Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

GIÁO TRÌNH môn hóa môi TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 99 trang )

Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHIỆP TUY HOÀ
KHOA CÔNG NGHỆ HOÁ
TÀI LIỆU GIẢNG DẠY HỌC PHẦN
HÓA MÔI TRƯỜNG
DÙNG CHO SINH VIÊN CAO ĐẲNG
(LƯU HÀNH NỘI BỘ)
PHÚ YÊN – 2011
Trang 1
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
CHƯƠNG 1: SINH THÁI VÀ MÔI TRƯỜNG
1.1. Sinh thái
1.1.1. Lịch sử phát triển và ý nghĩa của môn sinh thái học
Có thể tóm tắt lịch sử phát triển sinh thái học như sau
- Thời kỳ trước thế kỷ XIX :
Ngay từ những thời kỳ lịch sử xa xưa con người đã có những hiểu biết nhất định về “Sinh
thái học” dù rằng họ không biết thuật ngữ này.
Có thể nêu lên những công trình có đề cập đến sinh thái học như sau: Trong những công
trình của nhà bác học Aristote (384 - 322 TCN) và các triết gia cổ Hy Lạp đều có nhiều dẫn
liệu mang tính chất sinh thái khá rõ nét. Trong công trình của mình, Aristote đã mô tả 500
loài động vật cùng với các đặc tính như di cư, sự ngủ đông của các loài chim, khả năng tự
vệ của mực, các hoạt động xây tổ của chim
Hoặc như E. Theophrate (371-286 TCN), người khai sinh môn học thực vật học đã chú ý
đến ảnh hưởng của thời tiết, màu đất đến sự sinh trưởng, tuổi thọ của cây và thời kỳ quả
chín, tác động qua lại giữa thảm thực vật với địa hình, địa lý. Ông đã sử dụng các đặc điểm
sinh thái làm cơ sở cho việc phân loại thực vật.
B.G. Lamark (1744-1829) là người đưa ra học thuyết tiến hóa đầu tiên, ông đã cho rằng
ảnh hưởng của các yếu tố môi trường là một trong những nguyên nhân quan trọng đối với
sự thích nghi và sự tiến hóa của sinh vật.
- Thời kỳ thế kỷ XIX : Phải nói đây là thời kỳ phồn thịnh của sinh thái học, trong thời kỳ
này đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều tư liệu về sinh thái học. Có thể nêu ra một số


nhà khoa học tiêu biểu :
A. Hurmboldt (1769 - 1859) chú ý đến những điều kiện địa lý đối với thực vật.
K. Glogher (1833) viết về sự thay đổi của chim dưới ảnh hưởng của khí hậu.
K. Bergmann (1848) nói về qui luật thay đổi kích thước của các động vật máu nóng theo
vùng phân bố địa lý;
C. Darwin (1809-1872) với tác phẩm nổi tiếng “Nguồn gốc của các loài do chọn lọc tự
nhiên hay là sự bảo tồn các nòi thích nghi trong đấu tranh sinh tồn” cùng với một số công
trình khác là những bằng chứng phong phú và hùng hồn cho học thuyết tiến hóa của ông.
Đó cũng là nền móng của sinh thái học.
Trang 2
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
Người đề xuất thuật ngữ “Sinh thái học” là nhà sinh học người Đức - E. Haeckel (1834-
1919) trong quyển sách “ Sinh thái chung của cơ thể”. Ông xác định sinh thái học là khoa
học chung về quan hệ giữa sinh vật và môi trường. Ông cũng chính là người ủng hộ tích
cực học thuyết tiến hóa của C. Darwin.
Từ nửa sau của thế kỷ XIX, nội dung nghiên cứu của sinh thái học chủ yếu là các nghiên
cứu về đời sống của động thực vật và sự thích nghi của chúng với nhân tố khí hậu. Tiêu
biểu như E. Warming (Đan Mạch) trong công trình “Địa lý sinh thái thực vật” (1895).
Thời kỳ từ thế kỷ XX đến nay: Đây là thời kỳ sinh thái học ngày càng được nghiên cứu sâu
và rộng hơn.
Hội nghị quốc tế về thực vật lần thứ 3 ở Bruxelle (Bỉ) vào năm 1910, đã tách sinh thái học
thực vật thành hai bộ môn riêng : Sinh thái học cá thể (Autoecology) và sinh thái học quần
xã (Synecology).
Từ những năm 20 của thế kỷ này, người ta đã tổ chức các Hội sinh thái học và ra tạp chí
sinh thái. Môn sinh thái học bắt đầu được giảng dạy ở các trường đại học.
Vào những năm 30 trở đi khuynh hướng nghiên cứu quần xã, đặc biệt là các quần xã thực
vật được phát triển ở nhiều nước trên thế giới.
Năm 1935 A.Tansley (Anh) đã đưa ra một hương nghiên cứu mới là hệ sinh thái
(Ecosystem), nhưng mãi đến nửa sau của thế kỷ XX, hướng nghiên cứu này mới được quan
tâm và được đẩy mạnh.

Sự phát triển của hệ sinh thái đã làm cơ sở cho một học thuyết mới về sinh quyển do nhà
khoa học người Nga V.I. Vernadki đề ra.
Ý nghĩa của sinh thái học
Trong cuộc sống, sinh thái học đã có những thành tựu to lớn được con người ứng dụng vào
những lĩnh vực như:
- Nâng cao năng suất vật nuôi và cây trồng trên cơ sở cải tạo các điều kiện sống của chúng.
- Hạn chế và tiêu diệt các dịch hại, bảo vệ đời sống cho vật nuôi, cây trồng và đời sống của
cả con người.
- Thuần hoá và di giống các loài sinh vật.
- Khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên, duy trì đa dạng sinh học và phát triển tài nguyên
cho sự khai thác bền vững.
- Bảo vệ và cải tạo môi trường sống cho con người và các loài sinh vật sống tốt hơn.
Trang 3
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
Sinh thái học giờ đây là cơ sở khoa học, là phương thức cho chiến lược phát triển bền vững
của xã hội con người đang sống trên hành tinh kỳ vĩ này của Hệ thái dương.
1.1.2. Khái niệm hệ sinh thái
Vậy hệ sinh thái là tập hợp của quần xã sinh vật với môi trường vật lý mà nó tồn tại,
ở đó các sinh vật tương tác với nhau và với môi trường để phát triển ổn định theo thời
gian thông qua hoạt động của các chu trình sinh địa hoá và sự biến đổi năng lượng.
Hệ sinh thái trở thành một bộ phận cấu trúc của một hệ sinh thái duy nhất toàn cầu hay còn
gọi là sinh quyển (biosphere)
VD : Hệ sinh thái rừng quốc gia Cúc Phương, rừng ngập mặn, hệ sinh thái vùng cửa sông,
rạn san hô…
1.1.3. Cấu trúc của hệ sinh thái
Một hệ sinh thái điển hình được cấu trúc bởi các thành phần cơ bản sau đây:
- Sinh vật sản xuất (Producer - P)
- Sinh vật tiêu thụ (Consumer - C)
- Sinh vật phân hủy (Decomposer - D)
- Các chất vô cơ (CO

2
, O
2
, H
2
O, CaCO
3
) .
- Các chất hữu cơ (protein, lipid, glucid, vitamin, enzym, hoocmon,…)
- Các yếu tố khí hậu (nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm, lượng mưa ).
MÔI TRƯỜNG VẬT LÝ
+
QUẦN XÃ SINH VẬT
=
HỆ
SINH
THÁI
- Các chất vô cơ
- Các chất hữu cơ .
- Các yếu tố khí hậu
- Sinh vật sản xuất
- Sinh vật tiêu thụ
- Sinh vật phân hủy
+ Sinh vật sản xuất (Producer - P) là những sinh vật tự dưỡng (autotrophy), gồm các loài
thực vật có màu xanh và một số nấm, vi khuẩn có khả năng quang hợp hoặc hóa tổng hợp.
Chúng là thành phần không thể thiếu được trong bất kỳ hệ sinh thái hoàn chỉnh nào.
+ Sinh vật tiêu thụ (Consumer - C ) là những sinh vật dị dưỡng (heterotrophy) bao gồm tất
cả các loài động vật và những vi sinh vật không có khả năng quang hợp và hóa tổng hợp,
nói một cách khác, chúng tồn tại được là dựa vào nguồn thức ăn ban đầu do các sinh vật tự
dưỡng tạo ra.

Trang 4
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
Tuỳ theo đặc điểm tiêu thụ, sinh vật tiêu thụ được chia ra:
- Sinh vật tiêu thụ bậc 1 (C1): bao gồm những loài động vật ăn thực vật.
- Sinh vật tiêu thụ bậc 2 (C2): Bao gồm sinh vật ăn thịt, sử dụng sinh vật tiêu thụ bậc 1 làm
thức ăn.
- Sinh vật tiêu thụ bậc 3 và bậc 4 (C3 và C4) có thể là sinh vật ăn thịt, sử dụng sinh vật tiêu
thụ bậc 2 làm thức ăn. Cũng có thể là ký sinh trùng sống ký sinh trên sinh vật tiêu thụ bậc1
hoặc bậc 2 hoặc động vật ăn xác chết.
+ Sinh vật phân hủy (Decomposer - D) là tất cả các vi sinh vật dị dưỡng, sống hoại sinh
(saprophy) : vi sinh vật đất, nấm . Chúng phân hủy các chất phức tạp, giải phóng ra môi
trường những khoáng chất đơn giản hoặc các nguyên tố hóa học ban đầu tham gia vào chu
trình (như CO
2
, O
2
, N
2
).
1.1.4. Bản chất của hệ sinh thái
- Hệ sinh thái tồn tại một cách độc lập với các thành phần cấu tạo nên nó
- Các thành viên cấu trúc nên hệ tồn tại và phát triển hoàn toàn phụ thuộc vào nhau
- Một hệ sinh thái bất kỳ hay mỗi thành viên cấu trúc nên hệ có chức năng riêng, đều hoạt
động nhịp nhàng để tạo nên hoạt động chức năng của cả hệ thống
- Hệ sinh thái là hệ động lực hở, tự điều chỉnh
1.1.5. Quá trình tổng hợp và phân huỷ vật chất trong hệ sinh thái
1.1.5.1. Quá trình tổng hợp vật chất
a. Quang hợp của cây xanh
Nhờ có chất diệp lục mà thực vật và tảo là sinh vật duy nhất trên hành tinh lấy CO
2

và năng
lượng mặt trời để tổng hợp thành chất hữu cơ.

CO
2
+ 12 H
2
O + năng lượng mặt trời (C
6
H
12
O
6
) + 6H
2
O + 6O
2
b. Quang hợp của vi khuẩn
Ngoài quang hợp của thực vật còn có sự đóng góp của các nhóm vi khuẩn mang màu cho
quá trình sản xuất chất hữu cơ như vi khuẩn lưu huỳnh màu xanh hay màu đỏ
(Chlorobacteriaceae, Thiorhodaceae). Phần lớn chúng sống trong nước ngọt và nước mặn,
nơi được chiếu sáng.
Trong quang hợp của vi khuẩn, chất bị oxi hoá (cho điện tử) không phải là nước mà là
nhhững chất vô cơ hay hữu cơ chứa lưu huỳnh như H
2
S.
Trang 5
Chlorophil
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường


CO
2
+ 2H
2
S + năng lượng mặt trời (CH
2
O) + H
2
O + 2S
2H
2
O + 3O
2
+ 2S  2H
2
SO
4
c. Hoá tổng hợp của vi khuẩn
Một quá trình nữa được nhắc đến trong thành phần của nhóm sinh vật sản xuất là quá trình
hoá tổng hợp do một số nhóm vi khuẩn xác định. Các vi khuẩn hoá tổng hợp lấy năng
lượng từ phản ứng oxi hoá các hợp chất vô cơ để đưa cacbondioxit vào trong thành phần
của tế bào chất. Những hợp chất hữu cơ đơn giản trong hoá tổng hợp được biến đổi, chẳng
hạn, từ NH
3
thành nitrit, nitrit thành nitrat, sắt II thành sắt III…
Sự oxi hóa nitrat
- Bước đầu: Biến đổi amôni hay amoniac thành nitrit nhờ vi khuẩn nitrosomonas
NH
4
+

+ O
2
 NO
2
-
+ H
+
+ năng lượng
- Tiếp theo: Biến đổi nitrit thành nitrat nhờ vi khuẩn nitrobacter
NO
2
-
+ O
2
 NO
3
-
+ năng lượng
Dựa vào đặc điểm dinh dưỡng, vi khuẩn được chia thành các nhóm: Chemolithoautotroph,
Photolithaototroph, Chemoorangnoautotroph.
- Chemolithoautotroph (vi khuẩn nitrat hoá, vi khuẩn lưu huỳnh không màu, một số
vi khuẩn sinh khí metan và vi khuẩn oxi hoá sắt) sử dụng năng lượng nhờ sự oxi hoá NH
3
,
NO
2
-
, H
2
S hoặc các chất khử khác.

- Photolithautotroph (vi khuẩn lam, vi khuẩn đỏ và đỏ tía) lại sử dụng năng lượng
mặt trời
- Chemoorangnoautotroph khai thác năng lượng từ sự oxi hoá metanol và các hợp
chất hữu cơ khác.
d. Hiệu quả của quá trình tổng hợp vật chất
Trong đời sống của thực vật, năng lượng kiếm được từ quang hợp sử dụng cho các quá
trình tự duy trì, tăng trưởng và hô hấp rất thay đổi
Trên cơ sở nhiều khảo nghiệm, năng lượng sử dụng của sinh vật tự dưỡng được đánh giá từ
30-40% tổng sản lượng sinh học sơ cấp (sản lượng sơ cấp thô P
G
); Còn lại khoảng 60
-70% được dùng làm thức ăn cho các loài sinh vật dị dưỡng gọi là sản lượng sơ cấp tinh
P
N
(năng lượng sơ cấp nguyên)
1.1.5.2. Quá trình phân huỷ vật chất
a. Hô hấp hiếu khí
Trang 6
Chlorophil
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
Hô hấp hiếu khí là hoạt động chức năng của tất cả các loài sinh vật. Hô hấp ngược với quá
trình quang hợp, chúng sử dụng oxi phân tử để đốt cháy vật chất, tạo năng lượng cho các
hoạt động sống của cơ thể, đồng thời thải ra môi trường các sản phẩm cuối cùng của quá
trình là CO
2
và H
2
O.

(C

6
H
12
O
6
) + 6O
2
6CO
2
+ 6H
2
O + năng lượng
b. Hô hấp kỵ khí
Hô hấp kỵ khí xảy ra không có sự tham gia của oxi phân tử. Chất oxi hoá không phải là oxi
mà là chất vô cơ hay hữu cơ khác. Hô hấp kỵ khí hay gặp dưới dạng hô hấp sunfat và
nitrat.
Hô hấp sunfat xảy ra trong các trầm tích giàu SO4
2-
do các nhóm vi khuẩn như
metanococcus, desulfovibrio… Sự phân huỷ các chất được thực hiện theo phản ứng sau
đây:
CH
3
-CO-COOH + H
2
O  CH
3
-COOH + CO
2
+ 2H

+
2H
+
+ 1/4SO
4

2-
 1/4S
2-
+ H
2
O
Hô hấp nitrat diễn ra trong quá trình phản nitrat (denitrification) để biến đổi nitơ từ dạng
nitrat trở về dạng NO, NH
3
, N
2
, N
2
O với sự tham gia của các vi khuẩn phản nitrat như
Pseudomonat, Escherichia, nấm… theo phản ứng sau:
C
6
H
12
O
6
+ 4NO
3
-

 6CO
2
+ 6H
2
O + 2N
2
c. Sự lên men
Lên men là quá trình sản sinh năng lượng, khai thác năng lượng bằng con đường lên men
thì phản ứng đường phân (glucolyse) rất đặc trưng đối với thuỷ sinh vật, tức là quá trình cắt
ngắn dần hexoza (C
6
H
12
O
6
) cho đến 2 phân tử puruvic. Sản phẩm cuối cùng của sự lên men
đường là axit lactic
C
6
H
12
O
6
 2CH
3
-CO-COOH + 4H
+
2CH
3
-CO-COOH + 4H

+
 2CH
3
-CHOH-COOH (axit lactic)
Lên men là quá trình kỵ khí, được thực hiện do các vi sinh vật kỵ khí nghiêm ngặt (kỵ khí
bắt buộc) hoặc kỵ khí tuỳ nghi.
Ba dạng hô hấp trên ngự trị trong sinh quyển, tham gia vào quá trình phân huỷ vật chất đến
dạng đơn giản nhất trả lại cho môi trường, nhờ đó vật chất được quay vòng và năng lượng
được biến đổi.
d. Vai trò của quá trình phân huỷ các chất hữu cơ trong hệ sinh thái
Trang 7
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
Sự phân huỷ vật chất có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tự nhiên
- Tạo nên dãy thức ăn liên tục trong các hệ sinh thái
- Biến các chất trơ thành các chất có hoạt tính cao tham gia vào sự hình thành nguồn dinh
dưỡng cho sinh giới.
- Hình thành nên các vitamin, chất kháng sinh có giá trị điều hoà các quá trình sinh học
trong quần xã
- Làm trong sạch môi trường bằng các quá trình vật lý, hóa học và sinh học
1.1.6. Năng lượng và dòng năng lượng đi qua hệ sinh thái
1.1.6.1. Sự phân bố năng lượng trong môi trường
Tất cả các hệ thống sống trên hành tinh này tồn tại được là nhờ vào nguồn năng lượng vô
tận của mặt trời. Nguồn năng lượng này chuyển xuống trái đất dưới dạng sóng ánh sáng.
Ánh sáng khi đi qua tầng khí quyển để đến được bề mặt trái đất bị suy giảm một phần do
các khí , hơi nước, bụi…hấp thụ và phản xạ lại vũ trụ. Những dải sóng khác nhau bị hấp
thụ khác nhau. Nói chung, bức xạ mặt trời xuống đến ngưỡng trên của khí quyển có cường
độ 2Cal/cm
2
/phút. Khi qua lớp khí quyển bề mặt trái đất chỉ còn nhận được 67% năng
lượng ban đầu, ứng với 1,34 Cal/cm

2
/phút
Các nghiên cứu đã xác định rằng khoảng 99% tổng năng lượng nằm trong vùng quang phổ
có bước sóng từ 1,136 đến 4000 µm; Khoảng 50% nguồn năng lượng đó (gồm cả ánh sáng
trắng và bước sóng 0,38 – 0,77 µm).có ý nghĩa sinh thái quan trọng, được thực vật sử dụng
cho quang hợp gọi là bức xạ quang hợp. Thực vật hấp thụ rất mạnh các tia màu xanh và
màu đỏ cũng như một lượng nhỏ các tia sóng dài hơn với các bước sóng 0,4 – 0,5 và 0,6 –
0,7.

Bảng. Sự phát tán năng lượng và bức xạ mặt trời (%) trong sinh quyển (Hullbert, 1971)
1.1.6.2. Dòng năng lượng đi qua hệ sinh thái
Năng lượng đi qua hệ sinh thái qua các bậc dinh dưỡng của chuỗi thức ăn, một phần được
sinh vật sử dụng cho hô hấp còn phần lớn biến đổi thành nhiệt thoát ra môi trường
Trang 8
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
Sơ đồ tổng quát của dòng năng lượng đi qua hệ sinh thái
Ta có thể nhận thấy rằng năng lượng đi qua hệ sinh thái theo dòng hay theo các kênh, do
đó nó chỉ sử dụng được một lần, phần lớn thoát ra môi trường dưới dạng nhiệt. Nhiều
nghiên cứu chỉ ra rằng trong sinh quyển khi chuyển từ bậc dinh dưỡng thấp lên bậc dinh
dưỡng cao hơn liền kề, trung bình năng lượng thất thoát tới 90%, có nghĩa là sinh vật tiêu
thụ ở bậc sau chỉ tích tụ được 10% năng lượng của bậc trước nó.
Năng lượng thất thoát theo 3 con đường chính:
- Năng lượng chứa trong các sản phẩm mà sinh vật tiêu thụ không sử dụng
- Năng lượng được sử dụng từ thức ăn, nhưng không được đồng hoá thải ra môi trường
dưới dạng các chất bài tiết và chất trao đổi
- Năng luợng mất đi dưới dạng nhiệt hô hấp.
Trong tổng số năng lượng rơi xuống hệ sinh thái, thì chỉ khoảng 50% đóng vai trò quan
trọng đối với sự tiếp nhận của sinh vật sản xuất, tức là phần năng lượng chủ yếu thuộc phổ
nhìn thấy, hay còn gọi là "bức xạ quang hợp tích cực". Nhờ nguồn năng lượng này, thực
vật thực hiện quá trình quang hợp để tạo ra nguồn thức ăn sơ cấp, khởi đầu cho các xích

thức ăn. Như vậy, thực vật là sinh vật duy nhất có khả năng "đánh cắp lửa Mặt Trời" để
làm nên những kỳ tích trên hành tinh: nguồn thức ăn ban đầu và dưỡng khí (O
2
), những
điều kiện thuận lợi, đảm bảo cho sự ra đời và phát triển hưng thịnh của mọi sự sống khác,
trong đó có con người.
Sản phẩm của quá trình quang hợp do thực vật tạo ra được gọi là "tổng năng suất sơ cấp"
hay "năng suất sơ cấp thô" (ký hiệu là PG). Nó bao gồm phần chất hữu cơ được sử dụng
cho quá trình hô hấp của chính thực vật và phần còn lại dành cho các sinh vật dị dưỡng.
Chẳng hạn, các loài thực vật đồng cỏ còn non thường chỉ tiêu hao 30% tổng năng lượng sơ
cấp, còn ở đồng cỏ già lên đến 70%. Rừng ôn đới sử dụng 50 - 60%, còn rừng nhiệt đới 70
- 75%. Từ mức sử dụng trung bình nêu trên của sinh vật sản xuất, tổng năng lượng sơ cấp
Trang 9
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
nguyên tích tụ trong mô thực vật trên toàn sinh quyển được đánh giá như sau: khoảng 70%
thuộc về các hệ sinh thái trên cạn, còn 30% được hình thành trong các hệ sinh thái ở nước,
chủ yếu là các đại dương.
1.2. Môi trường
1.2.1. Khái niệm về môi trường và sự ô nhiễm môi trường
1.2.1.1 Khái niệm về môi trường
“Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh
hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật.” (Luật
BVMT Việt Nam 2005).
Bách khoa toàn thư về môi trường (1994) đưa ra một định nghĩa đầy đủ và ngắn gọn hơn
về môi trường: “Môi trường là tổng thể các thành tố sinh thái tự nhiên, xã hội nhân văn và
các điều kiện tác động trực tiếp hay gián tiếp lên phát triển, lên đời sống và hoạt động của
con người trong thời gian bất kỳ.”
1.2.1.2. Chức năng cơ bản của môi trường
Đối với sinh vật nói chung và con người nói riêng thì môi trường sống gồm có năm chức
năng cơ bản sau:

· Môi trường là không gian sinh sống cho con người và thế giới sinh vật
· Môi trường là nơi chứa đựng các nguồn tài nguyên cần thiết cho đời sống và sản xuất của
con người.
· Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra trong cuộc sống và sản
xuất.
· Giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con người và sinh vật.
· Môi trường có chức năng lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người.
1.2.1.3. Khái niệm ô nhiễm môi trường
Sự ô nhiễm là quá trình chuyển chất thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả
năng gây tác hại đến sức khỏe con người, vật liệu và sự phát triển của sinh vật.
Các tác nhân gây ô nhiễm bao gồm chất thải có thể ở dạng rắn, lỏng hoặc khí và các dạng
năng lượng như nhiệt độ, tiếng ồn. Trong môi trường tự nhiên luôn có yếu tố này. Tuy
nhiên, môi trường chỉ gọi là ô nhiễm nếu nồng độ các chất trên đạt đến mức có khả năng
tác động xấu đến con người, sinh vật và vật liệu.
1.2.2. Các vấn đề gay cấn giữa môi trường và phát triển
Trang 10
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
Nói một cách cô đọng thì môi trường là tổng hợp các điều kiện sống của con người, phát
triển là quá trình cải tạo và cải thiện các điều kiện đó. Giữa môi trường và phát triển dĩ
nhiên có mối quan hệ chặt chẽ. Môi trường là địa bàn và đối tượng của phát triển.
Trong phạm vi một quốc gia cũng như trên toàn thế giới, luôn luôn song song tồn tại 2 hệ
thống: Hệ thống kinh tế xã hội và hệ thống môi trường.
Hệ thống kinh tế xã hội cấu thành bởi các thành phần sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu
dùng và tích luỹ, tạo nên một dòng năng lượng, chế phẩm, hàng hoá, phế thải lưu thông
giữa các phần tử cấu thành hệ.
Hệ thống môi trường với các thành phần môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội. Môi
trường thiên nhiên cung cấp tài nguyên cho hệ kinh tế, đồng thời tiếp nhận chất thải từ hệ
kinh tế. Chất thải này có thể ở lại hẳn trong môi trường tự nhiên hoặc qua chế biến rồi trở
lại hệ kinh tế. Một hoạt động kinh tế mà chất phế thải không thể sử dụng được trở lại hệ
kinh tế được xem như là hoạt động gây tổn hại đến môi trường, lãng phí tài nguyên không

tái tạo được, sử dụng tài nguyên tái tạo được một cách quá mức khiến cho nó không thể hồi
phục được hoặc hồi phục sau một thời gian rất dài.
Các hoạt động phát triển luôn có hai mặt lợi và hại. Bản thân thiên nhiên cũng có hai mặt,
thiên nhiên là nguồn tài nguyên và phúc lợi đối với con người, nhưng đồng thời cũng là
nguồn thiên tai, thảm hoạ đối với đời sống và sản xuất của con người.
Khoa học kinh tế cổ điển không thể giải quyết thành công mối quan hệ phức tạp giữa phát
triển và môi trường. Từ đó nảy sinh lý thuyết không tưởng về “đình chỉ phát triển” (zero of
negative growth) cụ thể là cho tốc độ phát triển bằng không hoặc âm để bảo vệ nguồn tài
nguyên của trái đất.
Tại Hội nghị LHQ về MT con người họp năm 1972 tại Stockholm- Thụy Điển, các nhà
khoa học đã đi đến kết luận rằng, nguyên nhân của nhiều vấn đề quan trọng về MT không
phải là do phát triển mà chính là hậu quả của sự kém phát triển. Tư tưởng đó đã được thể
hiện trong chiến lược phát triển 10 năm lần thứ nhất của LHQ. Chiến lược đã đề cập tới
mối quan hệ giữa phát triển với MT, dân số, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đất, bảo vệ
rừng,
Các mục tiêu phát triển KTXH và BVMT phải được gắn bó với nhau trong việc xây dựng
mục tiêu, xác định chiến lược kế hoạch hóa, cũng như điều hành và quản lý việc thực hiện
các mục tiêu đó.
1.2.3. Sự lan truyền chất ô nhiễm trong môi trường
Phần lớn các chất gây ô nhiễm là những sản phẩm được sinh ra trong những vùng có địa
giới hoàn toàn xác định, ví dụ các khu công nghiệp, các thành phố, các vùng nông nghiệp
Trang 11
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
phát triển… Một câu hỏi được đặt ra là bằng cách nào mà chúng có thể lan truyền đi xa để
có thể tác động lên thực vật, động vật ở các nơi khác, hay là làm thay đổi thành phần hoá
học của khí quyển ở qui mô toàn cầu.
Sự phân bố của các sinh vật trên trái đất hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên. Từ hai địa
cực cho đến đường xích đạo, trên cạn cũng như dưới nước, chúng được tổ chức thành các
quần xã sinh vật ít nhiều khép kín và tương đối độc lập mà tất cả các thành viên của chúng
đều phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi nhóm thực vật và động vật có một chức năng riêng trong quần

xã này, và số lượng người sản xuất và người tiêu thụ ăn cỏ và ăn thịt bị giới hạn bởi một
loạt yếu tố, trong đó quan trọng nhất là sự mất năng lượng (hơn 90%) xảy ra khi chuyển từ
một nấc dinh dưỡng này sang một nấc dinh dưỡng khác. Mặt khác, bản chất và số lượng
các cá thể thực vật và động vật thành viên của các quần xã này phụ thuộc chặt chẽ vào đất
và vào điều kiện khí hậu của địa phương mà chúng sống, tập hợp của các sinh vật và môi
trường xung quanh tạo nên hệ sinh thái
Tuy nhiên sinh quyển không phải là sự lắp ghép đơn giản của các hệ sinh thái. Không có hệ
sinh thái nào là hoàn toàn đóng kín. Mặt khác năng lượng mà chúng chuyển hoá thành các
chất hữu cơ đều lấy từ mặt trời và sự vận hành của mỗi hệ ít nhiều đều bị ảnh hưởng của
các hệ bên cạnh. Yếu tố quan trọng nhất là các nguyên tố hóa học cần thiết cho sự sống
“lưu thông” từ một hệ sinh thái này sang một hệ sinh thái khác qua trung gian của các chu
trình sinh địa hoá. Có thể nói trong sinh quyển các chu trình sinh địa hoá đóng vai trò
tương tự như hệ tuần hoàn trong cơ thể con người. Do đó hoàn toàn không ngạc nhiên là
một chất ô nhiễm được sinh ra ở một nơi nào đó lại có thể làm nảy sinh các phản ứng dây
chuyền ở rất xa điểm xuất phát. Một chất ô nhiễm nào đó, nếu không bị VSV phân huỷ quá
nhanh, và nếu tốc độ sinh ra nó lớn hơn tốc độ nó tự phân huỷ thì nó luôn luôn có hội lan
truyền và tiếp xúc với các cơ thể sinh vật.
Sự lan truyền của các chất ô nhiễm qua trung gian của các chuỗi thức ăn là được biết rõ
nhất. VD: Trường hợp DDT chất này được dùng để chống muỗi và được rải nhiều năm liền
ở vùng ao hồ ở Long Island. Người ta đã chọn sử dụng nồng độ thấp để không gây ra bất
cứ tác động trực tiếp nào có hại nào lên thuỷ sinh và động vật hoang dã. Thế nhưng bất
chấp các biện pháp dự phòng đó, người ta vẫn nhận thấy sự thay đổi dần dần của quần thể
động vật.
Trong khi nước chỉ chứa 0,00005 ppm thuốc trừ sâu thì
Cá ăn cỏ chứa từ 0,23 – 0,94 ppm
Cá ăn thịt chứa từ 1,33 – 2,07 ppm
Chim ăn cá chứa đến 26,4 ppm
Trang 12
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
Như vậy thuốc trừ sâu đã tập trung dần dần trong quá trình chúng di chuyển dọc theo chuỗi

thức ăn, và do đó các liều “vô hại ” ban đầu đối với từng cá thể thì về lâu về dài lại gây ra
mối nguy hiểm cho cả quần xã.
Các chu trình sinh địa hoá lớn (các chu trình của nước,cacbon, nitơ, photpho…) đóng vai
trò vận chuyển các nguyên tố và các hợp chất đi xa, chẳng hạn, người ta biết rằng DDT
không bao giờ được sử dụng ở Nam cực nhưng người ta đã tìm thấy nó trong mỡ chim
cánh cụt. Chắc chắn là nó đã được vận chuyển bởi dòng nước.
Trong suốt quá trình lưu chuyển dọc theo chuỗi thức ăn hay phát tán đi xa, các phân tử của
các chất ô nhiễm có thể không giữ nguyên bản chất của chúng. Chúng có thể bị biến đổi
bởi các quá trình khác nhau và do đó làm xuất hiện những vấn đề mới. Một ví dụ của hiện
tượng này là trường hợp PAN peroxylacetyl nitrat. Dưới tác dụng của các tia cực tím có
trong ánh sáng mặt trời, NOx và RH có trong khí thải của động cơ đốt trong phản ứng với
nhau tạo thành PAN và O3. Hai sản phẩm này độc hơn nhiều so với các chất ban đầu,
chúng tác động lên đường hô hấp của người, kích thích sự hô hấp của thực vật
1.2.4. Ảnh hưởng của chất ô nhiễm đến con người
Ở đây chúng ta sẽ nói về các chất ô nhiễm quan trọng nhất với ý nghĩa chúng là các chất ô
nhiễm phổ biến, thường gây ra các bệnh nghiêm trọng và trong thực tế đã xảy ra các thảm
họa mà chúng là thủ phạm.
Thủy ngân: Thủy ngân nguyên tố và các dẫn xuất của nó là những chất độc rất nguy hiểm
đối với người , đặc biệt là các dẫn xuất hữu cơ. Ví dụ thảm họa ô nhiễm thủy ngân nghiêm
trọng ở vịnh Minamata (Nhật Bản). vào khoảng cuối năm 1953, người ta bắt đầu nhận thấy
những rối loạn thần kinh bất thường ở những người dân chài của vùng này mà người Nhật
gọi là bệnh kibyo, nghĩa là một bệnh bí ẩn. Tất cả mọi người bị nhiễm bệnh , dù là nam hay
nữu, già hay trẻ đều có triệu chứng rối loạn hệ thần kinh ngoại vi và hệ thần kinh trung
ương, nhiều bệnh nhân trở nên kiệt sức nằm liệt giường và khoảng 40% người bị chết.
Trong thảm họa này có khoảng 700 người bị nhiễm bệnh.
Tương tự vào năm 1964 ở vùng Nigata Nhật Bản cũng có 500 người bị nhiễm độc thủy
ngân từ nước thải công nghiệp đổ vào sông Agano.
Người ta nhận thấy rằng những người ăn nhiều cá trong khẩu phần ăn có nhiều nguy cơ bị
ô nhiễm thủyngân, chẳng hạn mức metyl thủy ngân trong máu của người dân Peru là
những người ăn nhiều cá cao hơn khoảng 10 lần so với mức bình thường (82 ng/ml so với

9,9 ng/ml). 29,5% dân cư có dấu hiện của bệnh thần kinh cảm giác.
Trang 13
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
Những vụ nhiễm độc thủy ngân qui mô lớn cũng xảy ra khi ăn bánh mì làm từ bột mà khi
bảo quản hạt người ta dùng thuốc diệt nấm có chứa thủy ngân. Tai nạm đã xảy ra ở
Pakistan, Guatemala và nghiêm trọng nhất là ở Irac vào năm 1971-1972
Cadimi: Hiện tượng nhiễm độc Cadimi được thông báo lần đầu vào năm 1955. Sự việc
xảy ra ở vùng mỏ Juntsu ở tỉnh Toyama, Nhật Bản. Người Nhật gọi bệnh này là itai-itai, có
nghĩa là làm đau. Căn bệnh này giới hạn ở phụ nữ đã sinh nhiều lần, biểu hiện bằng sự đau
xương nặng, dáng đi lạch bạch, xuất hiện chứng nhuyễn xương, nứt xương và có dấu hiệu
suy yếu thận. Ở vùng này người ta thường tưới ruộng bằng nước chảy ra từ các mỏ kẽm,
chì, cacdimi, trong đó hàm lượng cacdimi lớn hơn bình thường khoảng 10 lần. những
nghiên cứu về sau cho thấy rằng chính cacdimi là thủ phạm gây ra bệnh này.
CHƯƠNG 2: KHÍ QUYỂN VÀ SỰ Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ
2.1. Cấu trúc của khí quyển
Trang 14
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
2.1.1. Tầng đối lưu (Trosposphere)
Chiếm 70% khối lượng của khí quyển ở độ cao 0 đến 11 km. Lớp này đặc trưng bằng sự
giảm nhiệt độ theo độ cao, nhiệt độ thay đổi từ +40 đến -50
0
C. Tầng này quyết định khí
hậu của trái đất, các hiện tượng thời tiết đều xảy ra trong tầng này. Thành phần chủ yếu là
khí O
2
, N
2
, CO
2
và hơi nước. Nhiệt độ khí quyển ở gần mặt đất nóng do sự phát nhiệt của

trái đất.
2.1.2. Tầng bình lưu (Stratosphere)
Tầng bình lưu ở độ cao từ 11 đến 50 km, được đặc trưng bằng sự tăng nhiệt độ theo độ cao,
nhiệt độ thay đổi từ - 56
0
C đến -2
0
C. Thành phần chủ yếu của tầng này là O
3
, N
2
, O
2

một số gốc hoá học khác. Tầng này còn có tên gọi là tầng ozon, có vai trò ngăn chặn tia
cực tím từ mặt trời chiếu xuống trái đất. Ozon đóng vai trò quan trọng, nó như một lớp
màng bao bọc bảo vệ trái đất khỏi tia tử ngoại.
Do sự xáo trộn yếu nên thời gian lưu của các chất hoá học ở tầng này khá lâu. Sự tăng nhiệt
độ ở tầng bình lưu được giải thích là do ozon hấp thụ tia tử ngoại và toả nhiệt.
2.1.3. Tầng trung gian (Mesosphere)
Trang 15
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
Tầng trung gian ở độ cao từ 50 đến 85 km, nhiệt độ thay đổi từ -2 đến -92
0
C. Tầng này
ngăn cách với tầng bình lưu bởi một lớp tạm dừng đánh dấu bởi sự biến thiên nhiệt độ,
nghĩa là ở tầng này nhiệt độ giảm theo chiều tăng của độ cao. Thành phần các chất chủ yếu
ở tầng này gồm O
2


+
, NO
+
, N
2
2.1.4. Tầng nhiệt (Thermosphere)
Tầng nhiệt hay còn gọi là tầng ion, ở độ cao từ 85 đến 100 km, nhiệt độ tăng từ -92 đến
1200
0
C. Tại đây do tác dụng của bức xạ mặt trời, nhiều phản ứng hoá học xảy ra với O
2
,
O
3
, N
2
, hơi nước, CO
2
…. Chúng bị phân tách thành nguyên tử và sau đó ion hoá thành các
ion O
2
+
, O
+
, O, NO
+
, e
-
, CO
3


2-
, NO
2
-
, NO
3
-

2.1.5. Tầng điện ly hay tầng ngoài (Exosphere)
Tầng điện ly bao quanh trái đất ở độ cao lớn hơn 800km. Ở tầng này có mặt các ion He
+
(<
1500 km), H
+
(> 1500 km). Một phần hydro có thể được tách ra và đi vào vũ trụ. Mặt khác
các dòng plasma và bụi vũ trụ cũng đi vào khí quyển. Nhiệt độ tầng này tăng rất nhanh, tới
khoảng 1700
0
C.
Hình 2.1. Sự thay đổi nhiệt độ theo độ cao trong khí quyển
Trang 16
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
2.2. Các thành phần khí
Lớp khí quyển bao quanh trái đất là môi trường để truyền bức xạ mặt trời vào trái đất như
bức xạ hồng ngoại, tử ngoại, rơgen, gamma.
Bước sóng của các bức xạ:
Trong tổng số năng lượng mặt trời đi tới được khí quyển trái đất thì 24,5% bị khí quyển
hấp thụ, 30,5% bị phản xạ bởi mây và bề mặt trái đất quay trở lại vũ trụ, 45% tới bề mặt
trái đất để đốt nóng không khí, sưởi ấm mặt đất, tham gia vào quá trình quang hợp, làm bốc

hơi nước.
Mặc dù có nhiều quá trình hoá lý xảy ra trong khí quyển nhưng thành phần không khí gần
bề mặt trái đất về cơ bản vẫn không đổi.
Không khí được cấu tạo từ nhiều khí khác nhau, trong đó thành phần chính là khí N2
chiếm khoảng 78% thể tích, khí oxi chiếm khoảng 21% thể tích, tiếp theo là khí CO2,
Argon và hàng loạt các thành phần vết chiếm 0,002% thể tích.
Nồng độ các khí trong khí quyển thay đổi liên tục theo không gian, thời gian, vị trí địa lý
(các quá trình tự nhiên núi lửa, thiên tại, đốt nhiên liệu, quá trình phát tán, biến đổi hoá
học…)
Một thành phần quan trọng khác trong khí quyển, đó là các cấu tử không phải dạng khí mà
là hạt lơ lửng và bụi. Đường kính của chúng từ 10
-6
đến 10
-1
mm và dao động trong phạm
vi rộng từ kích thước phân tử đến các hạt kích thước lớn. Các hạt này sinh ra trong các quá
trình tự nhiên và nhân tạo. Những chất này được thu hồi do lắng hoặc ngưng tụ ở bề mặt
trái đất. Tốc độ lắng phụ thuộc vào đường kính hạt
Hàm lượng oxi, nitơ, ozon và các phân tử nước trong khí quyển cũng thay đổi theo chiều
cao
Trang 17
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
Hình 2.2 Biến thiên nồng độ của các thành phần chính trong khí quyển
Nguyên nhân dẫn đến sự biến thiên ozon là do phản ứng hợp thành và phân ly quang hoá.
Chu kỳ ozon trong khí quyển ở dạng đơn giản bao gồm các phản ứng quang hóa phân hủy
ozon, oxy và những phản ứng nhiệt giữa nguyên tử oxy với phân tử oxy và ozon.
2.3. Ô nhiễm không khí
2.3.1. Vai trò của khí quyển
Môi trường sống: Cung cấp môi trường thuận lợi để duy trì sự sống: nhiệt độ, độ ẩm, khí
O

2
, CO
2
…, là môi trường để vận chuyển nước từ đại dương vào đất liền, tham gia vào quá
trình tuần hoàn nước
Màn chắn khí quyển:
- Chắn vật thể lớn
- Chắn bức xạ có hại
Bức xạ mặt trời Phát sinh từ các phản ứng nhiệt hạt nhân truyền xuống trái đất dưới dạng
sóng điện từ với phổ sóng rất rộng, trong đó có các bức xạ có hại như tia tử ngoại, bức xạ
hạt nhân.
Khí quyển có tác dụng khuếch tán, hấp thụ và lọc một phần các bức xạ từ mặt trời, không
cho chúng chiếu toàn bộ xuống mặt đất.
Trang 18
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
Cơ chế hoạt động của màn chắn khí quyển cho phép hoặc ngăn cản các bức xạ có năng
lượng và bước sóng nhất định. Những khoảng bước sóng cho phép lọt qua màn chắn gọi là
cửa sổ khí quyển
Bước sóng của các bức xạ:
- Tia gamma, tia X: < 10
-3
μm
- Tia cực tím: 10
-3
đến < 0,4 μm
- Ánh sáng nhìn thấy: 0,4 – 0,7 μm
- Tia hồng ngoại: > 0,7 μm
- Sóng vô tuyến: > 100 μm
Có 2 cửa sổ khí quyển với khoảng bước sóng cho phép: 10
-1

– 10
1
μm và 10
4
– 10
6
μm.
Sóng điện từ có bước sóng cực ngắn sẽ bị tầng điện ly hấp thụ hoặc phản xạ trở lại
Tia tử ngoại nguy hiểm ( < 0,28 μm) bị tầng ozon hấp thu:
Có khoảng 60 -70% bức xạ mặt trời đến được trái đất, trong đó:
- 10 % tia tử ngoại
- 45 % ánh sáng thấy được
- 45% tia hồng ngoại
2.3.2. Sự cần thiết của không khí cho cuộc sống con người
Không khí có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với con người. Con người có thể không uống
nước từ 2 đến 4 ngày, không ăn trong 2 tuần nhưng không thể thiếu không khí trong vài
phút. Người ta có thể đun sôi nước, nấu chín thức ăn để hạn chế ảnh hưởng do ô nhiễm
nhưng họ phải thở không khí xung quanh ngay cả lúc không khí đó bị ô nhiễm. Chính vì
vậy mà không khí có vai trò rất quan trọng đối với con người.
Bảng 2.1 chỉ ra lượng không khí sạch một người cần để thở hằng ngày. Tuỳ vào trạng thái
hoạt động mà nhu cầu không khí sạch (oxi ) sẽ thay đổi thích hợp. Từ các số liệu trên ta có
thể tính được nhu cầu về không khí sạch hằng ngày cho một gia đình, một thành phố hay
một quốc gia.
Trạng thái Lít/phút Lít/ngày Lkg/ngày
Nghỉ ngơi
Lao động nhẹ
7,4
28
10.600
40.400

12
45
Trang 19
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
Lao động nặng 43 62.000 69
Bảng 2.1. Nhu cầu không khí sinh hóa đối với con người
2.3.3. Ô nhiễm không khí là gì
Ô nhiễm không khí là sự hiện diện của một hay nhiều chất ô nhiễm như bụi, khói, khí, chất
bay hơi với một khối lượng và thời gian đủ để gây tác động có hại đến con người, động
thực vật hoặc tài sản, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống cũng như hoạt động kinh doanh.
Các thuật ngữ
Chất ô nhiễm sơ cấp: Là những chất thải ra trực tiếp từ nguồn ô nhiễm vào không khí ở
dạng độc hại.
Chất ô nhiễm thứ cấp: Là những chất tạo thành do các phản ứng hoá học xảy ra trong
không khí của các chất ô nhiễm sơ cấp với các thành phần khí quyển.
Nguồn phát thải phân tán: Là những chất không thải qua ống khói, ví dụ: Bụi do xói mòn
đất, khai thác mỏ, nghiền đá, xây dựng.
Các chất ô nhiễm phổ biến
Đạo luật về không khí sạch 1970 (Clean Air Act) của Mỹ đã chỉ định 7 chất ô nhiễm chính
là oxit lưu huỳnh, oxit cacbon, bụi, hydrocacbon, oxit nitơ, chất oxi hoá quang hoá và chì
cần phải kiểm soát nồng độ để bảo đảm chất lượng không khí xung quanh.
Các chất ô nhiễm không phổ biến
EPA đã ban hành tiêu chuẩn phát thải (emission standard) cho một số chất ô nhiễm không
thuộc nhóm cơ bản nhưng có tính chất đặc biệt độc hại. Trong nhóm này gồm có các hợp
chất amiang, benzen, thuỷ ngân, berilium, PCBs ( Polychlorinated Biphenyls) và Vinyl
Clorua. Hầu hết các hợp chất này không có nguồn phát thải tự nhiên.
Nhóm chất ô nhiễm gây mất mỹ quan
Ngoài nhóm những chất độc hại không phổ biến, còn có một số tác nhân ô nhiễm gây
những biến đổi không mong muốn trong đặc điểm vật lý hoá học của khí quyển như: tiếng
ồn, mùi hôi, ô nhiễm ánh sáng.

Phát thải: Sự thải của các chất vào khí quyển. Điểm hoặc bề mặt từ đó sự phát thải xảy ra
gọi là nguồn. Thuật ngữ emission được dùng để mô tả sự thải và tốc độ thải. Thuật ngữ này
còn sử dụng cho tiếng ồn, nhiệt…
Nồng độ phát thải
Nồng độ của chất ô nhiễm không khí phát ra ở điểm thải
Trang 20
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
Hệ số phát thải
Tỷ số giữa chất ô nhiễm không khí thải ra do một hoạt động nào đó và tốc độ của hoạt
động đó
Ví dụ: Lượng SO2 tính bằng kg phát thải khi sản xuất được 1 tấn thép.
Tốc độ phát thải
Khối lượng hoặc một tính chất vật lý khác của chất ô nhiễm truyền vào khí quyển trong
một đơn vị thời gian.
Tiêu chuẩn chất lượng không khí xung quanh TCVN 5937 -1995 (mg/m
3
)
TT Thông số Trung bình 1 giờ Trung bình 8 giờ Trung bình 24 giờ
1 CO 40 10 5
2 NO2 0,4 - 0,1
3 SO2 0,5 - 0,3
4 Pb - - 0,005
5 O3 0,2 - 0,06
6 Bụi lơ lửng 0,3 - 0,2
Biểu diễn nồng độ chất ô nhiễm không khí
Đơn vị biểu diễn nồng độ chất ô nhiễm không khí thường sử dụng: mg/l, μg/m
3
, mg/m
3
,

g/m
3
, ppm, ppb
Mối liên hệ chuyển đổi giữa nồng độ mg/m
3
và ppm phụ thuộc vào áp suất, nhiệt độ của
không khí.
Ở 25
o
C và 1at (1,0133 bars)
mg/m
3
= ppm x M/24,45
Ở 0
o
C và 1at (1,0133 bars)
mg/m
3
= ppm x M/22,4
M: Khối lượng phân tử của chất khí
2.3.4. Phân loại nguồn ô nhiễm không khí
2.3.4.1. Phân loại theo tính chất nguồn phát sinh:
a. Nguồn tự nhiên
- Ô nhiễm do hoạt động của núi lửa: Nham thạch từ núi lửa chứa nhiều khói bụi, giàu lưu
huỳnh và metan và những loại khí khác. Các chất ô nhiễm chính là SO
2
, H
2
S và CH
4

.
Trang 21
Bài giảng Mơn Hóa Mơi trường Chương 1: Sinh thái và mơi trường
- Cháy rừng: Khi rừng bị cháy nhiều chất độc hại bốc lên và toả ra trong một khu vực rộng
lớn. Các chất ơ nhiễm chính là khói, tro bụi và các sản phẩm cháy.
- Bão cát: gây nên do gió mạnh và bão, mưa bào mòn đất sa mạc, đất trồng và gió thổi tung
lên trời thành bụi.
- Đại dương: Sương mù bốc lên và bụi nước do sóng đập vào bờ được gió từ đại dương
thổi vào đất liền có chứa nhiều tinh thể muối, chủ yếu là natri clorua.
- Thực vật: Sản sinh và phóng thích vào khơng khí một lượng đáng kể chất ơ nhiễm: Các
bào tử thực vật, nấm, phấn hoa.
- Vi sinh vật: Lơ lửng trong khơng khí với số lượng rất lớn, đặc biệt là nơi đơng người;
Bệnh viện, nhà ga, cửa hàng, văn phòng (hệ thống lạnh)…
b. Nguồn nhân tạo
- Nguồn nhân tạo: Phát sinh do hoạt động của con người.
+ Giao thơng vận tải. Các phương tiện giao thơng vận tải khi hoạt động thải vào
khơng khí từ 150-200 chất, trong đó có các chất ơ nhiễm chủ yếu là bụi, các khí oxit
cacbon (COx: CO, CO
2
), hydrocacbon, chì
+ Sản xuất cơng nghiệp. Các ngành cơng nghiệp phát triển đi kèm với ơ nhiễm
khơng khí như: sản xuất phân bón, hố chất, luyện kim, hố dầu, giấy, cơng nghiệp thuộc
da, … Phần lớn khí thải sinh ra do đốt các sản phẩm dầu mỏ với các chất ơ nhiễm là CO
2
,
CO, NOx, SO
2

Bảng 2.2. Các chất ô nhiễm đặc trưng
STT Ngành sản xuất Các chất ơ nhiễm đặc trưng

Ngành cơng nghiệp năng lượng
1 Nhà máy nhiệt điện, lò nung, nồi
hơi đốt bằng nhiên liệu hóa thạch:
than đá, dầu mỏ (DO, FO)
Bụi, SOx, NOx, COx,
hydrocacbon, aldehyt.
Ngành cơng nghiệp luyện kim
2 Luyện kim, đúc
Bụi, SO
2
, COx (CO, CO
2
), HF,
chì
Ngành cơng nghiệp hố chất
3 Sản xuất hố chất cơ bản Axit
sunfuric, Amoniac, Xút – clo SOx (SO
2
, SO
3
). NH
3
. Cl
2
, HCl
4 Sản xuất phân bón Superphotphat,
phân lân nung chảy, Ure
Bụi, HF, SiF
4
, SO

3
CO, CO
2
, NH
3
,
SO
2
5 Lọc dầu Hydrocacbon, bụi, COx, SOx,
Trang 22
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
NOx.
Ngành công nghiệp vật liệu xây
dựng
6
Sản xuất xi măng, vật liệu xây
dựng Bụi, CO, CO
2
, SO
2
, NOx, HF
7 Tôn mạ kẽm Bụi kim loại, NH3, HCl, SO
2
Ngành công nghiệp nhẹ
8 Dệt, nhuộm Bụi, xơ sợi, hợp chất hữu cơ
9 Sản xuất giấy Bụi, mùi hôi (H
2
S,
metylmercaptan, dimetylsunfit…),
clo

10 Gốm sứ, thuỷ tinh, Bụi, COx, HF
11 Sản xuất nhựa, cao su, chất dẻo Bụi, mùi hôi, hợp chất lưu huỳnh
Ngành công nghiệp thực phẩm
12 Sản xuất nước đá NH
3

13 Chế biến sữa, thịt, cá, hải sản
Mùi hôi, clo, tác nhân lạnh (NH
3
,
CFC… )
2.3.4.2. Phân loại nguồn ô nhiễm theo tính chất phát thải
Có ba loại nguồn phát thải ô nhiễm không khí.
← - Nguồn đường: các con đường dành cho các phương tiện giao thông vận tải như
đường bộ dành cho xe máy, ô tô; đường xe lửa cho tàu hoả; đường thủy, đường hàng
không. Giao thông vận tải là một trong những nguồn ô nhiễm không khí chính ở đô thị.
Chúng tạo ra các chất ô nhiễm không khí gồm bụi, oxit cacbon (CO, CO
2
), dioxit lưu
huỳnh (SO
2
), oxit nitơ (NOx), hydrocacbon, tetraetyl chì. Bụi sinh ra do cuốn đất cát từ
đường khi lưu thông và bụi sinh ra trong khói thải của xe.
← - Nguồn điểm: ống khói của các nguồn đốt riêng lẻ, bãi chứa chất thải,
← - Nguồn vùng: trong khu công nghiệp tập trung nhiều nhà máy có ống thải khí,
đường ô tô nội thành, nhà ga, cảng, sân bay
2.3.5. Phân loại chất ô nhiễm không khí
2.3.5.1. Theo nguồn gốc phát sinh
- Chất ô nhiễm sơ cấp: Là những chất trực tiếp thoát ra từ các nguồn và tự chúng đã có đặc
tính độc hại. Ví dụ: khí SO

2
, NO, H
2
S, NH
3
, CO
- Chất ô nhiễm thứ cấp: Bao gồm những chất được tạo ra trong khí quyển do tương tác hoá
học giữa các chất ô nhiễm sơ cấp với các chất có sẵn trong khí quyển. Ví dụ: SO
3
, H
2
SO
4
,
NO
2
, HNO
3

Trang 23
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
2.3.5.2. Dựa vào trạng thái vật lý
- Rắn, lỏng, khí và hơi, ô nhiễm vật lý
2.3.5.3. Dựa vào kích thước hạt
Dựa vào kích thước hạt chất ô nhiễm được chia thành
- Phân tử ( hỗn hợp khí – hơi)
- Aerosol ( gồm các hạt rắn, lỏng). Aerosol được chia thành bụi, khói, sương
+ Bụi là các hạt rắn có kích thước từ 5 đến 50 µm
+ Khói là các hạt rắn có kích thước từ 0,1 đến 5 µm
+ Sương bao gồm các giọt lỏng có kích thước từ 0,3 đến 5 µm và được hình thành do

ngưng tụ hơi hoặc khi phun chất lỏng vào không khí.
2.3.6. Tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí
Chất lượng môi trường không khí được đặc trưng bằng các chỉ tiêu nồng độ các chất ô
nhiễm trong không khí. Nồng độ các chất ô nhiễm càng nhỏ thì chất lượng không khí càng
tốt.
Tiêu chuẩn môi trường là những chuẩn mực, giới hạn cho phép, được quy định dùng làm
cơ sở pháp lý để quản lý môi trường (kiểm tra, kiểm soát môi trường, xử lý các vi phạm
môi trường và đánh giá tác động môi trường…)
Tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí bao gồm:
- Tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí xung quanh
1 + TCVN 5937-1995. Chất lượng không khí - Tiêu chuẩn chất lượng không khí xung
quanh.
2 + TCVN 5938-1995. Chất lượng không khí -Nồng độ tối đa cho phép của một số
chất độc hại trong không khí xung quanh.
- Tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí tại khu vực sản xuất hoặc nhà máy, xí
nghiệp có nguồn ô nhiễm được xác định trong phạm vi tường rào của cơ sở.
- Tiêu chuẩn chất lượng môi trường nguồn thải: đối với khí thải từ ống khói của nhà máy,
từ ống xả của xe…
1 + TCVN 5939-1995. Chất lượng không khí - Tiêu chuẩn khí thải công nghiệp đối
với bụi và các chất vô cơ.
2 + TCVN 5940-1995. Chất lượng không khí - Tiêu chuẩn khí thải công nghiệp đối
với các chất hữu cơ.
Trang 24
Bài giảng Môn Hóa Môi trường Chương 1: Sinh thái và môi trường
3 + TCVN 6438:1998. Chất lượng không khí – khí thải phương tiện giao thông đường
bộ.
2.4. Ảnh hưởng của các chất ô nhiễm không khí đến môi trường
2.4.1. Vấn đề toàn cầu
* Hiệu ứng nhà kính
Hiệu ứng nhà kính không phải là hiện tượng mới lạ. Nó đã tồn tại từ khi khí quyển bao

quanh trái đất này. Thực ra nếu không có hiệu ứng nhà kính thì trái đất đã không có sự
sống vì lúc đó nhiệt độ bề mặt sẽ thấp hơn ngày nay khoảng 30
0
C. Vấn đề quan tâm hiện
nay là về sự thay đổi tính chất nhà kính của khí quyển
Bức xạ Mặt trời bao gồm các phần tử ngoại (UV), khả kiến (VIS), hồng ngoại (IR), sau khi
đi vào khí quyển Trái đất, thành phần UV bị tầng ozon hấp thụ, chỉ còn phần VIS và một
phần IR đến được mặt đất và bị mặt đất hấp thụ.
Sau khi hấp thụ năng lượng, mặt đất bức xạ trở lại vào khí quyển các bức xạ bước
sóng dài hơn bước sóng của ánh sáng đã được hấp thụ, các bức xạ này chủ yếu là bức xạ IR.
Bức xạ IR từ mặt đất bị khí nhà kính trong khí quyển hấp thụ và tỏa ra nhiệt, làm khí hậu ấm
lên.
Bảng 2.3. So sánh khả năng hấp thụ bức xạ của các khí nhà kính
Khí
Khả năng hấp thụ năng lượng
bức xạ so với CO
2
CFC−12
15800
CFC−11
12400
N
2
O 206
CH
4
21
Trang 25

×