Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

SKKN Giới thiệu âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.03 MB, 37 trang )

Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

.

MỤC LỤC

NỘI DUNG
I.

TRANG

TĨM TẮT………………………………..……………………………. 2

II. GIỚI THIỆU……..…………………………………………………….. 3
III. PHƯƠNG PHÁP……………………………………………… ……

4

1. Khách thể nghiên cứu ……………………………………….…..... 4
2. Thiết kế nghiên cứu …………………………………………. ….. 4
3. Quy trình nghiên cứu ……………………………………………… 5
4. Đo lường và thu thập dữ liệu ………………………………………25
IV. PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ BÀN BẠC KẾT QUẢ ……….……..……25
V. KẾT LUẬN VÀ KHIẾN NGHỊ …………………………….…...……..27
1. Kết luận…………………………………………………..……….. 27
2. Đề xuất và khuyến nghị ………………………………………….. 27
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………….. 28
VII. PHỤ LỤC CỦA ĐỀ TÀI……………………………………………… 29
1. Đề và đáp án kiểm tra sau tác động………………………………. 29
2. Bảng điểm …………………………………………………………30


Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

1

Trường THCS Bình Dương


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

.

I. TĨM TẮT
Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ môn Âm nhạc trong trường
THCS, tôi luôn trăn trở để làm sao giới thiệu được Âm nhạc Quảng Ngãi nói chung
và Âm nhạc dân tộc quảng Ngãi nói riêng tới các em học sinh. Tuy nhiên, Địa bàn xã
Bình Dương là địa bàn ít có phương tiện thơng tin đại chúng, nên học sinh cũng ít có
cơ hội tiếp cận với những thơng tin bổ ích về Âm nhạc tỉnh nhà, hơn nữa với lưu
lượng thời gian trong chương trình mơn Âm nhạc, không đủ để giới thiệu rộng rãi
đến học sinh nhiều nội dung hay, Tơi bắt đầu khảo sát tình hình hiểu biết về Âm nhạc
Quảng Ngãi (Các làn điệu dân ca, các nhạc sĩ, các bài hát về Quảng Ngãi) của các em
học sinh tại Trường, và một thực trạng đáng quan tâm là hầu như tất cả các em học
sinh biết rất ít về Âm nhạc của địa phương.
Trước hiện trạng đó, tơi ln ấp ủ một đề tài nghiên cứu khoa học để ứng dụng
trong nhà trường nhằm đưa các em đến gần với Âm nhạc của địa phương hơn. Tôi bắt
đầu đi sưu tầm, thu thập những thông tin, tài liệu (bao gồm cả âm thanh và hình ảnh)
cần thiết cho việc nghiên cứu, và bắt đầu nghiên cứu với đề tài: “Giới thiệu Âm nhạc
Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS”. Lớp 9 của
trường là đối tượng tôi lựa chọn để nghiên cứu vì mức độ cảm thụ âm nhạc cũng như
khả năng diễn đạt tốt nhất để cho kết quả khách quan nhất.
Nghiên cứu được tiến hành ở hai lớp 9 trường THCS Bình Dương, lớp 9A là

lớp thực nghiệm và lớp 9B là lớp đối chứng. Lớp thực nghiệm được thực hiện học
tập, giới thiệu Âm nhạc kết hợp trong chương trình ngoại khóa, gồm 4 buổi
(1tiết/buổi), cụ thể:
- Tiết 1: Giới thiệu một số nhạc cụ dân tộc Quảng Ngãi.
- Tiết 2: Giới thiệu một số làn điệu dân ca Quảng Ngãi.
- Tiết 3: Giới thiệu một số nhạc sĩ nỗi tiếng của Quảng Ngãi cũng như
những tác phẩm tiêu biểu của họ.
- Tiết 4,5: Tập hát 2 bài hát, giao lưu hát dân ca và khảo sát tình hình nhận
thức của học sinh sau 4 tiết học).
Để kết quả trung thực và khách quan tôi sử dụng phép kiểm chứng T- test để
đánh giá trình độ trước và sau tác động và phép tính SMD để kiểm chứng Mức độ
Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

2

Trường THCS Bình Dương


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

.

ảnh hưởng (ES) sau tác động. Và kết quả cho thấy tác động có ảnh hưởng rất lớn đến
sự hiểu biết và nhận thức của các em học sinh lớp 9A trường THCS Bình Dương. Từ
đó, Tơi sử dụng nội dung tác động này giới thiệu đến toàn bộ học sinh trong nhà
trường.
II. GIỚI THIỆU
Những năm gần đây, Âm nhạc trở thành một môn học chính thức trong nhà
trường Tiểu học và THCS. Qua âm nhạc, giáo dục tình cảm, đạo đức và góp phần
hình thành nhân cách cho học sinh.

Tuy vậy, trong thời gian gần đây, học sinh ở các trường THCS có nhận thức
chưa đúng hướng về bộ môn Âm
nhạc trong nhà trường, các em có
những biểu hiện lệch lạc thơng qua
việc hát các bài hát khơng phù hợp
lứa tuổi, có nội dung không trong
sáng và không phù hợp với thuần
phong mĩ tục người Việt Nam.
Chính vì lẽ đó , việc giới thiệu âm
nhạc dân tộc và âm nhạc địa
phương trong trường THCS là công việc cần thiết và cần được quan tâm hơn nữa,
nhằm giáo dục thẩm mĩ phù hợp với bản sắc văn hóa và phát huy truyền thống tốt đẹp
của dân tộc.
Nhạc sĩ Trương Quang Lục khẳng định: “ Âm nhạc truyền thống dân gian, hay
tiếng nói của cội nguồn bao giờ cũng là nguồn mỹ cảm làm rung động và đánh thức
con tim mọi người – Nó sẽ tồn tại và phát triển trong kho tàng tinh hoa văn hóa của
nhân loại…”Và thật là thiếu sót, nếu như học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, mà
không được giới thiệu về bản sắc của quê hương trong lĩnh vực nghệ thuật, đặc biệt là
các làn điêu dân ca.
Trong năm học vừa qua, tơi đã có lồng ghép, giới thiệu nội dung về âm nhạc
địa phương trong chương trình dạy học mơn âm nhạc. Tuy nhiên với thời lượng ít ỏi

Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

3

Trường THCS Bình Dương


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS


.

của phân mơn Âm nhạc thường thức ở một số tiết, thì việc mở rộng kiến thức cũng
chỉ ở một mức độ hết sức khiêm tốn, học sinh khơng có cơ hội tiếp cận với nhiều nội
dung hay. Tôi luôn trăn trở và ấp ủ một đề tài nghiên cứu khoa học, để truyền tải
những nội dung mà mình thu thập được cho tất cả học sinh trong trường.
Với những lí do trên, tơi mạnh dạn lựa chọ đề tài “Giới thiệu Âm nhạc Quảng
Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS ”. Đề tài này không
tham vọng giới thiệu một cách đầy đủ về Âm nhạc Quảng Ngãi cho học sinh, mà
thơng qua những buổi sinh hoạt ngoại khóa, các em được tìm hiểu về các loại nhạc cụ
của dân tộc, được nghe và cảm nhận những làn điệu dân ca phổ biến, được tìm hiểu
một số nhạc sĩ nổi tiếng cũng như các tác phẩm tiêu biểu của các nhạc sĩ ở Quảng
Ngãi.
Rất mong sự ủng hộ và đóng góp ý kiến của quý Thầy, Cô!
III PHƯƠNG PHÁP
1. Khách thể nghiên cứu:
“Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở
trường THCS”
1.1. Thời gian nghiên cứu: Từ ngày 25/08/2014 đến 30/12/2014.
1.2. Địa điểm: Trường THCS Bình Dương
1.3. Đối tượng nghiên cứu: Lớp 9A và lớp 9B trường THCS Bình Dương
(Hai lớp này được Nhà trường phân chia khá tương đồng về số lượng,
năng lực, ý thức học tập và giới tính.
Bảng 1:Giới tính, tình hình học tập của học sinh
Lớp
9A
9B

Tổng

số
31
30

Giới tính
Nam
Nữ
18
13
15
15

Học lực
Đạt(Đ)
Chưa đạt(CĐ)
29
2
28
2

1.4. Nội dung nghiên cứu: “Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương
trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS”.
2. Thiết kế nghiên cứu:
Tơi chọn 2 lớp: Lớp 9A là nhóm thực nghiệm và lớp 9B là nhóm đối chứng.
Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

4

Trường THCS Bình Dương



Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

.

Tơi khảo sát mức độ hiểu biết về Âm nhạc Quảng Ngãi cũng như cảm nhận về
dân ca nói chung của học sinh để làm bài kiểm tra trước tác động. Quy định của
bộ môn Âm nhạc là đánh giá Đạt(Đ) và Chưa đạt(CĐ) nên để tiện sử dụng phép
kiểm chứng TTEST (đo mức độ chênh lệch), tơi dùng hình thức ghi điểm để đánh
giá học sinh. Sau đây là kết quả của 2 nhóm trước khi tác động:
Bảng 2: Kết quả kiểm tra trước tác động
TBC
Độ chênh lệch (p)

Lớp đối chứng
4.09

Lớp thực nghiệm
4.63
0.182

Kết quả trên cho thấy p = 0.182 > 0.05, từ đó kết luận sự chênh lệch
điểm số trung bình của hai nhóm là khơng có ý nghĩa. Vậy hai nhóm được coi là
tương đương.
Sử dụng thiết kế 2:
Bảng 3: Kiểm tra trước và sau tác động đối với 2 nhóm
Nhóm
Thực nghiệm
Đối chứng


Kiểm tra trước tác
động
01
02

Tác động
X
Học tập bình
thường

Kiểm tra sau tác
động
03
04

* Ghi chú: X (Được học cơ bản 5 tiết chương trình ngoại khóa về Âm nhạc Quảng Ngãi)

Ở thiết kế này, tơi sử dụng phép tính SMD để kiểm chứng Mức độ ảnh hưởng
(ES) sau tác động.
3. Quy trình nghiên cứu:
3.1.Chuẩn bị bài của giáo viên:
- Thiết kế một kế hoạch bài giảng (Tiết 14 – Lớp 9), có sử dụng phần liên hệ Âm
nhạc mang âm hưởng dân ca Quảng Ngãi (cụ thể 2 bài: Em là cô gái Bình Sơn;
Bình Sơn q mẹ), 5 kế hoạch ngồi giờ lên lớp có giao lưu âm nhạc, dân ca,
nhưng khơng giới thiệu âm nhạc Quảng Ngãi.
- Thiết kế 5 kế hoạch ngoài giờ lên lớp để giới thiệu về âm nhạc Quảng Ngãi
bằng trình chiếu slide, thực hiện ở nhóm thực nghiệm. Các nội dung trên được
thiết kế dựa trên phần mềm Encore 5 , Finale, Adobe Audition 3, Video,
Giáo viên: Phạm Thị Na Sa


5

Trường THCS Bình Dương


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

.

photoshop, và các trang wetsile cũng như các tài liệu (được nêu rõ trong phần
VI. Tài liệu tham khảo).
3.2. Tiến hành thực nghiệm:
Thời gian dạy học môn âm nhạc vẫn tuân thủ theo quy chế chun mơn, riêng tiết
sinh hoạt ngoại khóa(SHNK) của 2 nhóm theo lịch của Nhà trường. Cụ thể:
Thời gian
26/08/201
4
27/08/201
4
10/09/2014
11/09/2014

Môn/lớp
SHNK/9A

PPCT
Nội dung
Buổi chiều Giới thiệu nhạc cụ dân tộc Quảng Ngãi

Buổi chiều Tìm hiểu thêm các loại nhạc cụ phổ biến

của Việt Nam và trên thế giới
SHNK/9A
Buổi chiều Giới thiệu dân ca Quảng Ngãi
SHNK/9B
Buổi chiều Ôn lại tất cả các bài hát dân ca trong
chương trình Âm nhạc THCS
01/10/201
SHNK/9A
Buổi chiều Giới thiệu nhạc sĩ và nhạc phẩm tiêu
4
biểu về Quảng Ngãi
02/10/201
SHNK/9B
Buổi chiều Ôn lại tất cả các nhạc sĩ trong chương
4
trình Âm nhạc THCS
02/11/2014
SHNK/9A
Buổi chiều Tập hát dân ca, giao lưu âm nhạc, kiểm
tra sau tác động
03/11/2014
SHNK/9B
Buổi chiều Giao lưu âm nhạc, kiểm tra sau tác động
10/12/2014 Âm nhạc/9A,B
14
Ôn tập TĐN số 4, Ca khúc mang âm
hưởng dân ca
3.3.

SHNK/9B


Nội dung thực nghiệm (Nội dung này nên trình chiếu bằng phần mềm
powerpoit):

3.3.1. Giới thiệu một số nhạc cụ dân tộc của Quảng Ngãi (Có đĩa CD kèm theo)
a. Nhạc cụ của người Việt
Cũng như những vùng đồng bằng khác ở nước ta, người Việt của tỉnh Quảng
Ngãi cũng có các loại nhạc cụ dân tộc khá đa dạng về chủng loại, như đàn cò (nhị),
trống cơm (phạn cổ), kèn tiểu (tiểu quân), đàn bầu (độc huyền cầm), đàn tranh (đàn
thập lục), trống tiểu, sênh, phách, sinh tiền, chập chõa, bồng bồng... Các loại nhạc
cụ này được sử dụng trong các môi trường diễn xướng khác nhau, như hát bài chòi,
hát sắc bùa, hát bả trạo, hát đám tang...
Dưới đây là một số nhạc cụ phổ biến:

Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

6

Trường THCS Bình Dương


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

.

* Đàn cị:
Đàn cị (cịn gọi là đàn nhị)làm bằng gỗ gụ hay
trắc. Bầu cộng hưởng gọi là bát

nhị. Bát nhị


hình ống rỗng lịng, dài khoảng 13,8 cm, một
đầu bịt da trăn hay da kỳ đà. Cần đàn trịn
khơng có phím, đầu dưới cắm xun qua bầu
đàn, đầu trên gọi là Thủ đàn. Thủ đàn hình đầu
con cị, có gắn hai trục gỗ trịn để lên dây, có
khi trục đàn được chạm khắc cầu kỳ. Ngựa đàn
làm bằng tre hay gỗ dài 1 cm đặt khoảng giữa
mặt da. Khuyết đàn còn gọi là "Cữ đàn" là một
sợi tơ xe néo vào 2 dây đàn. Cữ đàn có tác dụng điều chỉnh độ cao thấp của âm
thanh. Khi đưa cữ đàn xuống là làm ngắn quãng dây phát âm, đàn có giọng cao. Khi
đẩy cữ đàn lên, làm dài quãng dây phát âm, đàn có giọng trầm. Cung vĩ làm bằng
tre, hoặc gỗ được uốn cong hình cánh cung, người ta mắc vĩ như dây cung. Vĩ đàn
đặt giữa hai dây, khi đàn vĩ cọ xát vào dây phát ra âm thanh.
* Trống cơm:
Từ thế kỷ 10, trống cơm đã xuất
hiện ở Việt Nam. Trước khi đánh trống
người ta thường lấy cơm nghiền nát, trét
vào giữa mặt trống để định âm, do đó
trống này gọi là trống cơm.
Trống cơm có 2 mặt trống hình
trịn bằng nhau, đường kính khoảng 15 – 17 cm. Mặt trống bịt da, đường viền buộc
bằng sợi mây hay da (dây xạ) kéo từ đầu trống này sang đầu trống kia để chỉnh độ
căng giữa 2 mặt trống. Tang trống bằng gỗ hình ống trịn dài khoảng 56 – 60 cm, hai
đầu hơi khum lại, đường kính ở tang trống đoạn giữa lớn hơn đường kính mặt trống.
Tang trống để mộc hoặc sơn đỏ.

Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

Trống cơm có âm thanh vang nhưng mờ đục,


7

Trường THCS Bình Dương


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

.

diễn tả tốt tình cảm buồn, sâu sắc. Tùy theo chất cơm trét mặt trống âm thanh phát ra
sẽ có chất lượng tốt hay xấu tương ứng.
* Đàn Bầu:
“…Cung thanh là tiếng mẹ , cung trầm là giọng cha...”
Trong kho tàn văn hóa âm nhạc dân tộc Việt
Nam, đàn bầu được coi là nhạc cụ độc đáo và hấp
dẫn nhất. Tiếng đàn du dương, trầm lắng khiến ai
đã nghe một lần thì thật khó qn.
Đàn bầu hay còn gọi là độc huyền cầm,
thuộc hị dây gẩy, chỉ có một dây, gảy bừng que hoặc miếng gẩy. Thân đàn hình hộp
dài , đầu nhỏ hơn cuối. Thành đàn làm bằng gỗ cứng. Đáy đàn và mặt đàn làm bằng
gỗ nhẹ. Mặt đàn hay uống cong phồng lên. Đáy đàn có hai lỗ thốt âm. Bầu đàn làm
bằng nửa quả bầu khô cắt đáy hoặc bằng gỗ tiện theo hình. Bầu ở đàn lồng vào giữa
vịi đàn nơi buộc dây đàn. Que đàn làm bằng que và song vót nhọn.
Nói về đàn bầu, có rất nhiều ý kiến trái chiều về lịch sử của nó. Khơng ai biết
chính xác đàn bầu xuất hiện ở nước ta từ khi nào, chỉ biết rằng, đàn bầu có mặt hầu
hết trong các dàn nhạc dân tộc, và cũng là một trong những nhạc cụ độc tấu tuyệt vời
nhất trong kho tàng âm nhạc dân tộc Việt Nam.
* Đàn tranh:
Đàn tranh còn gọi là đàn thập lục, là

nhạc cụ của nguười Việt. Đàn thuộc họ
dây chi gảy. Vì có 16 dây nên đàn cịn
có tên chữ là Thập lục.
Nguồn gốc Đàn Tranh Việt Nam là đàn
Tranh giống như đàn sắt. Từ Trung
Quốc truyền sang nước Việt có thể từ
đời Nhà Trần. Tuy nhiên, đàn tranh đã
thành nhạc cụ hoàn toàn mang tính dân
tộcViệt Nam vì đã được người Việt ưa

Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

8

Trường THCS Bình Dương


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

.

dùng, truyền từ đời này đến đời kia hằng 7-8 trǎm nǎm, phù hợp với quan điểm thẩm
mỹ của người Việt, và nói rõ ngơn ngữ âm nhạc Việt Nam.
Đàn Tranh hình hộp dài. Khung đàn hình thang có chiều dài 110–120 cm. Đầu
lớn rộng khoảng 25–30 cm là đầu có lỗ và con chắn để mắc dây. Đầu nhỏ rộmg
khoảng 15–20 cm gắn 16 khoá lên dây chéo qua mặt đàn. Mặt đàn làm bằng ván gỗ
ngơ đồng dày khoảng 0,05 cm uốn hình vòm. Ngựa đàn (còn gọi là con nhạn) nằm ở
khoảng giữa để gác dây và có thể di chuyển để điều chỉnh âm thanh.Dây đàn làm
bằng kim loại với các cỡ dây khác nhau.
Ngày xưa dùng dây tơ. Khi biểu diễn nghệ nhân thường đeo 3 móng gẩy vào

ngón cái, trỏ, & giữa để gẩy. Móng gẩy làm bằng các chất liệu khác nhau như kim
loại, sừng hoặc đồi mồi.Đàn Tranh trong trẻo, sáng sủa thể hiện tốt các điệu nhạc vui
tươi, trong sáng.
Đàn Tranh ít thích hợp với những tính cách trầm hùng, khoẻ mạnh. Đàn Tranh
thường được sử dụng để độc tấu, hòa tấu, đệm cho ngâm thơ, hát, tham gia trong các
dàn nhạc tài tử, phường bát âm, dàn Nhã Nhạc và các dàn nhạc dân tộc tổng hợp.
*Sênh tiền:
Sênh tiền là nhạc cụ gõ độc đáo, xuất
hiện ở Việt Nam ít nhất vài trăm năm
nay. Tên cổ của nó là phách sâu tiền hay
phách quán tiền (sênh trong tiếng Nơm
là phách). Cũng có tên khác là sinh tiền.
Nhìn chung, nhạc cụ này là một loại
sênh có gắn những đồng tiền vào nên
gọi là sênh tiền.
Sinh tiền gồm có 3 thanh gỗ cứng (thường là gỗ trắc hay gỗ cẩm lai). Thanh gỗ
thứ nhất và thanh gỗ thứ hai được nối liền bằng một sợi dây da ngắn. Thanh thứ nhất
trên đầu có 2 cây đinh nhỏ, mỗi đinh xuyên qua lỗ 3 đồng tiền, đầu đinh có núm để
giữ các đồng chinh khơng rớt ra khi đánh. Mặt thanh thứ nhất (dưới 2 cây đinh) có 1
đoạn dài khoảng 13 cm gồm 10 hàng răng cưa lồi lõm, khía theo chiều ngang. Thanh
Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

9

Trường THCS Bình Dương


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

.


thứ hai giống như thanh thứ nhất nhưng chỉ có 1 cây đinh gắn các đồng tiền. Cả hai
thanh này có phần cuối cùng bằng gỗ, không răng cưa, dùng để làm tay cầm. Hai
thanh dài khoảng 28 cm, ngang khoảng 3 cm dày khoảng 8mm, còn thanh thức ba
ngắn hơn, dài khoảng 20 cm. Thanh thứ ba ngắn hơn một ít, có khứa răng cưa bên
cạnh, cạnh trái khứa từ đầu đến giữa, cạnh phải từ đầu đến cuối. Sênh tiền được dùng
trong dàn nhạc cung đình, chầu văn, ca Huế, bát âm, hát sắc bùa và hát ả đào... Người
ta dùng nó để hòa tấu, giữ nhịp hoặc làm đạo cụ múa.
b. Nhạc cụ của đồng bào dân tộc
thiểu số:
Nhạc cụ của người dân tộc
thiểu số ở Quảng Ngãi chủ yếu được
chế tác bằng chính bàn tay của các
nghệ nhân dân gian, chủ yếu là dựa
vào kinh nghiệm, bằng tai nghe, tay
làm, mắt thấy, và sự trao truyền từ
đời này sang đời khác. Ngoại trừ các bộ chiêng, còn lại hầu hết các loại nhạc cụ đều
làm bằng những vật liệu sẵn có như: Đàn Brook, đàn k’lông buk, đàn rơ đoang, sáo
máp, sáo tà lía, sáo avố, đàn gió, đàn nước…….

Người dân tộc thiểu số ở Quảng

Ngãi sử dụng các nhạc cụ dân gian để chơi trong những lúc rỗi rãi, trên nhà sàn, hoặc
ngồi nương rẫy, cũng có khi được sử dụng trong các hội mùa, hội ăn trâu, để ru con
ngủ, để tỏ tình... Tiêu biểu có các loại nhạc cụ sau:
*Đàn Brook:
Là một loại đàn phổ biến của nhiều dân tộc ở
vùng Trường Sơn - Tây Nguyên, với các tên gọi
hơi khác biệt chút ít, như brook, bro, vrook... Ở
Quảng Ngãi, lợi đàn này được dân tộc người H’rê

sử dụng nhiều nhất. Đàn brook có bầu đàn bằng
trái bầu phơi khô, được khoét ruột; cần đàn là một

Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

10

Trường THCS Bình Dương


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

.

ống lồ ơ hoặc ống nứa dài khoảng 60 - 70cm, có đường kính khoảng 3 - 4cm; các
phím đàn là những thẻ gỗ cây gạo hoặc bằng cật mây; có 2 dây, gồm một dây chồng
(kxi klô) và một dây vợ (kxi kri). Đàn brook dành cho nam giới, dùng để chơi các giai
điệu mang tính tự sự, mơ phỏng tiếng chiêng, có khi cịn để ru con ngủ.
* Sáo Tà lía:
Là loại sáo dọc, có 6 lỗ, tương tự sáo tà lía của người Hrê,
dùng để thổi lúc đêm khuya hoặc ra rừng, ra rẫy, có khi
cịn để hịa tấu với các nhạc cụ khác.

* Chiêng:
Chiêng là loại nhạc cụ phổ biến của người dân
tộc thiểu số Việt Nam nói cung và ở Quảng Ngãi
nói riêng. Đồng bào dân tộc người H’rê, Cor, và
Cadong điều có loại nhạc cụ này. Người Ca
Dong có hai bộ chiêng là chiêng hnăng và
chiêng hlênh.Chiêng hnăng là bộ chiêng gồm 7

chiếc, có âm trầm vang, khơng có núm (chiêng bằng). Chiêng được đánh bằng dùi ở
mặt trong, chỉ dùng trong lễ ăn trâu, ít khi dùng trong những trường hợp khác, là loại
chiêng do đàn ông lớn tuổi sử dụng.
* Đàn kloong pút:
Là loại đàn giống như đàn và pút (pênh pút)
của người Hrê, nhưng có từ 2 - 5 ống nứa.
Cách chơi kloong pút của người Ca Dong
cũng giống cách chơi đàn và pút hay đàn a
khung của người Hrê. Đây là loại đàn dành
cho nữ giới, chủ yếu chơi trong những lúc rỗi rãi hoặc hội hè.

Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

11

Trường THCS Bình Dương


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

.

* Sáo A máp:
Là loại sáo nhỏ, bằng triêng rừng, có
lưỡi gà, tương tự a mó của người Hrê,
nhưng dài hơn. Trong cộng đồng người
Cor hiện có rất nhiều người biết chơi a
máp, đặc biệt là các nghệ nhân ở Trà
Phong (huyện Tây Trà), như bà Hồ Thị
Vui, Hồ Thị Bảy... Hai nghệ nhân này

có thể song tấu nhiều bài a máp khác nhau, như ru con, đánh thức con dậy, khuyên
con đi làm rẫy, đi bẫy thú...
* Đàn rơđoang:
Đàn rơđoang là một loại nhạc cụ họ dây kéo, có
nơi gọi là k’ny. Đàn chỉ có một dây, được làm
bằng gân thú, hoặc dây dứa, dây tơ, dây nilông,
dây kẽm. Cung kéo là một thanh tre, hoặc nứa
nhỏ (dùng để kéo). Cần đàn là một ống nứa dài
khoảng 40 - 50cm, có 4 - 5 phím bằng sáp ong.
Một sợi chỉ được buột chặt từ phía dưới thân đàn
nối với một miếng kim loại. Khi diễn tấu, ngoài việc dùng cung kéo để kéo vào dây
đàn, người diễn còn ngậm vào miếng kim loại để tạo nên một sự cộng hưởng âm
thanh từ khoang miệng. Đàn rơđoang cũng chỉ dành cho đàn ông, dùng để chơi các
giai điệu tự sự vào những lúc nhàn rỗi, hoặc mối mai vợ chồng...
* Sáo đất:
Sáo làm bằng đất sét thổi nghe réo rắt, du dương,
trầm bổng. Người H’re ở huyện miền núi Sơn Hà
gọi là sáo tà vố. Đó là tiếng lịng của dân tộc H’re,

Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

12

Trường THCS Bình Dương


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

.


bởi thơng qua tiếng sáo người thổi mở lịng mình với mọi người, nhất là những đôi
trai gái yêu nhau.
3.3.2. Giới thiệu một số làn điệu dân ca Quảng Ngãi:(Có đĩa CD kèm theo)
a. Dân ca của người Việt:
Trong suốt nhiều thế kỷ định cư trên vùng đất Quảng Ngãi, người Việt ở vùng
đất này đã dùng nhiều loại hình dân ca để bày tỏ tình cảm, thái độ của mình trước
thiên nhiên, trước sự đổi thay của lịch sử và đời sống xã hội, để tỏ tình, để ru con, để
nói về tình cha mẹ, nghĩa xóm giềng... Căn cứ vào hình thức diễn xướng, có thể tạm
chia loại hình nghệ thuật diễn xướng của người Việt ở Quảng Ngãi thành các thể loại:
hò, hát, lý.
* Đối với thể loại hị có thể chia thành hai loại như sau:

- Hị trên cạn có các thể loại: hò giã gạo, hò
đầm nền, hò đi cấy, hò xay lúa, hò tát nước,
hò đạp xe nước, hò giã vơi, hị đẩy che mía...
Tất cả các loại hị này là những sinh hoạt văn
hóa văn nghệ thường gắn liền với môi trường
hoạt động sinh hoạt, sản xuất trên ruộng lúa, ruộng mía, trên rẫy, trong nhà, ngồi
sân, bến bãi, sân đình... Tiết tấu, giai điệu của từng điệu hò phù hợp với hoạt động
sinh hoạt hoặc lao động sản xuất, như vòng quay của cối xay lúa, vòng quay của xe
đạp nước, nhịp chày giã gạo, nhịp chân đầm nền, nhịp tay cấy lúa...
- Hị trên sơng nước là loại hò thường được sử dụng trong sinh hoạt, lao động sản
xuất trên sơng, trên biển. Hị trên sơng nước có các loại: hị chèo thuyền, chèo đị, hị
giựt chì, hị ba lý, hị mái ba, hị mái nhì, hị
mái nhặt... Trong các loại hị này, có loại tiết
tấu lúc khoan nhặt (nên còn gọi là hò khoan),
lúc trầm lúc bổng, lúc khỏe khắn, nhanh,
chắc, như hò chèo thuyền, hị chèo đị trên
các dịng sơng Trà Bồng, Trà Khúc, sơng


Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

13

Trường THCS Bình Dương


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

.

Vệ...; có loại mạnh mẽ, dồn dập như hị giựt chì, hị kéo lưới, hị hụi...; có loại vui
nhộn, sảng khối, như hị ba lý, hị mái nhì, hị mái ba...
* Thể loại lý:
Lý là một thể loại dùng trong sinh hoạt ca hát dân gian được nhiều người ưa
thích. Cấu trúc của giai điệu lý rất chặt chẽ, hoàn chỉnh từ giai điệu, lời ca, nhịp. Lý
thường được dùng trong các loại hình dân ca nghi lễ, như hát sắc bùa, hát bả trạo, hị
đưa linh, hoặc các loại hình sân khấu truyền thống, như các vở tuồng cổ... Ở Quảng
Ngãi, có các điệu lý phổ biến như: lý vẽ rồng, lý tang tít, lý con chuồn chuồn, lý năm
canh, lý thương nhau, lý mừng xuân... Trong các vở tuồng cổ, các điệu lý thường
được các nhân vật thuộc tầng lớp dưới sử dụng để bày tỏ thái độ oán trách đối với
tầng lớp trên (như các bài lý năm canh, lý thương nhau...). Trong hát bả trạo, thường
sử dụng các bài lý tang tít, lý năm canh... Trong múa hát sắc bùa thường sử dụng các
bài lý, như lý mừng xuân, lý vẽ rồng, lý năm canh...(trong phần múa hát giúp vui).
* Thể loại hát:
Người Việt ở Quảng Ngãi có nhiều loại hát khác nhau. Nếu nhìn dưới góc độ
nội dung thể hiện thì có các loại hát: hát nhân ngãi, hát h tình... Nếu theo chức
năng thì có hát ru, hát khóc (nay khơng cịn), hát mừng tuổi (dùng trong hát sắc
bùa)... Nếu theo mục đích diễn xướng thì có hát sắc bùa, hát bả trạo... Nếu theo
phương thức diễn xướng thì có hát ống, hát lơ tơ, hát bài chịi...

- Hát ru: là điệu hát của bà, của mẹ, của chị, và cả của ông, của cha dùng để ru
con, ru cháu. Nhịp điệu khoan thai, lúc trầm lúc bổng, bao giờ cũng bắt đầu bằng từ
"ầu ơ..".
Ầu ơ...
Ngó lên trên trời, trời cao lồng lộng
Ngó ra ngồi biển, biển rộng thinh thinh
Ngó vơ trong dạ buồn tình
Đêm nằm nước mắt...(ầu ơ) nhỏ như bình trà
nghiêng
Đêm nằm nước mắt...(ầu ơ) triền miên
Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

14

Trường THCS Bình Dương


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

.

Áo em năm vạt (à) ướt liền cả năm.. (à ơ)...
Bà Phù Thị Sẻ - Thơn Tây, An Vĩnh, Lý Sơn hát
-Hát bài chịi: Hát bài chịi là một hình thức ca hát dân gian phổ biến ở vùng Nam
Trung Bộ. Cách đây vài chục
năm về trước, tại Quảng Ngãi,
hội hát bài chịi có mặt ở hầu
hết các làng xã trong tỉnh, nhất
là ở các làng xã ven biển vào
mỗi dịp Tết Nguyên đán, có khi

bắt đầu từ khoảng 20 tháng
Chạp đến hết Rằm tháng Giêng.
Ngày nay, ở một vài nơi cũng
còn tổ chức hội bài chòi, trên 9 chòi và cả hội bài chòi chiếu, nhưng thường chỉ bắt
đầu từ 26 - 27 tháng Chạp đến mùng 4 mùng 5 Tết.
Giai điệu của bài chịi thường theo lối hát thơng thường, như nói thơ, nói vè, và cũng
có lúc vận dụng cả các điệu xn nữ, xàng xê, hị Quảng... Nói chung, bài chịi là một
hình thức diễn xướng dân gian mang tính tổng hợp, như hát, hơ, nói, khua trống, mõ,
nhạc đệm, diễn trị...Nhờ những yếu tố tích cực của hình thức diễn xướng này mà bài
chòi bước lên sân khấu chuyên nghiệp lẫn không chuyên nghiệp, từ độc tấu, song tấu
đến ca kịch, từ những bài ca đơn lẻ đến vở diễn dài hơi. Trong kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ, những bài thơ nôm na được sáng tác cho lối hát bài chịi, đã thực
sự lơi cuốn đơng đảo quần chúng nhân dân, và góp phần tuyên truyền đường lối chủ
trương của Đảng, của Cách mạng. Chính bài chịi đã làm nên những tên tuổi các nghệ
sĩ là người Quảng Ngãi: Lệ Thi, Hữu Ích, Bích Liên, Nguyễn Văn Khánh...
- Hát bả trạo:
Hát bả trạo cịn gọi là chèo
bả trạo, có nơi gọi là chèo bá
trạo, là một hình thức diễn xướng
dân ca nghi lễ, diễn ra vào mỗi

Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

15

Trường THCS Bình Dương


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS


.

dịp tế Cá Ơng, hoặc khi Cá Ông lụy, là một bộ phận của nghi lễ thờ cúng Cá Ông của
các vạn chài ven biển Quảng Ngãi.Đội chèo bả trạo thường có 15 - 17 người, trong
đó có một Tổng lái, một Tổng thương, một Tổng mũi, và còn lại là các con trạo. Một
chương trình hát bả trạo diễn ra trong thời lượng 90 đến 120 phút ngay tại sân lăng
thờ Cá Ông hoặc ngồi bãi biển. Nội dung chính một bài bả trạo theo trình tự: phần
đầu kể về chuyện ngư dân đi làm biển, rồi bị sóng to gió lớn; khi thuyền sắp đắm,
đức Ngư Ông xuất hiện và ra tay cứu giúp, đưa thuyền về nơi an toàn; phần tiếp theo
là hát múa kể về cơng đức Cá Ơng, suy tơn Ông; phần cuối là hát các bài vè, bài lý
giúp vui.
Người giữ vai trò lĩnh xướng một cuộc hát bả trạo là Tổng mũi, có sự giúp sức
của Tổng thương và Tổng lái. Các con chèo xô theo từng đoạn và múa các động tác
như đang chèo thuyền (nên còn gọi là chèo cạn). Giai điệu các bài bả trạo thường
được sử dụng là nói lối, hị chèo thuyền, hị kéo lưới, hị kéo neo, hị giựt chì, hị mái
ngơi, nam xuân, nam ai..., và các bài lý, như lý tang tít, lý vãi chài... Nhờ sự tích hợp
nhiều giai điệu, làn điệu, có nói lối, có hát, có múa, có diễn, có sênh, trống và dàn
nhạc phụ đệm phụ họa, và có thể xem, hát bả trạo là một loại hình diễn xướng mang
tính tổng hợp (như hát sắc bùa, hát bài chòi).
Hiện nay, nhiều làng, vạn ven biển Quảng Ngãi, hàng năm vào dịp tế Cá Ơng
cịn tổ chức hát bả trạo, như vạn Đơng n (Bình Dương, huyện Bình Sơn), vạn Cù
Lao - Mỹ Tân (Bình Chánh, huyện Bình Sơn), vạn Tuyết Diêm (Bình Thuận, huyện
Bình Sơn)... Cách đây vài năm, vạn Thạch Bi (Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ) cũng tổ
chức lại đội bả trạo để diễn trong lễ tế tại lăng Ông, và nghĩa tự của vạn vào lệ tế
xuân và lệ tế thu.
* Hát sắc bùa:
Hát sắc bùa là một hình thức diễn
xướng dân gian mang tính chất nghi lễ phong tục, chủ yếu diễn ra vào dịp Tết
Nguyên đán. Trước năm 1945, nhiều làng xã
ven biển thuộc các huyện Tư Nghĩa, Mộ Đức,

Đức Phổ có hát sắc bùa. Đến nay, vì nhiều lý
do khác nhau, tục hát sắc bùa chỉ còn ở xã
Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

16

Trường THCS Bình Dương


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

.

Đức Phong (huyện Mộ Đức), các xã Phổ An, Phổ Cường, Phổ Khánh, Phổ Thạnh
(huyện Đức Phổ), mà trong đó tiêu biểu nhất là ở Phổ An.
Thời gian đội bùa lưu diễn thường bắt đầu từ đêm trừ tịch đến hết tháng Giêng,
không chỉ trong một làng, xã mà còn đi diễn ở nhiều nơi, đặc biệt là ở những làng, xã
dọc ven biển Quảng Ngãi, có khi đi tận Bình Định hoặc Quảng Nam. Chính tính chất
lưu diễn này mà hát sắc bùa được xem là một hình thức diễn xướng mang tính bán
chun nghiệp.Biên chế một đội sắc bùa (còn gọi là phường bùa, đội bùa) thường có
11 người, trong đó có một ông cái kiêm chơi trống tầm vinh (còn gọi là tùng dinh, là
một dạng trống cơm), một ông phụ cái, một ơng chơi đàn cị, một ơng chơi kèn tiểu,
một ông chơi phách, và 6 nữ làm quân xô. Quân xơ thường chỉ từ 12 - 16 tuổi.
Nội dung chính của hát sắc bùa là chúc mừng năm mới cho gia chủ (trong gia
đình mời đội bùa đến biểu diễn), làm các thủ tục xua quỷ, trừ tà, tống cựu, nghinh
tân, hát múa mừng năm mới. Về nghệ thuật, hát sắc bùa là một hình thức diễn xướng
mang tính tổng hợp: hát, múa, diễn trò, nhạc đệm..., hết sức phong phú về làn điệu,
lời ca, trong đó có nhiều giai điệu phổ biến của dân ca miền Nam Trung Bộ, dân ca
Quảng Ngãi.
Hiện nay, ở Quảng Ngãi có một số đội hát sắc bùa, nhưng tiêu biểu nhất là đội sắc

bùa Phổ An (huyện Đức Phổ). Có nghệ nhân thuộc hơn 50 làn điệu hát sắc bùa khác
nhau, đó là nghệ nhân dân gian Lê Công Lịch.
b. Dân ca của đồng bào dân tộc thiểu số:
*Dân ca H’rê:
Dân ca Hrê có giai điệu trong sáng, tình
cảm và thang âm phong phú, nên nhiều nhạc
sĩ đã mượn làn điệu từ dân ca Hrê để phát
triển thành những ca khúc. Dân ca Hrê có
giai điệu trong sáng, tình cảm và thang âm
phong phú, nên nhiều nhạc sĩ đã mượn làn
điệu từ dân ca Hrê để phát triển thành những
ca khúc nổi tiếng, như: Phan Huỳnh Điểu với Bóng cây kơnia (thơ Ngọc Anh), Nhật

Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

17

Trường THCS Bình Dương


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

.

Lai với Thương anh cán bộ, Cánh chim pôngkle, Hái rau tặng anh bộ đội, Phan Quý
với Chiều sông Rhe (thơ Nguyễn Ngọc Trạch)... Các loại hình dân ca chính của
người Hrê ở Quảng Ngãi bao gồm: ta lêu (ca lêu), ca choi (ca chơi), ta jeo, vađhơ
con...trong đó nỗi tiếng nhất là khúc ta lêu.
Ta lêu (ở huyện Sơn Hà, và những vùng dưới của huyện Sơn Tây gọi là ca lêu),
là điệu hát kể, có tính chất tự sự. Người Hrê thường dùng ta lêu để hát kể cho con

cháu nghe bên bếp lửa nhà sàn, trên rẫy vào mùa chờ thu hoạch. Có hai dịng ta lêu
là ta lêu cổ và ta lêu mới.
Ta lêu cổ, là loại ta lêu có hệ thống bài bản vốn được truyền từ đời này sang
đời khác. Loại ta lêu này có các đề tài như: kể về các loài vật, cây cối; kể về các anh
hùng huyền thoại của cộng đồng tộc người, về các vị thần linh, về những con người
tài trí, dũng cảm... Đây là loại ta lêu có cốt truyện nên khi hát kể ta lêu, người Hrê
gọi là cà eng, vì có những bài ta lêu được các nghệ nhân Hrê hát suốt cả đêm. Trong
các truyện cổ dân gian của người Hrê thường có những đoạn xen bằng văn vần, đó
chính là những khúc ta lêu cổ.
Ta lêu mới, là loại ta lêu mới được sáng tác trong giai đoạn chống Pháp, chống
Mỹ và cả sau ngày hịa bình, thống nhất đất nước. Nội dung chính của loại ta lêu
này là ca ngợi Đảng, Bác Hồ, bộ đội; tình đồn kết Kinh - Thượng, mối tình gắn bó
giữa qn và dân; ca ngợi cuộc sống mới, về tinh thần hăng say lao động, sản xuất...
và đặc biệt là về tình yêu đôi lứa
* Dân ca của người Cor:
Dân tộc Cor ở Quảng Ngãi cịn bảo lưu
nhiều loại hình dân ca, khá đa dạng và phong
phú, có những sắc thái riêng như: điệu xà ru,
cà lu, A giới, a lát, cà lùa…Phổ biến nhất làn
điệu sau xà ru:
Xà ru là điệu hát có giai điệu trong
sáng, mượt mà, theo lối tự sự, có kể, có tâm tình, có nói bóng gió, lời hát thường từ
sự ứng khẩu của mỗi người. Trai gái hay dùng xà ru để hát tỏ tình, trong rừng quế

Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

18

Trường THCS Bình Dương



Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

.

hay ngồi sơng, ngồi suối. Trong lễ hội, xà ru là công cụ năng động nhất để đối thoại
giữa các thành viên trong cộng đồng với nhau. Xà ru còn được dùng để giao tiếp với
thần linh.
* Dân ca của người Ca Dong
Cũng như người Hrê, người Cor, người Ca Dong ở Quảng Ngãi cũng bảo lưu
được những làn điệu dân ca khá phong phú và đa đạng như: ca lêu, ra nghế, plét, a
hội, dê ơ dê. Trong đó nổi bật là điệu Ra nghế
Ra nghế là lối hát đối đáp, tự sự, có tính chất ứng khẩu, thường diễn ra vào
những đêm trăng sáng, hoặc cũng có khi lên nương, lên rẫy. Người Ca Dong cịn
dùng ra nghế để hát kể về cơng lao của con trâu trước khi làm lễ hiến sinh, hát kể về
các thành phần cũng như hoa văn họa tiết của cây nêu... Trong các lễ tết, người Ca
Dong cũng dùng ra nghế, ca lêu, a hội... để hát vui với nhau.
3.3.3. Giới thiệu một số nhạc sĩ và một số ca khúc tiêu biểu của Quảng Ngãi.
* Nhạc sĩ Trương Quang Lục:
Ông sinh ngày 25 tháng 2 năm 1933,
quê tại xã Tịnh Khê (Sơn Mỹ), huyện
Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Là hội viên
hội Nhạc sĩ VN, đồng thời là hội viên hội
Nhà báo VN. Trong kháng chiến chống
Pháp, Trương Quang lục đã có một số bài
hát được phổ biến như: Chuyến tàu trăng, Bảo vệ hịa bình, Đố cờ, Hoa bên suối. Sau
hịa bình, ơng chuyển ra miền Bắc vừa làm kỹ sư hóa chất ở nhà máy Super –
Phosphate Lâm Thao, ông vừa sáng tác ca khúc và nhiều tác phẩm ra đời ở đó. Trong
thời kỳ này, ơng đã có những ca khúc được cơng chúng u thích với: Cơ gái Lâm
Thao, Tiếng hát bên rừng, Vàm Cỏ Đông, Hoa sen Tháp Mười, Quảng Ngãi đất mẹ

kiên cường… cũng như một số bài hát thiếu nhi: Xỉa cá mè, Em yêu đàn gà xinh, Trái
đất này là của chúng em (thơ Định Hải), Tuổi mười lăm, Màu mực tím… Trương
Quang Lục cũng tham gia viết nhiều nhạc phim, nhạc sân khấu, múa rối, một số bài
nghiên cứu dân ca, một số bài giới thiệu những ca khúc nổi tiếng của nhiều tác giả

Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

19

Trường THCS Bình Dương


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

.

trên báo Sài gịn giải phóng Chủ nhật. Tác phẩm đã xuất bản: Tuyển tập nhạc Trương
Quang Lục (hội Văn nghệ Vĩnh Phúc), Tuyển chọn ca khúc kèm băng cassette của
Trương Quang Lục (NXB DIHAVINA và hội Nhạc sĩ VN, 1995). Các tác phẩm tiêu
biểu: Vàm Cỏ Đông, Trái đất này là của chúng em, Tuổi mười lăm, Màu mực tím,
Hoa sen Tháp Mười. Trong đó đặc biệt là Ca khúc Quảng Ngãi đất mẹ ngoan cường
được tỉnh ta chọn làm bài tỉnh ca.
* Nhạc sĩ Trần Xuân Tiên:
- Quê quán: TP Quảng Ngãi
- Công tác tại Đài PTTH tỉnh Quảng Ngãi
- Những tác phẩm tiêu biểu: Khúc ru chiều
Thiên Ấn(Giải thưởng âm nhạc – Hội Nhạc sĩ
Việt Nam năm 2010), Cảm xúc giao thừa,
Chiều Lý Sơn, Tìm về, Tam Thương…
Từ lúc cịn cùng học phổ thông, bọn

thiếu nhi chúng tôi ở thị xã Quảng Ngãi ai mà
không thuộc làu những ca khúc thiếu nhi như:
Sơ ri, Nấm mèo, Mẹ, Nhớ ơn Bác Hồ, Mời
trăng xuống chơi… Đến nay với quãng đường
hơn ¼ thế kỷ, Trần Xuân Tiên, người nhạc sĩ
tài hoa đó đã sáng tác gần 100 ca khúc thiếu
nhi. Tuy mỗi bài có mỗi giai điệu riêng,
nhưng mỗi ca khúc của Trần Xuân Tiên đều
mang phong vị dân ca đậm đà của vùng đồng
bằng Trung Trung bộ quê hương anh.
Người ta thường gọi Xuân Tiên là
nhạc sĩ của những giải thưởng, Năm 2000,
anh được Ban tổ chức liên hoan Tiếng hát
Hoa phượng đỏ tồn quốc tặng giải đặc biệt
cho tác giả có nhiều sáng tác cho thiếu nhi
Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

20

Trường THCS Bình Dương


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

.

hay nhất trong năm. Cuối năm, anh được Đoàn Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp
các Hội Văn học – Nghệ thuật Việt Nam tặng giải A giải thưởng Văn học – Nghệ
thuật toàn quốc cho tác giả của tổ khúc “Trẻ thơ hát”. Đây là một trong bốn giải A
cao quý mà Ủy ban đã tặng cho các tác giả có tác phẩm giá trị được tuyển chọn từ các

mảng văn học, nghệ thuật như: Sân khấu, điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật, âm nhạc,
văn học, văn hóa dân gian. Và đến cuối năm 2001, Trần Xuân Tiên đã được kết nạp
vào Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Đầu tháng 10 vừa rồi, với ca khúc “Để mãi mãi màu
xanh”, anh lại được trao giải nhì (khơng có giải nhất) tại cuộc thi sáng tác “Vì mơi
trường của chúng ta” do Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Đại học sư phạm Hà Nội tổ chức. Và còn rất nhiều giải thưởng cao
quý khác nữa….
* Nhạc sĩ Trần xuân Tiến:
- Quê quán: Thành phố Quảng Ngãi
- Công tác tại TP Hồ Chí Minh
- Những tác phẩm tiêu biểu: Quảng Ngãi hùng ca, Hành khúc Trần Quốc Tuấn,
Duyên Tình ba lý, Quảng Ngãi quê ta, Bình Sơn quê mẹ…
Nhạc sĩ Trần Xuân Tiến sinh ra ở Nghĩa Lộ, Tư Nghĩa, Quảng Ngãi, khi lớn lên học
ở đại học văn khoa Sài Gịn. Từng là đồn trưởng đồn văn nghệ sinh viên – học sinh
Sài Gòn tham gia phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe” trong thời của các nhạc sĩ
Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn, Trương Quốc Khánh…. Là một trong số ít nhạc sĩ có
giọng hát hay. Hiện nay, nhạc sĩ đang công tác tại đài phát thanh TP Hồ Chí Minh.
* Nhạc sĩ Đình Thậm:
Nhạc sĩ, NSƯT Đình Thậm sinh
ra trên mảnh đất Quảng Ngãi, nơi có
những làn điệu dân ca ngọt ngào, đã
thấm đợm vào tâm hồn trẻ thơ của
nhạc sĩ. Và cũng như nhiều nhạc sĩ
khác, Đình Thậm biết hát trước khi
sáng tác ca khúc, nhưng dù trong lĩnh
Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

21

Trường THCS Bình Dương



Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

.

vực nào, người ta vẫn thấy một Đình Thậm dạt dào cảm xúc quê hương. Ông đã từng
là công nhân ngành điện lực trước khi dấn thân vào nghiệp hát, tuy vậy dù là một
công nhân nhưng Đình Thậm lúc nào cũng làm bạn với cây đàn và suốt ngày nghêu
ngao ca hát. Có lẽ, nghiệp hát là định mệnh, chính vì vậy khi trở thành nhạc sĩ, những
giai điệu quê hương như liền mạch với tâm hồn, để rồi người hâm mộ luôn bắt gặp
hình ảnh của mình trong những ca khúc của anh. Nhắc đến nhạc sĩ, không thể không
nhắc đến “Quảng Ngãi trong tôi”, nhạc phẩm đã đang và vẫn sẽ luôn sống trong lòng
người dân Đất Quảng. Hiện nay, nhạc sĩ đang giữ chức vụ giám đốc nhà hát Trưng
Vương và Trưởng Đoàn ca múa nhạc Đà Nẵng. Những giải thưởng cao quý như:
Huy chương vàng Biển hát 1993, Bằng khen của Thủ tướng chính phủ 1996, Giải
thưởng Hội nhạc sĩ Việt Nam 1998 và nhiều giải thưởng khác…..

Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

22

Trường THCS Bình Dương


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

3.3.4. Những nhạc phẩm tiêu biểu:

Giáo viên: Phạm Thị Na Sa


23

Trường THCS Bình Dương

.


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

24

Trường THCS Bình Dương

.


Giới thiệu Âm nhạc Quảng Ngãi trong chương trình Sinh hoạt ngoại khóa ở trường THCS

Giáo viên: Phạm Thị Na Sa

25

Trường THCS Bình Dương

.



×