Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Thực trạng và giải pháp của việc sử dụng thẻ thanh toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (750.62 KB, 28 trang )

Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 1

LỜI MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài môn học
Lịch sử loài người trải qua nhiều giai đoạn, xã hội nguyên thủy, xã hội nô
lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản, xã hội chủ nghĩa. Trải qua quá trình phát
triển lâu dài như vậy, từ lúc con người chỉ biết săn bắt hái lượm để nuôi sống
bản thân đến tự sản xuất ra những lương thực, thực phẩm phục vụ cho nhu cầu
của mình rồi con người biết trao đổi các sản phẩm cho nhau để tiếp tục thỏa mãn
tốt hơn nhu cầu của mình. Trong quá trình phát triển đó, con người đã nhận thức
được vai trò to lớn của tiền tệ, tiền tệ với chức năng thanh toán là cầu nối giữa
sản xuất, phân phối lưu thông và tiêu dùng.Và cũng chính sự phát triển ngày
càng mạnh mẽ của kinh tế - xã hội đã tạo cho tiền tệ những hình thức biểu hiện
mới phù hợp hơn.
Khi một nền kinh tế phát triển cao, số lượng các giao dịch và giá trị giao
dịch lớn, ứng dụng của khoa học công nghệ vào ngân hàng đã đưa tới việc sử
dụng nhiều hình thức thanh toán trong lưu thông tiền tệ mà không sử dụng tiền
mặt như séc, thẻ tín dụng, thẻ ATM thay thế cho việc sử dụng tiền mặt ngày
càng được ưa chuộng. Việt Nam trước ngưỡng cửa hội nhập nền kinh tế thế giới
cần hình thành và phát triển một hệ thống thanh toán hiện đại, phù hợp với điều
kiện của đất nước đồng thời hội nhập với hệ thống tài chính quốc tế.Việt Nam
được coi là nước có tỉ trọng tiền mặt trong lưu thông cao.
Chính vì vậy, em đã lựa chọn đề tài "Thực trạng và giải pháp của việc
sử dụng thẻ thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2006-
2011" làm đề tài nghiên cứu.
2.Phương pháp viết.
Trong quá trình viết và tìm hiểu chuyên đề các phương pháp được sử
dụng là:
Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 2



- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp diễn dịch, quy nạp.
- Phương pháp thống kê.
3.Nội dung chuyên đề.
Nội dung chuyên đề xoay quanh vấn đề sử dụng thẻ thanh toán không
dùng tiền mặt ở Việt Nam giai đoạn 2006-2011.
Với kiến thức và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, em mong cô quan
tâm đóng góp ý kiến và giúp đỡ em hoàn thiện hơn nữa về chuyên đề này.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy cô trong tổ bộ môn đã giảng
dạy, hướng dẫn nhiệt tình để em hoàn thành bài chuyên đề này.










Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 3

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ MÔN HỌC
1.1. Giới thiệu chung về môn học.
Môn "Tài chính-Tiền tệ P1" được hình thành trên cơ sở tổng hợp có chọn
lọc những nội dung chủ yếu của hai môn học: “Tài chính học” và “Lưu thông
tiền tệ-tín dụng” của chuyên ngành Tài chính-Ngân hàng. Những kiến thức của

môn học này mang tính tổng hợp, có liên quan đến điều kiện kinh tế vĩ mô trong
nền kinh tế thị trường có điều tiết. Do đó, nó trở thành môn học cơ sở cho tất cả
sinh viên đại học thuộc các khối ngành kinh tế.
Môn học này cung cấp cho sinh viên những kiến thức, những khái niệm
và nội dung chủ yếu về Tài chính, Tiền tệ, Tín dụng và Ngân hàng. Nó có tác
dụng làm cơ sở bổ trợ cho việc nghiên cứu các môn kinh tế ngành. Chính vì điều
này mà việc học tập, nghiên cứu và tìm hiểu về môn học này là rất cần thiết cho
mọi sinh viên trong các khối ngành kinh tế, đặc biệt là chuyên ngành Tài chính-
Ngân hàng.
Giáo trình "Tài chính-Tiền tệ P1" của trường Đại Học Công Nghiệp
TPHCM được PGS.TS Phan Thị Cúc, TS Nguyễn Trung Trực, ThS Đào Văn
Huy biên soạn.
Bố cục môn học gồm có bốn chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tiền tệ
Chương 2: Các chế độ tiền tệ
Chương 3: Cung cầu tiền tệ
Chương 4: Lạm phát
1.2. Những kiến thức chính trong môn học.
Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 4

Bản chất của tiền tệ được hiểu là vật ngang giá chung, làm phương tiện để trao
đổi hàng hóa, dịch vụ và thanh toán các khoản nợ.
Ba chức năng hàng đầu của tiền tệ đó là: phương tiện trao đổi, đơn vị đo lường
giá trị và phương tiện dự trữ về mặt giá trị. Trong ba chức năng này chức năng
là một phương tiện trao đổi chính là cái phân biệt tiền với các tài sản khác như
trái phiếu, cổ phiếu hoặc nhà cửa…
Sự phát triển của các hình thái tiền tệ đi từ: Tiền tệ dưới dạng hàng hóa-tiền
tệ=>Tiền tệ kim loại=>Tiền giấy (giấy bạc ngân hàng). Ngoài ra còn có thêm
một số hình thức tiền tệ khác như tiền ghi sổ, tiền điện tử…

Vai trò của tiền trong nền kinh tế thị trường hiện đại bao gồm: là công cụ thực
hiện yêu cầu hạch toán kinh tế, là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, tiền tệ là công
cụ thể hiện chủ quyền quốc gia.
Chế độ tiền tệ là hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ của một quốc gia, được qui
định bằng pháp luật. Bao gồm ba nhân tố: bản vị tiền tệ, đơn vị tiền tệ, công cụ
trao đổi.
Các chế độ lưu thông tiền kim loại gồm có: Chế độ bản vị bạc, chế độ song bản
vị, chế độ bản vị tiền vàng, chế độ bản vị vàng thỏi,chế độ bản vị vàng hối đoái,
chế độ bản vị ngoại tệ và chế độ tiền giấy không chuyển đổi ra vàng có bản vị là
sức mua hàng hóa dịch vụ.
Các qui định về phát hành tiền giấy và tiền kim loại ở Việt Nam: tham khảo ở
mục 2 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam đã sửa đổi bổ sung năm 2003.
Cung tiền tệ là khối tiền cung ứng của nền kinh tế đảm bảo các nhu cầu sản xuất
lưu thông hàng hóa cũng như các nhu cầu chi tiêu trao đổi khác của nền kinh tế
xã hội
Cầu tiền tệ là tổng khối tiền tệ mà nhà nước, các tổ chức kinh tế mà cá nhân cần
có để thỏa mãn các nhu cầu.
Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 5

Lạm phát là hiện tượng cung tiền tệ tăng lên kéo dài làm cho mức giá cả chung
tăng nhanh và kéo dài trong một thời gian
Bản chất của lạm phát là một hiện tượng tiền tệ khi những biến động tăng lên
của giá cả diễn ra trong một thời gian dài.
Nguyên nhân của lạm phát:
+/ Xét theo nguồn gốc
- Lạm phát xảy ra do nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối, cung cấp tiền tệ
tăng trưởng quá mức cần thiết, uy tín và sức mua của đồng tiền bị giảm
sút
- Lạm phát do cầu kéo

- Lạm phát do cầu thay đổi
- Lạm phát do xuất, nhập khẩu, do chi phí đẩy, do cơ cấu.
+/ Nguyên nhân chủ quan và khách quan
- Bắt nguồn từ những chính sách quản lý kinh tế không phù hợp của nhà
nước.
- Thiên tai, động đất, sóng thần, hoặc nền kinh tế bị tàn phá sau chiến tranh.
Các chỉ số đo lường lạm phát: Chỉ số giá tiêu dung (CPI), Chỉ số giá sinh
hoạt, Chỉ số giá sản xuất, Chỉ số giá bán buôn, Chỉ số giá hàng hóa, Chỉ số
giảm phát GDP, Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân.
Phân loại lạm phát theo mức độ:Thiểu phát, Lạm phát thấp, Lạm phát phi
mã, Siêu lạm phát.
Nền kinh tế Việt Nam đã ba lần trải qua giai đoạn siêu lạm phát vào các năm
1986, 1998, 2008.
Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 6

Ngoại trừ lạm phát nhỏ, lạm phát vừa phải có tác động tích cực đến sự phát
triểncủa nên kinh tế còn lại nói chung lạm phát đều gây ảnh hưởng xấu đến
quá trình phát triển của nền kinh tế xã hội.
Biện pháp khắc phục lạm phát, bao gồm:
- Biện pháp hạn chế tiền tệ hay đóng băng tiền tệ
- Biện pháp dùng lạm phát chống lạm phát
- Biện pháp kiềm giữ giá cả
- Cải cách tiền tệ














Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 7

CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG SỬ DỤNG DỊCH VỤ THẺ THANH
TOÁN TRONG LĨNH VỰC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG
TIỀN MẶT TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2011

Đối với các nền kinh tế phát triển trên thế giới, khái niệm “thanh toán
không dùng tiền mặt” là một khái niệm phổ biến và gần như đồng nghĩa với hoạt
động “thanh toán” chung của nền kinh tế. Tuy nhiên, với nhiều nước đang phát
triển khác, trong đó có Việt Nam thì thực tế lại có sự khác biệt khi mà thanh
toán bằng tiền mặt vẫn chiếm tỷ lệ khá lớn và thanh toán không dùng tiền mặt
tuy tỷ lệ đang tăng dần, nhưng vẫn đang là mục tiêu được nhắc đến hàng năm
của các chính phủ và ngân hàng trung ương.

2.1. Thẻ thanh toán - đòn bẩy cho phát triển thanh toán không dùng tiền
mặt ở Việt Nam
Một điều dễ nhận thấy là tại các nước phát triển, sự phát triển của công
nghệ, mức thu nhập bình quân đầu người khá cao cộng với sự hỗ trợ của hệ
thống chính sách vĩ mô đã khiến hệ thống các công cụ và phương tiện thanh
toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) của các ngân hàng cũng như các tổ chức
phi ngân hàng thuận tiện đến mức tiền mặt chỉ còn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ
(thường chiếm khoảng < 1 - 3%) trong hoạt động của các nền kinh tế này. Còn

tại Việt Nam và một số nước đang phát triển lại tồn tại một thực tế tương đối
khác, dù cho tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán của nước ta đã có
chiều hướng giảm xuống, từ mức hơn 32% năm 1998 xuống gần 23.7% năm
2002, 17.2% năm 2006 và 14% trong năm 2010 nhưng tỷ lệ này là rất cao khiến
cho việc toán bằng tiền mặt tại nước ta vẫn còn rất phổ biến, nhất là các hoạt
động thanh toán ở khu vực dân cư. Trong thực tế, với nỗ lực của Chính phủ và
Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tỷ lệ sử dụng công cụ tiền mặt trong hoạt động
thanh toán trong vòng khoảng 10 năm từ 2001 - 2010 đã giảm khoảng gần một
Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 8

nửa, còn nếu so với năm 1998, tỷ lệ này đã giảm khoảng 2,2 lần, đây cũng là
con số cho thấy một sự tiến bộ đáng kể trong chủ trương đẩy mạnh TTKDTM.
Bảng 1: Tỷ lệ tiền mặt trong nền kinh tế qua một số năm
ĐVT: (%)
STT
Năm
Năm Tỷ lệ thanh toán bằng tiền
mặt/tổng phương diện thanh toán

Mức độ thay đổi

1
1998
32
-
2
2002
23,7
-26,0

3
2006
17,2
-27,5
4
2010
14
-18,7

Nguồn: Báo cáo của Hiệp hội thẻ Ngân hàng Việt Nam
Số liệu của Bảng 1 cho thấy, tuy thanh toán bằng tiền mặt vẫn chiếm tỷ lệ cao so
với nhiều nước trong khu vực như Trung Quốc khoảng 9,7%, Thái Lan khoảng
6,3% nhưng đã có sự cải thiện đáng kể so với trước đây. Tỷ lệ thanh toán tiền
mặt giảm đồng nghĩa với tỷ lệ sử dụng các phương tiện TTKDTM ngày càng
được phổ biến, điển hình nhất là sử dụng công cụ Thẻ thanh toán ngân hàng. Có
thể nói rằng trong khoảng 5 năm trở lại đây, sử dụng thanh toán bằng thẻ ngân
hàng đang trở thành “điểm nhấn” chủ yếu trong công tác triển khai hoạt động
TTKDTM trong nền kinh tế nước ta. Sự phát triển của công cụ thẻ thanh toán đã
tạo ra một hiệu ứng tích cực cho cộng đồng dân cư trong việc sử dụng dịch vụ
ngân hàng - tài chính, tăng tỷ lệ người dân sử dụng dịch vụ ngân hàng - tài chính
chiếm khoảng trên dưới 25% dân số tính đến giữa năm 2011. Thẻ thanh toán
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chủ trương của chính
phủ về việc đẩy mạnh TTKDTM, cho dù do yếu tố lịch sử, thì hoạt động thanh
toán thẻ tại Việt Nam đang còn rất non trẻ, chỉ với gần 20 năm tuổi. Trong
những năm đầu triển khai khoảng những năm 1991-1992, các ngân hàng thương
mại (NHTM) đi tiên phong về dịch vụ thẻ tại Việt Nam như Vietcombank, ACB
Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 9

mới chỉ thực hiện vai trò là đại lý thanh toán thẻ quốc tế cho các ngân hàng nước

ngoài là thành viên của các tổ chức thẻ quốc tế (TCTQT) như Visa và
MasterCard. Phải đến năm 1996 - 1997, một số NHTM của Việt Nam mới chính
thức trở thành thành viên chính thức của các TCTQT MasterCard và Visa, thiết
lập hệ thống nối mạng trực tiếp với các TCTQT đó để song song thực hiện dịch
vụ thanh toán và phát hành thẻ quốc tế.Trong giai đoạn 1996 - 2001, tuy đã có
một số ngân hàng là thành viên của Visa/Master nhưng nhìn chung, thị trường
thẻ Việt Nam còn hết sức sơ khai, nhận thức của người dân về thanh toán thẻ và
các phương tiện TTKDTM còn hạn chế nên các sản phẩm thẻ chủ yếu chỉ đáp
ứng nhu cầu của tầng lớp dân cư có thu nhập cao và phần lớn chỉ được sử dụng
khi mua sắm hàng hoá dịch vụ ở nước ngoài. Bắt đầu từ khoảng năm 2002, trên
nền tảng hệ thống ngân hàng “lõi” (core banking) mới hiện đại được các NHTM
đầu tư nâng cấp, các NHTM đã lần lượt triển khai các ứng dụng cụ thể, trong đó
nổi bật lên là những sản phẩm thẻ ghi nợ nội địa lần đầu tiên được phát hành tại
Việt Nam như Connect24 của Vietcombank, F@stAccess của Techcombank, thẻ
đa năng của Ngân hàng Đông Á và cùng với đó là việc Vietcombank triển khai
hệ thống giao dịch ATM dựa trên nền tảng kết nối trực tuyến toàn hệ thống, thị
trường thẻ Việt Nam bắt đầu thực sự có bước đột phá quan trọng. Theo sau đó,
nhiều NHTM khác cũng đã tích cực đầu tư hệ thống công nghệ phục vụ cho phát
triển sản phẩm thẻ ghi nợ nội địa. Nhờ đó, người dân đã bắt đầu biết đến và làm
quen với một phương tiện thanh toán tiện lợi, nhanh gọn, dễ đăng ký, dễ sử dụng
hoạt động dựa trên cơ sở tài khoản cá nhân. Điều này đã giúp cho công cụ thanh
toán thẻ có chỗ đứng rất quan trọng trong hoạt động TTKDTM của khu vực dân
cư tại Việt Nam hiện nay.
2.2. Thực trạng hoạt động phát hành thẻ thanh toán của các NHTM Việt
Nam 2006-2011
Có thể nói trong khoảng hơn 5 năm trở lại đây, thị trường thẻ ViệtNam đã
có sự phát triển vượt bậc cả về hoạt động thanh toán và phát hànhthẻ, số lượng
các ngân hàng tham gia cung ứng dịch vụ thẻ ngày càng giatăng với việc cho ra
Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 10


đời hàng loạt các sản phẩm thẻ hiện đại, nhiều tính năng, tiện ích đáp ứng yêu
cầu của khách hàng.
2.2.2. Hoạt động phát hành thẻ
Về số lượng thẻ: Nếu như năm 2006, toàn thị trường mới có khoảng gần
5,1 triệu thẻ và khoảng 70 thương hiệu thẻ các loại thì đến 30/6/2011,con số đó
đã lên tới hơn 36,63 triệu thẻ, cao gấp 7 lần so với năm 2006, một mức tăng
trưởng rất lớn, trong đó, hơn 89% là thẻ ghi nợ nội địa (32,4 triệu thẻ) (Xem
bảng 2). Cùng với 32,4 triệu thẻ ghi nợ nội địa là sự góp mặt của 20 triệu khách
hàng mở tài khoản và đang sử dụng thẻ với số dư bình quân khoảng 1,5 triệu
VND/tài khoản, hoạt động phát triển thẻ ghi nợ nội địa đã góp phần mang lại
nguồn vốn huy động từ dân cư là 30.000 tỷ VND. Đây là một đóng góp đáng kể
đối với hoạt động huy động vốn của các NHTM, đặc biệt là trong tình hình huy
động vốn dân cư khó khăn như vừa qua.

Bảng 2: Số lượng thẻ phát hành và số Ngân hàng phát hành thẻ 2006-2011
STT
Năm
Số ngân hàng phát
hành thẻ (Lũy kế)
Số thương hiệu thẻ
(Lũy kế)
Tổng số thẻ phát
hành (Triệu thẻ
lũy kế)
1
2006
17
70
5,1

2
2007
22
95
9,34
3
2008
25
160
15,03
Nguồn: Báo cáo của Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam

Song song với quá trình phát hành các loại thẻ nội địa chủ yếu giao dịch
tại hệ thống ATM, dịch vụ phát hành thanh toán thẻ quốc tế đã được các ngân
hàng quan tâm thực hiện, trong đó tiên phong trong lĩnh vực triển khai phát hành
và thanh toán thẻ quốc tế phải kể đến Vietcombank, Vietinbank, Techcombank,
ACB, Sacombank Đến 30/6/2011, tổng số thẻ quốc tế đạt trên 2,2 triệu thẻ,
trong đó có hơn 1,35 triệu thẻ ghi nợ quốc tế và hơn 800 nghìn thẻ tín dụng quốc
Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 11

tế. Thẻ trả trước cũng đã xuất hiện trong một vài năm gần đây với kết quả tính
đến tháng 6/2011 là gần 1,03 triệu thẻ, chiếm 2,8% tổng số thẻ toàn thị trường.
(Xem biểu đồ1)
Biểu đồ 1: Thị phần phát hành thẻ của một số Ngân hàng điển hình đến
30/6/2011.
Thị phần thẻ nội địa Thị phần thẻ quốc tế


Nguồn: NHNN và Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam


2.2.3. Hoạt động phát triển hệ thống thanh toán thẻ
Trong hoạt động thẻ, việc phát hành (Issuing) thường phải gắn liền với
quá trình mở rộng mạng lưới chấp nhận thanh toán thẻ (Accquring). Trong
những năm gần đây, hoạt động mở rộng hệ thống ATM và đơn vị Thị phần thẻ
nội địa, thị phần thẻ Quốc tế chấp nhận thanh toán thẻ - POS (ĐVCNT) đã có sự
tăng trưởng đáng kể,nhất là giai đoạn 2006 – 2011.
Có thể nói hoạt động phát triển hệ thống ATM và POS phục vụ các hoạt
động thanh toán thẻ đã được các ngân hàng quan tâm phát triển cả về số lượng
lẫn chất lượng, tuy đây là lĩnh vực đầu tư lớn, tốn kém cả chi phí đầu tư và vận
hành hệ thống nhưng số lượng đầu tư đã liên tục có sự tăng trưởng vì thế đã tạo
điều kiện rất tốt cho các hoạt động thanh toán thẻ được phát triển góp phần cải
Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 12

thiện tỷ lệ đáng kể hoạt động TTKDTM trong nền kinh tế. Các ngân hàng
NHTMCP lớn như Techcombank, Đông Á, Sacombank là những ngân hàng đã
rất nỗ lực và tích cực trong việc triển khai hệ thống ATM và POS: (Xem bảng
3).
Bảng 3: Mức độ phát triển hệ thống ATM/POS 2006-2011
STT
Năm
ATM
POS
Số lượng
(Lũy kế)
%Tăng so
với năm N-1
Số lượng
(Lũy kế)

%Tăng so
với năm N-1
1
2006
3000
-
11000
-
2
2007
4596
53
19616
78
3
2008
7480
62,7
26930
37,2
4
2009
9723
29,9
36620
35,9
5
2010
11696
20,2

53952
47,3
6
30/06/2011
12811
10
63405
17
Nguồn: Báo các của Hiệp hội thẻ Ngân hàng Việt Nam

Về phát triển mạng lưới ATM: Ngoài việc cung cấp các dịch vụ cơ bản
như rút tiền mặt, chuyển khoản, các ngân hàng còn chủ động nghiên cứu và triển
khai nhiều tính năng gia tăng trên hệ thống ATM như thanh toán hoá đơn dịch
vụ (điện, nước, viễn thông, bảo hiểm ), góp phần mang lại tiện ích cho khách
hàng và qua đó giúp giảm thiểu việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán.
Về phát triển mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ - POS: nếu năm 2006,cả thị
trường mới có hơn 11.000 POS thì đến 30/6/2011, con số đó đã lên tới hơn
63.000 POS, tăng gần 6 lần. Bên cạnh việc gia tăng về số lượng POS, các ngân
hàng đã rất tích cực trong việc mở rộng phạm vi ngành hàng phối hợp lắp đặt
mạng lưới chấp nhận thẻ, trong đó chú trọng các ngành kinh doanh bán lẻ, các
đơn vị cung ứng dịch vụ hàng ngày như dịch vụ taxi, dịch vụ bán vé tàu hoả,
Điểm nhấn đáng kể của công tác phát triển mở rộng mạng lưới chấp nhận thanh
toán thẻ trong 3 năm gần đây chính là hoạt động hợp tác kết nối mạng lưới
Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 13

ATM, POS. Trong thực tế, ngay từ khi triển khai hoạt động phát hành và thanh
toán thẻ, nói chung, các ngân hàng đều ý thức được tầm quan trọng của hoạt
động kết nối liên thông, tận dụng cơ sở hạ tầng để nâng cao hiệu quả của hoạt
động đầu tư.

Ngay từ những năm 2004 - 2005, liên minh thẻ do Vietcombank và 11
ngân hàng cổ phần và liên doanh đã chính thức đi vào hoạt động liên thông thẻ
thông qua sự bảo trợ của Vietcombank để hình thành và xây dựng công ty
chuyển mạch thẻ Smartlink hiện nay. Sau đó, tổchức BanknetVn đã ra đời với
mục tiêu xây dựng một hệ thống chuyển mạch tài chính quốc gia nhằm kết nối
các hệ thống thanh toán thẻ nói chung, hệthống ATM/POS nói riêng của các
ngân hàng Việt Nam, có sự tham gia của các ngân hàng lớn như BIDV,
Vietinbank, Agribank
Từ năm 2008, thực hiện chỉ đạo của NHNN về việc kết nối với các tổ
chức chuyển mạch thẻnhằm tạo ra mạng lưới chấp nhận thẻ thống nhất trên toàn
quốc, các ngân hàng Việt Nam đã cùng với các công ty chuyển mạch như
Smartlink, BanknetVn và VNBC liên tục mở rộng việc kết nối. Mạng lưới ATM
đến nay gần như cơ bản đã liên thông toàn thị trường, chủ thẻ của các ngân hàng
đã có thể thực hiện các giao dịch trên ATM của các ngân hàng khác và ngược lại
một cách dễ dàng, thuận lợi với mức phí rất hợp lý. Tiếp sau sự thành công của
kết nối mạng lưới ATM, bắt đầu từ tháng 10/2010, NHNN đã chỉ đạo và phối
hợp với các ngân hàng, các công ty chuyển mạch mở rộng kết nối mạng POS
trên địa bàn thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Việc chia
sẻ mạng lưới và đẩy mạnh kết nối liên thông hệ thống ATM, POS không chỉ góp
phần gia tăng thuận tiện cho chủ thẻ của các NHTM mà còn góp phần nâng cao
hiệu quả cho hoạt động thẻ của các NHTM, tiết kiệm chi phí đầu tư cho mỗi
ngân hàng và cho toàn xã hội, cũng như giúp hạn chế lượng tiền mặt lưu thông
trong nền kinh tế, qua đó thúc đẩy hoạt động TTKDTM
Với các nỗ lực mở rộng mạng lưới trên, doanh số thanh toán thẻ của các
NHTM đã không ngừng gia tăng qua các năm. Nếu năm 2006, doanh số thanh
Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 14

toán thẻ quốc tế của toàn thị trường mới chỉ đạt hơn 470 triệu USD thì năm
2010, toàn thị trường đạt gần 1.500 triệu USD, tăng gần 300% chỉ trong vòng 5

năm. Đến nay, mạng lưới thanh toán thẻ tại Việt Nam đã sẵn sang chấp nhận
thanh toán các thẻ mang thương hiệu Visa, MasterCard, American Express,
JCB, Diners Club, CUP và DiscoverCard, là các thương hiệu thẻ hàng đầu và
phổ biến nhất trên thế giới hiện nay. Đối với hoạt động thanh toán thẻ nội địa,
thời gian gần đây, các ngân hàng đã chú trọng đầu tư và tích cực mở rộng mạng
lưới ĐVCNT nội địa, trong đó chú trọng các ĐVCNT trong các lĩnh vực kinh
doanh nhà hàng, khách sạn, trung tâm thương mại, siêu thị, nhằm tạo cơ sở
thuận lợi và dễ dàng cho khách hàng sử dụng thẻ ghi nợ nội địa để thanh toán
hàng hoá, dịch vụ. Một số dịch vụ tiện ích thanh toán cá nhân hàng ngày như
taxi, mua vé tàu hoả, vé máy bay cũng bắt đầu được một số ngân hàng hợp tác
với đơn vị cung cấp dịch vụ cho phép thanh toán bằng thẻ ghi nợ nội địa.Với lợi
thế đặc thù xuất phát từ tính chất phổ biến rộng rãi (hơn 32,4 triệu chủ thẻ ghi
nợ nội địa), đơn giản, dễ sử dụng của loại hình thẻ ghi nợ nội địa, dịch vụ thanh
toán thẻ ghi nợ nội địa đang thể hiện các đóng góp quan trọng trong việc tạo thói
quen và nâng cao nhận thức của người dân về phương tiện thanh toán thẻ hiện
đại, qua đó góp phần đẩy mạnh hoạt động TTKDTM trong dân cư. Riêng trong
sáu tháng đầu năm 2011, doanh số thanh toán thẻ nội địa tại các ĐVCNT đã hơn
1.300 tỷ VND, tăng trưởng khoảng 150% so với cùng kỳ năm ngoái.
2.3. Một số thuận lợi, khó khăn và thách thức trong việc phát triển thị
trường thẻ thanh toán
2.3.1. Những thuận lợi của công tác triển khai thẻ thanh toán
Phải nói rằng, dịch vụ thẻ thanh toán tại nước ta cũng như dịch vụ
TTKDTM nói chung đang có rất nhiều điểm thuận lợi để phát triển một cách
mạnh mẽ, đặc biệt những đặc điểm sau đây là sự minh chứng cho điều này:
Thứ nhất, thực tế cho thấy đối tượng phát hành thẻ của các ngân hàng chủ
yếu là trong độ tuổi lao động và cư dân đô thị. Theo báo cáo của cácTCTQT và
các báo cáo có tên tuổi, đất nước ta có dân số rất trẻ, số người trong độ tuổi lao
Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 15


động chiếm gần 50 triệu người. Nền kinh tế sau nhiều năm tăng trưởng khá đã
tạo điều kiện cho thu nhập quốc dân đầu người ở nước ta vượt qua ngưỡng trung
bình >1000 USD/người. Trong đó tầng lớp trung lưu ngày càng tăng lên đáng kể
và đặc biệt cư dân đô thị tăng lên rất nhanh cùng với quá trình đô thị hoá của
nền kinh tế - đây là đối tượng rất tiềm năng cho hoạt động triển khai các dịch vụ
ngân hàng - tài chính cao cấp như như thẻ tín dụng, thẻ thông minh Biểu đồ
tốc độ đi thị hoá và tỷ lệ người dân trong độ tuổi lao động tăng nhanh và dự
đoán các phân hoá mạnh trong tương lai với xu hướng cư dân đô thị ngày càng
tăng lên. Điều này đồng nghĩa với tiềm năng cung cấp các dịch vụ TTKDTM
như thẻ thanh toán sẽ nhiều tiềm năng hơn.(Xem biểu đồ 2)

Biểu đồ 2: Phân bổ dân số theo khu vực vực theo độ tuổi của Việt Nam


Nguồn: United Nations Population Division

Thứ hai, các chính sách của Chính phủ và NHNN trong thời gian vừa qua
đã có những tác động tích cực và đáng kể cho việc mở rộng triển khai hoạt động
TTKDTM. Cụ thể, có hai chính sách được đánh giá cao trong việc tạo điều kiện
Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 16

cho hoạt động phát hành và thanh toán thẻ là Quyết định số 291/2006/QĐ-TTg
ngày 29/12/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Thanh toán
không dùng tiền mặt giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020. Đây là
một văn bản quan trọng, khẳng định quyết tâm và định hướng của Chính phủ
trong việc đẩy mạnh TTKDTM, hạn chế tiền mặt trong lưu thông, hướng tới một
hệ thống thanh toán hiện đại, an toàn và hiệu quả, phù hợp với xu hướng phát
triển của khu vực cũng như thế giới trong quá trình hội nhập quốc tế. Tiếp sau
đó, để góp phần cụ thể hoá việc triển khai Đề án, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị

số 20/2007/CT-TTg ngày 24/8/2007 về việc trả lương qua tài khoản cho các đối
tượng hưởng lương NSNN. Song song với Quyết định này, NHNN đã ban hành
Chỉ thị 05/2007/CT-NHNN ngày 11/10/2007 hướng dẫn thực hiện đã góp phần
hỗ trợ đáng kể cho các ngân hàng trong việc đẩy mạnh hoạt động trả lương qua
tài khoản tại các NHTM. Bên cạnh đó, thông qua các chỉ đạo điều hành khác,
các hoạt động TTKDTM khác cũng được quan tâm thực hiện tạo điều kiện cơ
bản cho thị trường phát triển. Theo số liệu phân tích của MCI thì sau khi có các
chỉ đạo nêu trên, số thẻ ghi nợ nội địa đã tăng khoảng 75%/năm so với mức độ
tăng chỉ khoảng 25% của thẻ tín dụng. (Xem biểu đồ 3)











Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 17

Biểu đồ 3: Ảnh hưởng của chính sách chính phủ đối với hoạt động phát
hành thẻ Ghi nợ nội địa:

Nguồn: Master Card International-Report 2010

Thứ ba, sản phẩm thẻ thanh toán và dịch vụ đại lý thanh toán thẻ được
hầu hết các ngân hàng quan tâm phát triển. Đa số các ngân hàng kể cả ngân hàng

nội địa và cả ngân hàng 100% vốn nước ngoài đều coi thị trường thẻ là sản
phẩm chủ lực, cốt lõi trong dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Con số hơn 80% các ngân
hàng Việt Nam phát hành thẻ đã cho thấy điều này. (Xem biểu đồ 4)






Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 18

Biểu đồ 4, Số ngân hàng tham gia phát hành và thanh toán thẻ tiếp tục gia
tăng qua từng năm:


Nguồn: Báo cáo hàng năm của Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam

Thứ tư, sự quan tâm hưởng ứng của các đơn vị, cơ quan và người dânđối
với dịch vụ thẻ đã có sự gia tăng và cải thiện rất đáng kể. Nhờ sự tuyên truyền
hiệu quả của các ngân hàng và sự hỗ trợ của các cơ quan truyền thông, sản phẩm
thẻ có vẻ như ngày càng được “bình dân hoá” và đang dần trở thành công cụ
thanh toán và rút tiền quen thuộc của nhiều người dân. Đặc biệt là sự quan tâm
hưởng ứng của các đơn vị hưởng lương ngân sách thông qua tài khoản và thẻ
ngày càng tăng lên nhanh chóng. (Xem bảng 4)
Bảng 4: Số đơn vị hưởng lương Ngân sách trả lương qua tài khoản
STT
Chỉ tiêu
12/2008
12/2009

12/2010
1
Số đơn vị hưởng lương
từ NSNN trên toàn quốc

73.277
78.073
81.690
2
Số đơn vị hưởng lương
NSNN đã trả lương qua
tài khoản
20.838
32,131
43,953
Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 19


3
Tỷ lệ (%)
28,4
41,1
54

Nguồn: Tạp chí Ngân hàng số 2-3/2011

2.3.2. Một số khó khăn của hoạt động phát hành và thanh toán thẻ.
Tuy đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ và có những thuận lợiđáng
kể như trên nhưng không có nghĩa là hoạt động thẻ nói riêng cũng như hoạt

động phát triển TTKDTM nói chung hoàn toàn “màu hồng”, thậm chí hoạt động
này vẫn gặp rất nhiều khó khăn, chưa tương xứng với tiềm năng cũng như kỳ
vọng do các nguyên nhân sau đây:
Một là, cho đến nay, tuy đã có nhiều sự quan tâm nhưng cơ bản nướcta
vẫn chưa có các chính sách nhằm tạo bước đột phá đối với dịch vụ thanh toán
thẻ như:
- Quy định về các loại hình kinh doanh bắt buộc phải chấp nhận thanh toán
qua thẻ;
- Chính sách giảm thuế/hoàn thuế cho các giao dịch thanh toán bằng thẻ;
- Chính sách miễn/giảm thuế nhập khẩu đối với thiết bị thanh toán thẻ
EDC, ATM, phôi thẻ, phần mềm thẻ hay như việc các cơ quan quản lý
nhà nước cũng chưa có chính sách hiệu quả nhằm hạn chế việc sử dụng
tiền mặt để mua sắm hàng hoá, dịch vụ, từ đó từng bước hiện thực hoá
hiệu quả hơn việc thực hiện định hướng TTKDTM của Chính phủ.
Hai là, mặc dù thời gian qua, NHNN đã triển khai một số chươngtrình
mang tính định hướng thị trường nhằm mục tiêu thúc đẩy phát triển mạng lưới
POS thẻ nội địa, tuy nhiên, việc mở rộng mạng lưới chấp nhận thẻ nội địa vẫn
gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại. Do phần lớn khách hàng sửdụng thẻ nội địa là
người Việt Nam, vốn quá quen với việc sử dụng tiền mặt và lại luôn có sẵn tiền
mặt cũng như dễ dàng tiếp cận với nguồn tiền mặt rất lớn tại các hệ thống máy
ATM (theo tính toán của Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam là hơn 550.000 tỷ/năm),
Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 20

nên việc sử dụng các phương tiện thanh toán phi tiền mặt, trong đó có thẻ, nhìn
chung còn nhiều hạn chế. Đây là lý do chính khiến việc phát triển mạng lưới
POS cho thẻ nội địa, thu hút khách hàng sử dụng thẻ ghi nợ nội địa để thanh
toán hàng hoá, dịch vụ chưa thu được kết quả như mong đợi.
Ba là, do đặc điểm chung và yếu tố lịch sử, nhiều đơn vị kinh doanhkhông
muốn chấp nhận thẻ do phải trả phí cho ngân hàng. Đồng thời, việc thanh toán

thẻ đồng nghĩa với việc phải công khai doanh thu nên không phù hợp cho nhiều
đơn vị kinh doanh chưa muốn sự minh bạch hoặc tránh thuế. Cũng vì thế, ngay
cả với một số ĐVCNT, dù đã ký hợp đồng chấp nhận thẻvới ngân hàng, nhưng
vẫn tìm nhiều cách hạn chế giao dịch bằng thẻ của khách hàng như để máy cà
thẻ vào nơi khuất, gợi ý và ưu tiên cho khách hàng trả tiền mặt, thậm chí còn thu
thêm phụ phí đối với khách hàng thanh toán bằng thẻ để hạn chế việc khách
hàng yêu cầu chấp nhận thanh toán thẻ.
Bốn là, hiện nay, nhiều ngân hàng vẫn chỉ tập trung vào một nhóm
cácĐVCNT nhất định mà không nghiên cứu mở rộng, phát triển các đơn vị mới,
dẫn đến tình trạng một ĐVCNT có nhiều POS, kéo theo tỷ lệ sử dụng POS
không cao, đồng thời gây lãng phí nguồn lực đầu tư chung cho toàn hệthống.
Năm là, sự gia tăng của các loại tội phạm thẻ đang đe dọa đến vấn đềđảm
bảo an ninh, an toàn cho hoạt động kinh doanh thẻ, qua đó, gây áp lực lớn cho
việc bảo vệ quyền lợi của khách hàng cũng như của ngân hàng. Bên cạnh các
loại tội phạm công nghệ cao với các hành vi như gắn thiết bị đánhcắp dữ liệu thẻ
tại ATM, gian lận, thông đồng với các ĐVCNT , thì gần đây, còn xuất hiện và
gia tăng loại tội phạm với các hành vi phá hoại trắng trợn, liều lĩnh nhằm ăn cắp
tiền tại các máy ATM. Cùng với đó, rủi ro gia tăng trong loại hình giao dịch
thanh toán trực tuyến qua internet đang là các thách thức lớn trong quá trình đẩy
mạnh hoạt động thanh toán thẻ xét từ phía khách hàng sử dụng thẻ cũng như từ
phía ĐVCNT.
2.4. Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động TTKDTM thông qua dịch vụ thẻ
thanh toán tại ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới
Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 21

2.4.1. Về phía các cơ quan quản lý nhà nước
Thứ nhất, để đẩy mạnh việc triển khai TTKDTM, cụthể trong phạm vi đề
cập của bài nghiên cứu này là hoạt động thanh toán thẻ, Nhà nước cần sớm ban
hành và áp dụng chính sách hỗ trợ tài chính cụ thể(miễn/giảm/hoàn thuế đối với

phần doanh thu phát sinh từ hoạt động thanh toán thẻ, đối với phần thu nhập cá
nhân phát sinh từ hoạt động chấp nhận thanh toán thẻ ) để từ đó khuyến khích
hơn nữa người dân và doanh nghiệp thực hiện thanh toán bằng thẻ với các giao
dịch kinh tế/dân sự qua hệ thống các ngân hàng. Song song với chính sách đó,
Nhà nước cũng có thể xem xét miễn giảm thuế nhập khẩu máy móc thiết bị chấp
nhận thẻ; nghiên cứu và cho phép các ngân hàng áp dụng chế độ thu phí hợp lý
nhằm bù đắp được chi phí đầu tư cho mạng lưới chấp nhận thẻ, đặc biệt là cần
áp dụng chủ trương tăng phí rút tiền mặt nhằm góp phần hạn chế lượng tiền mặt
trong lưu thông. Tỷ lệ hỗ trợ/miễn giảm cụ thể như thế nào, NHNN, Bộ Tài
chính có thể phối hợp với các bên liên quan đề xuất chủ trương để vừa đảm bảo
hài hòa cân bằng thu chi ngân sách và khuyến khích được thị trường thẻ phát
triển, tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động thanh toán và minh bạch hoá dần
dần hoạt động kinh doanh nói chung.
Thứ hai, NHNN cần tiếp tục đẩy nhanh việc kết nối liên thông mạng lưới
các ĐVCNT để tạo thuận lợi cho hoạt động thanh toán qua POS bằng thẻ nội địa
trên diện rộng (không chỉ dừng lại ở phạm vi như hiện nay) trên khắp cả nước.
Đồng thời, có thể xem xét làm việc với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Công
thương để nghiên cứu áp dụng quy định bắt buộc chấp nhận thanh toán thẻ đối
với các doanh nghiệp trong một số ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh như kinh
doanh bán lẻ, du lịch, thương mại trong giai đoạn trước mắt và sau đó, tiếp tục
mở rộng ra đối với tất cả các đơn vị cung ứng hàng hoá, dịch vụ, tạo cơ sở phát
triển mạng lưới ĐVCNT tương tự như Hàn Quốc và một số quốc gia phát triển
khác đã làm.
Thứ ba, NHNN cần phối hợp với Hiệp hội Ngân hàng thực thi các biện
pháp (có thể áp dụng chế tài) giảm thiểu các hành vi cạnh tranh không lành
Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 22

mạnh giữa các ngân hàng trong việc phát triển mạng lưới ĐVCNT, đặc biệt là
biện pháp cạnh tranh giảm/miễn phí chiết khấu ĐVCNT gây rối loạn thị trường.

Áp dụng các quy định về việc cung cấp dịch vụ tiêu chuẩn phục vụ khách hàng
với mức phí hợp lý nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng đầu tư đẩy mạnh hoạt
động phát hành và thanh toán thẻ.
Thứ tư, NHNN làm đầu mối chuẩn hoá hoạt động thanh toán giữa ngân
hàng với khách hàng và giữa ngân hàng với ngân hàng: đây là giải pháp nhằm
tạo nền tảng cho việc ứng dụng cơ chế xử lý tự động các giao dịch thanh toán,
tăng tốc độ xử lý giao dịch và qua đó giảm chi phí. Chuẩn hoá này cần được
thực hiện từ khâu mẫu biểu, quy trình, cơ chế xử lý giữa các ngân hàng song
song với ban hành tiêu chuẩn về các trang thiết bị(ATM, POS), tiêu chuẩn phần
mềm, các thiết bị hỗ trợ theo tiêu chuẩn quốc gia, điều này rất quan trọng, sẽ
phù hợp cho việc đẩy nhanh các hoạt động liên thông kết nối giữa các đơn vị
chuyển mạch, giúp cho các ngân hàng có quyền tự chủ trong việc lựa chọn gia
nhập các tổ chức chuyển mạch miễn là các trang thiết bị và cơ sở hạ tầng phải
đảm bảo tiêu chuẩn thống nhất. Việckết nối liên thông các hệ thống các công ty
chuyển mạch thành một hệ thống thanh toán chung sẽ giúp hướng các ngân hàng
thu hẹp dần các kênh thanh toán song phương, qua đó giảm bớt rủi ro và gia
tăng tính tiện lợi trong việc xử lý các giao dịch thanh toán.
Thứ năm, NHNN cần chỉ đạo các ngân hàng, tổ chức chuyển mạchtiếp tục
tăng cường hợp tác với các TCTQT, các tổ chức thanh toán toàn cầu, các tổ
chức cung ứng giải pháp thanh toán, các hiệp hội ngân hàng trong khu vực và
trên thế giới để học hỏi kinh nghiệm và nâng cao trình độ, bắt kịp xu hướng phát
triển các phương tiện thanh toán tiên tiến, hiện đại trên thế giới, ứng dụng vào
Việt Nam một cách hiệu quả. Đồng thời cũng có các tác động phù hợp đến các
TCTQT trong việc áp dụng các mức phí xử lý giao dịch phù hợp với đặc điểm
thị trường Việt Nam, bảo vệ lợi ích của các ngân hàng và khách hàng Việt Nam
trong quá trình sử dụng dịch vụ thẻ thanh toán quốc tế.
2.4.2. Về phía các ngân hàng thương mại
Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 23


Đối với các NHTM dù đã có nhiều nỗ lực, cố gắng trong thời gian
vừaqua, tuy nhiên, trong thực tế, kết quả đạt được chưa như kỳ vọng của người
dân và cơ quan quản lý, để tiếp tục phát triển lành mạnh các công cụ không
dùng tiền mặt, các ngân hàng cần quan tâm đến các nội dung sau đây:
- Các ngân hàng cần tăng cường đầu tư công nghệ, đặc biệt là các thiết bị thẻ và
mở rộng mạng lưới ĐVCNT, đảm bảo hệ thống vận hành thông suốt, an toàn
cũng như tiếp tục nghiên cứu phát triển sản phẩm thẻ và các dịch vụ gia tăng
mang lại tiện ích thiết thực cho khách hàng, gia tăng nguồn thu cho các ngân
hàng. Ngoài ra, các hoạt động thẻ cần tập trung hướng vào khách hàng, cung cấp
các dịch vụ tiện ích và thuận lợi nhất cho khách hàng, từ đó, tác động dần vào
các thói quen sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại. Từng bước giảm
thói quen dùng tiền mặt khá phổ biến của người dân Việt Nam.
- Các ngân hàng cần tiếp tục đẩy mạnh công tác quản lý rủi ro trong hoạt động
thanh toán thẻ cũng như thanh toán điện tử, bảo vệ quyền lợi của ngân hàng và
của khách hàng, tạo niềm tin đối với các phương tiện/kênh thanh toán hiện đại.
Ngoài ra, các ngân hàng cung ứng dịch vụ thanh toánthẻ cũng cần chú trọng
nâng cao chất lượng dịch vụ sau bán hàng như dịch vụ giải quyết tra soát khiếu
nại, hỗ trợ giải đáp thắc mắc, liên quan đến các giao dịch thanh toán thẻ/điện
tử của khách hàng, bao gồm khách hàng sửdụng thẻ và các ĐVCNT.
- Các ngân hàng cần tích cực đầu tư mở rộng liên kết hợp tác trong thanh toán
thẻ thông qua việc triển khai toàn diện hoạt động kết nối các hệthống thẻ để khai
thác tận dụng tối đa nguồn lực đầu tư đồng thời tang cường dịch vụ phục vụ
khách hàng sử dụng thẻ. Tích cực làm việc với các nhà cung cấp dịch vụ thiết
yếu như điện, nước, điện thoại để mở rộng việc chấp nhận thanh toán các phí
giao dịch cơ bản hàng ngày thông qua thẻ và thông qua ATM để nâng cao giá trị
và tiện ích của thẻ để chủ thẻ có điều kiện thuận lợi hơn trong sử dụng thẻ.
- Ngoài ra, việc tăng cường công tác thông tin tuyên truyền ủng hộhoạt động
thanh toán thẻ/thanh toán điện tử, phổ biến kiến thức cho các tầng lớp dân cư về
tiện ích, tính năng của phương tiện thanh toán thẻ, cổ vũ khách hàng sử dụng các
Chuyên đề môn học

SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 24

phương tiện thanh toán hiện đại trong thanh toán hàng hoá, dịch vụ, song song
với việc cập nhật các rủi ro trong thanh toán điện tử đểkhách hàng hiểu biết về
dịch vụ, hạn chế được rủi ro từ đó yên tâm sử dụng dịch vụ cũng là một yêu cầu
rất quan trọng cần đến sự phối hợp tích cực và thường xuyên từ hai phía, các cơ
quan quản lý vĩ mô và các ngân hàng cung ứng dịch vụ thanh toán vì mục tiêu
thúc đẩy thanh toán thẻ/thanh toán điện tử phát triển.
Trên đây là một số đánh giá, nhìn nhận về quá trình phát triển công
cụTTKDTM điển hình là thẻ thanh toán ngân hàng, các giải pháp đưa ra đã được
nêu như ở trên là dựa trên các đánh giá thực tế mà việc phát triển dịchvụ này
đang gặp phải. Giải pháp này mang tính gợi mở và việc áp dụng sẽ phải căn cứ
vào thực tế của thời điểm và điều kiện cụ thể của từng ngân hàng thương mại.


















Chuyên đề môn học
SVTH: Phạm Thị Thanh - Lớp DHTN7TH Page 25

CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ MÔN HỌC

3.1.Giảng dạy và đánh giá học phần.
Tài chính-Tiền tệ P1 là bộ môn gồm 2 tín chỉ bao chọn trong 30 tiết học, vì
thế lượng kiến thức tiếp thu trên lớp còn hạn chế, sinh viên chưa nắm rõ được
nhiều vấn đề.
Thời gian học tập trên lớp ít, sinh viên phải tự tìm hiểu và học tập ở nhà
nhiều hơn. Đó là một hạn chế vì còn nhiều sinh viên chưa tìm hiểu, có nhiều tình
trạng sinh viên chỉ học đối phó với thầy cô, đối phó với thi cử chứ không phải
hoàn toàn tự tìm hiểu vấn đề.
Lượng kiến thức giảng viên cần truyền đạt quá nhiều trong khi thời gian
trên lớp có hạn nên cần rút bớt, loại bỏ những vấn đề không cần thiết, lựa chọn
những nội dung trọng điểm để sinh viên tham gia và nghiên cứu.
3.2. Giáo trình, tài liệu học tập
Sinh viên được đáp ứng đầy đủ giáo trình và tài liệu học tập cơ bản nhất
có liên quan đến môn học.
Tuy nhiên, giảng viên cần nên giới thiệu thêm các giáo trình, website và
tài liệu tham khảo hữu ích khác đến sinh viên, để sinh viên của mình có thể tự
tìm hiểu, nghiên cứu, học hỏi những kiến thức mới, kiến thức mở rộng có liên
quan đến các phần, các chương trong môn học này.
Trong quá trình giảng dạy, giảng viên cũng nên soạn trước bài giảng của
bài học ngày hôm sau đưa cho sinh viên tự nghiên cứu tìm hiểu trước, như thế sẽ
tạo ra cách học chủ động cho sinh viên. Dĩ nhiên sinh viên có được sự chuẩn bị
bài bài tốt sẽ giúp cho giảng viên phấn chấn hơn khi giảng bài, sẽ có nhiều sự
tranh luận đối đáp mổ xẻ vấn đề bài học theo nhiều hướng hơn, tạo sự kích thích
cho cả thầy và trò trong tiết học đó.
3.3. Cơ sở vật chất

3.3.1. Thuận lợi

×