mại đang được thực hiện,
người sản xuất và kinh doanh lúa gạo có cơ hội tiếp cận được với những tín hiệu
khách quan trên thị trường thế giới về: cung cầu, giá cả… giúp người sản xuất kinh
doanh nắm bắt được những thách thức sống còn. Điều đó đã buộc họ phải điều
chỉnh cơ cấu sản xuất, quy hoạch sản xuất ở những vùng hội tụ những điều kiện
thuận lợi đối với phát triển nghề trồng lúa; cắt bỏ những diện tích ở khu vực không
có lợi thế so sánh; Tăng cường đầu tư thâm canh tăng năng suất, giảm chi phí cây
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a

9
Chuyên đề thực tập
trồng. Những Doanh nghiệp chế biến, lưu thông lúa gạo muốn duy trì hoạt động và
phát triển buộc phải áp dụng công nghệ tiên tiến, cải tiến quản lý, hợp lý hóa cơ cấu
tổ chức, quy trình sản xuất kinh doanh để giảm chi phí sản xuất lưu thông tạo nên
những loại gạo cạnh tranh được trên thị trường.
• Nâng cao hiệu quả kinh tế:
Thực hiện tự do hóa thương mại sẽ giúp cho ngành lúa gạo Việt Nam tiếp
cận gần gũi hơn với nền kinh tế thế giới đang vận hành theo cơ chế thị trường. Theo
đó những lợi thế so sánh của ngành trồng lúa sẽ được phát huy; việc sử dụng tài
nguyên nguồn lực của đất nước sẽ gắn với nhu cầu của thế giới làm tăng hiệu quả
chung của đất nước. Cùng với nó, việc xóa bỏ những rào cản thương mại bất hợp
lý… sẽ làm giảm chi đầu vào quan trọng của ngành trồng lúa, làm giảm giá thành
sản xuất lúa gạo, tăng hiệu quả. Tuy hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra những cơ hội
cho ngành lúa gạo như vậy nhưng cũng chứa đựng nhiều tác động tiêu cực. Đáng
chú ý là nền kinh tế thế giới và khu vực còn ẩn chứa nhiều nhân tố bất trắc; tình
hình tài chính- tiền tệ, giá cả, tỷ giá còn chứa đựng nhiều nhân tố không ổn định,
khó dự báo… không loại trừ khả năng tiềm ẩn xảy ra các cuộc khủng hoảng về kinh
tế và tài chính mới… Tình hình đó sẽ tác động tiêu cực đến nền kinh tế nói chung
và kinh doanh lúa gạo nói riêng.
3.1.1.3. Cạnh tranh xuất khẩu gạo trên thế giới
Việt Nam tham gia thị trường xuất khẩu gạo cùng với khoảng trên 10 nước
xuất khẩu gạo chủ yếu; trong đó các đối thủ cạnh tranh chính có thể kể đến là Thái
Lan, Pakistan, Ấn Độ, Hoa Kỳ… Đây là những nước có số lượng xuất khẩu lớn, thị
trường ổn định và chất lượng sản phẩm tốt, tính cạnh tranh cao. Không những thế
một số nước (Thái Lan, Hoa Kỳ…) lại thường xuyên áp dụng những chính sách hỗ
trợ đối với sản xuất lúa gạo giúp nông dân phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng
đáp ứng nhu cầu của thị trường; hỗ trợ đối với xuất khẩu thông qua các giải pháp
xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, khuyến khích xuất khẩu… chính vì thế
những “đối thủ” này luôn là những thách thức đối với các Doanh nghiệp xuất khẩu

gạo Việt Nam.
3.1.2. Những nhân tố từ nội tại nền kinh tế trong nước
Như đã phân tích, ngành lúa gạo của nước ta có ưu thế cạnh tranh mạnh về
chi phí sản xuất lúa, tính đa mùa vụ, chi phí lao động rẻ, môi trường chính trị và
môi trường cạnh tranh tốt… Tuy nhiên, nó cũng tiềm ẩn những nhân tố tác động
thuận và không thuận từ nội tại nền kinh tế.
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
10
Chuyên đề thực tập
Để phấn đấu bảo đảm ổn định sản lượng lúa 40 triệu tấn năm nhằm thực hiện
chiến lược an ninh lương thực quốc gia trong điều kiện đến hết năm 2010 phải
giảm 102.000ha đất lúa chuyển sang nuôi trồng thủy sản và cây trồng khác; đòi hỏi
phải tăng cường đầu tư thâm canh, đầu tư để tăng năng suất và chất lượng, trồng các
giống lúa mới có chất lượng cao, quy hoạch vùng chuyên canh lúa gắn với xuất
khẩu gắn chế biến với tiêu thụ… chắc chắn chi phí sản xuất lúa sẽ tăng. Tuy nhiên
chi phí sản xuất tăng đến mức độ nào thì còn tùy thuộc vào việc xử lý mối quan hệ
tăng năng suất lao động và tăng chi phí đầu tư.
Xét chung cả nền kinh tế, mức tăng trưởng trong những năm qua đạt tốc độ
tăng trưởng cao. Những năm tới mục tiêu mà Đại hội IX đã đưa ra là phấn đấu đến
hết năm 2010 tăng GDP lên gấp đôi năm 2000, Đại hội X nêu chỉ tiêu phấn đấu đến
năm 2010 thì GDP bình quân đầu người khoảng 1050-2200 USD; như vậy thu nhập
của các tầng lớp dân cư sẽ tăng và suy cho cùng là sức mua của các tầng lớp dân cư
tăng. Sức mua tăng sẽ kích thích thay đổi cơ cấu tiêu dùng gạo chuyển từ trạng thái
“no sang trạng thái ngon”, cơ cấu tiêu dùng thay đổi yêu cầu cơ cấu cây trồng phải
thay đổi theo hướng sản xuất loại gạo có chất lượng, gạo đặc sản, thơm ngon, giàu
dinh dưỡng… Sự chuyển dịch của sản xuất từ loại gạo thường sang loại gạo ngon
để đáp ứng nhu cầu của thị trường là tốt; tuy nhiên thường những loại sản phẩm này
chi phí đầu tư cao mà năng suất lại thấp tạo ra sức ép tăng giá thành, kích thích tăng
giá cả làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh.
Một loạt những yếu tố khác như: kết cấu hạ tầng kinh tế yếu kém (đường xá,

cơ sở chế biến, kho tàng, các trung tâm giao dịch…); lưu thông hàng hóa còn khó
khăn…Tình trạng độc quyền, liên minh độc quyền cạnh tranh không lành mạnh,
kinh tế ngầm (cả đầu vào và đầu ra); các hiện tượng đầu cơ tăng giá, phá giá, ép giá,
gian lận về giá chưa được kiểm soát có hiệu quả; khẳ năng điều hòa cung cầu giữa
các vùng miền, các mùa vụ còn hạn chế…đã tác động lớn đến khả năng cạnh tranh
của lúa gạo. Ngoài ra, các yếu tố thiên tai, mất mùa cũng sẽ làm cung cầu căng
thẳng, giá cả bị “Biến dạng”.
3.2. Nhóm nhân tố gián tiếp
Nhóm nhân tố gián tiếp chính là các chính sách kinh tế vĩ mô như Chính
sách tài khóa, Chính sách tiền tệ, Chính sách tỷ giá, hoạt động của ngân hàng
thương mại, Chính sách thương mại…
Nếu chính sách tài khóa kém bền vững; chính sách tiền tệ không kích thích
được sản xuất phát triển, không kiểm soát được lạm phát, chính sách tỷ giá thiếu
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
11
Chuyên đề thực tập
linh hoạt và phi thị trường… sẽ ảnh hưởng lớn thậm chí làm suy giảm khả năng
cạnh tranh của ngành lúa gạo. Nếu các chính sách trên được vận hành theo chiều
hướng tốt sẽ góp phần vào đảm bảo nâng cao khả năng cạnh tranh của lúa gạo.
Tuy được coi là những nhân tố gián tiếp, nhưng công cuộc cải cách tài chính
tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô khác ở nước ta trong thời gian tới ngày càng
theo hướng thị trường hơn thì sức cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam sẽ chịu tác động
trực tiếp hơn trước của các yếu tố tài khóa, tiền tệ, đầu tư
4. Sự cần thiết tăng cường xuất khẩu gạo
Sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam có những lợi thế cơ bản như lợi thế
về đất đai, khí hậu, nước tưới tiêu, nguồn nhân lực, vị trí địa lý và cảng khẩu. Chính
những lợi thế đó đã làm cho sản lượng lúa tăng đều đặn trong những năm qua. Dân
số nước ta với 80% dân số tập trung ở nông thôn, phần lớn sinh sống bằng sản xuất
lúa gạo và trồng cây lương thực. Trong khi đó, đời sống ở nông thôn và thành thị có
sự chênh lệch đáng kể. Đời sống của người nông dân còn thấp, xét cả về mức thu

nhập bình quân đầu người, điều kiện vật chất và cơ sở hạ tầng v v… Với tình trạng
đó thì việc phát triển sản xuất lúa gạo và xuất khẩu gạo để nâng cao thu nhập cho
nông dân góp phần xây dựng nông thôn ngày một giàu mạnh là điều thật sự cần
thiết. Mục tiêu chủ yếu sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy, đẩy mạnh xuất khẩu nói chung là
đòi hỏi cấp bách nhằm tăng ngoại tệ, giải quyết vốn cho công nghiệp hóa. Trước
tình hình đó, lúa gạo đã đột phá vươn lên để giữ vị trí mặt hàng xuất khẩu lớn của
nước ta. Trong suốt 21 năm qua (1989 – 2009), riêng kim ngạch xuất khẩu gạo đã
đạt trên 19 tỷ USD…Con số đó đã nói rõ sự cần thiết của việc xuất khẩu gạo đối với
công cuộc đổi mới kinh tế của đất nước.
Qua những điều cơ bản đã nêu ở trên, chúng ta thấy rõ sự cần thiết phải xuất
khẩu gạo cũng như tính đúng đắn của định hướng xuất khẩu gạo là lẽ tất nhiên để
khai thác lợi thế so sánh của ngành. Mở cửa nền kinh tế, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế là chấp nhận cạnh tranh với những đối thủ hùng mạnh ở cả thị trường trong
nước và ngoài nước .
5. Kinh nghiệm xuất khẩu gạo của nước ngoài và bài học cho Việt Nam
5.1. Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái Lan là quốc gia xuất khẩu gạo số 1 của thế giới, đối thủ cạnh tranh chính
của Việt Nam trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của lúa gạo, sản xuất và xuất
khẩu gạo của Thái Lan có những đặc điểm nổi bật, đáng chú ý sau :
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
12
Chuyên đề thực tập
• Lựa chọn cơ chế giống hợp lý, chú trọng những loại giống lúa tạo ra loại gạo
có chất lượng cao phù hợp với đòi hỏi của thị trường
Thái Lan đã chú trọng công tác quy hoạch đối với những vùng trồng chủ yếu
các giống lúa có chất lượng cao (trong sản lượng lúa hàng năm có 50-55% là giống
lúa thơm, 20-25% là giống lúa nếp, còn lại là lúa thường). Đáng chú ý là Thái Lan
đầu tư nâng cấp và phát triển mạnh giống lúa Jasmine (hương nhài) lên thành loại
gạo đặc sản hạt dài có hương thơm tự nhiên, lượng Protein cao. Chính vì vậy mà

loại gạo này Thái Lan bán được tới 560-565 USD/tấn (FOB).
Các loại lúa thường, Thái Lan cũng chú trọng áp dụng công nghệ sinh học, tiến
bộ kỹ thuật trong việc xử lý giống, khắc phục những giống lúa lai tạp, tạo ra những
giống lúa thuần chủng. Vì vậy, mặc dù năng suất lúa của Thái Lan thấp nhưng
ngành trồng lúa của Thái Lan đã cho ra những loại gạo thường có độ đồng nhất cao,
màu sắc tốt… được khách hàng ưa chuộng
• Chuyển dịch mùa vụ vào thời điểm thị trường có giá cao
Lúa của Thái Lan được trồng làm 2 vụ: vụ 1 thu hoạch từ tháng 11 đến hết
tháng giêng năm sau; vụ 2 thu hoạch vào các tháng 5,6,7. Qua tác động của thị
trường, ngành Nông nghiệp Thái Lan đã chủ động chuyển dịch mùa vụ theo hướng
tăng sản lượng vụ 1 và giảm sản lượng của vụ 2. Thời điểm thu hoạch lúa vụ 1
chính là vào thời điểm thị trường có giá cao (các nước khác ít có vụ thu hoạch lúa
vào thời kỳ này) nên Thái Lan xuất khẩu gạo thường được giá có lợi hơn các nước
khác

• Quy mô cung ứng lớn nhất trong các nước xuất khẩu gạo của Thế giới
Nhiều biện pháp Thái Lan đã áp dụng như: Điều chỉnh cơ cấu sản xuất trong
nước, hướng và bám theo nhu cầu của thị trường; áp dụng các biện pháp tìm kiếm
thị trường có hiệu quả: thông qua đàm phán Chính phủ, thông qua hoạt động xúc
tiến thương mại, giao lưu kinh tế… Chính vì vậy, gạo của Thái Lan cạnh tranh được
với nhiều nước và chiếm tỷ trọng xuất khẩu gạo ra thị trường lớn nhất so với tỷ
trọng của các nước cùng xuất khẩu gạo ra thị trường thế giới.
• Chi phí sử dụng nguồn lực nội địa có hiệu quả, giá bán lại cao hơn các nước
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
13
Chuyên đề thực tập
Ngành nông nghiệp Thái Lan rất chú trọng áp dụng các giải pháp sử dụng
nguồn lực có hiệu quả thông qua các biện pháp hạ chi phí sản xuất, chế biến, giảm
giá thành gạo xuất khẩu. Tuy giá vốn gạo xuất khẩu của Thái Lan còn cao hơn của
Việt Nam (225 USD/ khoảng 179 USD/tấn) nhưng thấp hơn nhiều so với giá vốn

gạo của Nhật và Mỹ (225 USD/1910 USD và 314 USD/tấn). Nhưng ngược lại chi
phí dịch vụ xuất khẩu tại cảng chỉ bằng 1/ 2 chi phí dịch vụ xuất khẩu tại cảng của
Việt Nam; Công xuất xếp dỡ tại cảng cao gấp 6 lần chi phí bốc xếp tại cảng Việt
Nam.
Cùng với chi phí sản xuất chế biến thấp, do gạo của Thái Lan chất lượng tốt
cộng với hoạt động thị trường có hiệu quả, gạo của Thái Lan được giá hơn gạo cùng
loại của các nước. Nếu so với gạo của Việt Nam: Những năm trước, giá gạo của
Thái Lan bán thường cao hơn khoảng 40-50 USD/tấn. Chú trọng đầu tư, nâng cao
hiệu quả bảo quản, chế biến sau thu hoạch
• Nhà nước hỗ trợ sản xuất kinh doanh, tạo môi trường kinh doanh thông
thoáng và cạnh tranh theo pháp luật
Theo báo cáo của Bộ Thương mại Việt Nam, Chính phủ Thái Lan rất quan tâm
đến sản phẩm lúa gạo và coi nó là một mặt hàng đặc biệt. Việc xuất khẩu tuy được
tiến hành tự do, nhưng Nhà nước lập ra một ủy ban lúa gạo để hỗ trợ sản xuất kinh
doanh lúa gạo. Ủy ban này có nhiệm vụ: Dự kiến mức xuất khẩu gạo trong năm
lương thực căn cứ vào cân đối lương thực cả năm. Dự kiến mức giá mà Chính phủ
mong muốn nông dân có thể bán được lúa của họ trong năm lương thực (giá sàn =
giá thành + 20% lãi). Đồng thời thực hiện các chính sách hỗ trợ như: Chính phủ
Thái Lan có luật lệ bảo hộ quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân; xây dựng các
công trình thủy lợi; củng cố kết cấu hạ tầng, giống, phân bón, vốn, thông tin thị
trường giá cả.
Đồng thời, Thái Lan thành lập hàng ngàn vùng lúa gạo, thực hiện cho vay vốn
sản xuất kinh doanh lúa gạo, áp dụng chính sách “tín dụng tồn trữ và giá cầm cố”,
có nghĩa là: khi vào vụ thu hoạch, nếu giá lúa gạo xuống thấp, Chính phủ yêu cầu
ngân hàng cầm cố lúa gạo cho nông dân, hay nói khác nông dân được ký gửi lúa
gạo ở Ngân hàng và vay tiền của Ngân hàng để có vốn tiếp tục sản xuất. Khi giá thị
trường tăng lên, nông dân đến Ngân hàng lấy lúa gạo ký gửi trước đây ra bán và
hoàn lại tiền cho Ngân hàng.
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
14

Chuyên đề thực tập
Ngoài những biện pháp trên, Chính phủ còn can thiệp vào thị trường, giúp
nông dân tiêu thụ lúa gạo thông qua việc đầu năm đứng ra đàm phán ký kết các hợp
đồng bán gạo Chính phủ để bán gạo cho nước khác. Tìm các biện pháp hỗ trợ sự
liên kết giữa nhà nông với nhà chế biến, kinh doanh. Tìm kiếm thị trường cho xuất
khẩu gạo. Thu xếp các cuộc gặp gỡ giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất… Không
thu thuế xuất khẩu gạo. Không áp dụng chế độ quota xuất khẩu gạo hàng năm. Bộ
Thương mại thực hiện việc quy định phẩm cấp từng loại gạo xuất khẩu nhằm giữ uy
tín chất lượng hàng hóa và thị trường. Nếu Doanh nghiệp xuất khẩu loại gạo có tiêu
chuẩn phẩm cấp khác quy định, theo yêu cầu của khách hàng thì phải xin phép Bộ
Thương mại…
Để tạo môi trường pháp lý cho kinh doanh gạo, Thái Lan đã ban hành Luật về
buôn bán gạo năm 1946, Luật về điều tra và cấm dự trữ gạo quá mức. Nội dung cơ
bản của những Luật này thực hiện quá trình phi tập trung hóa, phi điều tiết hóa và
phi kiểm soát hóa; thực hiện cạnh tranh, chống độc quyền và các hình thức đầu cơ
tích trữ, lũng đoạn thị trường. Cho phép thành lập Hiệp hội xuất khẩu lúa gạo giúp
đưa ra những chính sách cụ thể về xuất khẩu và hướng dẫn giá xuất khẩu phù hợp
với giá thị trường quốc tế. Áp dụng chính sách chống trợ giá, trong đó có chế độ
điều tiết thuế ruộng. Thuế này cao hay thấp là tùy thuộc vào tình hình thị trường thế
giới. Nếu giá thóc hạ do cung vượt cầu, Chính phủ nâng thuế ruộng lúa để buộc
người sản xuất phải tự hạn chế diện tích lúa, chuyển sang trồng cây khác, và rút
cuộc đã gạn lọc lại những người và những khu vực sản xuất lúa có hiệu quả và năng
suất cao, đủ sức cạnh tranh quốc tế.
5.2. Bài học cho xuất khẩu gạo của Việt Nam
• Bài học 1: Trợ cấp để bảo hộ nền nông nghiệp yếu thế của Việt Nam là cầ thiết.
• Bài học 2: Cần phải có gói chính sách tổng thể hỗ trợ phát triển nông nghiệp
gồm nhiều giải pháp công cụ linh hoạt trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Một hay
một số nhóm chính sách đơn lẻ không phát huy tác dụng nhue mong muốn.
• Bài học 3: Các chính sách trợ cấp nông nghiệp cần lưu ý tới loại hình trợ cấp và
đối tượng trợ cấp và đối tượng trợ cấp phù hợp với quy định của WTO và đem lại

hiệu quả kinh tế xã hội. Cần quan tâm đến lợi ích của người dân sản xuất lúa gạo
hơn, thực hiện cho vây vốn sản xuất kinh doanh lúa gạo.
• Bài học 4: Chính sách giá sàn là chính sách thời điểm, mang tính linh hoạt trong
ngắn hạn, nhưng thực sự cần thiết.
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
15
Chuyên đề thực tập
Đối với Việt Nam, việc nghiên cứu ban hành chính sách giá cả nông sản, nhất là
giá sàn lú gạo cần dựa vào nguyên tắc định giá sàn lúa gạo là phù hợp trong quan hệ
so sánh với hàng công nghiệp, bảo đảm lợi ích của của người sản xuất nông nghiệp,
giải quyết hài hòa lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng.
• Bài học 5: Cần có cơ chế ấn định hệ số cân bằng giữa giá đầu vào và giá đầu ra
của nông sản, lương thực khi có những chính sách bình ổn giá thị trường để bảo vệ
lợi ích của nong dân và nhóm tiêu dùng nghèo trong nước.
• Bài học 6: Các chính sách hỗ trợ nông nghiệp phát triển bền vững trong dài hạn
phải là các chính sách quy hoạch vùng nông nghiệp, lương thực, quy hoạch đất đai,
cải thiện cơ sở hạ tầng, bảo vệ đất trồng trọt, hỗ trợ, cải tiến kỹ thuật và vật tư đầu
vào và các dịch vụ xúc tiến thương mại, vận chuyển lưu thông nông sản…cho nông
dân
• Bài học 7 : Thường xuyên áp dụng những chính sách hỗ trợ đối với sản xuất lúa
gạo giúp nông dân phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng đáp ứng nhu cầu của thị
trường; hỗ trợ đối với xuất khẩu thông qua các giải pháp xúc tiến thương mại, mở
rộng thị trường, khuyến khích xuất khẩu… Cần có chính sách tổng thể hỗ trợ phát
triển nông nghiệp gồm nhiều giải pháp, công cụ linh hoạt trong ngắn hạn cũng như
dài hạn.
• Bài học 8 : Có các biện pháp nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu, tăng giá thành
sản phẩm gạo xuất khẩu, và xây dựng thương hiệu sản phẩm.
• Bài học 9 : Cải tiến hệ thống kênh phân phối gạo xuất khẩu hiện nay dựa trên cơ
sở hệ thống phân phối của Thái Lan.
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT

NAM TRONG THỜI GIAN QUA
1. Tình hình sản xuất lúa gạo ở Việt Nam
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
16
Chuyên đề thực tập
1.1 Tình hình đầu tư và thực trạng phát triển năng lực ngành sản xuất lúa
gạo
1.1.1. Quy mô
Về sản xuất: Có thể coi thành công lớn nhất của đổi mới cơ chế quản lý trong
nông nghiệp là đã thừa nhận kinh tế hộ gia đình; hộ nông dân được giao quyền trực
tiếp sử dụng ruộng đất, được làm chủ trên những thửa ruộng, luống cầy cụ thể, tự
chủ bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu cây trồng sao cho có lợi nhất theo yêu cầu của thị
trường. Họ cùng tham gia cung ứng lúa gạo cho thị trường, cạnh tranh với nhau
ngay từ trong sản xuất để làm cho sản phẩm của mình có chi phí thấp, chất lượng
tốt.
Về lưu thông: Cho phép các thành phần kinh tế tự do kinh doanh, trên cơ sở
tôn trọng luật pháp; các thành phần kinh tế cạnh tranh với nhau cả trong mua và
bán.
Từ năm 2001 đến nay, việc tổ chức xuất khẩu gạo tiếp tục được tháo gỡ những
vướng mắc, khó khăn nên việc xuất khẩu đã thuận lợi hơn, Nhà nước chỉ đóng vai
trò là người định hướng xuất khẩu, Nhà nước giao việc xuất khẩu cho các Doanh
nghiệp. Xuất khẩu gạo chính thức không cần giấy phép, quota, không quy định đầu
mối; mọi thành phần kinh tế đều được tham gia xuất khẩu, không phụ thuộc vào
đăng ký kinh doanh ngành hàng… trên cơ sở đó để Hiệp hội và các Doanh nghiệp
bàn bạc tổ chức triển khai chủ động đấu thầu xuất khẩu gạo ở thị trường nước ngoài
và để ký hợp đồng xuất khẩu. Với cơ chế như vậy nên hiện nay, theo báo cáo của
Bộ Thương mại, số đơn vị tham gia xuất khẩu gạo trực tiếp đã lên tới 141 Doanh
nghiệp trong đó 98 Doanh nghiệp thành viên của Vinafood đã chiếm đến 98% số
lượng gạo xuất khẩu; các đơn vị ngoài Hiệp hội chỉ xuất khẩu nhỏ lẻ từ 1000 tấn trở
xuống đến 1-2 tấn. Điều đó cũng thể hiện thương hiệu Vinafood ngày càng tạo được

uy tín trên thương trường quốc tế.

Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
17
Chuyên đề thực tập
Sơ đồ 1 : Sơ đồ kênh lưu thông lúa gạo ở Việt Nam
Bán thóc hoặc gạo

Chuyển Nhận Bán
thóc đi gạo thóc
xay xát thành hoặc
phẩm gạo

Bán
gạo
Bán gạo
Bán thóc hoặc gạo Bán gạo
Bán gạo
Bán thóc hoặc gạo
xuất khẩu

1.1.2. Về sản lượng :
Từ 1990- 2003 sản lượng lúa luôn tăng tuy không đều qua các năm, có năm
tăng 2338.8 nghìn tấn (2002) có năm tăng 71.4 nghìn tấn (2003) và đặc biệt năm
2005 đã bị giảm sút 299,4 nghìn tấn so với năm 2004. Tuy nhiên năm 2006 trở đi
sản lượng lại tăng liên tục, nhất là đến năm 2008 lại tăng với lượng cao. Cụ thể năm
2008 đạt 38725,1 nghìn tấn, tăng 2882,4 nghìn tấn so với năm 2007. Năm 2009 sản
lượng lúa đạt 38,9 triệu tấn, tăng 116 nghìn tấn so với năm 2008.
Nguyên nhân chính của việc tăng liên tục như trên là:
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a

18
Hộ nông dân
Lực lượng
t
h
u
Cơ sở xay xát
lúa
gạo
Các DN kinh
d
o
a
Thị trường
nội địa
Thị trường
x
u

Chuyên đề thực tập
- Do sự nỗ lực của hàng chục triệu nông dân trong điều kiện đổi mới, người
lao động làm chủ ruộng đất từ đó làm chủ tất cả các khâu trong quá trình sản xuất
tiêu thụ, được đảm bảo tiết kiệm và có hiệu quả nhất. Đặc biệt trong cơ chế thị
trường hiện nay, khi xuất khẩu gạo ngày càng tăng, gạo ngày càng được giá sẽ
khuyến khích trực tiếp những người nông dân tích cực sản xuất nhằm tăng thu nhập
cải thiện đời sống.
- Do những tiến bộ về khoa học công nghệ trong sinh học, thuỷ lợi, phân bón
…đặc biệt trong lĩnh vực sinh học chẳng hạn như áp dụng các giống lúa mới vào
sản xuất, làm chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu mùa vụ, đẩy mạnh thâm canh, tăng
nhanh sản lượng. Cùng với hàng chục triệu người nông dân trên đồng ruộng còn

phải kể đến sự đóng góp không nhỏ cuả các nhà khoa học đã trực tiếp làm nên
thành quả của mặt trận nông nghiệp những năm qua.
1
Bảng 1 : Sản lượng lúa cả năm phân theo địa phương Đơn vị : Nghìn tấn

2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
CẢ NƯỚC 34447,2 34568,8 36148,9 35832,9 35849,5 35942,7 38725,1
38927
Đồng bằng
sông Hồng
6951,7 6701,5 6926,1 6398,4 6725,2 6500,7 6776,0 7374
Trung du và
miền núi phía
Bắc
2632,6 2749,2 2823,5 2864,6 2904,1 2891,9 2895,9 3010
Bắc Trung Bộ
và Duyên hải
miền Trung
5335,6 5572,1 5773,0 5342,5 5951,1 5764,3 6125,9 6208
Tây Nguyên
606,6 748,1 781,4 717,3 880,4 866,3 938,4
1032
Đông Nam Bộ
1211,1 1269,9 1277,7 1211,6 1159,5 1240,6 1307,3
1425
Đồng bằng
sông Cửu
Long
17709,6 17528,0 18567,2 19298,5 18229,2 18678,9 20681,6 21178
Nguồn : Niên giám Thống kê Việt Nam

1.1.3. Diện tích :
Theo báo cáo quy hoạch sử dụng đất trồng lúa đến năm 2020, tầm nhìn 2030
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, từ năm 1995 đến 2008 sản xuất lúa
1
Theo www.baomoi.com
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
19
Chuyên đề thực tập
gạo được cải thiện đáng kể, diện tích gieo trồng, năng suất và sản lượng lúa đều
tăng khá. Về diện tích gieo trồng, năm 1995 đạt trên 6,7 triệu ha, năm 2009 đạt 7,38
triệu ha, tốc độ tăng bình quân đạt 0,7%/năm
Bảng 2 : Diện tích và sản lượng lúa theo mùa vụ
Diện tích Sản lượng
Tổng
số
Chia ra
Tổng
số
Chia ra
Lúa
đông
xuân
Lúa
hè thu
Lúa
mùa
Lúa
đông
xuân
Lúa

hè thu
Lúa
mùa
Nghìn ha Nghìn tấn
1990 6042,8 2073,6 1215,7 2753,5 19225,1 7865.6 4090,5 7269,0
1995 6765,6 2421,3 1742,4 2601,9 24963,7 10736,6 6500,8 7726,3
2000 7666,3 3013,2 2292,8 2360,3 32529,5 15571,2 8625,0 8333,3
2001 7492,7 3056,9 2210,8 2225,0 32108,4 15474,4 8328,4 8305,6
2002 7504,3 3033,0 2293,7 2177,6 34447,2 16719,6 9188,7 8538,9
2003 7452,2 3022,9 2320,0 2109,3 34568,8 16822,7 9400,8 8345,3
2004 7445,3 2978,5 2366,2 2100,6 36148,9 17078,0 10430,9 8640,0
2005 7329,2 29421 2349,3 2037,8 35832,9 17331,6 10436,2 8065,1
2006 7324,8 2995,5 2317,4 2011,9 35849,5 17588,2 9693,9 8567,4
2007 7207,4 2988,4 2203,5 2015,5 35942,7 17024,1 10140,8 8777,8
2008 7414,3 3013,1 2368,8 2032,4 38725,1 18325,5 11414,2 8985,4
2009 7382,0 3010,0 2348,8 2023,2 38927,0 18302,0 11358,8 8865,4
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Tuy nhiên, theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT), những
năm gần đây cùng với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đất trồng
lúa ngày càng giảm do phải dành diện tích cho phát triển công nghiệp, kết cấu hạ
tầng và đô thị hóa.
Bộ NN&PTNT đang xây dựng Đề án Quy hoạch sử dụng đất lúa đến năm
2020, tầm nhìn 2030 với mục tiêu đất trồng lúa phải được quản lý chặt chẽ, sử dụng
tiết kiệm và hiệu quả.
Còn theo thông tin từ hội nghị An ninh lương thực Việt Nam vừa diễn ra do
Bộ NN&PTNT và Viện chính sách lương thực quốc tế IFPRI tổ chức thì trong thời
gian qua , nước ta đã đạt được những thành tích tương đối nổi bật về an ninh lương
thực. Việt Nam là nước có tỷ lệ diện tích đất trên đầu người ít nhất Châu Á(trừ
Băng- la- đét) nhưng lại là nước xuất khẩu gạo lớn. Nhưng làm thế nào để bảo vệ
được thành tựu đó thì rất cần có chính sách toàn diện.

Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
20
Chuyên đề thực tập
Phải có quy hoạch sử dụng đất trồng lúa chung, đất quy hoạch phải đúng và
tiến hành tổng điều tra lại hiện trạng sử dụng đất trồng lúa hiện nay, không được
cấp phép sai quy định việc sử dụng đất, nhất là đất trồng lúa đang là một vấn đề hết
sức cấp thiết, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Tính trung bình mỗi năm nước ta mất
59.000 ha diện tích đất lúa. Việc biến mất của mỗi ha đất trồng lúa có thể ảnh
hưởng đến từ 10-13 lao động. Hậu quả là khoảng 53% hộ dân bị lấy mất đất trồng
lúa thiệt hại về tài chính, trong đó có 34% hộ đã nhìn thấy mức sống bị giảm sút
đáng kể. Mặc dù là nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo nhưng hiện
Việt Nam vẫn có khoảng 1 triệu người, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số sống
không đủ lương thực, khoai sắn vẫn là món ăn hàng ngày của họ.
Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa ở Việt Nam đã và đang góp phần làm
thu nhỏ diện tích “bờ xôi ruộng mật ” của người nông dân nói riêng và quốc gia nói
chung. Nhiều diện tích đất trồng lúa đã bị khai hóa một cách ồ ạt mà không hề báo
cáo lên chính phủ. Để gìn giữ đất đai phục vụ cho nhu cầu lương thực trong nước và
xuất khẩu ngay từ hôm nay rất cần có những việc cần làm ngay.
Những năm gần đây cùng với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, đất trồng lúa ngày càng giảm do phải dành diện tích cho phát triển công
nghiệp, kết cấu hạ tầng và đô thị hóa. Nguyên nhân do trình độ đô thị hóa ngày càng
tăng các khu công nghiệp, dân cư chủ yếu đuợc xây dựng ở vùng đồng bằng dẫn
đến diện tích trồng lúa ngày càng bị thu hẹp . Do đó những năm sắp tới cần tăng
cường thâm canh thực hiện tăng sản lượng dựa vào tăng năng suất cây trồng chính
là chủ yếu.
1.1.4. Năng suất :
Xu hướng tăng của năng suất ổn dịnh hơn so với xu hướng tăng của diện
tích. Từ năm 2002-2009 năng suất luôn tăng trong đó năm 2008 mức tăng khá cao
2.3 tạ / ha so với năm 2007 và đến năm 2009 năng suất vẫn tiếp tục tăng 0,5 tạ /ha.
Có được mức tăng liên tục như trên là do nông nghiệp nước ta đã có được những

đầu tư về vốn, khoa học, kỹ thuật cho sản xuất nhưng mức sản lượng này còn thấp
so với tiềm năng và so với nhiều nước trên thế giới. Do đó Viêt Nam cần chú ý đầu
tư vào sản xuất hơn.
Bảng 3 : Năng suất lúa cả năm phân theo địa phương Đơn vị tính : Tạ /ha
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
CẢ NƯỚC 45,9 46,4 48,6 48,9 48,9 49,9 52,2
52,7
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
21
Chuyên đề thực tập
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Đồng bằng sông Hồng 55,8 54,4 57,2 53,9 57,4 56,1 58,8 59,2
Trung du và miền núi phía
Bắc
40,3 41,9 42,8 43,3 43,9 43,0 43,3 43,6
Bắc Trung Bộ và Duyên hải
miền Trung
43,8 45,7 47,8 46,7 49,3 48,5 50,5 50,7
Tây Nguyên 32,5 38,6 39,5 37,3 42,6 42,2 44,3 45,8
Đông Nam Bộ 33,1 35,1 36,2 38,0 38,0 41,3 42,5 43,6
Đồng bằng sông Cửu Long 46,2 46,3 48,7 50,4 48,3 50,7 53,6 54,6
Nguồn: Tổng cục Thống kê
1.2 Thực trạng về chế biến lúa gạo
1.2.1. Công nghệ sau thu hoạch
Khâu thu hoạch và công nghệ sau thu hoạch có ý nghĩa quan trọng vì cũng
chi phối trực tiếp chất lượng gạo. Hiện nay, công nghệ sau thu hoạch ở Việt Nam
vẫn chưa được đầu tư đúng mức. Việc thu hoạch lúa chủ yếu vẫn được tiến hành thủ
công. Khâu phơi sấy vẫn dựa chủ yếu vào thời tiết, nắng tự nhiên, chưa có thiết bị
thu hoạch và phơi sấy.Trong cả nước 90% nông hộ có sân phơi, nhưng ở ĐBSCL
chỉ có 76% nông hộ có sân phơi. Trong số đó, khoảng 60% nông hộ có sân xi măng

hoặc gạch. Do thiếu sân phơi, nông dân thường phơi ở đường giao thông, do đó tỷ
lệ gãy cao và lẫn sạn nhiều. Mặt khác, vụ hè thu ở Nam Bộ thu hoạch vào mùa mưa,
nên không có điều kiện phơi nắng, gạo dễ bị ẩm mốc và giảm chất lượng. Trong
khâu bảo quản, hiện còn quá ít các phương tiện phòng chống vi sinh vật gây hại như
nấm mốc, chuột bọ Những hạn chế này vừa giải thích lí do tại sao chất lượng gạo
của Việt Nam thường thua kém các nước khác, vừa cho thấy tổn thất về số lượng do
công nghệ lạc hậu mang lại.
Xay xát chế biến, bảo quản có vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo
và nâng cao chất lượng lúa gạo, làm gia tăng giá trị của hạt gạo, nâng cao hiệu quả
sản xuất và hiệu quả xuất khẩu. Bởi lẽ quá trình chế biến gạo có liên quan mật thiết
tới các tiêu thức về phẩm chất, đặc biệt tới quy cách của gạo. Các tiêu thức cơ bản
về quy cách phẩm chất gạo xuất khẩu bao gồm kích thước của hạt (độ dài hạt), độ
bạc bụng, tỷ lệ tạp chất, tỷ lệ thóc lẫn, độ bóng, độ đồng đều, quan trọng nhất là chỉ
tiêu gạo nguyên hạt 100% hay tỷ lệ tấm. Căn cứ vào tỷ lệ tấm, người ta chia gạo
thành các phẩm cấp khác nhau. Gạo phẩm cấp cao có tỷ lệ tấm từ 5-10% tấm và gạo
nguyên hạt 100%. Loại gạo cấp trung bình có tỷ lệ tấm từ 20 - 25% tấm; loại gạo
cấp thấp từ 35 - 40% tấm. Để chế biến được gạo cấp cao , thực tế đòi hỏi công nghệ
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
22
Chuyên đề thực tập
chế biến hiện đại và tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật từ khâu phơi sấy, làm
sạch tạp chất trước khi xay xát, vận chuyển, bảo quản Cơ sở xay xát có ý nghĩa
lớn trong khâu chế biến và tạo nên chất lượng gạo xuất khẩu. Hiện nay cả nước có
trên 626 cơ sở xay xát Nhà nước và hàng chục ngàn cơ sở xay xát tư nhân với tổng
năng lực xay xát khoảng 15 triệu tấn gạo/năm, về cơ bản đáp ứng nhu cầu xay xát
dùng trong nước và xuất khẩu, trong đó quốc doanh chiếm 1/3, còn máy nhỏ của tư
nhân chiếm 70%. Thực tế hệ thống cơ sở vật chất này vừa thừa lại vừa thiếu. Thừa
những máy móc công nghệ cũ kỹ, lạc hậu, gây nhiều lãng phí; thiếu những máy
móc tốt, hiện đại đem lại hiệu quả cao, hiện tượng này thiếu cả chiều rộng và chiều
sâu. Ngoài ra, sự đầu tư, cải tiến kỹ thuật chỉ mang tính tự phát, nhỏ lẻ (phần lớn ở

khu vực tư nhân), thiếu tính đồng bộ ở các khâu liên hoàn như phơi, sấy, xay xát,
vận chuyển, bảo quản; nên hiệu quả xay xát nói chung còn thấp, thể hiện qua quy
cách, phẩm chất gạo xuất khẩu của Việt Nam còn khoảng cách khá xa so với Thái
Lan, thậm chí chúng ta còn chưa thể sản xuất ra những loại có phẩm cấp cao.
Chất lượng phơi nắng thóc kém khiến tỷ lệ hạt gẫy vỡ trong xay xát cao. Ở
Thái Lan, hong khô thóc được tách thành một giai đoạn riêng trong công nghệ sau
thu hoạch, do đó, tỉ lệ hạt gẫy vỡ cao nhất chỉ là 25%. Công nghệ sau thu hoạch của
Việt Nam kém hiệu quả do quá tập trung vào công đoạn xay xát mà chưa quan tâm
đến các công đoạn khác, và một phần do việc đầu tư nâng cấp công nghệ không
đem lại lợi tức cao. Đây là khâu rất yếu hiện nay, vì vậy, trong những năm tới cần
tập trung giải quyết thao các hướng:
- Hoàn thiện công nghệ sau thu hoạch: cần quan tâm đầu tư nâng cấp công
nghệ thu hoạch, bảo quản sau thu hoạch (dùng máy sấy thay cho phơi thóc bằng ánh
sáng mặt trời). Tăng cường đầu tư cho công nghiệp xay xát, chế biến gạo. Hệ thống
cơ sở vật chất phục vụ cho việc cung cấp cây giống, khuyến nông, mua, bảo quản,
tồn trữ, vận chuyển, bốc xếp… Tất cả phải thực hiện quản lý theo tiêu chuẩn ISO.
- Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn và bến cảng phục vụ xuất khẩu
gạo, trong đó mở rộng cảng Cần Thơ trở thành cảng chủ yếu để xuất khẩu gạo.
- Tăng cường dự trữ nhằm giảm thiểu các biến động bất lợi của thị trường
thế giới, và các thiệt hại do thiên tai gây ra, xây dựng hệ thống kho dự trữ và tổ
chức lại hệ thống mua gom, dự trữ gạo xuất khẩu.
- Tăng cường quản lý chất lượng gạo xuất khẩu, nâng cao chất lượng gạo
xuất khẩu từ khâu trồng, thu hoạch, bảo quản đến khâu xay xát, chế biến và đóng
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
23
Chuyên đề thực tập
gói theo tiêu chuẩn thống nhất phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới, xây
dựng quy chế bắt buộc về áp dụng tiêu chuẩn chất lượng gạo xuất khẩu.
- Tư nhân hóa và cổ phần hóa các Doanh nghiệp nhà nước trông lĩnh vực xay
xát gạo nói riêng và trong toàn kênh thu mua nói chung, nhờ đó nâng cao sức cạnh

tranh của hệ thống thu mua chế biến của Việt Nam so với các nước xuất khẩu gạo
khác.
- Thu hút vốn FDI vào lĩnh vực chế biến gạo, cũng như chế biến một số
lương thực, thực phẩm khác. Điều này một mặt mở rộng mối quan hệ giữa người
sản xuất và Doanh nghiệp chế biến, mặt khác góp phần cải thiện công nghệ xay xát
và nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu.
1.2.2. Vốn, cơ sở vật chất
Cơ sở vật chất phục vụ chế biến, bảo quản xuất khẩu còn yếu kém lại phân
bố không đều. Hệ thống nhà máy xay xát, đánh bóng gạo xuất khẩu hiện nay tuy có
đước trang bị thêm máy móc, thiết bị hiện đại hơn nhưng số lượng còn ít, chủ yếu
được bố chí ở thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Mỹ Tho. Trong khi đó, những
vùng và địa phương có nhiều lúa hàng hoá phục vụ xuất khẩu như An Giang, Đồng
Tháp, Sóc Trăng…lại không có các nhà máy chế biến và đánh bóng gạo xuất khẩu
hiện đại. Đầu mối xuất khẩu gạo tập chung quá lớn ở thành phố Hồ Chí Minh, trong
khi đó nguồn gạo là ở ĐBSCL, làm tăng chí phí vận chuyển và chí phí trung gian
khác. Vùng ĐBSH và Duyên Hải Nam Trung Bộ tuy có thừa lúa gạo nhưng thu
gom, chế biến rất khó khăn nên xuất khẩu không đáng kể.
- Tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch khá cao 10 – 12%, trong khi ở các nước tiên
tiến như Nhật Bản tỷ lệ này là 3.9 – 5.6%. Nếu lấy mức tổn thất trung bình là 10%
và sản lượng lúa năm 2001 là 32 triệu tấn thì mức tổn thất là 3.2 triệu tấn lúa,
khoảng 1,92 triệu tấn gạo và tương ứng 460 triệu USD. Để có thêm 3.2 triệu tấn lúa
cần có được một diện tích trồng lúa là 640 nghìn ha. Điều này là không thể có được
trong thực tế.
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a
24
Chuyên đề thực tập
2. Thực trạng về xuất khẩu gạo
2.1. Số lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo qua các năm
Từ sau đổi mới sản xuất lúa gạo của nước ta không ngừng phát triển cả về
diện tích, năng suất, sản lưọng. Từ chỗ thiếu đói triền miên và phải nhập khẩu

lương thực bình quân hàng năm trên nửa triệu tấn gạo nhưng nhờ đường lối đổi mới
và quyết sách trong nông nghiệp từ năm 1989 trở đi Việt Nam chẳng những đã sản
xuất đủ lúa gạo cho nhu cầu tiêu dùng nội địa mà còn dành một khối lượng lớn cho
xuất khẩu.
Từ năm 1989 đến nay, 21 năm liên tục, Việt Nam được xem là một thế lực
chủ yếu trên thị trường gạo thế giới với số lượng và chất lượng ngày càng tăng.
Trong giai đoạn 1992 – 1997, xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng bình quân
12,94%/năm về lượng và 15,80%/năm về trị giá. Trong giai đoạn 1997 – 2002, xuất
khẩu gạo của Việt Nam đã có dấu hiệu tăng chậm lại. Điều này có nguyên nhân từ
sự suy giảm giá chung trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, năm 1999 Việt Nam đã
xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo, với giá trị xuất khẩu đạt 1,025 tỷ USD, so với năm
1989, lượng tăng gấp 3,2 lần và giá xuất khẩu bình quân tăng 1,11 lần và giá trị tăng
gấp 3,53 lần. Năm 2000, xuất khẩu 3,476 triệu tấn, do khó khăn về thị trường và giá
cả giảm, năm 2001 xuất 3,729 triệu tấn và năm 2002 xuất 3,421 triệu tấn. Năm
2003, mặc dù thị trường Irắc có biến động và gặp một số khó khăn thiên tai hạn
hán, nhưng các thị trường mới đã mở ra như Iran, Libăng, Xi-ri, Châu Phi, xuất
khẩu gạo của Việt Nam vẫn ở mức cao. Kế hoạch xuất khẩu 3,2 triệu tấn gạo năm
2003 đã hoàn toàn có thể đạt hoặc vượt tới gần 4 triệu tấn.Dự trữ lương thực quốc
gia thực hiện đầy đủ làm cho an toàn lương thực được bảo đảm.
Giai đoạn 2002 – 2009 lượng xuất khẩu tăng đáng kể, tuy không ở mức ổn
định. Có những biến động tăm giảm theo từng thời kỳ. Năm 2005 tăng mạnh so với
2004, tăng 1066 nghìn tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 1379 triệu USD. Ba năm tiếp
theo từ 2006-2008 lượng gạo xuất khẩu giảm đi đáng kể ( xem bảng 7 ), tuy nhiên,
kim ngạch xuất khẩu vẫn giữ ở mức ổn định so với năm 2005. Đặc biệt là năm
2008, lần đầu tiên trong lịch sử kim ngạch xuất khẩu lên đến con số kỷ lục là 2,663
tỉ USD. Nguyên nhân chính là do giá xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2008 tăng
mạnh, lên đến 571 USD/tấn. Đến 2009, lượng xuất khẩu đã đạt con số kỷ lục, lên
đến 6052,7 nghìn tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 2,7 tỉ USD. Đây là một năm thành
công của xuất khẩu gạo Việt Nam.
Phạm Thị Thanh Huyền Lớp : Kế hoạch 48a

25

×