Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Thực trạng và giải pháp về việc sử dụng chứng khoán phái sinh ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.22 KB, 9 trang )

CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH
Bài thảo luận của nhóm 2 Cka_K10 xin nghiên cứu về chứng khoán phái sinh với nội
dung sau:
1. Khái niệm về chứng khoán phái sinh
2. Các loại chứng khoán phái sinh
3. Thực trạng và giải pháp về việc sử dụng chứng khoán phái sinh ở Việt Nam

Thành phần tham gia:
1. Đào Minh Hải
2. Nguyễn Thị Thu Hồng
3. Lê Thị Vinh
4. Nguyễn Thị Thu Thủy
5. Lê Thanh Nhung
6. Lê Thị Hồng
7. Lê Hữu Ba
8. Phan Nhật Thành
9. Nguyễn Thị Mai Phương
10.Nguyễn Thị Nghĩa
11.Ngô Thị Hoài


1
I.Chứng khoán phái sinh
Chứng khoán phái sinh là một loại chứng khoán được sinh ra từ một chứng khoán gốc và giá
cả của nó phụ thuộc vào giá cả của chứng khoán gốc.
hoặc có thể định nghĩa như sau:
Chứng khoán phái sinh là những hợp đồng tài chính, hay công cụ tài chính mà giá trị của nó
được xác định dựa vào giá trị của một công cụ khác, thường gọi là công cụ cơ sở (the
underlying).
Công cụ cơ sở có thể là: tài sản, bao gồm hàng hoá, cổ phiếu, trái phiếu, BĐS nhà ở thế chấp, bất
động sản thương mại, các khoản vay… Rổ tài sản: các loại bất động sản thế chấp hoặc là chỉ số:


lãi suất, tỉ giá, chứng khoán, giá tiêu dùng. Thậm chí là các công cụ phái sinh khác (ví dụ dòng
tiền của của một công cụ phái sinh phụ thuộc giá trị của công cụ cơ bản) hay các các loại khác.
Ví dụ: một hợp đồng quyền chọn mua 100 cổ phiếu của Nokia tại mức giá 50 EUR vào tháng
9-2006. Công cụ cơ sở là cổ phiếu Nokia. Một hợp đồng tương lai mua trái phiếu chính phủ Đức
thời hạn 10 năm trị giá 10 triệu EUR, công cụ cơ sở là trái phiếu chính phủ Đức.
II. Các loại chứng khoán phái sinh:
Có 4 loại chứng khoán phái sinh cơ bản là hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, quyền chọn
và hợp đồng hoán đổi.
(1) Hợp đồng tương lai là loại hợp đồng trong đó có sự thoả thuận giữa các bên ký hợp
đồng về những nghĩa vụ mua bán phải thực hiện theo mức giá đã được xác định cho
tương lai mà không phụ thuộc vào giá cả của thị trường tại thời điểm tương lai đó- Giá
cả và khối lượng giao dịch được xác định trước, nhưng thực hiện hợp đồng vào một thời
điểm trong tương lai.
- Hợp đồng tương lai là những sản phẩm do các sở giao dịch tạo ra. Là một thoả
thuận giữa một người mua hoặc bán với sở giao dịch. Trung tâm thanh toán của SGD
đóng vai trò là đối tác của tất cả hợp đồng, họ đưa ra yêu cầu về ký quỹ và quan trọng là
cũng cung cấp một cơ chế thanh toán.
- Các bên trong hợp đồng tương lai phải thực hiện hợp đồng vào ngày thanh toán. Để
thoát khỏi cam kết trước ngày thanh toán, các bên có thể bán (mua) một hợp đồng đối
ứng, để thoát khỏi vị thế và nghĩa vụ hợp đồng của mình.
2
- Vị thế mua (long position): người nắm giữ vị thế mua có nghĩa vụ mua tài sản cơ
sở theo giá đã thoả thuận vào ngày đáo hạn của hợp đồng.
- Vị thế bán (short position): người nắm giữ vị thế bán có nghĩa vụ bán tài sản cơ sở
theo giá đã thoả thuận vào ngày đáo hạn của hợp đồng.
- Hợp đồng tương lai là hợp đồng được tiêu chuẩn hóa, chỉ có giá là được thỏa thuận, mỗi hợp
đổng đều được quy định một số lượng hàng hóa nhất định (gọi là contract size),ngày giao hàng và
nơi giao hàng được ấn định cụ thể trên thị trường, không có sự đàm phán giữa hai bên tham gia
vào hợp đồng. Ngược lại,mọi đều khoản của hợp đồng kỳ hạn đều có thể được thỏa thuận, đàm
phán giữa hai bên.

- Hợp đồng tương lai được giao dịch trên các thị trường tương lai. Các bên có thể kết thúc
hoặc chấm dứt vị thế của mình một cách dễ dàng. Bên giữ thế trường vị (người mua) có thể kết
thúc vị thế của mình bằng cách bán lại hợp đồng tương lai với cùng loại hàng hóa và cùng ngày
giao hàng. Ngược lại,bên giữ thế đoản vị (người bán) cũng có thể kết thúc vị thế của mình bằng
cách mua một hợp đồng tương lai tương tự. Ngược lại, ngoài thị trường hợp đồng kỳ hạn lãi suất
và thị trường kỳ hạn ngoại tệ, hầu hết các thị trường kỳ hạn đều rất kém thanh khoản.
- Khả năng bị phá vỡ hợp đồng trong hợp đồng tương lai thấp hơn nhiều so với hợp đồng kỳ
hạn,thậm chí nó là con số 0. Các trung tâm thanh toán bù trừ (clearing house) sẽ đóng vai trò như
là một bên trung gian cho cả người bán và người mua.Nghĩa là,nếu Bên A muốn mua một hợp
đồng tương lai, anh ta có thể mua nó từ trung tâm thanh toán bù trừ;nếu bên B muốn bán một hợp
đồng tương lai, anh ta có thể bán nó cho trung tâm thanh toán bù trừ.Trung tâm thanh toán bù trừ
là một bên trong hợp đồng tương lai, nó luôn công bằng cho cả người bán và người mua theo
những qui tắc đã được đặt ra.
- Chỉ 1-5% số hợp đồng tương lai trên thị trường thực sự được giao dich (diễn ra việc giao
hàng giữa các bên), còn lại hầu như chỉ diễn ra sự thanh toán lãi lỗ giữa các bên. Ngược lại, hầu
hết mọi hợp đồng kỳ hạn đều diễn ra việc giao hàng thực sự giữa các bên.
- Hợp đồng tương lai được tái thanh toán hằng ngày, và được ấn định, ghi nhận trên thị
trường, nên các khoản lời lỗ được nhận biết hằng ngày. Còn hợp đồng kỳ hạn chỉ có thể nhận biết
rõ lời lỗ vào ngày giao hàng trong tương lai. Vì vậy, khả năng xuất hiện một khoản lỗ lớn vào
ngày giao hàng là rất cao, nên khả năng người bị lỗ sẽ tìm cách để phá vỡ hợp đồng cũng rất cao
à rủi ro phá vỡ hợp đồng kỳ hạn là cao hơn rất nhiều so với hợp đồng tương lai (hầu như là con số
0). Do đó, để tham gia vào các hợp đồng tương lai, cần có một khoản tiền ký quỹ trong tài khoản
và ấn định tới thị trường để đảm bảo việc tuân thủ hợp đồng giữa các bên.
Hoạt động giao dịch được thực hiện thông qua một tổ chức trung gian gọi là công ty thanh
toán bù trừ theo sơ đồ sau:
3
Tiền Tiền
Tài sản cơ sở Tài sản cơ sở
Mục đích: Nhằm giảm bớt rủi ro xảy ra do các biến cố có thể đẩy giá cả lên cao hoặc xuống
thấp trong tương lai.

Một số loại hợp đồng tương lai cơ bản: Hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán, hợp đồng
tương lai lãi suất, hợp đồng tương lai ngoại hối, hợp đồng tương lai nông sản, hợp đồng tương lai
kim loại và khoáng sản.
Ví dụ: Vào đầu năm 2008, công ty A ký với công ty B một hợp đồng tương lai mua 105 tấn cà
phê của công ty B với giá là p đồng/kg với thời điểm mua là cuối năm 2008. Đến đúng thời điểm
cuối năm 2008 như được quy định trong Hợp đồng, Công ty B phải bán cho công ty A 105 tấn cà
phê trên với giá p đồng/kg và công ty A phải mua 105 tấn cà phê với giá p như trên cho dù giá thị
trường của cà phê tại thời điểm đó là bao nhiêu.
(2) Hợp đồng kỳ hạn là loại hợp đồng trong đó có sự thoả thuận giữa các bên ký hợp đồng
về giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại một thời điểm xác định trong tương
lai với mức giá xác định vào thời điểm ký hợp đồng. Mức giá trong hợp đồng kỳ hạn có
thể thay đổi tại thời điểm giao nhận hàng hoá theo sự thoả thuận của các bên.
- Giá cả và khối lượng giao dịch được xác định trước, nhưng thực hiện hợp đồng vào một thời
điểm trong tương lai.
- Chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết, giá cả do hai bên tự thoả thuận với nhau dựa trên
những ước tính mang tính cá nhân.
- Khi có sự thay đổi giá cả trên thị trường giao ngay, rủi ro thanh toán sẽ tăng lên khi một
trong hai bên không thực hiện hợp đồng.
Ví dụ: Hoàng muốn mua một căn nhà trong năm tới. Đồng thời Minh hiện tại đang sở hữu một
căn nhà trị giá 100.000 USD mà anh ta muốn bán trong năm tới. Hai người ký một hợp đồng kỳ
hạn với giá mua bán căn nhà là 104.000 USD trong vòng một năm tới. Một năm sau, giá thị
trường của căn nhà là 110.000 USD. Khi đó Minh cũng buộc phải bán căn nhà cho Hoàng với giá
104.000 USD.
4
Mua hợp đồng tương
lai
Công ty thanh toán bù trừ Bán hợp đồng tương lai
Hoặc:
Ông A cần 15.000 USD vào ngày 15-11-2009 cho một mục đích nào đó, để đề phòng tỉ giá có thể
tăng cao ông A ký một hợp đồng kỳ hạn sáu tháng vào 15-5 với một ngân hàng, theo đó ông A sẽ

mua 15.000 USD từ ngân hàng này vào ngày ông cần tiền là 15-11 với giá là 17.800đ/USD.
(3) Quyền chọn: có hai loại
a.Quyền chọn mua
Người mua quyền chọn trả một khoản tiền (gọi là phí quyền chọn) cho người bán. Người mua
sẽ có quyền được mua (không bắt buộc mua) một lượng tài sản nhất định theo một mức giá thoả
thuận trước, tại một thời điểm xác định trong tương lai. Người bán nhận phí quyền chọn có trách
nhiệm phải bán một lượng tài sản như đã thoả thuận cho người mua, theo mức giá đã thoả thuận,
vào thời điểm xác định trong tương lai (hoặc trước thời điểm đó) khi người mua muốn thực hiện
quyền chọn mua.
Ví dụ: Giá cổ phiếu của ngân hàng AB tại thời điểm hiện tại là 100.000 đồng/cổ phiếu, nhà
đầu tư sau khi phân tích đưa ra dự báo giá cổ phiếu sẽ lên khoảng 200.000 đồng. Hiện tại, nếu
muốn mua 1000 cổ phiếu của AB thì nhà đầu tư phải bỏ ra 100.000.000 đồng để mua nó. Giả sử
sau một thời gian giá cổ phiếu không đúng như dự báo bị giảm xuống còn 60.000 đồng thì nhà
đầu tư bị lỗ: 40.000.000 đồng. Trong trường hợp này, để vừa giảm thiểu rủi ro mà vẫn thực hiện
theo dự báo, nhà đầu tư sẽ đầu tư vào Quyền chọn mua, cụ thể: mua 1000 cổ phiếu của AB với
giá 100.000 đồng/cổ phiếu, trong thời gian 3 tháng với mức phí quyền chọn là 20.000 đồng/cổ
phiếu x 1000 cổ phiếu = 20.000.000 đồng. Trong thời gian 3 tháng trên, nếu giá cổ phiếu AB tăng
như dự báo lên mức 200.000 đồng/cổ phiếu thì bạn sẽ thu được: 1000 cổ phiếu x 200.000 đồng =
200.000.000 đồng tức là bạn lãi 100.000.000 đồng – 20.000.000 đồng phí mua quyền chọn =
80.000.000 đồng. Trong thường hợp giá cổ phiếu của AB không tăng mà liên tục giảm cho đến
hết thời gian 3 tháng thì nhà đầu tư có quyền không thực hiện việc mua của mình và chỉ chịu mất
20.000.000 đồng tiền phí quyền chọn mua.
b.Quyền chọn bán
Người nắm giữ một lượng tài sản mua phí quyền chọn bán của nhà cung cấp quyền chọn bán
để đảm bảo rằng tài sản của mình sẽ chắc chắn được bán ở một mức giá nhất định trong tương lai.
Ví dụ: Nhà đầu tư là người nắm giữ 1000 cổ phiếu của AB trên với mức giá thị trường hiện tại
là 100.000 đồng/cổ phiếu. Nhà đầu tư lo lắng về giá cổ phiếu có thể giảm xuống còn 70.000
đồng/cổ phiếu thì sẽ bị mất 30.000.000 đồng. Nhà đầu tư sẽ mua quyền chọn bán với mức phí
20.000 đồng/cổ phiếu = 20.000.000 đồng để đảm bảo rằng cổ phiếu của mình lúc nào cũng có thể
5

×