Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Câu hỏi thi nguyên lý cơ bản chủ nghĩa Mac Lenin 2 có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.67 KB, 38 trang )

ĐỀ CƯƠNG THAM KHẢO
Vấn đề 1: Phân tích 2 thuộc tính của HH. vì sao HH có 2 thuộc tính
* Khái niệm Hàng hóa: Hàng hóa là một sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn một nhu
cầu nào đó của con người thông qua trao đổi mua - bán.
* Hàng hóa có hai thuộc tính: Giá trị sử dụng và Giá trị
a. Giá trị sử dụng của hàng hóa
- Khái niệm: Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của sản phẩm có thể thỏa mãn một
hay một số nhu cầu nào đó của con người.
- Bất cứ một hàng hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định có thể thỏa mãn một
hay một số nhu cầu nào đó của con người. Những công dụng đó được gọi là tính có ích của hàng
hóa.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa là nội dung vật chất của của cải vì nó do thuộc tính tự nhiên
(lý, hóa học) của thực thể hàng hoá đó quyết định.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa là một phạm trù vĩnh viễn vì không phụ thuộc vào sự sự thay
đổi của phương thức sản xuất.
- Theo đà phát triển của khoa học kỹ thuật, con người ngày càng phát hiện thêm những thuộc
tính mới của sản phẩm và phương pháp để lợi dụng chúng đó đó số lượng giá trị sử dụng ngày càng
nhiều, chất lượng ngày càng tốt.
- Giá trị sử dụng chỉ được thực hiện khi nó được tiêu dùng hay sử dụng. Nếu hàng hóa chưa
được tiêu dùng thì giá trị sử dụng của nó chỉ ở dạng tiềm năng. Để giá trị sử dụng ở dạng tiềm năng
trở thành giá trị sử dụng hiện thực thì hàng hóa đó cần được tiêu dùng.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội vì nó không phải là giá trị sử dụng
cho người sản xuất trực tiếp mà là cho người khác, cho xã hội thông qua hoạt động trao đổi, mua
bán.
b. Giá trị hàng hóa
- Muốn hiểu giá trị hàng hóa phải xuất phát từ giá trị trao đổi.
- Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
- Khái niệm: Giá trị trao đổi trước hết là tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với
giá trị sử dụng khác.
Ví dụ: 1m vải trao đổi lấy 5 kg thóc. (Điều này có nghĩa là 1m vải có giá trị trao đổi bằng
5kg thóc)


- Vấn đề đặt ra là: tại sao hai hàng hoá, hai giá trị sử dụng lại trao đổi được cho nhau, hơn
nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định?
+ Cái chung đó không thể là giá trị sử dụng vì hai loại hàng hóa này có công dụng hoàn toàn
khác nhau (vải để mặc, thóc để ăn). Và sự khác nhau đó chỉ là điều kiện cần thiết để sự trao đổi xảy
ra vì không ai đem trao đổi những vật phẩm giống hệt nhau về giá trị sử dụng.
+ Cái chung đó là: cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh
trong đó. Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng hóa có thể trao đổi được với nhau. Vậy, thực chất
người ta trao đổi hàng hóa với nhau chẳng qua là trao đổi lao động của mình ẩn dấu trong trong
những hàng hóa đó.
► Chính hao phí lao động để tạo ra hàng hóa kết tinh trong hàng hóa ấy là cơ sở chung cho
mọi việc trao đổi và nó tạo thành giá trị hàng hóa.
- Khái niệm: Giá trị hàng hóa là lao động của người sản xuất hàng hóa tạo ra, kết tinh trong
hàng hóa
Giá trị hàng hóa biểu hiện thông qua giá trị trao đổi. Tức là, giá trị là nội dung, là cơ sở của
giá trị trao đổi.
- Giá trị biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa vì trao đổi hàng
hóa là so sánh lượng hao phí lao động giữa những người sản xuất hàng hóa. Quan hệ giữa người với
người được thay thế bằng quan hệ giữa vật với vật (hàng – hàng).
- Giá trị hàng hóa là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa, có sản xuất
hàng hóa thì mới có giá trị hàng hóa.
- Kết luận:
+ Giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội (lao động trừu tượng) của người sản xuất hàng
hóa kết tinh trong hàng hóa.
+ Giá trị là cơ sở là nội dung của giá trị trao đổi. Chất của giá trị là lao động, nên sản phẩm
không chứa đựng lao động thì không có giá trị. Sản phẩm chứa đựng nhiều lao động để tạo ra thì có
giá trị cao. Lượng giá trị là biểu hiện lượng lao động kết tinh trong hàng hóa. Lượng lao động kết
tinh thay đổi dẫn đến giá trị trao đổi thay đổi. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.
+ Giá trị là một phạm trù lịch sử.
c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa
Giá trị sử dụng và giá trị là hai thuộc tính vùa thống nhất, vùa mâu thuần với nha trong một

hàng hoá.
- Mặt thống nhất:
Hai thuộc tính này cùng tồn tại trong một hàng hóa. Một vật muốn trở thành hàng hóa thì
không thể thiếu bất kỳ một thuộc tính nào trong hai thuộc tính trên. Ta có thể thấy một vật có ích
tức là có giá trị sử dụng nhưng không do lao động tạo ra tức là không có lao động xã hội kết tinh
trong đó thì không phải là hàng hóa, ví dụ như: không khí, ánh nắng mặt trời…
- Mặt mâu thuẫn:
+ Thứ nhất, với tư cáchlà một giá trị sử dụng thì các hàng hoá không đồng nhất về chất vì
mỗi hàng hóa có một công dụng khác nhau. Ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hoá đồng
nhất về chất, chúng đều là kết tinh của lao động, đều là lao động được vật hoá.
+ Thứ hai, tuy giá trị và giá trị sử dụng cùng tồn tại trong một hàng hóa nhưng quá trình thực
hiện giá trị sử dụng và giá trị khác nhau về thời gian và không gian. Cụ thể là giá trị được thực hiện
trước trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng. Nếu không
thực hiện được giá trị hàng hoá (hàng hóa không bán được) thì không thực hiện được giá trị sử dụng
có thể dẫn đến khủng hoảng sản xuất “thừa”.
* Vì sao phải nghiên cứu giá trị bắt đầu từ giá trị trao đổi?
Giá trị là lao động trừu tượng kết tinh trong hàng hóa nên ta không xác định trực tiếp được.
Ta chỉ có thể xác định, đo lường nó thông qua một hàng hóa khác.
Ví dụ: 1m vải = 5 kg thóc ►5kg thóc đo gía trị cho 1 m vải
Do đó ta luôn phải xác định tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng
khác ►hay nói cách khác, chúng ta đang xác định giá trị trao đổi để xác định giá trị.
* Vì sao Hàng hóa có 2 thuộc tính
Hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị, hai thuộc tính đó không phải do có hai
loại lao động khác nhau kết tinh trong nó, mà do lao động của người sản xuất hàng hoá có tính hai
mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó.
a. Lao động cụ thể
- Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp
chuyên môn nhất định.
- Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng: Mỗi lao động cụ thể có đối tượng lao động, mục

đích riêng, công cụ lao đông riêng, phương pháp hoạt động riêng, và kết quả lao động riêng ► tạo
ra những sản phẩm có công dụng khác nhau, tức là tạo ra nhiều giá trị sử dụng của hàng hóa.
b. Lao động trừu tượng
- Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa không kể đến hình thức cụ
thể của nó, để quy về một cái chung nhất, đó chính là sự tiêu hao sức lao động ( tiêu hao bắp thịt,
thần kinh, bộ óc) của người lao động sản xuất hàng hóa nói chung.
- Lao động trừu tượng tích lũy trong hàng hóa và tạo ra giá trị.
+ Chỉ có lao động của người lao động sản xuất hàng hóa mới mang tính trừu tượng và tạo ra
giá trị hàng hóa.
+ Lao động trừu tượng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.
Tất nhiên không phải có hai thứ lao động kết tinh trong hàng hóa mà chỉ là lao động của
người sản xuất hàng hóa có tính hai mặt.
- Tính chất hai mặt nói trên liên quan đến tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động
sản xuất hàng hóa.
+ Tính chất tư nhân: Mỗi người sản xuất hàng hoá có tính tự chủ của mình nên sản xuất ra
cái gì, sản xuất như thế nào là việc riêng của họ. Vì vậy, lao động của họ trở thành việc riêng, mang
tính tư nhân và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân.
+ Tính chất xã hội: Lao động của mỗi sản xuất hàng hóa cũng là một bộ phận của lao động
xã hội trong hệ thống phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội làm cho lao động của
người sản xuất trở thành một bộ phận trong lao động xã hội, từ đó tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
những người sản xuất hàng hoá. Họ làm việc cho nhau, người này làm việc vì người kia thông qua
trao đổi, mua bán hàng hóa. Việc trao đổi hàng hoá không thể dựa vào lao động cụ thể mà phải quy
thành lao động đồng nhất là lao động trừu tượng. Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện của lao
động xã hội.
Lượng giá trị hàng hóa và Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
Giá trị hàng hóa là do lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng
hóa đó Như vậy:
- VỀ MẶT CHẤT, giá trị của hàng hóa được xác định bởi hao phí lao động để sản xuất hàng
hóa đó quyết định.
Giá trị của hàng hóa = lao động vật hóa + lao động sống

= lao động quá khứ + lao động hiện tại
= Gtrị tư liệu sản xuất + Gtrị mới do công nhân tạo ra
- VỀ MẶT LƯỢNG: giá trị của hàng hóa được tính theo thời gian lao động xã hội cần thiết.
a. Thời gian lao động xã hội cần thiết
- Trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một sản xuất một hàng hóa nhưng điều kiện
sản xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao động của họ khác nhau nên thời gian lao động cá biệt khác
nhau để tạo ra một hàng hóa không giống nhau nhau (nghĩa là hao phí lao động cá biệt khác nhau).
- Vậy, có phải rằng người sản xuất nào càng lười biếng, càng vụng về, có điều kiện sản xuất
càng khó khăn thì lượng giá trị hàng hóa của họ càng lớn?
Điều này không đúng vì sự khác nhau trên chỉ là sự khác nhau về chi phí lao động cá biệt
của mỗi cá nhân trong khi giá trị hàng hóa không phải tính bằng thời gian lao động cá biệt mà tính
bằng thời gian lao động xã hội cần thiết (giá trị xã hội của hàng hóa).
- Khái niệm: Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động trung bình, cần thiết để
sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với trình độ trang thiết bị
sản xuất trung bình, trình độ kỹ thuật trung bình và cường độ lao động trung bình.
- Trong thực tế, thời gian lao động xã hội cần thiết là mức hao phí lao động trung bình của xã
hội để sản xuất ra một hàng hóa. Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết (thời gian lao
động xã hội trung bình) gần sát với thời gian lao động cá biệt (mức hao phí lao động cá biệt) của
người sản xuất hàng hóa nào cung cấp tuyệt đại đa số hàng hóa cùng loại trên thị trường.
- Cần chú ý, thời gian lao động cần thiết là đại lượng không cố định mà thay đổi theo thời
gian và có thể khác nhau ở các nước. Bởi vì trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung
bình, điều kiện trang bị kỹ thuật trung bình…luôn thay đổi theo sự phát triển lực lượng sản xuất.
b. Những yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa
Tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian lao động xã hội cần thiết đều ảnh hưởng tới lượng
giá trị của một đơn vị hàng hóa.
Có thể xem xét ba yếu tố cơ bản sau:
- Năng suất lao động:
+ Là năng lực sản xuất của lao động. Nó được đo bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra
trong một đơn vị thời gian (hoặc lượng thời gian để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm).
+ Giá trị hàng hóa thay đổi tỉ lệ nghịch với năng suất lao động: khi năng suất lao động tăng

sẽ kéo theo tổng số sản phẩm tăng lên, tổng giá trị hàng hóa không tăng so với trước ► giá trị một
đơn vị sản phẩm giảm xuống và ngược lại.
+ Năng suất lao động trên thực tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ thành thạo trung
bình của người lao động; mức phát triển của khoa học - kỹ thuật, công nghệ và mức ứng dụng
chúng vào sản xuất; trình độ tổ chức quản lý; quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất; các điều
kiện tự nhiên. Do đó, muốn tăng năng suất cần nâng cao hiệu quả của các yếu tố trên.
- Cường độ lao động:
+ Là mức độ hao phí lao động (mức độ nặng nhọc, khẩn trương hay căng thẳng) của người
lao động trong một đơn vị thời gian.
+ Cường độ lao động tăng nghĩa là mức hao phí sức lao động (cơ bắp, thần kinh…) trong
một đơn vị thời gian tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động tăng
lên. Và nếu cường độ lao động tăng lên thì tổng số (hay khối lượng) hàng hoá cũng tăng lên nhưng
tổng hao phí sức lao động cũng tăng lên tương ứng cùng tỉ lệ. Do đó, giá trị một đơn vị sản phẩm
không thay đổi. Vậy, trong thực tế, tăng cường độ lao động giống như kéo dài thời gian lao động
nên hao phí lao động trong một đơn vị sản phẩm không đổi.
+ Cường độ lao động phụ thuộc vào trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của tư liệu
sản xuất, đặc biệt là thể chất và tinh thần của người lao động.
- Mức độ phức tạp của lao động:
Căn cứ theo độ phức tạp có thể chia ra lao động phức tạp và lao động giản đơn.
+ Lao động giản đơn là lao động mà một người bình thường không cần trải qua đào tạo cũng
có thể làm được.
+ Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải qua huấn luyện, đào tạo, hay lao động lành
nghề mới có thể thực hiện đuợc.
Trong cùng một thời gian hao phí như nhau, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị lớn hơn
gấp bội lần lao động giản đơn.
Vấn đề 2: Nội dung và tác dụng của quy luật giá trị
* Để hiểu rõ các quy luật của sản xuất hàng hóa, chúng ta cần hiểu một số khái niệm sau:
- Quy luật: mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các
thuộc tính bên trong mỗi sự vật hay giữa các sự vật và hiện tượng với nhau.
- Quy luật kinh tế: phản ánh những mối liên hệ tất yếu, bản chất, thường xuyên và lặp lại

giữa các hiện tượng và quá trình kinh tế
1. Nội dung của quy luật giá trị
- Quy luật giá trị không phải là quy luật kinh tế chung của mọi nền sản xuất xã hội. Nó cũng
không phải là quy luật kinh tế riêng của bất kỳ nền sản xuất xã hội nào. Quy luật giá trị là quy luật
kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá vì nó quy định bản chất của sản xuất hàng hóa. Ở đâu và khi
nào có sản xuất và lưu thông hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị.
- Quy luật giá trị còn là cơ sở của tất cả các quy luật khác của sản xuất hàng hoá.
- Nội dung quy luật: Sản xuất và trao đổi hàng hoá dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa
trên hao phí lao động xã hội cần thiết.
- Yêu cầu đối với sản xuất:
Trong thực tế sản xuất, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí cá biệt của mình. Tuy
nhiên, giá trị hàng hóa không phải do hao phí lao động cá biệt mà do hao phí lao động xã hội quyết
định. Do vậy, muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí và tiến tới có lãi thì người sản xuất
phải làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí lao động xã hội
cần thiết. ► Qua đây, ta thấy được tác động của quy luật giá trị là buộc người sản xuất phải điều
chỉnh quá trình sản xuất của mình sao cho phù hợp nhất.
- Yêu cầu đối với lưu thông:
Trao đổi, lưu thông hàng hóa cũng phải dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là trao
đổi phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá. Điều này có nghĩa là, hai hàng hóa được trao đổi cho
nhau khi cùng kết tinh một lượng lao động như nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hoá phải thực
hiện với giá cả bằng giá trị.
► Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá. Giá trị là cơ
sở của giá cả nên giá cả phụ thuộc vào giá trị theo hướng: hàng hoá nào có giá trị cao thì giá cả cao
và ngược lại. Tuy nhiên, trên thị trường, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố cạnh tranh, cung cầu,
sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường
tách rời so với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động của giá cả thị trường
của hàng hoá xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị.
2. Tác động của quy luật giá trị
* Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
- Điều tiết sản xuất:

Điều tiết sản xuất có nghĩa là điều hòa, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh
vực của nền kinh tế. Sự điều tiết sản xuất của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả thị
trường do tác động trực tiếp của cung cầu. Điều này thể hiện qua hai trường hợp sau:
+ Thứ nhất, nếu hàng hóa nào đó có cung nhỏ hơn cầu dẫn đến giá cả lớn hơn giá trị, hàng
hóa đó có khả năng bán chạy và thu lãi cao, những người sản xuất sẽ đầu tư thêm tư liệu sản xuất
và sức lao động để mở rộng quy mô sản xuất. Không những thế, những người sản xuất đang hoạt
động ở lĩnh vực khác cũng có thể chuyển qua sản xuất mặt hàng này. Do đó, quy mô ngành này
càng được mở rộng.
+ Thứ hai, đối với những mặt hàng hóa có cung lớn hơn cầu kéo theo giá cả thấp hơn giá trị,
hàng hóa đó sẽ không bán được và người sản xuất sẽ phải thu hẹp quy mô, thậm chí đóng cửa xí
nghiệp sản xuất mặt hàng này. Một số người sẽ không sản xuất loại hàng hóa đó nữa mà chuyển
sang sản xuất loại hàng hóa có lãi nhiều. Kết quả là các yếu tố của sản xuất của ngành giảm đi do đã
bị chuyển sang ngành sản xuất khác.
+ Thứ ba, đối với hàng hóa mag cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị. Tuy nhiên trường hợp
này ít xảy ra.
► Vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động
vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng đầy đủ hơn, phù hợp hơn nhu cầu của xã hội.
- Điều tiết lưu thông
Tác động điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua sự vận động giá cả trên thị
trường. Sự biến động giá cả trên thị trường có tác dụng thu hút luồng hàng hóa từ nơi giá cả thấp
đến nơi giá cả cao, nơi có thể thu nhiều lãi. Qua đó, quy luật giá trị có tác động điều tiết, phân phối
các nguồn hàng hóa một cách hợp lý hơn giữa các vùng, giữa cung và cầu đối với các loại hàng hóa
trong xã hội.
Trong kinh tế thị trường hiện nay, ngoài vai trò điều tiết của thị trường, nhà nước cũng có tác
động mạnh mẽ đến điều tiết sản xuất, lưu thông thông qua các công cụ của kế hoạch.
* Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá
thành sản phẩm.
- Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất là một chủ thể độc lập, tự quyết định hoạt
động sản xuất, kinh doanh của mình. Và mỗi người có điều kiện sản xuất khác nhau nên mức hao
phí lao động cá biệt của họ khác nhau, sản xuất mặt hàng này. Tuy nhiên, trên thị trường, các hàng

hóa đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậy, người sản xuất hàng
hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội sẽ thu được lãi và
ngược lại. Để dành được lợi thế trong cạnh tranh và tránh khỏi nguy cơ vỡ nợ, phá sản, các chủ thể
kinh tế phải luôn luôn phấn đấu hạ thấp giá trị cá biệt sao cho bằng hoặc thấp hơn giá trị xã hội.
- Muốn vậy, người sản xuất phải:
+ Tìm cách cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ tay nghề, sử dụng các thành tựu mới của khoa
học, kỹ thuật vào sản xuất.
+ Cải tiến hiệu quả tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh, cải tiến các biện pháp lưu thông,
bán hàng để tiết kiệm chi phí lưu thông và tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng.
+ Thực hiện tiết kiệm chặt chẽ các yếu tố đầu vào nhằm nâng cao năng suất lao động.
Giá cả
Giá trị
+ Cải tiến chất lượng, mẫu mã cho phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng
Kết quả là năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, lực lượng sản xuất không ngừng
phát triển, chi phí sản xuất không ngừng giảm xuống.
* Phân hóa giàu nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu sẽ dẫn đến kết quả là:
Những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độtay nghề cao, có kiến thức, trang bị
kỹ thuật tốt, có vốn nên hạ thấp được mức hao phí lao động cá biệt so với hao phí lao động xã hội
cần thiết sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, thuê thêm lao động,
mở rộng sản xuất kinh doanh và trở thành ông chủ.
Ngược lại, những người không có điều kiện sản xuất thuận lợi, làm ăn kém cõi, hoặc gặp rủi
ro trong kinh doanh sẽ có mức hao phí lao động cá biệt cao, khi bán hàng sẽ rơi vào tình trạng thua
lỗ, thậm chí phá sản và trở thành người làm thuê.
Tác động phân hóa giàu nghèo của quy luật giá trị cũng chính là một trong những nguyên
nhân, cơ chế làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Bởi vì nó đã tạo điều kiện tập trung một khối lượng tiền lớn vào tay một số người và đồng thời cũng
tạo ra lực lượng lao động làm thuê bán sức lao động kiếm sống.
► Qua đây, ta có thể thấy quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực.
Một mặt, quy luật giá trị buộc các chủ thể kinh tế phải sàng lọc, lưu giữ các yếu tố có tác dụng tích

cực đến hiệu quả sản xuất, gạt bỏ những yếu tố lạc hậu. Mặt khác, nó phân hóa xã hội thành giàu
nghèo, gây ra sự bất bình đẳng trong xã hội.
Vì lý do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, Nhà nước cần có
những biện pháp để phát huy mặt tích cực của quy luật giá trị. Cụ thể, nhà nước có thể vận dụng
quy luật giá trị trong điều tiết vĩ mô để thúc đẩy hoặc không khuyến khích một số ngành sản xuất
phát triển, bên cạnh đó là các chính sách điều tiết, chính sách xã hội để hạn chế sự phân hóa trên.
Đặc biệt, đối với Việt Nam, trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, điều đó càng được thực hiện đúng mức.
Vấn đề 3: Trình bày 2 PP SX GTTD (Tương đối và siêu ngạch)
a) Quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng trong chủ nghĩa tư bản
- Mục đích: nhà tư bản ứng ra một số tiền mua tư liệu sản xuất và sức lao động không phải
là để thu được giá trị sử dụng mà để thu giá trị, hơn nữa đó là tạo ra giá trị thặng dư.
Hành vi của họ sẽ tuân theo công thức:
T - H - T ' ( T ' > T, T ' - T = ∆T > 0 )
Muốn thực hiện mục đích đó, họ phải tổ chức sản xuất ra những giá trị sử dụng đáp ứng nhu
cầu của xã hội.
Vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghãi là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử
dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. Bởi vì, giá trị sử dụng là nội dung vật chất của hàng
hóa, là vật mang giá trị và giá trị thặng dư.
- Đặc điểm:
Quá trình nhà tư bản tiêu dùng hàng hóa sức lao động và tư liệu sản xuất để sản xuất ra giá
trị thặng dư có 2 đặc điểm:
+ Công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản giống như những yếu tố khác của
sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho có hiệu quả nhất.
+ Sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản chứ không thuộc về công nhân.
 Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị
sử dụng với việc tạo ra giá trị và giá trị thặng dư.
Các phương pháp sản xuất Giá trị thặng dư
a. Giá trị thặng dư tuyệt đối
- Khái niệm: Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao

động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời
gian lao động tất yếu không thay đổi.
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
Thí dụ, ngày lao động là 8h, trong đó thời gian lao động tất yếu là 4h, mỗi giờ công nhân tạo
ra một giá trị mới là 10 đơn vị.
Biểu diễn bằng sơ đồ sau:

Tỷ suất giá trị thặng dư:

m’ =
4
× 100%
= 100%
4
Hoặc:m' =
40
40
x 100% = 100%
+ Nếu nhà tư bản kéo dài ngày lao động của công nhân thêm 2h nữa, trong khi các điều kiện
khác không đổi, lúc đó, thời gian lao động tất yếu là 4h, thời gian lao động thặng dư là 6h. Nghĩa là,
giá trị thặng dư tuyệt đối tăng lên 60 và tỷ suất giá trị thặng dư ( m' ) tăng lên thành:
Tỷ suất giá trị thặng dư:

m’ =
6
× 100%
= 150%
4
Hoặc: m' =
40

60
x 100% = 150%
Bất cứ nhà tư bản nào cũng muốn kéo dài ngày công lao động của công nhân, nhưng việc
kéo dài đó không thể vượt qua giới hạn sinh lý của công nhân. Bởi vì, người công nhân cần có thời
gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Do vậy, việc kéo dài thời gian lao động gặp
sự phản kháng gay gắt của giai cấp công nhân đòi giảm giờ làm.
+ Khi độ dài ngày lao động không thể kéo dài thêm, vì lợi nhuận của mình, nhà tư bản lại
tìm cách tăng cường độ lao động của người công nhân. Vì tăng cường độ lao động có nghĩa là chi
phí nhiều sức lao động hơn trong một khoảng thời gian nhất định. Nên tăng cường độ lao động về
thực chất cũng tương tự như kéo dài ngày lao động.
Vì vậy, kéo dài thời gian lao động hay tăng cường độ lao động đều để sản xuất giá trị thặng
dư tuyệt đối.
Thời gian cần thiết 4 h
Thời gian thặng dư 4 h
Thời gian cần thiết 4 h Thời gian thặng dư 6 h
- Phương pháp này chủ yếu áp dụng trong thời kỳ đầu nền sản xuất tư bản, với việc phổ biến
sử dụng lao động thủ công và năng suất lao động thấp.
b. Giá trị thặng dư tương đối
- Khái niệm: Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian
lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động trong ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt
để hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện
độ dài ngày lao động, cường độ lao động vẫn như cũ.
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Thí dụ, ngày lao động là 10h, trong đó 5h là lao động tất yếu, 5h là lao động thặng dư.
Biểu diễn bằng sơ đồ sau:

Khi đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:
m’ =
5
5

× 100% = 100%
Hoặc: m' =
50
50
x 100% = 100%
Nếu giá trị sức lao động giảm đi 1h thì thời gian lao động tất yếu giảm xuống còn 4h và thời
gian lao động thặng dư tăng lên 6h và tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên thành:



Khi đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:

m’ =
6
× 100%
= 150%
4
Hoặc: m' =
40
60
x 100% = 150%
- Điểm mấu chốt của phương pháp này là phải hạ thấp giá trị sức lao động. Điều đó đồng
nghĩa với giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho công nhân. Muốn vậy phải tăng
năng suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu
sản xuất để trang bị cho ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng.
- Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản phát triển. nhưng
lúc đầu chỉ một số nhà tư bản làm được vì điều kiện khoa học, kỹ thuật chưa cho phép. Khi đó, các
nhà tư bản này tăng được năng suất lao động nên thu được giá trị thặng dư siêu ngạch. Khi các nhà
tư bản đều cải tiến kỹ thuật, giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ không còn. Tất cả sẽ thu được giá trị
thặng dư tương đối. Do đó giá trị thặng dư siêu ngạch là biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.

c. Giá trị thặng dư siêu ngạch
C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương
đối. Bởi vì chúng đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, chỉ khác một chỗ một bên là tăng
năng suất lao động cá biệt, một bên là tăng năng suất lao động xã hội.
- Khái niệm: Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng công
nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị
trường của nó.
Thời gian cần thiết 5 h
Thời gian thặng dư 5 h
Thời gian lao động cần thiết 4
h
Thời gian lao động thặng dư 6
h
- Nhà tư bản chỉ phải bỏ ít chi phí hơn các nhà tư bản khác nhưng vẫn có thể bán được hàng
hóa với giá ngang bằng với giá thị trường, từ đó thu được giá trị thặng dư cao hơn.
Khi số đông các xí nghiệp đều đổi mới kỹ thuật công nghệ thì giá trị thặng dư siêu ngạch của
doanh nghiệp đó sẽ không còn nữa.
- Trong từng xí nghiệp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm thời, nhưng xét
trên phạm vi toàn xã hội, nó lại thường xuyên tồn tại. Và nó chính là động lực mạnh nhất thúc đẩy
các nhà tư bản đổi mới công nghệ để tăng năng suât lao động cá biệt, đánh bại đối thủ cạnh tranh,
thu được phần giá trị thặng dư lớn.
* So sánh giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối:
GTTD tương đối GTTD siêu ngạch
* Do tăng NSLĐ XH
* Toàn bộ các nhà TB thu
* Biểu hiện quan hệ giữa công
nhân và tư bản.
* Do tăng NSLĐ cá biệt
* Từng nhà TB thu
* Biểu hiện quan hệ giữa công nhân với tư bản,

tư bản với tư bản.
Vấn đề 4: Khái niệm tư bản, tư bản bất biến và tư bản khả biến, tư bản cố định và tư bản
lưu động
- Khái niệm tư bản: Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động
không công của người công nhân.
Sơ đồ biểu thị sự phân chia tư bản:
.
Tư bản bất biến và tư bản khả biến
Để sản xuất giá trị thặng dư, nhà tư bản phải ứng trước tư bản để mua tư liệu sản xuất và sức
lao động, tức là tư bản tiền tệ đã được chuyển hóa thành hai hình thức khác nhau của tư bản sản
xuất. Người ta gọi chúng là: Tư bản bất biến và Tư bản khả biến. Mỗi bộ phận tư bản ấy có vai trò
khác nhau trong quá trình làm tăng thêm giá trị
TƯ BẢN
BẤT BIẾN (c)
Giá trị nhà xưởng, công trình,
máy móc, thiết bị (c1)
Giá trị nguyên liệu, nhiên liệu,
vật liệu phụ (c2)
Giá trị sức lao động (v)
T
h
e
o

v
a
i

t
r

ò

s

n

x
u

t
g
i
á

t
r


t
h

n
g

d
ư
TƯ BẢN
KHẢ BIẾN
TƯ BẢN
CỐ ĐỊNH

TƯ BẢN
LƯU ĐỘNG
T
h
e
o

đ

c

đ
i

m
c
h
u

c
h
u
y

n
Khái niệm
- Tư bản bất biến: Bộ phận tư bản dùng để mua tư liệu sản xuất (tồn tại dưới hình thái tư
liệu sản xuất) mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị không thay đổi về
lượng trong quá trình sản xuất
+ Ký hiệu: c

+ Các bộ phận cấu thành:
* Máy móc, nhà xưởng: tham gia vào quá trình sản xuất nhưng chuyển giá trị từng phần vào
sản phẩm dưới dạng khấu hao hữu hình và vô hình (c
1
).
* Nguyên, nhiên, vật liệu: chuyển toàn bộ giá trị vào sản phẩm trong quá trình sản xuất (c
2
).
+ Đặc điểm:
* Giá trị của chúng được bảo tồn và chuyển dịch nguyên vẹn vào giá trị sản phẩm
* Giá trị TLSX được bảo tồn dưới hình thức giá trị sử dụng mới.
- Tư bản khả biến: Bộ phận tư bản ứng trước dùng để mua hàng hoá sức lao động.
Bộ phận này không biểu hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng, người công nhân
làm thuê đã sáng tạo ra một giá trị mới, lớn hơn giá trị của sức lao động, tức là có sự biển
đổi về số lượng.
+ Ký hiệu: v
+ Hình thức biểu hiện: tiền lương.
+ Quá trình vận động: Diễn ra trên hai mặt
 Một mặt, giá trị của nó biến thành các tư liệu sinh hoạt và biến đi trong quá trình tiêu
dùng của công nhân.
 Mặt khác, bằng lao động trừu tượng, người công nhân tạo ra giá trị mới không những
đủ để bù đắp sức lao động của mình, mà còn có giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Do đó, bộ phận tư bản này đã có sự biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất.
c) Tư bản cố định và tư bản lưu động
Tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận với thời gian chu chuyển khác nhau về giá trị bởi vì
chúng dịch chuyển giá trị của mình vào sản phẩm theo những cách thức khác nhau. Căn cứ vào tính
chất chu chuyển về mặt giá trị của các tư bản đó, C.Mác chia tư bản sản xuất thành hai bộ phận: tư
bản cố định và tư bản lưu động.
Tư bản cố định
- Khái niệm: Tư bản cố định là bộ phận của tư bản sản xuất, đồng thời là bộ phận chủ yếu

của tư bản bất biến (các máy móc, thiết bị, nhà xưởng ) tham gia vào quá trình sản xuất, về hình
thái hiện vật, chúng tham gia toàn bộ trong quá trình sản xuất, nhưng về giá trị của chúng không
chuyển hết một lần mà chuyển dần từng phần vào sản phẩm (khấu hao) theo mức độ hao mòn của
nó trong quá trình sản xuất.
- Đặc điểm của tư bản cố định:
Về hình thái hiện vật, tư bản cố định luôn bị cố định trong quá trình sản xuất, chỉ có giá trị
của nó là tham gia vào quá trình lưu thông cùng sản phẩm. Hơn nữa, nó chỉ lưu thông từng phần,
còn một phần vẫn bị cố định trong trong tư liệu lao động, phần này không ngừng giảm xuống cho
đến khi giá trị của nó chuyển hết vào sản phẩm.
Ví dụ: Khấu hao tài sản cố định (ĐVT: $)
Thời điểm
Giá trị của TBCĐ
gồm chi phí
sửa chữa cơ bản
Giá trị chuyển vào
sản phẩm trong
vòng một năm
Quỹ khấu hao
(Quỹ khấu trừ của
tư bản cố định)
Bắt đầu vào sản xuất 1.000.000 - -
Đến cuối năm thứ 1 800.000 200.000 200.000
Đến cuối năm thứ 2 600.000 200.000 400.000
Đến cuối năm thứ 3 400.000 200.000 600.000
Đến cuối năm thứ 4 200.000 200.000 800.000
Đến cuối năm thứ 5 - 200.000 1.000.000
► Thời gian mà tư bản cố định chuyển hết giá trị của nó vào sản phẩm bao giờ cũng dài hơn
thời gian một vòng tuần hoàn. Nghĩa là tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản
xuất.
Trong quá trình sử dụng, tư bản cố định bị hao mòn dần trong quá trình sản xuất. Cụ thể, tư

bản cố định bị hao mòn dần dưới các hình thức:
+ Hao mòn hữu hình: là hao mòn về vật chất, về giá trị sử dụng. Loại hao mòn này do quá
trình sử dụng và tác động của tự nhiên làm cho các bộ phận của tư bản cố định dần dần hao mòn
đến khi hư hỏng và phải được thay thế, hết chu kỳ sử dụng.
+ Hao mòn vô hình: là sự hao mòn thuần túy về giá trị. Loại hao mòn này xảy ra ngay cả khi
máy móc còn tốt nhưng bị mất giá vì xuất hiện máy móc mới hiện đại hơn, rẻ hơn, hoặc có giá trị
tương đương nhưng công suất cao hơn, nhiều tính năng công dụng hơn. Việc tránh hao mòn vô hình
có ý nghĩa vô cùng to lớn trong quản lý kinh tế. Để làm được điều đó, các nhà tư bản tìm cách kéo
dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, tăng ca kíp làm việc… nhằm tận dụng máy móc trong
thời gian càng ngắn càng tốt.
- Ý nghĩa:
Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là một yêu cầu cấp thiết đối với quá trình sản
xuất. Bởi vì, đó là biện pháp quan trọng để tăng quỹ khấu hao tài sản cố định, giảm được hao mòn
hữu hình do tự nhiên phá hủy và tránh được hao mòn vô hình. Qua đó, chủ thể sản xuất có điều kiện
đổi mới thiết bị nhanh hơn.
Tư bản lưu động
- Khái niệm: Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất, gồm một phần tư bản bất biến
(nguyên, nhiên liệu, vật liệu…) và tư bản khả biến (sức lao động) được tiêu dùng hoàn toàn trong
một chu kỳ sản xuất và giá trị của nó được chuyển toàn bộ vào sản phẩm trong quá trình sản xuất.
- Đặc điểm:
Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Nếu tư bản cố định muốn chu
chuyển hết giá trị của nó phải mất nhiều năm thì trái lại, tư bản lưu động trong một năm có thể chu
chuyển giá trị của nó nhiều lần hoặc nhiều vòng.
- Sơ đồ biểu thị sự phân chia:
Tư bản cố định Tư bản lưu động


Tư bản bất biến Tư bản khả biến
Trong đó: + c
1

: Giá trị nhà xưởng, công trình, máy móc, thiết bị
+ c
2
: Giá trị nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ
c
1
c
2
v
+ v : Giá trị sức lao động
Vấn đề 5: Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa
- Địa tô đã xuất hiện từ khi có quyền tư hữu về ruộng đất bà là hình thức bóc lột chủ yếu
trong xã hội phong kiến. trong lịch sử, nó lần lượt trải qua các hình thái: tô lao dịch, tô hiện vật và
tô tiền.
- Trong chủ nghĩa tư bản, nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp phải thuê ruộng đất và
thuê công nhân để tiến hành sản xuất thu giá trị thặng dư. Họ coi nông nghiệp là một lĩnh vực đầu
tư kinh doanh.
Cũng như trong công nghiệp, nhà tư bản nông nghiệp phải thu được
P
, đồng thời phải thu
được một số giá trị thặng dư dôi ra, tức là lợi nhuận siêu ngạch, để nộp tiền thuê đất của địa chủ
dưới hình thức địa tô (r).
Từ đó, ta thấy giá cả nông sản là:

Trong đó:
+ W
ns
: Giá nông sản
+ c1: khấu hao tài sản cố định phục vụ sản xuất.
+ v : tiền lương trả cho công nhân nông nghiệp.

+
P
: lợi nhuận bình quân trong nền kinh tế.
+ r: địa tô.
+ P
ns
: lợi nhuận siêu ngạch mà tư bản cá biệt kinh doanh nông nghiệp thu được.
+ (
P
+
P
ns
) = m
- Như vậy, địa tô tư bản chủ nghĩa là phần giá trị thặng còn lại, tức là một phần của giá trị
thặng dư do công nhân nông nghiệp tạo ra, sau khi đã trừ phần lợi nhuận bình quân (
P
), mà các
nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp phải trả cho địa chủ.
Khái niệm: Địa tô tư bản chủ nghĩa là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch do công nhân lao động
động làm thuê trong nông nghiệp làm ra (tức là một phần của giá trị thặng dư sau khi trừ lợi nhuận
bình quân của tư bản đầu tư vào nông nghiệp) mà các nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp
phải nộp cho người sở hữu ruộng đất
Vấn đề đặt ra là: Vì sao tư bản nông nghiệp lại có thể thu được phần lợi nhuận siêu ngạch để
nộp cho địa chủ? Nghiên cứu các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa sẽ giúp chúng ta giải thích rõ
điều này.
Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa
a, Địa tô chênh lệch
- Để phân tích, ta phải giả định nông sản cũng bán theo giá cả sản xuất, nghĩa là tư bản phải
thu hồi được chi phí sản xuất và lợi nhuận bình quân.
- Như phân tích ở phần trước, chúng ta thấy rằng lợi nhuận siêu ngạch trong công nghiệpdo

cạnh tranh tạo nên, vì vậy nó chỉ xuất hiện tạm thời và không tồn tại ổn định một doanh nghiệp nào
nhất định.
- Trái lại, lợi nhuận siêu ngạch trong nông nghiệp tồn tại ổn định trong các xí nghiệp có điều
kiện sản xuất thuận lợi.
Điều đó là do:
W
ns
= c + v +
P
+ P
ns
= c + v +
P
+ r
+ Một là, số lượng ruộng đất bị giới hạn và bị độc chiếm, người ta không thể tự tạo thêm ra
những vùng đất có điều kiện tự nhiên thuận lợi.
+ Thứ hai, nông phẩm là thứ sản phẩm không thể thiếu, không thể thay thế đối với đời sống
con người. Bên cạnh đó, nhu cầu về lương thực thực phẩm không ngừng tăng lên, do đó xã hội
không chỉ canh tác trên những mảnh đất tốt mà buộc phải canh tác trên cả ruộng đất xấu hay kém
thuận lợi hơn.
Do vậy, giá cả thị trường của nông phẩm do giá cả sản xuất ở nơi có điều kiện ruộng đất xấu
hoặc kém thuận lợi, để đảm bảo cho người kinh doanh trên đất này phải thu được lợi nhuận bình
quân. (Trong công nghiệp, giá cả sản xuất là do điều kiện sản xuất trung bình quyết định). Điều này
giúp cho người kinh doanh trên ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi, có năng suất cao hơn, khi
bán theo giá cả sản xuất chung, ngoài phần lợi nhuân bình quân, sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch
để chuyển thành địa tô nộp cho chủ đất gọi là địa tô chênh lệch. (Lợi nhuận siêu ngạch này tương
đối ổn định, lâu dài vì nó dựa trên tính chất cố định của đất đai và độ màu mỡ của đất)
Địa tô chênh lệch trong CNTB là số dư ngoài lợi nhuận bình quân thu được trên ruộng đất có
điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung quyết định bởi điều
kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình.(Đất

xấu nhất nhưng không phải bất kỳ chi phí nào cũng trở thành giá cả SX, mà là chi phí SX ở mức
trung bình)
Như vậy, địa tô chênh lệch là một phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân thu
được trên rượng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất
chung được quy định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất với giá cả sản xuất cá biệt
trên ruộng đất tốt và trung bình.
 Thực chất của địa tô chênh lệch là lợi nhuận siêu ngạch. Nguồn gốc của nó là một phần
giá trị thặng dư do công nhân nông nghiệp tạo ra. Nguyên nhân sinh ra địa tô chênh lệch là do có sự
độc quyền kinh doanh ruộng đất theo lối tư bản chủ nghĩa.
- Xét về cơ sở hình thành lợi nhuận siêu ngạch và việc chuyển hóa nó thành địa tô thì địa tô
chênh lệch được chia làm hai loại:
+ Địa tô chênh lệch I: là địa tô thu được trên những ruộng đất có điều kện tự nhiên thuận lợi
như: độ màu mỡ tự nhiên cao, gần nơi tiêu thụ, gần đường giao thông… làm cho năng suất của tư
bản nông nghiệp cao hơn, tiết kiệm được chi phí hơn.
Ví dụ 1: Sự hình thành địa tô chênh lệch I trên đất tốt và trung bình (Giả sử:
P’ = 20%)
Loại
ruộng
TB
đầu tư
P’
Sản
lượng
(tạ)
Giá cả sxuất cá biệt Giá cả sxuất chung
Địa tô
chênh lệch
R
cl1
Của 1 tạ

Của tổng
SP
Của 1
tạ
Của tổng
SP
Tốt 100
20 6 20 120 30 180 60
T.bình 100
20 5 24 120 30 150 30
Xấu 100
20 4 30 120 30 120 0
Ví dụ 2: Sự hình thành địa tô chênh lệch 1 trên đất có vị trí thuận lợi
Vị trí
ruộng
TB đầu

Phí vận
chuyển
P’ Sản
lượng
(tạ)
Giá cả sxuất cá biệt Giá cả sxuất chung Địa tô chênh
lệch
R
cl1
Của tổng
SP
Của 1 tạ Của 1
tạ

Của tổng SP
Gần 100
0 20 5 120 24 27 135 15
Xa 100
15 20 5 135 27 27 135 0
Vị trí thuận lợi sẽ giúp nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp tiết kiệm được phần lớn chi phí
lưu thông. Nhưng khi bán hàng thì cùng giá bán nên người nào có chi phí vận chuyển ít hơn sẽ thu
được một khoản lợi nhuận siêu ngạch so với người khác, do đó họ thu được địa tô chênh lệch.
+ Địa tô chênh lệch II: là địa tô thu được nhờ thâm canh tăng năng suất, là kết quả của việc
đầu tư thêm tư bản vào một đơn vị diện tích để nâng cao chất lượng canh tác, nhằm tăng độ màu mỡ
trên mảnh ruộng đó, nâng cao sản lượng trên một đơn vị diện tích.
Loại
ruộng
Lầ
n
đầu


bản
đầu

P’
(%)
Sản
lượng
(tạ)
Giá cả sxuất cá
biệt
Giá cả sxuất
chung

Địa tô
chênh
lệch
1 tạ
Tổng sản
lượng
1 tạ
Tổng sản
lượng
Cùng
một
thửa
ruộng
1 100 20 4 30 120 30 120 0
2 100 20 6 20 120 30 180 60
3 100 20 8 15 120 30 240 120
 Địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II có điểm giống nhau là: Đều là lợi nhuận siêu
ngạch, hình thành do hiệu quả đầu tư khác nhau của những tư bản như nhau.
 Điểm khác nhau giữa hai loại địa tô là:
 Địa tô chênh lệch I là do hiệu quả đầu tư trên những thửa ruộng có điều kiện khác
nhau (quảng canh),
 Địa tô chênh lệch II là do hiệu quả những lần đầu tư khác nhau trên cùng thửa ruộng
(thâm canh).
Trong thời hạn hơp đồng thuê đất, phần lợi nhuận siêu ngạch thu được, do việc nhà tư bản
thuê đất đã thâm canh, thuộc về nhà tư bản. Chỉ đến khi hết thời kỳ thuê đất, địa chủ mới tìm cách
nâng giá thuê đất lên để chiếm lấy phần lợi nhuận siêu ngạch đó, tức là nhằm biến lợi nhuận siêu
ngạch do đầu tư thâm canh (địa tô chênh lệch II) thành địa tô chênh lệch I. điều này làm phát sinh
mâu thuẫn là, nhà tư bản thuê đất kéo dài thời hạn thuê đất, còn địa chủ lại muốn rút ngắn thời hạn
cho thuê. Do đó, trong thời hạn hợp đồng, nhà tư bản tìm mọi cách quay vòng, tận dụng, vắt kiệt độ
màu mỡ của đất đai.

- Địa tô tuyệt đối
+ Địa tô tuyệt đối là số địa tô mà các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp tuyết đối phải nộp
hco địa chủ dù ruộng đất tốt hay xấu, ở gần hay ở xa.
(Trên những ruộng đất tốt và trung bình, địa chủ còn thu thêm địa tô chênh lệch I và địa tô
chênh lệch II)
+ Dưới chế độ tư bản, sự độc quyền tư hữu ruộng đất đã cản trở sự phát triển của quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp. Do vậy, nông nghiệp thường lạc hậu hơn công nghiệp về
kinh tế và kỹ thuật, và cấu tạo hữu cơ trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp. Điều này
phản ánh một điều: nếu trình độ bóc lột như nhau (tỷ suất giá trị thặng dư như nhau) thì một tư bản
ngang nhau sẽ sinh ra trong nông nghiệp nhiều giá trị thặng dư hơn.
Ví dụ: Giả sử:
+ Có hai tư bản đầu tư trong nông nghiệp và trong công nghiệp đều là 100.
+ Trong công nghiệp, cấu tạo hữu cơ là 4/1 còn trong nông nghiệp, cấu tạo hữu cơ là 3/2.
+ m’ = 100%
Ngành
SX
c+v c/v m’ m Tổng giá trị SP
'P
P
Đại tô
tuyệt đối
Cnghiệp 80c+20v 4/1 100% 20 80c+20v+20m 20% 20 0
Nnghiệp 60C+40v 3/2 100% 40 60C+40v+40m 20% 20 20
+ Địa tô tuyệt đối cũng là một loại lợi nhuận siêu ngạch (20) dôi ra ngoài lợi nhuận bình
quân (20) được hình thành do cấu tạo hữu cơ của của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong công
nghiệp, nó là số chênh lệch giữa giá trị nông sản với giá cả sản xuất chung của nông phẩm.
+ Cơ sở của địa tô tuyệt đối là do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn
trong công nghiệp, còn nguyên nhân tồn tại của địa tô tuyệt đối là do chế độ độc quyền tư hữu
ruộng đất đã ngăn cản nông nghiệp tham gia cạnh tranh giữa các ngành để hình thành lợi nhuân
bình quân.

* So sánh địa tô tuyệt đối và địa tô chênh lệch:
Địa tô chênh lệch Địa tô tuyệt đối
Giống nhau Cùng là P
ns
, nguồn gốc từ giá trị thặng dư
Khác nhau Nguyên nhân sinh ra địa tô chênh
lệch là độc quyền kinh doanh
ruộng đất
Nguyên nhân sinh ra địa tô
tuyệt đối là độc quyền tư hữu
ruộng đất
- Địa tô độc quyền
+ Địa tô độc quyền là hình thức đặc biệt của địa tô tư bản chủ nghĩa. Nó có thể tồn tại trong
nông nghiệp, công nghiệp khai thác và các khu đất trong thành thị.
+ Địa tô gắn với độc quyền sở hữu ruộng đất, độc chiếm các điều kiện tự nhiên thuận lợi, cản
trở sự cạnh tranh của tư bản, tạo nên giá cả độc quyền của ruộng đất. Địa tô thu trên các loại có thể
trồng các loại cây cho những sản phẩm quý hiếm, có giá trị cao, hay những khoáng sản có giá trị
đặc biệt, thường rất cao và được gọi là địa tô độc quyền.
+ Nguồn gốc của nó cũng là lợi nhuận siêu ngạch do giá cả độc quyền cao của những sản
phẩm thu được trên đất ấy mà nhà tư bản phải nộp cho địa chủ.
Vấn đề 6: Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền
a) Tập trung sản xuất và sự hình thành các tổ chức độc quyền
- Tích tụ tập trung cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc trưng kinh tế cơ bản
của chủ nghĩa đế quốc.
- Tập trung sản xuất đến mức độ cao trực tiếp hình thành các tổ chức độc quyền. Và lúc này,
giữa các xí nghiệp lớn tồn tại 2 xu thế:
+ Dễ dàng thỏa thuận với nhau để hợp tác sản xuất, kinh doanh
+ Cạnh tranh gay gắt bất phân thắng bại nên dẫn đến khuynh hướng thỏa hiệp với nhau để
thiết lập thế lực độc quyền.
Tích tụ,

tập trung
Một số xnghiệp có quy mô lớn

Thỏa hiệp,
thỏa thuận
Tổ chức
độc quyền
sản xuất
Cạnh tranh gay gắt
- Tổ chức độc quyền: liên minh giữa các nhà tư bản lớn nắm trong tay phần lớn (thậm chí
toàn bộ) sản phẩm của một ngành, cho phép liên minh này phát huy ảnh hưởng quyết định đến quá
trình sản xuất, lưu thông của ngành đó, nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao.
- Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hóa các liên minh độc quyền liên kết ngang, tức là
liên kết các doanh nghiệp trong cùng một ngành. Những hình thức độc quyền cơ bản kiểu này là:
Cartel, Cydicate, Trust.
+ Cartel: tổ chức độc quyền trên cơ sở những hiệp định giữa các thành viên để thỏa thuận
với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ, thị trường thanh toán của các xí nghiệp
tham gia nó. Còn việc sản xuất, thương nghiệp vẫn độc lập, do từng thành viên thực hiện. Nếu ai
làm sai sẽ bị phạt tiền theo hiệp định.
+ Cydicate: tổ chức độc quyền thực hiện những liên minh về mua nguyên vật liệu, bán hàng
hóa, do một ban quản trị chung đảm nhiệm, nhưng sản xuất vẫn là công việc độc lập của mỗi thành
viên. Mục đích của nó là thống nhất đầu mối mua, bán để mua rẻ, bán đắt nhằm thu lợi nhuận cao.
► Cartel và Cydicate dễ bị phá vỡ, vì khi tương quan lực lượng thay đổi, các thành viên
chạy theo lợi ích bộ phận nên dễ phá cam kết. Từ đó Trust hình thức cao hơn của độc quyền ra đời.
+ Trust: hình thức độc quyền cao nhằm thống nhất cả việc sản xuất và thương nghiệp vào
trong tay một ban quản trị điều hành chung. Các thành viên trở thành cổ đông hưởng lợi tức cổ
phần.
- Đến giai đoạn sau, hình thức liên kết dọc xuất hiện. Đó là liên kết của các xí nghiệp lớn,
các Cydicate, Trust thuộc các ngành khác nhau nhưng có liên quan đến nhau về kinh tế và kỹ thuật.
Người ta gọi hình thức này là Consortium. Một Consortium có thể có hàng trăm xí nghiệp liên kết

trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc về tài chính vào một nhóm tư bản kếch xù.
Từ giữa thế kỷ XX, một hình thức liên kết mới, liên kết đa ngành, hình thành những
conglomerat, hay concern. Đó là những công ty khổng lồ thâu tóm nhiều công ty xí nghiệp thuộc
những ngành công nghiệp rất khác nhau, đồng thời bao hàm cả vận tải, thương mại, ngân hàng và
các dịch vụ khác.
- Nhờ nắm được địa vị thống trị trong sản xuất, lưu thông nên các tổ chức độc quyền có khả
năng định giá cả độc quyền cao. Giá cả độc quyền có hai loại:
+ Giá cả độc quyền mua: Mua hàng hóa (đặc biệt là nguyên liệu) với giá thấp hơn nhiều so
với giá cả sản xuất.
+ Giá cả độc quyền bán: Bán hàng hóa với giá cao hơn giá cả sản xuất.
► Tổ chức độc quyền thu được lợi nhuận độc quyền.
- Tuy nhiên, giá cả độc quyền cũng không thủ tiêu quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng
dư. Vì xét trên toàn xã hội tư bản thì:
Do đó, phần lợi nhuận kếch xù mà các tổ chức độc quyền thu được cũng bằng phần mà tầng
lớp tư sản vừa và nhỏ cũng như nhân dân lao động mất đi. Lợi nhuận độc quyền còn gồm cả phần
bóc lột những tư sản vừa và nhỏ, người sản xuất nhỏ trong nước và đặc biệt là nhân dân các nước
thuộc địa và phụ thuộc (do tư bản mua nông sản với giá rẻ, bán hàng công nghệ giá cao )
b) Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính
- Cùng với quá trình tích tụ và tập trung tư bản như trong công nghiệp, đồng thời cũng diễn
ra quá trình tích tụ và tập trung tư bản trong ngân hàng. Cạnh tranh làm các ngân hàng nhỏ bị phá
sản, ngân hàng lớn thôn tính ngân hàng nhỏ. Các ngân hàng nhỏ khác cũng chủ động sáp nhập.
Điều đó dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền ngân hàng.
- Nhờ nắm trong tay phần lớn tư bản tiền tệ trong xã hội, các tổ chức độc quyền ngân hàng
có thêm vai trò mới, từ chỗ làm trung gian trong thanh toán và tín dụng nay họ nắm được phần lớn
tư bản tiền tệ trong xã hội, trở thành người có quyền lực vạn năng chi phối các hoạt động kinh tế -
xã hội.
Vai trò đó thể hiện:
+ Cử người vào cơ quan quản lý của tư bản công nghiệp.
+ Trực tiếp đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp.
- Ngược lại, trước sự chi phối, khống chế ngày càng xiết chặt của ngân hàng, các tổ chức độc

quyền công nghiệp cũng tìm cách xâm nhập tương ứng đối ngân hàng. Cụ thể là:
+ Các tổ chức độc quyền công nghiệp tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách mua
cổ phiếu của các ngân hàng lớn để có thể chi phối hoạt động của ngân hàng.
+ Tự lập ngân hàng phục vụ cho riêng mình.
- Quá trình độc quyền hóa trong công nghiệp và trong ngân hàng gắn bó, đan xen vào nhau
và thúc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh một loại tư bản mới. Đó là tư bản tài chính.
- Theo Lênin: “tư bản tài chính là kết quả của sự kết hợp giữa tư bản ngân hàng của một số
ngân hàng độc quyền lớn nhất với tư bản của liên minh độc quyền các nhà công nghiệp”.

- Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến hình thành một nhóm nhỏ độc quyền chi phối
toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn bộ xã hội tư bản. Đó là bọn đầu sỏ tài chính.
Bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua các phương pháp:
+ Vận dụng “chế độ tham dự”. Thực chất của chế độ này là một số nhà tài chính lớn hoặc
một tập đoàn tài chính nhờ nắm số cổ phiếu khống chế nên có thể nắm được một công ty lớn nhất
với tư cách là “công ty mẹ”. Sau đó, công ty này lại nắm được lượng cổ phiếu chi phối được nhiều
“công ty con”, và đến lượt mình, các “công ty con” lại chi phối được các “công ty cháu”.
Vậy, chế độ tham dự và phương pháp tổ chức tập đoàn theo kiểu mắt xích đã giúp cho nhà tư
bản độc quyền tài chính có thể khống chế và điều tiết một lượng tư bản lớn hơn gấp nhiều lần so với
lượng tư bản mà họ đầu tư.
+ Sử dụng các thủ đoạn: lập công ty mới, phát hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ
chứng khoán ở sở giao dịch, đầu cơ ruộng đất để thu lợi nhuận cao.
- Thống trị về kinh tế là cơ sở thống trị về chính trị và các mặt khác. Chúng chi phối mọi
hoạt động của cơ quan nhà nước, biến nhà nước thành công cụ phục vụ cho tư bản độc quyền. Đó
cũng là nguyên nhân xuất hiện chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quân phiệt và nhiều thứ khác, tất cả
cùng chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược để áp bức, bóc lột các nước chậm phát triển.
c) Xuất khẩu tư bản
Ta có thể thấy qua sơ đồ:
Tổ chức
Độc quyền
Ngân hàng

Tổ chức
Độc quyền
Công nghiệp
TƯ BẢN TÀI CHÍNH
Ngân hàng
nhỏ
Phá sản
Sáp nhập
Cạnh tranh khốc liệt
- Lênin vạch ra rằng: “xuất khẩu hàng hóa là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh
tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản độc quyền”.
- Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hoá ra nước ngoài để thực hiện giá trị và giá trị thặng
dư. Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài, mang tư bản đầu tư ở nước ngoài chiếm
đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản.
- Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản trở thành một tất yếu. Bởi vì:
+ Một là, các nước tư bản phát triển đã xuất hiện hiện tượng “tư bản thừa” tương đối, tức là
có một phần tư bản không tìm được nơi đầu tư có lợi nhuận cao ở trong nước. Tiến bộ kỹ thuật ở
đây dẫn đến tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản và hạ thấp tỷ suất lợi nhuận.
+ Hai là, ở các nước kém phát triển về kinh tế, nhất là ở các nước thuộc địa, phụ thuộc thì
nguyên liệu dồi dào và rẻ, nguồn nhân công và giá đất cũng rẻ nên tỷ suất lợi nhuận cao nhưng ở
đây lại thiếu vốn và kỹ thuật.
► Do đó, xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu để nâng cao tỷ suất và khối lượng lợi nhuận.
* Điều đó thể hiện qua sơ đồ:
- Phân loại:
+ Xét về hình thức đầu tư, có thể chia xuất khẩu tư bản thành hai loại:
 Xuất khẩu tư bản trực tiếp (FDI): mang tư bản ra nước ngoài để trực tiếp xây dựng xí
nghiệp mới, hoặc mua lại các xí nghiệp, biến nó thành một chi nhánh của công ty mẹ ở chính quốc.
Xí nghiệp mới thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp, song phương hoặc đa phương, nhưng có xí nghiệp
100% vốn của công ty nước ngoài.
 Xuất khẩu tư bản gián tiếp (ODA): hình thức xuất khẩu tư bản cho vay để thu lợi tức.

Nói cách khác, đó chính là hình thức xuất khẩu tư bản cho vay.
+ Xét về sở hữu, ta có xuất khẩu tư bản thành:
 Xuất khẩu tư bản nhà nước: nhà nước dùng nguồn vốn của mình và tiền của các tổ chức
độc quyền đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản, hoặc viện trợ có hoàn lại hoặc không hoàn lại để thực
hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, quân sự.
CNTB
Độc quyền
Xuất khẩu giá trị ra nước
ngoài nhằm mục đích đoạt
giá trị thặng dư và nguồn
lợi khác
XK Tư bản
CNTB Tự do
cạnh tranh
Xuất khẩu hàng hóa
ra nước ngoài nhằm
thực hiện giá trị
XK Hàng
hóa
Tiền lương thấp
Nguyên liệu rẻ
Tích lũy tư bản
phát triển
Tích lũy khối lượng
tư bản lớn
Tư bản thừa
“tương đối”
Các nước nhỏ
Thiếu tư bản
Giá ruộng đất thấp

Xuất
khẩu
tư bản
Trực tiếp
(FDI)
Gián
tiếp
(ODA)
Hội nhập kinh tế
 Về kinh tế: hướng xuất khẩu tư bản vào những ngành thuộc kết cấu hạ tầng để tạo môi
trường thuận lợi cho đầu tư của tư bản tư nhân sau đó. Hoặc viện trợ nhằm ký kết được những hiệp
định thương mại và đầu tư có lợi.
 Về chính trị: viện trợ nhằm duy trì và bảo vệ chế độ chính trị ở các nước nhập khẩu tư
bản. Đó là hình thức giúp đỡ nhau giữa các quốc gia “thân cận”, làm tăng sự phụ thuộc của quốc gia
nhận tư bản vào các nước chính quốc, thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới, tạo điều kiện cho
xuất khẩu tư bản tư nhân.
 Về quân sự: Viện trợ nhằm lôi kéo các nước nhận tư bản phụ thuộc vào khối quân sự hoặc
buộc các nước nhận viện trợ phải cho lập các căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình.
 Xuất khẩu tư bản tư nhân: là xuất khẩu tư bản do tư nhân thực hiện. Nó có đặc điểm là
thường đầu tư vào các những ngành kinh tế có vòng quay tư bản ngắn, thu lợi nhuận độc quyền cao,
dưới hình thức hoạt động cắm nhánh vào các công ty xuyên quốc gia.
► Việc xuất khẩu tư bản là mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, là
phương tiện chủ yếu để tư bản tài chính mở rộng thống trị, bóc lột, nô dịch trên phạm vi quốc tế. Nó
có tác động hai mặt. Một mặt, nó tác động tích cực đến nền kinh tế nhập khẩu tư bản, như thúc đẩy
nền kinh tế tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hóa, có cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp – dịch
vụ hợp lý. Mặt khác, nó làm cho cơ cấu kinh tế các nước nhập khẩu bị què quặt, lệ thuộc vào chính
quốc.
* Quá trình phát triển của các hình thức xuất khẩu:
d) Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền
- Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển cộng với việc xuất khẩu tư bản tăng nhanh

cả về mặt quy mô và phạm vi tất yếu dẫn đến phân chia thế giới về kinh tế, nghĩa là phân chia lĩnh
vực đầu tư tư bản, phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền.
- Chủ nghĩa tư bản phát triển luôn gắn với thị trường. Nhất là khi phát triển lên giai đoạn chủ
nghĩa tư bản độc quyền thì các nước tư bản coi thị trường nước ngoài đặc biệt quan trọng. Điều đó
là do:
+ Lực lượng sản xuất phát triển đòi hỏi ngày càng phải có nguồn nguyên liệu và nơi thiêu
thụ mới có lợi nhuận cao.
+ Bành truớng ra ngoài để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Lênin đã nhận xét: “Bọn tư sản chia nhau thế giới không phải do tính độc ác đặc biệt của
chúng mà do sự tập trung đã dẫn tới mức độ buộc chúng phải đi vào con đường ấy để kiếm lời”.
- Các tổ chức độc quyền ngày càng hùng mạnh lại còn được sự ủng hộ của nhà nước mà
chúng thao tứng cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên thị trường quốc tế. Cạnh tranh giằng co tất yếu
dẫn đến xu hướng thỏa hiệp, ký kết các hiệp định để củng cố địa vị độc quyền của chúng trong
những lĩnh vực và thị trường nhất định.
Từ đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế dưới dạng các Cartel, Cydicate, Trust
quốc tế Những năm 1934, thế giới đã có 350 cácten quốc tế, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống kinh
tế, chính trị toàn thế giới.
Doanh nghiệp tư nhân Các tchức ĐQ xuyên QgiaCác tổ chức độc quyền
Xuất khẩu hàng hóa XK tư bản + XK hàng hóaXuất khẩu tư bản
Tk 18
Cuối TK 19 đầu TK 20 Giữa TK 20 đến nay
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, xuất hiện hình thức phan chia thế giới vê kinh tế là liên
minh quốc tế của các tư bản nhà nước. Điển hình cho loại liên minh này là: Cộng đồng Liên minh
Châu Âu (EC) thành lập năm 1957, lúc đầu có 6 nước thành viên, đến đầu thế kỷ XXI có 25 thành
viên. Từ ngày 01/01/1999 đã cho ra đời đồng tiền chung Châu Âu với sự tham gia của 11 quốc gia.
Bước vào thế kỷ XXI, toàn thế giới có trên 60.000 công ty xuyên quốc gia, chiếm khoảng
60% lượng hàng hóa xuất khẩu của thế giới.
Tại Tây bán cầu, Mỹ đang xúc tiến thành lập khối thị trường chung Châu Mỹ (dự kiến hoàn
tất vào năm 2010) bằng cách mở rộng NAFTA gồm Canada, Mehycô và Mỹ.
Một loạt các nước đang phát triển cũng tăng cường liên minh liên kết để chống lại sức ép từ

các cường quốc tư bản chủ nghĩa. Điển hình là việc thành lập các tổ chức Asean, Opec, Liên minh
Châu Phi (AU)…
e) Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc
- Lênin cho rằng: “chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao, nguyên liệu càng thiếu thốn, cạnh
tranh càng gay gắt và việc tìm kiếm các nguồn nguyên liệu trên toàn thế giới càng ráo riết thì cuộc
đấu tranh xâm chiếm thuộc địa càng quyết liệt hơn”
Như vậy, sự phân chia thế giới về kinh tế bao giờ cũng được củng cố và tăng cường bằng
việc phân chia thế giới về lãnh thổ. Trong quá trình cạnh tranh quyết liệt dành “siêu lợi nhuận độc
quyền”, các tổ chức luôn đòi hỏi sự can thiệp của nhà nước nhằm giúp mình giành giật được thị
trường và môi trường đầu tư thuận lợi nhất. Sự can thiệp đó đã biến nhà nước thành một nước đế
quốc chủ nghĩa.
► Như vậy chủ nghĩa đế quốc là sự kết hợp giữa yêu cầu vươn ra thống trị ở nước ngoài của
tư bản độc quyền với đường lối xâm lăng của nhà nước.
Chủ nghĩa đế quốc là một đặc trưng của chủ nghĩa tư bản độc quyền, biểu hiện trong đường
lối xâm lược nước ngoài, biến những nước này thành hệ thống thuộc địa của các cường quốc nhằm
đáp ứng nhu cầu thu siêu lợi nhuận độc quyền của tư bản độc quyền.
- Lợi ích của xuất khẩu tư bản thúc đẩy các cường quốc tư bản xâm chiếm thị trường lập nên
hệ thống thộc địa để nắm nguyên liệu và thị trường tiêu thụ. Đối với tư bản tài chính, không phải họ
chỉ chú ý đến nguồn nguyên liệu đã có mà cả nguồn nguyên liệu có thể tìm được. Do đó tư bản tài
chính quan tâm mở rộng lãnh thổ kinh tế mà cả lãnh thổ nói chung.
Từ những năm 1880, xâm chiếm thuộc địa đã phát triển mạnh. Vào đầu thế kỷ XX, việc
phân chia thế giới đã hoàn thành. Các quốc gia chiếm hữu thuộc địa nhất là Anh, Nga (Sa Hoàng)
và Pháp.
- Sự phân chia lãnh thổ thế giới trên là không đồng đều. Thêm vào đó, các nước tư bản cũng
phát triển không đều, do đó các nước đế quốc ra đời sau đấu tranh đòi chia lại thị trường. Đó là
nguyên nhân gây ra hai cuộc đại chiến thế giới lần thứ I (1914 - 1918) và đại chiến thế giới lần thứ
II (1939 - 1945) cũng như những xung đột nóng ở nhiều khu vực trên thế giới.
- Từ những năm 50 thế kỷ XX trở lại đây, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ
đã làm sụp đổ và tan rã hệ thống thuộc địa kiểu cũ. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa
thực dân đã bị thủ tiêu. Trái lại, các cường quốc đế quốc chuyển sang thi hành chính sách thực dân

mới, đó là dùng viện trợ để duy trì sự lệ thuộc của các nước chậm và đang phát triển vào các nước
đế quốc
Vấn đề 7: Giai cấp công nhân
ĐẶT VẤN ĐỀ
- Sứ mệnh lịch sử của GCCN là một phạm trù cơ bản nhất của CNXH KH.
- Việc phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của GCCN là một trong những cống hiến vĩ đại của
Marx.
- Học thuyết Marx đã tìm ra lực lượng xã hội để thực hiện nhiệm vụ cao cả: xóa bỏ CNTB và
tiến hành xây dựng CNXH là GCCN
Khái niệm GCCN
* Quan niệm của các nhà kinh điển CN Marx-Lenin:
- Quan niệm của K.Marx và F.Engels:
+ Dùng nhiều thuật ngữ khác như: giai cấp vô sản, lao động làm thuê ở thế kỷ XIX,
GCCN hiện đại, GCCN đại công nghiệp
Nhưng nội hàm Khái niệm GCCN đều bao gồm:
 Là con đẻ của nền đại công nghiệp TBCN
 Là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại.
+ Nhấn mạnh GCCN mang hai thuộc tính cơ bản:
Thứ nhất, về phương thức lao động của GCCN.
GCCN là những ngýời lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính
chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao.
 Đây là đặc trýng cõ bản phân biệt người công nhân hiện đại với ngýời thợ thủ công thời
trung cổ hoặc ngýời thợ thủ công trong công trường thủ công.
Thứ hai, về địa vị của GCCN trong hệ thống QHSX TBCN.
- Dưới chế độ TBCN:
GCCN không có tý liệu sản xuất
 buộc phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tý bản và bị giai cấp tý sản bóc lột.
- Sau CMVS thành công:
GCCN trở thành giai cấp cầm quyền  trở thành giai cấp thống trị, lãnh đạo cuộc đấu tranh
cải tạo XH cũ, xây dựng XH mới - xã hội XHCN.

 Thuộc tính thứ hai này nói lên một trong những đặc trýng cõ bản của GCCN dýới chế độ
TBCN:
+ GCCN là giai cấp vô sản.
+ GC lao động làm thuê cho giai cấp tý sản
+ Trở thành lực lượng đối kháng của giai cấp tý sản.
+ Engels đưa ra khái niệm:
“Giai cấp vô sản là:
- Một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán lao động của mình
- Một giai cấp mà toàn bộ sự sống còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động.
- Giai cấp lao động trong thế kỷ 19”… “do cuộc cách mạng công nghiệp sản sinh ra…”.
- Quan niệm của V.I.Lenin:
+ Điều kiện lịch sử:
 CNTB chuyển thành chủ nghĩa đế quốc.
 Thực tiễn xây dựng CNXH ở Nga Xôviết.
+ Đóng góp của V.I.Lenin:
 Hoàn thiện thêm khái niệm giai cấp công nhân.
 Qua thực tiễn cách mạng ở Nga, Lenin đã làm rõ hơn vai trò của giai cấp công nhân trong
quá trình lãnh đạo cách mạng XHCN, trong xây dựng CNXH.
* Quan niệm hiện nay về giai cấp công nhân:
- Trong CNTB:
Ngày nay, giai cấp công nhân hiện đại đã có những sự thay đổi so với trước đây.
+ Về phương thức lao động, công nhân lao động trong những ngành ứng dụng công nghệ ở
trình độ phát triển cao => công nhân có trình độ tri thức ngày càng cao.
+ Về phương diện đời sống, một bộ phận công nhân đã có một số tư liệu sản xuất nhỏ để
cùng với gia đình làm thêm trong các công đoạn phụ cho các doanh nghiệp chính; một bộ phận nhỏ
công nhân đã có cổ phần trong các xí nghiệp TBCN.
Tuy nhiên, tuyệt đại bộ phận tư liệu sản xuất trong các nước TBCN vẫn nằm trong tay các
nhà tư bản lớn, GCCN vẫn không có tư liệu sản xuất chủ yếu, vẫn phải bán sức lao động cho các
nhà tư bản, cả sức lao động trí óc và lao động chân tay.
- Sau khi cách mạng vô sản thành công:

Giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp thống trị, giai cấp lãnh đạo cuộc
đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động, làm chủ
những tư liệu sản xuất cơ bản đã được công hữu hoá.
* Khái niệm:
“Giai cấp công nhân là:
Một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền
công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày
càng cao;
Lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp,
trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo
các quan hệ xã hội;
Đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay”
b) Nội dung và đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
- Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
+ Trong mỗi thời kỳ chuyển biến cách mạng lên một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn luôn
có một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của lịch sử, đóng vai trò là động lực chủ yếu và là lực lượng
lãnh đạo quá trình cách mạng đó.
+ Giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử:
 Xóa bỏ CNTB, xóa bỏ chế độ người bóc lột người
 Giải phóng GCCN, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân lọai khỏi mọi sự áp
bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu
 Xây dựng xã hội mới - xã hội XHCN và cộng sản chủ nghĩa.
+ GCCN chỉ có thể thoát khỏí ách áp bức bằng con đường đấu tranh giai cấp chống giai cấp
tư sản, bằng con đường thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và thiết lập chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất.
+ Ở Việt Nam, giai cấp công nhân phải làm 2 cuộc cách mạng:
Cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân
=> Cách mạng XHCN
Độc lập dân tộc

gắn
liền
CNXH
Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN ”
- Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân phải trải qua hai bước:
+ Bước thứ nhất: “Giai cấp vô sản chiếm lấy chính quyền nhà nước và biến tư liệu sản xuất
trước hết thành sở hữu nhà nước”.
+ Bước thứ hai: “…giai cấp vô sản cũng tự thủ tiêu với tư cách là giai cấp vô sản, chính vì
thế mà nó cũng xóa bỏ mọi sự phân biệt giai cấp và mọi đối kháng giai cấp, và cũng xóa bỏ nhà
nước với tư cách nhà nước”.
Hai bước này quan hệ chặt chẽ với nhau: giai cấp công nhân không thực hiện được bước thứ
nhất thì cũng không thực hiện được bước thứ hai. Nhưng bước thứ hai là quan trọng nhất để giai
cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải:
 Tập hợp được các tầng lớp nhân dân lao động xung quanh nó.
 Đấu tranh cách mạng xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới về mọi mặt từ kinh tế tới
chính trị và văn hóa, tư tưởng.
Tiến lên một xã hội không còn giai cấp và thực hiện được nguyên tắc bình đẳng lý tưởng
“làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
* Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản K.Marx và F.Engels đã chỉ rõ các điều kiện
khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
a) Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội TBCN
- Công nhân - người lao động là “Lực lượng sản xuất hàng đầu”
Trong lực lượng sản xuất ở bất cứ xã hội nào người lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất.
Trong CNTB và CNXH với nền đại sản xuất công nghiệp ngày càng phát triển thì : “Lực lượng sản

xuất hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân, là người lao động”.
- Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân quy định một cách khách quan vai trò sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Bởi vì:
+ Thứ nhất, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhất trong các bộ
phận cấu thành lực lượng sản xuất dưới CNTB.
 Giai cấp công nhân vừa là chủ thể trực tiếp, vừa là sản phẩm căn bản nhất của nền sản
xuất đó.
 Giai cấp công nhân hiện đại có xu hướng ngày càng được tri thức hóa.
+ Thứ hai, về mặt lợi ích giai cấp công nhân là giai cấp đối kháng trực tiếp với giai cấp tư
sản.
 Là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột TBCN.
 GCCN giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ TBCN, trong cuộc cách mạng ấy, họ không
mất gì ngoài xiềng xích mà lại được cả thế giới.
+ Thứ ba, giai cấp công nhân có lợi ích căn bản thống nhất với lợi ích của toàn thể nhân dân
lao động.
b) Đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân
- Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng có tinh thần cách mạng
triệt để nhất.
+ Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng Vì:
 Đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa,
phương thức sản xuất gắn liền với nền khoa học công nhiệp hiện đại.
 Có hệ tư tưởng tiên phong của thời đại ngày nay là tư tưởng Marx-Lenin mang tính cách
mạng và khoa học.
+ Giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất.
 Trong cuộc cách mạng tư sản, giai cấp tư sản chỉ có tinh thần cách mạng trong thời kỳ
đấu tranh chống chế độ phong kiến, còn khi giai cấp này đã giành được chính quyền thì họ quay trở
lại bóc lột giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, những giai cấp đã từng đi với giai cấp tư sản trong
cuộc cách mạng dân chủ tư sản.
 Giai cấp công nhân, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp, lại bị giai cấp tư sản bóc lột
nặng nề, có lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Điều kiện sống, điều kiện

lao động trong chế độ TBCN đã chỉ cho họ thấy, họ chỉ có thể được giải phóng bằng cách giải
phóng toàn xã hội khỏi chế độ TBCN.
 Trong quá trình xây dựng CNXH, giai cấp công nhân không gắn với tư hữu, do vậy, họ
cũng kiên định trong công cuộc cải tạo XHCN, kiên quyết đấu tranh chống chế độ áp bức, bóc lột,
xóa bỏ chế độ tư hữu, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
- Thứ hai, giai cấp công nhân có ý thức tổ chức kỷ luật cao nhất
+ Do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp chống lại giai cấp tư sản, giai cấp công nhân phải
đấu tranh bằng phẩm chất kỷ luật của mình.
+ Giai cấp công nhân lao động trong nền sản xuất đại công nghiệp với hệ thống sản xuất
mang tính chất dây chuyền và nhịp độ làm việc khẩn trương, buộc giai cấp này phải tuân thủ
nghiêm ngặt kỷ luật lao động, cùng với cuộc sống đô thị đã tạo nên tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ
của giai cấp công nhân.
+ Các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn đòi hỏi giai cấp này phải có ý thức tổ chức kỷ luật
chặt chẽ.
- Thứ ba, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế
+ Giai cấp tư sản là một lực lượng quốc tế, giai cấp tư sản không chỉ bóc lột giai cấp công
nhân ở chính nước họ mà còn bóc lột giai cấp công nhân ở các nước thuộc địa.
+ Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ toàn cầu hóa, nhiều sản phẩm không phải do một
nước sản xuất ra mà là kết quả lao động của nhiều quốc gia.
► Vì thế, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân không chỉ diễn ra đơn lẻ ở từng
doanh nghiệp, ở mỗi quốc gia mà ngày càng phải có sự gắn bó giữa phong trào công nhân các nước.
Vấn đề 8. Vấn đề Cách mạng XHCN
a) Khái niệm cách mạng XHCN
Cách mạng XHCN là một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ TBCN lỗi thời bằng chế độ
XHCN, trong cuộc cách mạng đó, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo quần chúng nhân dân
lao động xây dựng một xã hội mới, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
► Vậy:
+ Theo nghĩa hẹp: Cách mạng XHCN được hiểu là một cuộc cách mạng chính trị, được kết
thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động giành được chính quyền, thiết lập
nên nhà nước chuyên chính vô sản – nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao

động.
+ Theo nghĩa rộng: Cách mạng XHCN bao gồm cả hai thời kỳ: cách mạng về chính trị nhằm
thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản và thời kỳ sử dụng nhà nước của mình để cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa tư tưởng…
b) Nguyên nhân của cách mạng XHCN
- Chủ nghĩa Marx - Lenin cho rằng: nguyên nhân sâu xa của mọi cuộc cách mạng trong xã
hội là do mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ
sản xuất đã trở nên lỗi thời.

×