Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

tài liệu kiểm toán năng lượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.88 KB, 19 trang )

Tiền tố Kết hợp với đơn vị Watt Giá trị Cách đọc bội sô
Y YW 1 × 10
24
W Yôtawatt
Z ZW 1 × 10
21
W Zêtawatt
E EW 1 × 10
18
W Êxawatt
P PW 1 × 10
15
W Pêtawatt
T TW 1 × 10
12
W Têrawatt
G GW 1 × 10
9
W Gigawatt
M MW 1 × 10
6
W Mêgawatt
k kW 1 × 10
3
W kilôwatt
h hW 1 × 10
2
W héctôwatt
da daW 1 × 10
1
W đêcawatt


quad là một đơn vị năng lượng tương đương với 10
15
(triệu tỉ - quadrillion) BTU
[1]
, hay 1.055 x
10
18
joule (1.055 exajoules hay EJ) trong hệ đo SI.
Đơn vị thường được sử dụng bởi Bộ Năng Lượng Mỹ trong các thảo luận về ngân sách năng
lượng quốc gia và thế giới. Sản lượng năng lượng toàn cầu năm 2004 là 446 quad, tương đương
471 EJ.
[2]
Tương đương 1 quad với vài chất mang năng lượng phổ biến:
• 8,007,000,000 Gallon xăng (Mỹ) (1 gallon = 3,785411784 lít)
• 293,083,000,000 Kilô-watt giờ (kWh)
• 33.434 gigawatt-năm (GWy)
1
• 36,000,000 Tấn than
• 970,434,000,000 mét khối khí đốt tự nhiên
• 5,996,000,000 gallon anh dầu diesel
• 25,200,000 Tấn dầu
• 252,000,000 Tấn TNT hoặc năm lần Bom Sa hoàng.
• 13.3 Tấn Uranium-235
Joule (J)[sửa | sửa mã nguồn]
Joule (đọc là "Jun") là đơn vị đo năng lượng được sử dụng trong Hệ đo lường quốc tế SI. Về mặt đơn vị 1 J
bằng 1 Nm (Newton nhân mét), hoặc bằng:
Ca-lo (cal)[sửa | sửa mã nguồn]
Ca-lo là đơn vị dùng để đo nhiệt lượng do một vật chất hấp thụ hay tỏa ra. Theo định nghĩa truyền
thống, 1 ca-lo bằng nhiệt lượng cần cung cấp cho 1 gram nước để tăng nhiệt độ thêm 1 độ C, từ 14,5 °C
lên 15,5 °C (Đôi khi người ta gọi là 15°C ca-lo). Do đó việc quy đổi đơn vị giữa Ca-lo và Joule có

nhiều cách, cụ thể như sau:
[1]
• Trong nhiệt hoá học: 1 cal = 4,184 J
• 15°C Ca-lo: 1 cal = 4,1858 J
• Theo bảng Ca-lo quốc tế: 1 cal = 4,1868 J
• Giá trị trung bình: 1 cal = 4,1900 J
Ca-lo được sử dụng để đo năng lượng mà thức ăn cung cấp cho cơ thể, về mặt định lượng, đơn vị được
sử dụng là kilo ca-lo (viết tắt kCal), theo đó 1 kCal = 1000 cal. Tuy vậy, trong thực tế người ta thường
chỉ gọi đơn giản là calo. Ví dụ, nói một cốc sữa có 150 ca-lo, có nghĩa là nó cung cấp 150 kilo ca-lo
(=150000 Ca-lo) năng lượng cho các hoạt động của cơ thể.
[2]
Kilôwatt giờ (kWh)[sửa | sửa mã nguồn]
Kilôwatt giờ (ký hiệu: kWh) là đơn vị tiêu chuẩn được sử dụng trong sản xuất và tiêu thụ điện năng.
Theo định nghĩa 1 kWh = 3,6 x 10
6
J.
[3]
British thermal unit (Btu)[sửa | sửa mã nguồn]
Btu là đơn vị của Hệ đo lường Anh. 1 Btu = 251,9958 cal.
[4]
Kiểm toán năng lượng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
2
Kiểm toán năng lượng là một kiểm tra, khảo sát và phân tích các dòng năng lượng cho bảo tồn năng
lượng trong một tòa nhà, một quá trình, hoặc hệ thống để giảm số lượng đầu vào năng lượng vào hệ thống
mà không ảnh hưởng xấu đến đầu ra.
Mục lục
[ẩn]
• 1 Nguyên tắc
• 2 Kiểm toán năng lượng nhà ở

o 2.1 Tại Hoa Kỳ
o 2.2 Tại Li-băng
o 2.3 Tại Úc
o 2.4 Tại Việt Nam
• 3 Kiểm toán năng lượng công nghiệp và nông nghiệp
• 4 Các loại kiểm toán năng lượng
o 4.1 Điểm chuẩn(theo dõi tình hình sử dụng năng lượng)
o 4.2 Kiểm toán sơ bộ
o 4.3 Kiểm toán tổng quát
o 4.4 Kiểm toán cấp đầu tư
• 5 Thủ tục kiểm toán năng lượng trên cơ sở mô phỏng cho các tòa nhà không dân cư
• 6 Các kỹ thuật kiểm toán chuyên biệt
o 6.1 Kiểm toán nhiệt độ hồng ngoại
o 6.2 Kiểm toán ô nhiễm
• 7 Lịch sử
• 8 Các hệ thống đánh giá năng lượng công trình
• 9 Xem thêm
• 10 Tham khảo
• 11 Đọc thêm
• 12 Liên kết ngoài
Cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm là gì?
Cập nhật ngày 09-01-2013
Cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm là cơ sở sử dụng năng lượng hằng năm với khối lượng lớn theo quy định
của Chính phủ.
Theo Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; Nghị định số 21/2011/NĐ-CP. Cơ sở sử dụng năng
lượng trọng điểm là các cơ sở sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, đơn vị vận tải có tiêu thụ năng
lượng tổng cộng trong một năm quy đổi ra một nghìn tấn dầu tương đương (1000 TOE) trở lên;
các công trình xây dựng được dùng làm trụ sở, văn phòng làm việc, nhà ở; cơ sở giáo dục, y tế,
vui chơi giải trí, thể dục, thể thao; khách sạn, siêu thị, nhà hàng, cửa hàng có tiêu thụ năng lượng
tổng cộng trong một năm quy đổi ra năm trăm tấn dầu tương đương (500 TOE) trở lên.

Trách nhiệm của cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm:
1. Xây dựng và thực hiện kế hoạch hằng năm và 5 năm về sử dụng năng lượng tiết kiệm và
hiệu quả phù hợp với kế hoạch sản xuất, kinh doanh; báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền
tại địa phương kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
2. Xây dựng chế độ trách nhiệm đối với tập thể, cá nhân liên quan đến việc thực hiện kế
hoạch sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
3. Chỉ định người quản lý năng lượng.
4. Ba năm một lần thực hiện việc kiểm toán năng lượng bắt buộc.
5. Áp dụng mô hình quản lý năng lượng theo hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
6. Thực hiện quy định về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong xây dựng mới, cải
tạo, mở rộng cơ sở.
3
Trách nhiệm của người quản lý năng lượng tại các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm
1. Xây dựng kế hoạch hằng năm và 5 năm về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
2. Tổ chức mạng lưới quản lý hoạt động sử dụng năng lượng, áp dụng mô hình quản lý
năng lượng.
3. Thực hiện biện pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả theo mục tiêu và kế hoạch
đã được phê duyệt.
4. Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện biện pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
5. Theo dõi nhu cầu tiêu thụ năng lượng của thiết bị và toàn bộ dây chuyền sản xuất; sự
biến động của nhu cầu tiêu thụ năng lượng liên quan đến việc lắp đặt mới, cải tạo, sửa chữa thiết
bị sử dụng năng lượng; thực hiện chế độ báo cáo định kỳ theo quy định.
6. Tổ chức thông tin, tuyên truyền, đào tạo, tập huấn trong hoạt động sử dụng năng lượng.
Theo Danh sách cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm do Thủ
tướng ban hành ngày 1/8/2011, hiện cả nước có 1.190 cơ sở sử
dụng năng lượng trọng điểm. Trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh với
169 cơ sở, Hà Nội có 139 và Bình Dương có 117 cơ sở.
HỆ SỐ CHUYỂN ĐỔI NĂNG LƯỢNG SANG TOE


STT

Loại nhiên liệu

Đơn vị

TOE/Đơn vị

1 Điện kWh 0.0001543
2 Than cốc Tấn 0.70-0.75
3 Than cám loại 1,2 Tấn 0.7
4 Than cám loại 3,4 Tấn 0.6
5 Than cám loại 5,6 Tấn 0.5
6

Dầu DO (Diesel Oil)

Tấn 1.02
1000 lít 0.88
7 Dầu FO (Fuel Oil)
Tấn 0.99
1000 lít 0.94
8 LGP Tấn 1.09
9 Khí tự nhiên (Natural Gas) Tr.m3 900
10 Xăng ôtô-xe máy (Gasoline)
Tấn 1.05
1000 lít 0.83
11 Nhiên liệu phản lực (Jet Tuel) Tấn 1.05
• Ghi chú: TOE – Tấn dầu tương đương
Nguyên tắc[sửa | sửa mã nguồn]

Khi đối tượng nghiên cứu là một tòa nhà được sử dụng, việc giảm tiêu thụ năng lượng trong khi vẫn duy trì
hoặc cải thiện sự thoải mái của con người, sức khỏe và an toàn là quan tâm hàng đầu. Ngoài việc chỉ đơn
giản là xác định các nguồn sử dụng năng lượng, kiểm toán năng lượng còn tìm cách để ưu tiên sử dụng năng
lượng theo cơ hội tiết kiệm hiệu quả năng lượng từ giá thành cao nhất tới thấp nhất.
Kiểm toán năng lượng nhà ở[sửa | sửa mã nguồn]
4
Kiểm toán năng lượng nhà ở là một dịch vụ mà ở đó hiệu quả năng lượng của một ngôi nhà được đánh giá
bởi một người sử dụng thiết bị chuyên nghiệp (chẳng hạn như cửa thổi gió và máy ghi hình hồng ngoại), với
mục đích cho thấy cách tốt nhất để nâng cao hiệu quả năng lượng sưởi ấm và làm mát nhà.
Kiểm toán năng lượng của một ngôi nhà có thể liên quan đến việc ghi lại các đặc tính khác nhau của
các phần thô công trình bao gồm các bức tường, trần nhà, sàn nhà, cửa ra vào, cửa sổ, và cửa sổ ở mái nhà.
Đối với mỗi thành phần khu vực và khả năng chống dòng nhiệt giá trị R) được đo lường hoặc ước tính. Tỷ
lệ rò rỉ hoặc xâm nhập của không khí thông qua các phần bao tòa nhà được quan tâm, cả hai đều bị ảnh
hưởng mạnh mẽ bởi kết cấu cửa sổ và chất lượng của các chống thấm cửa đi chẳng hạn như
weatherstripping. Mục đích của công việc này là để định lượng hiệu suất nhiệt tổng thể của tòa nhà. Việc
kiểm toán cũng có thể đánh giá hiệu quả, điều kiện vật lý, và lập trình của hệ thống cơ khí như sưởi ấm,
thông gió, thiết bị điều hòa không khí và ổn nhiệt.
Kiểm toán năng lượng nhà ở có thể bao gồm một báo cáo bằng văn bản ước lượng năng lượng sử dụng cho
tiêu chuẩn khí hậu địa phương, cài đặt nhiệt, mái nhà nhô ra và hướng mặt trời. Điều này có thể hiển thị sử
dụng năng lượng cho một khoảng thời gian nhất định, nói một năm, và tác động của bất kỳ cải tiến đề xuất
mỗi năm. Độ chính xác của các ước tính năng lượng được cải thiện rất nhiều khi lịch sử thanh toán của
người chủ sở hữu nhà hiện có sẵn hiển thị số lượng điện, khí đốt, dầu nhiên liệu, hoặc các nguồn năng lượng
khác tiêu thụ trong khoảng thời gian một hoặc hai năm.
Một số trong những ảnh hưởng lớn nhất về sử dụng năng lượng là hành vi người dùng, khí hậu, và tuổi của
ngôi nhà. Một kiểm toán năng lượng do đó có thể bao gồm một cuộc phỏng vấn của chủ nhà hiểu cách sử
dụng theo thời gian. Lịch sử thanh toán năng lượng từ công ty tiện ích địa phương có thể được hiệu chỉnh
bằng cách sử dụng dữ liệu ngày nóng và ngày lạnh thu được từ dữ liệu thời tiết địa phương gần đây, kết hợp
với mô hình năng lượng nhiệt của tòa nhà. Những tiến bộ trong mô hình nhiệt dựa trên máy tính có thể đưa
vào nhiều biến số ảnh hưởng đến sử dụng năng lượng.
Một kiểm toán năng lượng ngôi nhà thường được sử dụng để xác định những cách thức hiệu quả để cải

thiện sự tiện nghi và hiệu quả của các tòa nhà. Ngoài ra, nhà cửa có thể hội đủ các điều kiện hiệu quả năng
lượng từ chính quyền trung ương.
Tại Hoa Kỳ[sửa | sửa mã nguồn]
Tại Hoa Kỳ, loại dịch vụ này thường có thể được hỗ trợ bởi:
• Công ty công ích, hoặc bộ phận bảo tồn năng lượng của họ.
• Các công ty độc lập, khu vực tư nhân như công ty dịch vụ năng lượng, nhà thầu cách nhiệt, hoặc
chuyên gia chống thấm không khí.
• Văn phòng năng lượng nhà nước (Mỹ).
Công ty tiện ích có thể cung cấp dịch vụ này, cũng như các khoản vay và ưu đãi khác để bảo vệ. Họ cũng
thường cung cấp các ưu đãi để chuyển đổi, ví dụ, nếu bạn là một khách hàng dùng dầu xem xét chuyển sang
khí đốt tự nhiên.
Nơi để xem xét cho các khuyến nghị cách nhiệt:
• Văn phòng thanh tra xây dựng của địa phương.
• Mã xây dựng địa phương hoặc tiểu bang.
• Bộ Năng lượng Hoa Kỳ.
• Hiệp hội nhà xây dựng địa phương của bạn (ví dụ như />homes.htm Làm thế nào ngôi nhà trở thành Nhà xanh)
Các kiểm toán viên năng lượng dân cư được công nhận bởi Viện Hiệu suất Xây dựng (BPI) hoặc Mạng dịch
vụ năng lượng dân cư (RESNET).
[1][2]
Nevada sẽ trở thành tiểu bang đầu tiên thực hiện kiểm toán năng lượng
nhà ở tại thời điểm bán lại. Luật mới này sẽ có hiệu lực vào ngày 01 tháng 1 năm 2011
[cần dẫn nguồn]
.
Ngoài ra còn có một số công cụ đơn giản có sẵn, với một chủ nhà có thể nhanh chóng đánh giá tiềm năng
cải thiện năng lượng (không có việc sử dụng các thiết bị kiểm toán). Thông thường đây là những cung cấp
miễn phí bởi các cơ quan nhà nước hoặc các tiện ích địa phương, những người sản xuất ra một báo cáo với
các ước tính sử dụng của thiết bị/khu vực (kể từ khi họ có thông tin sử dụng). Ví dụ như Chương trình Tín
thác Năng lượng của Ô-rê-gon và Lý lịch nguồn nhà ở của Xít-tơn. Các chương trình như vậy cũng có thể
bao gồm đèn huỳnh quang com-pắc miễn phí.
5

Tại Li-băng[sửa | sửa mã nguồn]
Từ năm 2002, Trung tâm Lebanon Bảo tồn Năng lượng (LCEC) bắt đầu một chương trình toàn quốc về
kiểm toán năng lượng cho phương tiện và trang thiết bị tiêu thụ lớn. Đến cuối năm 2008, LCEC đã tài trợ và
giám sát hơn 100 kiểm toán.
LCEC đưa ra một chương trình kiểm toán năng lượng để hỗ trợ các hộ tiêu thụ năng lượng Liban và các tòa
nhà công cộng và các nhà máy công nghiệp trong việc quản lý năng lượng của họ thông qua chương trình
này.
Mục tiêu lâu dài của LCEC là tạo ra một thị trường cho các ESCO, theo đó bất kỳ người thụ hưởng có thể
liên hệ trực tiếp một Esco chuyên ngành để thực hiện kiểm toán năng lượng, thực hiện các biện pháp bảo
tồn năng lượng và giám sát chương trình tiết kiệm năng lượng theo một hợp đồng hiệu suất năng lượng tiêu
chuẩn.
Hiện nay, LCEC giúp đỡ trong việc tài trợ cho các nghiên cứu kiểm toán năng lượng và do đó là liên kết cả
hai người thụ hưởng và công ty kiểm toán năng lượng. LCEC cũng mục tiêu tạo ra một quỹ đặc biệt được sử
dụng để thực hiện các biện pháp bảo tồn năng lượng kết quả từ nghiên cứu này.
LCEC thiết lập một tiêu chuẩn tối thiểu về trình độ các ESCO ở Liban và xuất bản một danh sách các ESCO
đủ điều kiện trên trang web của mình.
Tại Úc[sửa | sửa mã nguồn]
Kế hoạch an toàn cách nhiệt nhà ở mới của Chính phủ Úc đã được công bố vào ngày 01 Tháng Tư 2010.
[3]
Tại Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Kiểm toán năng lượng công nghiệp và nông nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]
Trong vài thập kỷ gần đây, kiểm toán năng lượng công nghiệp và nông nghiệp đã bùng nổ khi nhu cầu hạ
thấp chi phí năng lượng ngày càng đắt đỏ và dẫn tới việc trong tương lai kiểm toán năng lượng trở nên rất
quan trọng.
Các loại kiểm toán năng lượng[sửa | sửa mã nguồn]
Việc kiểm toán năng lượng thường được sử dụng để mô tả một loạt các nghiên cứu năng lượng khác nhau,
từ một cách nhanh chóng đi bộ qua một cơ sở để xác định các khu vực có vấn đề lớn đối với một phân tích
toàn diện những tác động của hiệu quả năng lượng thay thế biện pháp đủ để đáp ứng các tiêu chuẩn tài
chính tinh vi nhà đầu tư. Nhiều thủ tục kiểm toán đã được phát triển cho không (đại học) các tòa nhà dân cư
(ASHRAE;

[4]
Phụ lục 11 IEA- ECBCS;
[5]
Krarti, 2000). Kiểm toán là cần thiết để xác định các cơ hội hiệu
quả chi phí (ECO) hoặc biện pháp (ECM) bảo tồn năng lượng hiệu quả nhất. Cáơ cơ hội (hoặc biện pháp)
bảo tồn năng lượng có thể bao gồm việc sử dụng hiệu quả hơn, việc thay thế một phần hoặc toàn bộ các lắp
đặt hiện có.
Khi nhìn vào các phương pháp kiểm toán đang có được phát triển trong Phụ lục 11 IEA-ECBCS bởi
ASHRAE và Krarti (2000), thấy rằng các vấn đề chính của một quá trình kiểm toán là:
• Việc phân tích dữ liệu xây dựng và tiện ích, bao gồm cả nghiên cứu các thiết bị đã cài đặt và phân
tích các hóa đơn năng lượng;
• Việc khảo sát các điều kiện vận hành thực tế;
• Việc hiểu biết của các hành vi tòa nhà và các tương tác với thời tiết, lịch trình hoạt động và chiếm
giữ;
• Việc lựa chọn và đánh giá các biện pháp bảo tồn năng lượng;
• Việc ước tính tiềm năng tiết kiệm năng lượng;
• Việc xác định các mối quan tâm và nhu cầu của khách hàng.
Các loại/mức độ kiểm toán năng lượng phổ biến được phân biệt dưới đây, mặc dù các nhiệm vụ thực tế
được thực hiện và mức độ nỗ lực có thể khác nhau đối với các dịch vụ cung cấp tư vấn theo các nhóm này.
Cách duy nhất để đảm bảo rằng một kiểm toán đề xuất sẽ đáp ứng nhu cầu cụ thể của bạn là giải thích rõ
ràng những yêu cầu trong một phạm vi chi tiết của công việc. Việc dành thời gian để chuẩn bị chào mời
chính thức cũng sẽ đảm bảo các chủ xây dựng nhận được đề xuất cạnh tranh và có thể so sánh.
Nói chung, bốn cấp độ phân tích có thể được vạch ra (ASHRAE):
6
• Cấp 0 - Điểm chuẩn: phân tích đầu tiên này bao gồm toàn bộ năng lượng sử dụng sơ bộ Xây dựng
(WBEU) phân tích dựa trên các phân tích lịch sử sử dụng tiện ích và chi phí và so sánh của các buổi
biểu diễn của các tòa nhà của các tòa nhà tương tự. Điểm chuẩn của bản cài đặt nghiên cứu này cho
phép xác định nếu phân tích sâu hơn là cần thiết;
• Cấp I - Kiểm toán năng lượng sơ bộ: Phân tích sơ bộ được thực hiện để đánh giá hiệu quả năng
lượng tòa nhà để xác định không chỉ các cải tiến đơn giản và chi phí thấp mà còn là một danh sách các

biện pháp bảo tồn năng lượng (ECM, hoặc cơ hội bảo tồn năng lượng, ECO) để định hướng cho các
kiểm toán chi tiết trong tương lai. Kiểm tra này được dựa trên việc xác minh bằng mắt, nghiên cứu các
thiết bị được cài đặt và dữ liệu hoạt động và phân tích chi tiết về tiêu thụ năng lượng ghi nhận thu thập
được trong giai đoạn định chuẩn;
• Cấp II - Kiểm toán năng lượng chi tiết: Dựa trên các kết quả của kiểm toán trước, loại hình kiểm
toán năng lượng bao gồm trong cuộc khảo sát sử dụng năng lượng để cung cấp một phân tích toàn diện
của bản cài đặt nghiên cứu, phân tích chi tiết hơn về cơ sở, một phân tích về việc sử dụng năng lượng
và đánh giá định lượng đầu tiên của các ECO/ECM được lựa chọn để sửa chữa các khuyết tật hoặc cải
thiện quá trình cài đặt hiện có. Cấp độ phân tích này có thể liên quan đến các đo lường tại chỗ tiên tiến
và công cụ mô phỏng dựa trên máy tính phức tạp để đánh giá chính xác các trang bị thêm năng lượng
được lựa chọn;
• Cấp III - Kiểm toán năng lượng cấp đầu tư: Phân tích chi tiết Sửa đổi vốn đầu tư chuyên sâu tập
trung vào các ECO chi phí tiềm năng đòi hỏi việc nghiên cứu kỹ thuật nghiêm ngặt.
Điểm chuẩn(theo dõi tình hình sử dụng năng lượng)[sửa | sửa mã nguồn]
Không thể mô tả tất cả các tình huống có thể là có thể gặp phải trong quá trình kiểm toán có nghĩa là nó là
cần thiết để tìm một cách để mô tả những gì tạo nên hiệu suất năng lượng tốt, trung bình và xấu trên một
loạt các tình huống. Mục đích của điểm chuẩn là để trả lời câu hỏi này. Điểm chuẩn chủ yếu bao gồm so
sánh mức tiêu thụ đo được với mức tiêu thụ tài liệu tham khảo của các tòa nhà tương tự khác hoặc tạo ra bởi
các công cụ mô phỏng để xác định chi phí vận hành quá mức hoặc không thể chấp nhận được. Như đã đề
cập trước đây, điểm chuẩn cũng là cần thiết để xác định các tòa nhà giới thiệu tiềm năng thú vị tiết kiệm
năng lượng. Một vấn đề quan trọng trong điểm chuẩn là việc sử dụng của các chỉ số hiệu suất để mô tả việc
xây dựng.
Những chỉ số này có thể là:
• Các chỉ số nghi, so sánh các điều kiện thoải mái thực tế để yêu cầu sự thoải mái;
• Các chỉ số năng lượng, bao gồm nhu cầu năng lượng chia cho khu vực nước nóng / có điều kiện,
cho phép so sánh với các giá trị tham khảo của các chỉ số quy định hoặc các tòa nhà tương tự;
• Nhu cầu năng lượng, so sánh trực tiếp năng lượng "tham chiếu" nhu cầu tạo ra bởi phương tiện của
các công cụ mô phỏng.
Kiểm toán sơ bộ[sửa | sửa mã nguồn]
Kiểm toán sơ bộ (hay còn gọi là một kiểm toán đơn giản) là loại đơn giản nhất và nhanh nhất của kiểm toán.

Nó bao gồm các cuộc phỏng vấn tối thiểu với các nhân viên điều hành tòa nhà, một đánh giá ngắn gọn về
những hóa đơn tiện ích cơ sở dữ liệu hoạt động khác, và thông qua một cơ sở để trở thành quen thuộc với
những hoạt động xây dựng và xác định những khu vực rõ ràng không hiệu quả hoặc lãng phí năng lượng.
Thông thường, chỉ có vấn đề khu vực quan trọng sẽ được đề cập trong loại hình kiểm toán này. Biện pháp
khắc phục được một thời gian ngắn mô tả, và ước tính chi phí thực hiện, tiết kiệm chi phí tiềm năng hoạt
động, và thời gian hoàn vốn đơn giản, nhanh chóng được cung cấp. Một danh sách các biện pháp bảo tồn
năng lượng (ECM), hoặc cơ hội bảo tồn năng lượng (ECOS) yêu cầu xem xét thêm cũng được cung cấp.
Mức độ chi tiết, trong khi không đủ để đạt được một quyết định cuối cùng về thực hiện các biện pháp đề
xuất, là đủ để ưu tiên các dự án năng lượng hiệu quả và để xác định sự cần thiết của một kiểm toán chi tiết
hơn.
Kiểm toán tổng quát[sửa | sửa mã nguồn]
Việc kiểm toán chung (hay còn gọi là kiểm toán cỡ nhỏ, kiểm toán năng lượng vị trí hoặc kiểm toán năng
lượng chi tiết hoặc kiểm toán năng lượng vị trí hoàn chỉnh) mở rộng về kiểm toán sơ bộ mô tả ở trên bằng
cách thu thập thêm thông tin chi tiết về hoạt động của cơ sở và bằng cách thực hiện một đánh giá chi tiết
hơn về các biện pháp bảo tồn năng lượng. Các hóa đơn tiện ích được thu thập cho khoảng thời gian 12-36
tháng cho phép kiểm toán viên đánh giá tỷ lệ cơ cấu nhu cầu năng lượng và hồ sơ sử dụng năng lượng của
7
cơ sở. Nếu dữ liệu đồng hồ đo khoảng thời gian có sẵn, các hồ sơ năng lượng chi tiết này mà các dữ liệu đó
thông thường sẽ làm cho có thể phân tích được các dấu hiệu của lãng phí năng lượng [1]. Việc đo bổ sung
các hệ thống tiêu thụ năng lượng cụ thể thường được thực hiện để hỗ trợ dữ liệu tiện ích. Các cuộc phỏng
vấn sâu với các nhân viên điều hành cơ sở được tiến hành để cung cấp một sự hiểu biết tốt hơn các hệ thống
tiêu thụ năng lượng lớn và để đạt được cái nhìn sâu sắc vào các mô hình tiêu thụ năng lượng ngắn hạn và
dài hạn. Loại hình kiểm toán này sẽ có thể xác định tất cả các biện pháp bảo tồn năng lượng thích hợp cho
cơ sở, tham số hoạt động của nó. Một phân tích tài chính chi tiết được thực hiện cho từng biện pháp dựa trên
các ước tính thực hiện chi tiết, các khoản tiết kiệm chi phí vận hành cụ thể, và các tiêu chí đầu tư của khách
hàng. Chi tiết đầy đủ được cung cấp để biện minh cho việc thực hiện dự án.
Kiểm toán cấp đầu tư[sửa | sửa mã nguồn]
Trong hầu hết các thiết lập của công ty, các nâng cấp hạ tầng năng lượng của cơ sở phải cạnh tranh cho tài
trợ vốn với các đầu tư không liên quan đến năng lượng. Cả hai đầu tư năng lượng và phi năng lượng đều
được đánh giá trên một bộ tiêu chí tài chính nói chung nhấn mạnh sự hoàn vốn đầu tư (ROI) dự kiến. Các

khoản tiết kiệm vận hành dự kiến từ việc thực hiện các dự án năng lượng phải được phát triển dường như
chúng cung cấp một mức độ tự tin cao. Trong thực tế, các nhà đầu tư thường yêu cầu tiết kiệm được đảm
bảo. Việc kiểm toán cấp đầu tư mở rộng kiểm toán chi tiết mô tả ở trên và dựa trên một nghiên cứu kỹ thuật
hoàn chỉnh đến từng các vấn đề kỹ thuật và kinh tế chi tiết cần thiết để biện minh cho việc đầu tư liên quan
đến các chuyển đổi.
Thủ tục kiểm toán năng lượng trên cơ sở mô phỏng cho các tòa
nhà không dân cư[sửa | sửa mã nguồn]
Một thủ tục kiểm toán đầy đủ, rất giống với những đề xuất của ASHRAE và Krarti (2000), đã được đề xuất
trong khung AUDITAC [2] và HARMONAC [3] dự án để giúp đỡ trong việc thực hiện các chỉ thị ("Hiệu
suất năng lượng các công trình") EPB ở châu Âu và để phù hợp với thị trường châu Âu hiện nay.
Các thủ tục sau đây đề nghị để làm cho việc sử dụng chuyên sâu của các công cụ BES hiện đại ở mỗi bước
của quá trình kiểm toán, điểm chuẩn để kiểm toán chi tiết và nghiên cứu tài chính:
• Giai đoạn điểm chuẩn: Trong khi bình thường hóa là cần thiết để cho phép so sánh giữa các dữ liệu
được ghi cài đặt nghiên cứu và các giá trị tham chiếu rút ra từ nghiên cứu trường hợp hoặc thống kê.
Việc sử dụng các mô hình mô phỏng để thực hiện một mô phỏng mã phù hợp của việc cài đặt được
nghiên cứu, cho phép đánh giá trực tiếp cài đặt nghiên cứu, mà không có bất kỳ bình thường cần thiết.
Thật vậy, áp dụng một công cụ điểm chuẩn dựa trên mô phỏng cho phép một cá nhân bình thường và
cho phép tránh kích thước và bình thường hóa khí hậu
[6]
• Giai đoạn kiểm toán sơ bộ: toàn cầu tiêu dùng hàng tháng là không đủ để cho phép một sự hiểu biết
chính xác hành vi của tòa nhà. Ngay cả khi các phân tích của các hóa đơn năng lượng không cho phép
xác định với độ chính xác tiêu thụ năng lượng khác nhau hiện diện trong cơ sở, các hồ sơ tiêu thụ có thể
được sử dụng để hiệu chỉnh xây dựng mô hình mô phỏng hệ thống. Để đánh giá hệ thống hiện có và để
mô phỏng một cách chính xác hành vi nhiệt của tòa nhà, các mô hình mô phỏng đã được hiệu chỉnh về
cài đặt phần nghiên cứu. Lặp đi lặp lại cần thiết để thực hiện hiệu chuẩn của mô hình cũng có thể được
tích hợp đầy đủ trong quá trình kiểm toán và giúp đỡ trong việc xác định các phép đo cần thiết và các
vấn đề quan trọng
[7]
• Giai đoạn kiểm toán chi tiết: Ở giai đoạn này, trên trang web đo, sub-đo và dữ liệu giám sát được
sử dụng để tinh chỉnh các hiệu chỉnh của công cụ BES. Sự chú ý mở rộng sự hiểu biết không chỉ các

đặc điểm hoạt động của tất cả các hệ thống năng lượng tiêu thụ, nhưng cũng có những tình huống gây
ra các biến thể tải hồ sơ trên cơ sở ngắn hạn và dài hạn (ví dụ như hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng,
hàng năm). Khi các tiêu chuẩn hiệu chuẩn được thỏa mãn, các khoản tiết kiệm liên quan đến lựa chọn
ECOS / ECMs có thể được định lượng
[8]
• Giai đoạn kiểm toán cấp đầu tư: Ở giai đoạn này, kết quả được cung cấp bởi công cụ BES hiệu
chuẩn có thể được sử dụng để đánh giá ECOS chọn / ECMs và định hướng kỹ thuật nghiên cứu chi tiết.
Các kỹ thuật kiểm toán chuyên biệt[sửa | sửa mã nguồn]
Kiểm toán nhiệt độ hồng ngoại[sửa | sửa mã nguồn]
Sự xuất hiện của độ phân giải cao nhiệt độ đã cho phép các thanh tra để xác định các vấn đề tiềm năng trong
phần thô công trình bằng cách lấy một hình ảnh nhiệt của các bề mặt khác nhau của một tòa nhà. Đối với
8
mục đích của kiểm toán năng lượng, thermographer sẽ phân tích các mô hình trong nhiệt độ bề mặt để xác
định truyền nhiệt thông qua đối lưu, bức xạ, hoặc dẫn. Điều quan trọng là cần lưu ý rằng nhiệt độ chỉ xác
định nhiệt độ bề mặt, và phân tích phải được áp dụng để xác định lý do cho các mô hình trong nhiệt độ bề
mặt. Phân tích nhiệt của một ngôi nhà nói chung chi phí giữa 300 và 600 USD.
Đối với những người không có khả năng kiểm tra nhiệt, nó có thể để có được một cảm giác chung cho sự
mất mát nhiệt với một nhiệt kế không tiếp xúc hồng ngoại và một vài tờ của cách nhiệt phản xạ. Phương
pháp này liên quan đến việc đo nhiệt độ trên bề mặt bên trong của bức tường bên ngoài một số thiết lập
nhiệt độ cơ bản. Sau này, phản xạ vật liệu cách nhiệt rào cản được ghi âm sẵn một cách an toàn vào các bức
tường trong Bản mẫu:Chuyển đổi bằng Bản mẫu:Chuyển đổi dải và nhiệt độ được đo ở trung tâm của khu
vực cách ly tại 1 khoảng thời gian giờ cho 12 giờ (Các rào cản phản chiếu được kéo ra khỏi tường để đo
nhiệt độ ở trung tâm của khu vực mà nó đã bao phủ.). Cách tốt nhất để làm điều này là khi sự khác biệt giữa
nhiệt độ (Delta T) giữa bên trong và bên ngoài của cấu trúc ít nhất là 40 độ. Một bức tường cách nhiệt tốt
thường sẽ thay đổi khoảng 1 độ mỗi giờ nếu sự khác biệt giữa nhiệt độ bên ngoài và nội bộ là trung bình 40
độ. Một bức tường cách nhiệt kém có thể giảm xuống 10 độ trong một giờ.
Kiểm toán ô nhiễm[sửa | sửa mã nguồn]
Với sự gia tăng lượng khí thải các-bon đi-ô-xít hoặc các loại khí nhà kính khác, kiểm toán ô nhiễm hiện nay
là một yếu tố nổi bật nhất trong kiểm toán năng lượng. Thực hiện công nghệ tiết kiệm năng lượng này
giúp [4] ngăn chặn ô nhiễm tiện ích tạo ra.

Ô nhiễm và khí thải máy tính trực tuyến cung cấp số liệu gần đúng lượng phát thải các chất ô nhiễm không
khí nổi tiếng khác ngoài khí carbon dioxide.
Kiểm toán Ô nhiễm môi trường thường lấy số liệu tiêu thụ điện và nhiên liệu sưởi ấm trong một khoảng thời
gian hai năm và cung cấp số liệu xấp xỉ về các-bon đi-ô-xít, chất VOC, các ô-xít ni-tơ, các-bon mô-nô-xít,
khí lưu huỳnh, thủy ngân, ca-đi-mi, chì, các hợp chất thủy ngân, các hợp chất ca-đi-mi và các hợp chất chì.
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Kiểm toán năng lượng ban đầu trở nên phổ biến trong phản ứng với các cuộc khủng hoảng năng lượng năm
1973 và các năm sau đó. Quan tâm đến việc kiểm toán năng lượng gần đây gia tăng như là kết quả của sự
hiểu biết ngày càng tăng tác động của con người khi sự nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu.
Quy trình kiểm toán năng lượng sơ bộ và kiểm toán năng lượng chi tiết
30/10/2012
.
1. Kiểm toán năng lượng sơ bộ:
Giúp doanh nghiệp đánh giá nhanh về hiện trạng sử dụng năng lượng, quản lý năng lượng, phát hiện các cơ hội
tiết kiệm năng lượng.
Các bước thực hiện gồm
Bước 1: Thu thập thông tin,Doanh nghiệp thực hiện theo “Phiếu thu thập dữ liệu”.
Bước 2: Kiểm toán sơ bộ với nội dung: trao đổi, phỏng vấn cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật của doanh nghiệp về
thực trạng quản lý và sử dụng năng lượng; khảo sát dây chuyền sản xuất, hệ thống thiết bị nănglượng (điện, nhiệt,
lạnh) để phát hiện nhanh các cơ hội tiết kiệm năng lượng.
- Cán bộ tư vấn: Chuyên gia tiết kiệm năng lượng
- Cán bộ doanh nghiệp: Cán bộ quản lý kỹ thuật, cán bộ quản lý năng lượng.
Bước 3: Lập báo cáo Kiểm toán năng lượng sơ bộ
2. Kiểm toán năng lượng chi tiết
Kiểm toán năng lượng chi tiết là mức độ đầy đủ nhất kiểm toán năng lượng. Theo yêu cầu của Luật Sử dụng năng
lượng tiết kiệm và hiệu quả, các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm bắt buộc phải thực hiện kiểm toán năng
lượng chi tiết 3 năm/1lần.
Các bước chính thực hiện gồm:
- Chuẩn bị kiểm toán năng lượng: tổ chức, nhân lực, thiết bị, bảng câu hỏi…
9

- Thu thập dữ liệu về dây chuyền thiết bị, sản xuất, năng lượng.
- Kiểm tra thực địa và xây dựng kế hoạch đo đạc.
- Thực hiện các đợt đo đạc thực tế.
- Phân tích chi tiết tỉ lệ tiêu thụ năng lượng, hiệu quả sử dụng năng lượng.
- Xây dựng các giải pháp tiết kiệm năng lượng (TKNL) khả thi.
+ Phân tích kinh tế, tài chính cho các dự án TKNL được đề xuất.
+ Xây dựng kế hoạch thực hiện các dự án TKNL cho nhà máy.
+ Xây dựng báo cáo kiểm toán năng lượng chi tiết.
Phương Trang (theo )

Tầm quan trọng của kiểm toán năng lượng trong sản xuất
02/08/2011
Theo Quy định tại Điều 33 của Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả thì các cơ sở sử dụng năng lượng
trọng điểm bắt buộc 3 năm doanh nghiệp (DN) phải kiểm toán năng lượng 1 lần. Việc kiểm toán năng lượng là rất
cần thiết nó sẽ giúp doanh nghiệp nhận dạng ra những bất hợp lý và những thất thoát năng lượng trong quá trình
sản xuất.
Kiểm toán năng lượng, các doanh nghiệp có được báo cáo chi tiết về thực trạng tình hình sử dụng năng lượng đã
hợp lý chưa của từng công đoạn sản xuất, từng thiết bị dây truyền sản xuất để từ đó đánh giá được tiềm năng tiết
kiệm năng lượng. Sau khi Kiểm tóan chuyên gia tư vấn sẽ giúp doanh nghiệp có được những giải pháp quản lý
năng lượng hiệu quả, tìm ra những lãng phí năng lượng trong quá trình sử dụng năng lượng tại doanh nghiệp và
đề xuất cho doanh nghiệp các giải pháp sử dụng năng lượng một cách có hiệu quả nhất, giúp doanh nghiệp giảm
chi phí nhiên liệu đầu vào trong sản xuất, hạ giá thành sản phẩm tăng khả năng cạnh tranhcủa doanh nghiệp.
Để được kiểm toán năng lượng Doanh nghiệp có thể liên lạc trực tiếp hoặc Email cho Trung tâm ứng dụng tiến
bộ khoa học và công nghệ – Sở Khoa học và Công nghệ Bình Dương (Trung tâm) để đăng ký được hỗ trợ thực
hiện theo các bước sau:
Trung tâm sẽ gửi cho doanh nghiệp Phiếu đề nghị hỗ trợ hoạt động tiết kiệm năng lượng và Bảng khảo sát kiểm
toán sơ bộ để DN về điền các thông tin cơ bản của DN.
Doanh nghiệp điền các thông tin của doanh nghiệp xong và gửi lại cho Trung tâm.
Trung tâm sẽ phân tích quy mô, mức tiêu thụ năng lượng cũng như số liệu về máy móc thiết bị của doanh nghiệp,
sau đó lên kế hoạch và cử cán bộ kỹ thuật tiến hành kiểm toán năng lượng chi tiết tại DN.

Sau khi kiểm toán xong, Trung tâm sẽ tính toán và phân tích lập thành báo cáo kiểm toán năng lượng và đề xuất
những giải pháp cụ thể và tối ưu nhất giúp doanh nghiệp nhận ra những thất thoát lãng phí năng lượng ở những
công đoạn quy trình nào trong quá trình sản xuất cũng như trong công tác quản lý sử dụng năng lượng của doanh
nghiệp.
Cuối cùng sẽ tiến hành tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện các giải pháp tiết kiệm năng lượng và tư vấn vay
vốn từ các nguồn vốn vay ưu đãi của tỉnh như Quỹ phát triển khoa học công nghệ hoặc Quỹ Bảo vệ Môi trường
để doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư (nếu cần).
10

Kiểm toán năng lượng tại Công ty TNHH Hoa Nam ngành chế biến thực phẩm

Kiểm toán năng lượng Công ty CP gỗ Minh Dương ngành chế biến gỗ

Một số gợi ý khi thực hiện KTNL
05/05/2011
Phân tích số liệu
Phân tích hàng tháng – một số trường hợp là hàng ngày – thu thập được trước khi thực hiện bất kỳ một đo kiểm.
Sự liên quan của tiêu thụ năng lượng với nguyên liệu thô, sản phẩm, giờ vận hành, nhiệt độ trung bình của môi
11
trường xung quanh, v.v. sẽ chỉ ra một số dạng chu kỳ hoặc bất thường nào đó đang tồn tại tại cơ sở.
Thiết kế và thực hiện kiểm toán năng lượng
Sau đây là tóm tắt các bước cần xem xét trước khi thực hiện bất kỳ đo kiểm thực địa nào
1. Chia tách nhà máy/ công xưởng theo quy trình, theo sản phẩm và/ hoặc dịch vụ tiện ích bằng sơ đồ khối.
2. Trong mỗi thành phần của sơ đồ khối, nhận diện toàn bộ đầu vào năng lượng, nguyên vật liệu, sản phẩm, các
bộ phận, những chất thải và lãng phí. Đảm bảo để cả đầu vào khác ngoài năng lượng cũng không bị bỏ sót. Nó
bao gồm như dầu mỡ, khí, dầu thủy lực và hóa chất khác v.v. tất cả các loại có giá trị năng lượng.
3. Dựa vào thông tin đã có, dự tính tỉ lệ tương đối về lưu chuyển năng lượng và lãng phí năng lượng. Điều này
thực hiện để sắp xếp thứ tự ưu tiên cho kiểm toán năng lượng. Rõ ràng là 1% tiết kiệm tại “vật dụng sử dụng
năng lượng lớn sẽ có ảnh hưởng lớn hơn là 10% tiết kiệm tại các vật dụng quá nhỏ”. Cũng cần lưu ý: điều này
không có nghĩa là bỏ qua những thiết bị sử dụng năng lượng nhỏ mà là biết phải tập vào đâu để tiết kiệm được

phần lớn năng lượng.
4. Cần đánh giá xem những đo kiểm nào có thể thực hiện dễ và đơn giản. Sau đó, xem xét những mẫu nào cần
kiểm tra thêm và ở những điểm đo nào, v.v. thì cần thiết, kể cả bất kỳ khả năng nào có thể lựa chọn cho nhà máy.
5. Sắp xếp thứ tự ưu tiên cho những đo kiểm dựa vào độ lớn của đầu vào hoặc sự lãng phí.
6. Có thể đánh giá những đo kiểm cần thiết mà lại khó thực hiện hoặc khi thực hiện có thể cần thay đổi nhà máy
theo cách khác không, hay là những giá trị đó có khả năng tính toán từ những thông số khác mà đã đo hoặc đo
được bằng cách đơn giản hơn không?
7. Tiến hành phân tích sai số cho tất cả đo kiểm đã đề xuất. Một thực tế là dù bạn dùng những thiết bị mới, hiện
đại và được biết là có độ chuyên dụng chính xác cao nhưng không có nghĩa là kết quả bạn thu được đều phản ánh
đúng những gì đang thực sự diễn ra. Phần lớn các thiết bị được sử dụng, như đo lưu lượng, đều cần đưa ra một số
giả định nhất định, ví dụ như đường kính và độ nhẫn bên trong ống. Những tính chất vật lý này của thiết bị hoặc
vật liệu sẽ không dễ bù được. Vì thế, cần phải phân tích xem kết quả thu được đến mức nào.
Phân tích tác động tổng hợp của những sai lệch sẽ cho ta thấy những kết quả đo kiểm nào là chủ yếu để có được
một bức tranh chính xác về quá trình hoạt động hoặc dây chuyền sản xuất.
Các kết quả rõ ràng là không ổn định thì sẽ phải tái kiểm tra cho tới khi có được những kết quả đo đạc có ý nghĩa.
Thường thì mức độ chính xác của một số đo kiểm ảnh hưởng rất ít tới cân bằng năng lượng chung của cơ sở.
Điều quan trọng nhất cần nhớ là thậm chí thiết bị có thể cho kết quả thì cũng không làm cho chúng quá khác nhau
khi chỉ xem xét ở khía cạnh tính toán.
8. Lập bảng ghi chép để theo dõi số đo.
9. Quyết định tần suất ghi số đo. Điều này do 3 tiêu chí sau chi phối:
-Tần suất có thể tiến hành đo trong thực tế (về mặt vật lý)
Số đọc thay đổi nhanh theo thời gian, không gian (nếu số đọc đều đều thì cần đọc với tần suất ngắn hơn).
Độ lớn hoặc khối lượng tối thiểu của lưu lượng.
Đọc thiết bị và ghi số liệu 1 lần/ 15 phút là tình huống chuẩn.
10. Quyết định quá trình đo kiểm sẽ kéo dài bao lâu. Cho quy trình sản xuất theo mẻ, kiểm tra xem thời gian của
một mẻ là hoạt động bao lâu và cần bao nhiêu vòng đo để chúng ta có thể theo dõi đủ đặc tính của quá trình? Cho
quy trình sản xuất liên tục, kiểm tra xem dao động có thể ở mức nào, khi dựa vào thông tin quá khứ về nhà máy
hoạt động. Có khả năng xuất hiện chu kỳ trong quá trình sản xuất không?
11. Khi trình bày kết quả tính toán và viết báo cáo kiểm toán năng lượng, cần sử dụng một hệ đơn vị đo lường
(hoặc hệ SI, mét, hệ Anh, v.v.). Khuyến cáo nên dùng hệ SI.

12. Báo cáo nên trình bày rõ ràng bằng cách dùng đồ thị, biểu đồ để đảm bảo chất lượng.
Đỗ Lâm
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐỂ ĐÁP ỨNG NHU CẦU VỀ ĐIỆN
Tác giả: Nguyễn Anh Tuấn
Phó Giám đốc Công ty Điện lực TP Hà Nội
Điện thoại: 04.22201158
1. Vai trò quan trọng thiết yếu của năng lượng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội và phục vụ dân sinh .
Năng lượng (trong đó có điện năng) có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển của mỗi Quốc gia.
Năng lượng là một trong các nhu cầu thiết yếu đối với sinh hoạt của nhân dân và cũng chính là yếu tố đầu vào
không thể thiếu của rất nhiều ngành kinh tế khác, có tác động ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội.
Ngày nay, do sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, các ngành Công nghiệp sử dụng các dạng
năng lượng tăng mạnh. Cùng với sự biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp nên việc sử dụng năng lượng ngày càng
tăng, nguồn năng lượng thiên nhiên khai thác tăng nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng trên toàn cầu,
nguồn năng lượng thiên nhiên dần cạn kiệt đang dẫn tới tình trạng khủng hoảng về năng lượng trên toàn thế giới.
12
Chính vì vậy, việc tập trung chỉ đạo, đầu tư cho phát triển năng lượng (trong đó có ngành điện) luôn được
Đảng và Nhà nước ta ưu tiên chú trọng, nhằm đảm bảo an ninh năng lượng Quốc gia.
2. Nhận định những cơ hội và thách thức, những vấn đề tồn tại trong việc cung ứng và sử dụng điện, đảm
bảo an ninh năng lượng Quốc gia:
Tình hình nguồn điện Quốc gia:
Cơ cấu điện sản xuất và điện mua của Tập đoàn Điện lực Việt Nam:
Đơn vị: tỷ kWh
Cơ cấu Thực hiện 9T đầu
năm 2008
Tỷ trọng So sánh cùng kỳ
năm ngoái
I. Điện sản xuất 38,8 69,8% 109,08%
- Thuỷ điện 17,1 30,7% 116,8%
- NĐ than 7,1 12,8% 103,9%

- NĐ dầu 0,59 1,1% 100,2%
- TBK khí 9,4 17,0% 107,7%
- TBK dầu 0,17 0,3% 37,7%
- Đuôi hơi 5,3 9,6% 104,2%
- Diesel 0,037 0,1% 65,2%
II. Điện mua ngoài 15,8 28,4% 122,1%
Tổng Cộng 55,6 100% 112,5%
Luỹ kế điện sản xuất và mua 9 tháng đầu năm 2008 thực hiện là 55,6 tỷ kWh, tăng 12,5% so với cùng kỳ
năm trước, trong đó: điện sản xuất Tập đoàn là 39,8 tỷ kWh; điện mua ngoài là 15,834 tỷ kWh, tỷ trọng điện mua
ngoài đã tăng 22,19% so với cùng kỳ năm 2007.
Nhu cầu điện hiện nay của VN khoảng 13.000 MW, nhưng EVN mới cung cấp được gần 12.000 MW,
thiếu khoảng hơn 1.000 MW. EVN đã phải nhập khẩu từ Trung Quốc là hơn 400 MW chủ yếu là thủy điện nhỏ
nhằm giải quyết bức xúc thiếu điện trong mùa hạn hán. Việc huy động công suất khả dụng hệ thống điện Quốc
gia trong giai đoạn hiện nay đang gặp khó khăn do nhiên liệu đầu vào của nhà máy điện than, dầu, khí sử dụng tài
nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, giá cả nhiên liệu nhập khẩu tăng cao dẫn đến giá thành sản xuất điện tăng
trong khi giá điện bán không đổi. Đối với các nhà máy thuỷ điện chiếm tỷ trọng lớn, có giá thành sản xuất điện
thấp nhưng phụ thuộc quá nhiều vào thiên nhiên, các nhà máy điện khác như: hạt nhân, sinh khối, gió, mặt trời,
địa nhiệt, sóng biển chưa có. Do đó, EVN đã phải cân đối giá thành sản xuất điện huy động công suất khả dụng
dụng của hệ thống điện Quốc gia cung cấp điện đảm bảo ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội và hoàn thành
các chỉ tiêu kinh tế do Chính phủ giao.
Nguyên nhân tình trạng thiếu điện hiện nay do:
- Do phụ tải tăng, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng đột biến, năm 2007 tăng 20,3%, tổng giá trị đầu tư bằng 15
năm trước đó cộng lại, nhiều dự án đầu tư lớn trong nước phát triển mạnh.
- Thời tiết năm nay khô hạn sớm hơn mọi năm, tình hình thời tiết có xu hướng khắc nhiệt, biến đổi phức tạp,
cùng với sự khủng hoảng năng lượng trên toàn cầu từ đầu năm đến nay, nhu cầu sử dụng về điện thay thế
cho những nguồn năng lượng khác ngày càng gia tăng.
- Công tác dự báo tăng trưởng nhu cầu về điện và kế hoạch triển khai xây dựng phát triển nguồn điện không
tương ứng. Các nhà máy sản xuất điện đi vào hoạt động chậm hơn so với kế hoạch.
- Khâu vận hành của các nhà máy điện chưa tốt, một số nhà máy sản xuất điện khi đi vào hoạt động đã gặp
một số sự cố như Nhà máy nhiệt điện Uông Bí hoạt động chưa ổn định, Nhà máy điện Cà Mau 1 mới hoạt

động được một nửa công suất và một loạt sự cố sửa chữa đường ống dẫn khí, dừng hoạt động để bảo dưỡng
sửa chữa nhà máy Do vậy, việc cắt điện trong thời gian vừa qua là không thể tránh khỏi.
13
Từ nay đến năm 2020, theo dự báo VN còn ở trong tình trạng thiếu điện. Bởi vì, chúng ta luôn phải chạy
theo tốc độ phát triển cao về nhu cầu sử dụng điện dẫn đến nguồn lực không đáp ứng kịp nhu cầu phát triển và
không có nguồn điện dự phòng.
3. Đề xuất các giải pháp giúp cải thiện nguồn, cung cấp đủ điện cho phát triển kinh tế xã hội, nâng tính
cạnh tranh khi hội nhập kinh tế quốc tế:
3.1. Phát triển nguồn năng lượng hạt nhân:
Thực hiện quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006-2015 có xét đến năm 2025: Mục tiêu là
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của cả nước (mức tăng GDP khoảng 8,5%-9%/năm giai đoạn 2006-
2010), dự báo nhu cầu điện tăng ở mức 17%-22%/năm.
Công suất:
2005: 13 ngàn MW (tương đương 50 ngàn tỷ kWh)
2010: 20 ngàn MW (112 tỷ kWh)
2015: 32 ngàn MW (200 tỷ kWh)
2020: 48 ngàn MW (300 tỷ kWh)
2025: 70 ngàn MW (400 tỷ kWh)
- Chúng ta phải đẩy mạnh phát triển nguồn cung cấp điện từ than, dầu, khí, thuỷ điện hạt nhân, năng lượng
mới. Việc đầu tư vào phát triển các nguồn điện thủy điện đòi hỏi vốn đầu tư lớn, bù lại giá thành sản xuất
điện thấp nhưng lại phục thuộc quá nhiều vào thiên nhiên. Đối với các nhà máy nhiệt điện giá thành sản xuất
điện tương đối cao do sử dụng nguyên liệu đầu vào tài nguyên thiên nhiên trong nước ngày dần cạn kiệt và
nhập khẩu nước ngoài với giá cao luôn biến động khó lường. Đối với điện hạt nhân theo kế hoạch năm 2015
bắt đầu xây dựng và đi vào hoạt động là năm 2020 với công suất 2.000 MW. Trước tình hình thiếu điện hiện
nay, Chính phủ đã đề nghị xây dựng gấp đôi công suất tức là 4 tổ máy và 2 nhà máy điện hạt nhân ở hai địa
điểm khác nhau. Trong tổng sơ đồ điện 6, sau năm 2020 điện hạt nhân sẽ chiếm 20% tổng sản lượng điện
của VN. Đầu tư xây dựng nhà máy điện hạt nhân đòi hỏi lượng nguồn vốn lớn (chiếm khoảng ba phần tư giá
thành) với thời gian xây dựng kéo dài, các công nghệ tiên tiến và phức tạp Việt Nam chưa nắm bắt được
chắc chắn, nhưng chi phí vận hành lại rẻ hơn so với vận hành các nhà máy phát điện sử dụng than, dầu hoặc
khí. Một khi xây dựng xong và đưa vào vận hành, nguyên liệu chủ yếu để nhà máy điện hạt nhân hoạt động

là các bó thanh nhiên liệu (thông thường là uranium) kể từ lúc nạp liệu sẽ trải qua quãng thời gian vài năm
trong lò phản ứng, với giá thành tương đối ổn định. Mặc dù giá nhiên liệu uranium đã tăng nhanh trong năm
2007, điều đó ít có ảnh hưởng tới giá thành sản xuất của các nhà máy điện hạt nhân đang hoạt động. Hơn
nữa, nguồn nhiên liệu uranium theo các số liệu đã khảo sát đủ để đảm bảo cung ứng cho ngành công nghiệp
hạt nhân trong thời gian dài, đó là chưa kể tới việc sử nhiên liệu hỗn hợp MOX (Oxít Uranium-Plutonium)
và sự phát triển công nghệ lò nơtron nhanh (hay còn gọi là lò tái sinh) sẽ đem lại cơ hội sử dụng nhiên liệu
là Thorium lên tới hàng nghìn năm, điều đó đảm bảo nguồn cung cấp nhiên liệu ổn định và chắc chắn trong
tương lai. Còn giá nguyên liệu than, dầu và khí thì khó có thể dự đoán một cách chắc chắn khi mà kế hoạch
phát triển công nghiệp điện và vận hành hệ thống điện cần phải tính đến 30-40 năm trong tương lai. Đặc biệt
trong điều kiện giá nhiên liệu ngày càng tăng nhanh thì điện hạt nhân lại càng trở nên cạnh tranh cao hơn và
sẽ là sự lựa chọn kinh tế.
Tuy nhiên việc phát trển điện hạt nhân cũng cần phải quan tâm đến các vấn đề như:
+ Lựa chọn công nghệ phù hợp nhất cho Việt Nam, tính tới điều kiện đặc thù tự nhiên, kinh tế, xã hội, thể
chế cũng sẽ là một thách thức lớn cho những người có trách nhiệm đặt nền móng cho ngành công nghiệp
nguyên tử, bởi vì chi phí phê duyệt, xây dựng, vận hành và sửa chữa sẽ được giảm đáng kể cho các nhà
máy tiếp theo.
14
+ An toàn: Xây dựng là một trong số các thách thức, tuy nhiên vận hành và bảo dưỡng NM ĐHN an toàn
trong một thời gian dài từ 40 – 60 năm mới là nỗi quan tâm lo lắng nhất của các nhà hoạch định chính
sách và các nhà đầu tư. Một sai lầm nhỏ cũng có thể dẫn đến những hậu quả và thiệt hại to lớn. Không
giống như các nhà máy điện khác, vấn đề an toàn ở đây bao gồm cả vấn đề bảo vệ nhà máy chống lại
mối đe doạ phá hoại từ bên ngoài (đe doạ gây thảm hoạ phóng xạ), và bảo vệ nguyên liệu hạt nhân và
đảm bảo có được nguồn cung cấp nhiên liệu tin cậy và ổn định. Sự hậu thuẫn và ủng hộ của các cường
quốc, cũng như các nước trong khu vực là một yếu tố quan trọng đảm bảo an ninh lâu dài và ổn định.
+ Chất thải phóng xạ: Đây hiện là một vấn đề chưa có được hướng giải quyết triệt để. Sau 3 năm sử dụng,
các thanh nhiên liệu đã cháy được coi là chất thải có hoạt độ cao. Thông thường hiện nay tại nhiều nước
các chất bó thanh nhiên liệu đã cháy này được lưu giữ tại nhà máy (thời hạn có thể đến 50 năm) chờ đến
khi được vận chuyển đến địa điểm cố định. Tuy nhiên, chưa nước nào có được một địa điểm ổn định lưu
giữ chất phóng xạ cao này cho thời gian dài. Các nghiên cứu về xử lý và quản lý chất thải hoạt độ cao
đang được nhiều nước trên thế giới quan tâm đầu tư nghiên cứu, hy vọng với tiến bộ của khoa học kỹ

thuật và công nghệ thì sớm có giải pháp tối ưu trong tương lai gần đây.
+ Sự chấp thuận của công chúng: Đó là một yếu tố quyết định sự thành công cho sự phát triển công nghiệp
điện hạt nhân. Kinh nghiệm của các nước cho thấy sự phản đối của công chúng có thể làm kéo dài thời
gian xây dựng và tăng chi phí xây dựng, thậm chí dẫn tới phá sản chủ đầu tư hoặc không thể đưa vào vận
hành được. Qua các cuộc triển lãm và thăm dò dư luận tại HN, TPHCM, Ninh Thuận, Phú Yên gần đây
cho thấy tỷ lệ ủng hộ của dân chúng rất cao (90% thấy sự cần thiết của điện hạt nhân, 47,7% coi điện hạt
nhân là có ích và an toàn, chỉ có 4,6% coi điện hạt nhân là nguy hiểm). Tuy nhiên sự ủng hộ này đang có
nguy cơ bị dò rỉ và giảm sút do thiếu sự tuyên chuyền và thông tin phổ biến. Ngành công nghiệp điện hạt
nhân cần phải chứng minh cho công chúng thấy được điện hạt nhân là rẻ, ít ô nhiễm, an toàn, tạo thu
nhập và công ăn việc làm cho địa phương thì chắc chắn sẽ được sự đồng thuận cao.
3.2 Tăng cường hợp tác đầu tư nhà nước-tư nhân (PPP) trong lĩnh vực phát triển nguồn điện:
Theo thống kê của WB, nguồn vốn đầu tư của tư nhân trong tổng số nguồn vốn đầu tư vào hạ tầng của
Việt Nam hiện nay chỉ chiếm khoảng 21%, trong khi đó, con số này đối với nguồn vốn ODA là 37%. Theo phân
tích của WB, điều này sẽ khiến cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng của Việt Nam quá phụ thuộc vào nguồn vốn
ODA, trong khi tiềm năng của khu vực tư nhân đang ngày càng lớn mạnh. Do đó việc tăng hiệu quả đầu tư là hết
sức cần thiết và huy động vốn tư nhân là một yếu tố quan trọng để tiếp tục tăng trưởng.
3.2.1 Nhu cầu vốn:
- Theo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006 – 2015 có xét đến năm 2025 (gọi tắt là Quy
hoạch điện VI) thì tổng nhu cầu vốn đầu tư cho giai đoạn 2006- 2025 khoảng 75 tỷ USD với ước tính nhu
cầu về vốn hàng năm lên tới gần 4 tỷ USD
- Nguồn vốn chính gồm:
• Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) thuộc sở hữu Nhà nước sẽ đóng góp khoảng 665.389 tỷ VNĐ
(tương đương 40 tỷ USD) huy động từ nguồn vốn tự có của EVN và các nguồn vốn vay khác, chủ
yếu là vốn vay ODA, các nguồn tín dụng xuất khẩu và các nguồn thương mại khác.
• Phần còn lại sẽ phải huy động các dự án đầu tư độc lập gồm đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước
khác, doanh nghiệp tư nhân trong nước và nước ngoài.
3.2.2Các hình thức đầu tư tiềm năng trong ngành điện:
- Các dự án BOT
- Các dự án sản xuất điện độc lập (IPP) với hình thức công ty liên doanh/công ty cổ phần không trong lĩnh
vực BOT

- Đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp vào các nhà máy điện hiện nay bao gồm cả các DNNN đã cổ phần hóa
(Cho đến nay, các nhà đầu tư tư nhân nước ngoài chủ yếu quan tâm đến hình thức BOT)
15
3.2.3 Các khó khăn gặp phải:
- Các công ty tư nhân hiện nay vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận dự án, đặc biệt là các dự án lớn.
Hầu hết các dự án có tính khả thi cao vẫn được giao cho các doanh nghiệp nhà nước. Tiêu biểu như trong
lĩnh vực thủy điện, các dự án quy mô vừa trở lên thường được phân cấp đầu tư cho EVN và một số Tổng
công ty Nhà nước. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước thường vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận
trực tiếp các dự án.
- Mâu thuẫn về lợi ích trong hợp tác đầu tư nhà nước - tư nhân. Trong mô hình PPP, nhà nước là người đại
diện cho nhân dân đứng ra đàm phán để có thể mang về những dịch vụ tiên ích nhất nhưng với một mức giá
thấp nhất. Còn ngược lại, phía nhà đầu tư với tư cách như một người bán hàng thì họ cũng mong muốn là
làm sao bán được một mức giá càng cao càng tốt để lợi nhuận mang về là lớn nhất. Chính vì vậy, làm sao để
tìm được tiếng nói chung giữa nhà nước với tư nhân trong mô hình PPP chính là bài toán khó nhất hiện nay.
Tuy nhiên, vì là đại diện cho nhân dân nên nhà nước vẫn phải nắm thế chủ động trong việc lựa chọn đối tác
để làm sao có thể có thể mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân dân
- Quy đinh pháp lý hiện nay chưa đầy đủ, các quy định chưa tính hết các tình huống phát sinh trong thực tế,
quy định chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Năm 2007 Việt Nam đã có Nghị định 78 của Chính phủ về đầu
tư theo mô hình xây dựng - kinh doanh- chuyển giao (BOT). Tuy nhiên đây chỉ là một dạng mô hình PPP
mà còn rất nhiều mô hình PPP khác nữa, mặt khác đây cũng là một nghị định khá mới nên có thể nó có
những điều khoản không phù hợp với thực tế hiện nay.
- Hầu hết các dự án PPP ở Việt Nam đều do các nhà đầu tư đề xuất, tính toán, giải trình và cơ quan quản lý
chấp thuận. Cách làm này đã gây ra nhiều vấn đề bất cập cho cả Nhà nước và nhà đầu tư. Trước hết, do
không phải là người lập dự án nên cơ quan quản lý có thể thiếu thông tin và việc quyết định các quy định
trong hợp đồng có thể gây thiệt hại cho Nhà nước, ngược lại, cũng có thể thiếu thông tin mà các bước đi
được quyết định chậm, không chính xác khiến nhà đầu tư gặp khó khăn.
3.2.4 Các giải pháp
- Cần xây dựng một khung pháp lý phù hợp tiêu chuẩn quốc tế và điều kiện Việt Nam. Trước mắt, có thể phải
thành lập một nhóm công tác liên ngành để rà soát lại hệ thống pháp luật hiện hành, khảo sát thị trường
trong và ngoài nước và thực hiện một số dự án thí điểm để có cơ sở xây dựng khung pháp luật về PPP.

- Chính phủ cần thành lập một cơ quan độc lập quản lý các dự án PPP để thực hiện „cơ chế một cửa“, tạo điều
kiện cho các nhà đầu tư cơ hội nắm bắt thông tin dự án một cách dễ dàng cũng như thuận lợi trong việc triển
khai thực thi dự án.
- Xây dựng một cơ chế hỗ trợ đối với các dự án, tính đến vai trò của nhà nước với tư cách là người bão lãnh
và xúc tiến tính khả thi. Vì vốn đầu tư các dự án đến từ nhiều nguồn trong đó, vốn nhà đầu tư thường chỉ
khoảng 30%, còn lại là đi vay. Các đối tác cho vay tất nhiên sẽ tính toán và đặt niềm tin vào hiệu quả dự án
nhưng nếu không có sự tham gia của Nhà nước thì khả năng huy động vốn sẽ rất khó.
- Tuyên truyền nâng cao nhận thức của các nhà đầu tư tư nhân khi tham gia xây dựng hạ tầng cùng Nhà nước.
- Nhà nước phải bỏ kinh phí và chỉ đạo làm tốt công tác thiết kế, tính toán khả thi về mặt tài chính, khả năng
chịu đựng phí mua điện của các tổ chức phân phối để định được mức lợi nhuận trước khi kêu gọi đầu tư vì
yếu tố lợi nhuận là quyết định khi kêu gọi các nhà đầu tư. Khi đủ điều kiện mới đưa ra kêu gọi đầu tư bằng
cách đấu thầu để có được đối tác có lợi nhất.
- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng thị trường điện để thu hút vốn đầu tư từ mọi thành phần kinh tế trong và ngoài
nước tham gia hoạt động điện lực.
- Cần xây dựng một cơ chế giá điện minh bạch, đủ hấp dẫn nhà đầu tư. Chính vì giá điện hiện nay còn bộc lộ
những yếu tố bất cập nên không thu hút nhà đầu tư. Thêm vào đó, việc bù chéo giữa giá điện sản xuất sang
giá điện sinh hoạt vẫn duy trì đang làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá. Việc giá điện không
phản ánh đúng chi phí cũng không khuyến khích sử dụng điện tiết kiệm. Hiện nay, so tương quan mức tăng
16
GDP với tốc độ tăng nhu cầu sử dụng điện thì tốc độ sử dụng điện luôn gấp đôi GDP, cho thấy việc sử dụng
lãng phí, không hiệu quả còn tràn lan.
3.3. Thực hiện chương trình tiết kiệm điện:
a) Xây dựng cơ chế chính sách cho việc triển khai chương trình tiết kiệm điện:
- Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, tổ chức hướng dẫn và kiểm
tra việc thực hiện, có chế độ thưởng, phạt cụ thể. Ban hành các quy chế, quy định về công tác tư vấn tiết kiệm
năng lượng, kiểm toán năng lượng, kiểm định cấp chứng chỉ đạt tiêu chuẩn chất lượng và dán tem chất lượng sản
phẩm tiết kiệm năng lượng. Khuyến khích và có chế độ ưu đãi cho các doanh nghiệp nhập khẩu thiết bị, vật tư,
dây chuyền công nghệ cho mục đích tiết kiệm năng lượng hoặc có dự án đầu tư sản xuất sản phẩm tiết kiệm năng
lượng.
- Gắn kết nội dung tiết kiệm điện năng với việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các cấp, các

ngành nhằm đảm bảo kinh tế xã hội bền vững. Coi đó là nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối chủ
trương phát triển của đất nước.
- Giao chỉ tiêu tiết kiệm năng lượng đối với từng cơ quan, đơn vị. Cắt giảm ngân sách hoạt động của cơ quan đơn
vị nếu không đạt chỉ tiêu. Đồng thời xây dựng chế độ trách nhiệm đối với từng tập thể cá nhân trong viêc thực
hiện tiết kiệm điện năng.
- Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng máy phát điện trong giờ cao điểm, hạn chế sử dụng điện
lưới.
- Khuyến khích và có chế độ ưu đãi cho các doanh nghiệp nhập khẩu thiết bị, vật tư, dây chuyền công nghệ cho
mục đích tiết kiệm năng lượng hoặc có dự án đầu tư sản xuất sản phẩm tiết kiệm năng lượng.
b) Các giải pháp sử dụng điện tiết kiệm hiệu quả:
Đối với động cơ truyền động:
- Không để động cơ chạy không tải quá lâu, chạy vượt quá công suất cần thiết, chạy non tải trong thời gian
dài.
- Nên sử dụng động cơ, cơ cấu truyền động có khả năng thay đổi tốc độ cho các hệ thống tải biến đổi.
- Sử dụng động cơ hiệu suất cao cho các bộ phận mang tải nặng trong thời gian dài.
Đối với hệ thống nén khí:
- Hợp lý hoá hệ thống ống dẫn, giảm tỉ lệ rò khí, định kỳ thử áp không tải, nén khí ở mức áp suất thấp nhất
vừa đủ để đáp ứng nhu cầu sử dụng, không để sụt áp quá lớn trong hệ thống phân phối khí, thu hồi nhiệt khí
nén tại vị trí có thể.
Nhà máy sản xuất làm lạnh:
- Tránh làm tắc luồng khí trong và xung quanh bộ tản nhiệt, giảm thiểu tắc nghẽn tại mạch làm phía sơ cấp và
thứ cấp.
- Bảo dưỡng lớp cách nhiệt đúng tiêu chuẩn, giảm tối đa thời gian vận hành, tránh vận hành trong điều kiện
non tải, giữ tải làm mát ở mức tối thiểu
Nhà máy sản xuất - Nước đá được làm lạnh và làm mát
- Đảm bảo hệ thống không rò rỉ tối ưu hoá nhiệt độ của nước đá được làm lạnh, cách ly các thiết bị không sử
dụng. Cách nhiệt hệ thống phân phối với tiêu chuẩn cao.
17
- Nước làm mát sử dụng tuần hoàn kín, sử dụng các bộ cảm biến nhiệt độ để điều chỉnh các quạt ở tháp làm
mát.

Toà nhà:
- Điều hoà không khí và thông gió: Lắp đặt các bộ điều khiển tối ưu hoá, giảm thiểu thể tích lưu không, duy
trì nhiệt độ phòng ở 25
o
C hoặc cao hơn.
- Chiếu sáng: Lắp các bộ điều khiển ánh sáng tự động, cảm biến trạng thái sử dụng. Sử dụng các đèn chiếu
sáng có hiệu suất cao.
Trong gia đình:
Thiết kế hệ thống điện trong nhà tối ưu và hợp lý.
Chọn các thiết bị điện: Khi mua sắm các trang thiết bị điện sinh hoạt, đồ dùng gia dụng cần quan tâm đến các
yếu tố sau:
- Chọn thiết bị đúng công suất: vì mọi sự thừa hoặc thiếu công suất đều gây lãng phí điện.
- Thay thế các thiết bị tiêu tốn nhiều điện: Đối với hệ thống chiếu sáng nên sử dụng các loại đèn huỳnh quang,
compact. Dùng các bếp lò viba, bếp từ thay thế các loại bếp điện trở.
- Hạn chế sử dụng các sản phẩm đồ điện quá cũ.
- Không nhất thiết dùng ổn áp hay biến áp.
Sử dụng các đồ gia dụng điện hợp lý:
- Tủ lạnh: Hạn chế mở khi không cần thiết vì khi mở nhiều tủ lạnh sẽ cần nhiều năng lượng hơn, không xếp
thực phẩm quá dầy, quá đầy, giữa các đồ vật phải có kẽ hở để tạo đối lưu không khí trong tủ, không để tủ
lạnh gần nguồn nhiệt.
- Máy điều hoà nhiệt độ: Chỉ nên duy trì điều hoà làm việc ở mức từ 25
o
C trở lên. Cần đóng kín của đừng để
các khe cửa gây thoát nhiệt ra ngoài Khi không sử dụng điều hoà nhớ tắt nguồn điện.
- Quạt: Sử dụng quạt chỉnh số càng nhanh thì tiêu thụ càng nhiều.
- Máy tính: Hãy tắt máy tính nếu không sử dụng trong vòng 15 phút. Chọn chế độ tiết kiệm điện năng để đỡ
tốn điện vừa bảo vệ máy tính.
- Bàn là: Không nên là quần áo khi đang ướt. Không là quần áp trong phòng bật điều hoà.
- Máy giặt: Chỉ nên sử dụng máy giặt khi có đủ quần áo phù hợp với công suất định mức để hạn chế số lần
hoạt động của máy.

- Lò vi sóng: Không dùng lò vi sóng trong phòng có bật điều hoà, không nên đặt gần các đồ điện khác vì nó
sẽ làm ảnh hưởng tới chức năng của đồ điện khác.
- Máy bơm: Nhớ vặn chặt các van nước vì để nó rò rỉ sẽ làm máy bơm hoạt động gây tốn điện.
- Tivi: Không để chế độ màn hình quá sáng, tắt máy bằng nút tắt ấn tay ở máy, dùng tivi có kích cỡ phù hợp
với nhà của mình, chỉnh độ sáng và tương phản ở mức vừa phải.
- Máy hút bụi: Trước mỗi lần hút bụi, cần kiểm tra giữ sạch túi bụi, nếu túi bụi chứa đầy bụi sẽ làm giảm lực
hụt khiến điện năng tiêu thụ nhiều hơn. Không nên hút bụi ở những nơi ẩm ướt.
- Bình đun nước nóng: Nên chọn bình có thể tích và công suất phù hợp. Khi sử dụng bình đun nước luôn phải
đầy nước, đặt bình ở độ cao không nên quá 2m so với vòi xả để tránh thất thoát nhiệt theo đường ống.
- Sử dụng những thiết bị dùng năng lượng mặt trời để đun nước nóng.
Tiết kiệm điện trong chiếu sáng:
- Chiếu sáng trong nhà nên sử dụng các đèn huỳnh quang, compact thay thế cho đèn sợi đốt.
- Luôn tắt đèn khi ra khỏi phòng đây là biện pháp tiết kiệm điện mà không mất chi phí.
18
c) Các giải pháp tuyên truyền:
- Các đài truyền thanh, truyền hình các cấp cần xây dựng phóng sự, thông tin, tọa đàm, giới thiệu mô hình
điển hình về tiết kiệm năng lượng.
- Các tờ báo trung ương, báo địa phương cần dành ít nhất một góc nhỏ trên trang báo nói về vấn đề tiết kiệm
năng lượng.
- Không coi việc tiết kiệm điện là việc riêng của ngành điện: Các cơ quan chức năng cần phối hợp chặt chẽ,
đồng bộ với Ngành điện và nhất quán về chủ trương biện pháp thực hiện từ trung ương đến địa phương.
Việc tuyên truyền tiết kiệm năng lượng là việc làm thường xuyên của mọi người.
- Gắn chỉ tiêu tiết kiệm năng lượng vào cuộc vận động xây dựng khu phố văn hóa, làng văn hóa, gia đình văn
hóa, phong trào “ Toàn dân đòan kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”
- Kết hợp tuyên truyền về tiết kiệm năng lượng trong các buổi họp khu dân cư, buổi sinh hoạt của các đoàn
thể…Tổ chức các hội nghị chuyên đề, diễn đàn, gặp mặt điển hình cuộc thi, hội thi…về tiết kiệm năng
lượng.
- Nêu tên trên các phương tiện thông tin đại chúng những cơ sở, cơ quan, đơn vị không sử dụng tiết kiệm điện
năng hiệu quả.
- Đẩy mạnh phát triển mô hình sử dụng khí Biogas để làm khí đốt và phát điện năng ở nông thôn và thành thị.

- Thành lập các trung tâm tư vấn khách hàng sử dụng tiết kiệm điện cũng như tiết kiệm năng lượng nói chung.
19

×