Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Cái tôi tác giả trong nhật ký Đặng Thùy Trâm và mãi mãi tuổi 20 của Nguyễn Văn Thạc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (950.39 KB, 95 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN
i

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM





NGUYỄN THỊ HOA






CÁI TÔI TÁC GIẢ TRONG NHẬT KÝ
ĐẶNG THÙY TRÂM VÀ MÃI MÃI TUỔI 20
CỦA NGUYỄN VĂN THẠC




LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: Giáo sƣ Phong Lê



Thái Nguyên – 2015

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN
ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học: Cái tôi tác giả trong Nhật ký Đặng
Thùy Trâm và Mãi mãi tuổi hai mƣơi của Nguyễn Văn Thạc với các số liệu,
kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố
trong bất cứ công trình nào khác, hoàn toàn là công trình nghiên cứu của tôi.


Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Hoa

















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN
iii

LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn :
- Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Khoa Sau đại họctrƣờng Đại
học Sƣ Phạm - Đại học Thái Nguyên.
- Các thầy, cô giáo ở Viện Văn học, trƣờng Đại học Sƣ phạm I Hà Nội,trƣờng
Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, trƣờng Đại học Sƣ Phạm Thái
Nguyên đã trực tiếp giảng dạy tôi trong suốt khoá học.
Đặc biệt tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Giáo sƣ Phong Lê, ngƣời
đã động viên, chỉ bảo và giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt quá trình viết luận
văn. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã
động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu.

Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Hoa










Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN
iv

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN…………………………………………………………… i
LỜI CẢM ƠN …………………………………………………………………ii
MỤC LỤC…………………………………………………………………… iii
PHẦN 1 1
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 5
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 8
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu 8
3.2. Phạm vi nghiên cứu 8
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 8
4.1. Mục đích nghiên cứu 8
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 9
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 9
6. Đóng góp của luận văn 9
7. Cấu trúc của luận văn 10
PHẦN 2: NỘI DUNG 11
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN. KHÁI QUÁT VỀ HAI TÁC GIẢ VÀ LƢỢC
KỂ VỀ HÀNH TRÌNH CỦA HAI CUỐN NHẬT KÝ TRONG HƠN 30 NĂM 11
1.1. Tác giả và cái tôi tác giả trong văn học 11
1.1.1 Tác giả văn học 11

1.1.2. Cái tôi tác giả trong văn học 12
1.2. Giá trị văn học của hai cuốn nhật ký 16
1.3. Khái quát về hai tác giả, lƣợc kể hành trình hai cuốn nhật ký trong hơn
30 năm 18
1.3.1. Khái quát về hai tác giả 18
1.3.2. Lƣợc kể về hành trình hai cuốn nhật ký 21

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN
v

CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁI TÔI TÁC GIẢ TRONG NHẬT KÝ ĐẶNG
THÙY TRÂM VÀ MÃI MÃI TUỔI HAI MƢƠI CỦA NGUYỄN VĂN THẠC 27
2.1. Cái nhìn yêu đời, lạc quan 27
2.2. Niềm khao khát lý tƣởng, ƣớc mơ thực hiện lý tƣởng và sự suy tƣ về đất
nƣớc và con ngƣời 37
2.3. Những suy tƣ trăn trở đời thƣờng 48
2.4. Bức chân dung tinh thần trung thực và toàn diện về một thế hệ trẻ của
Việt Nam trong chiến tranh 53
CHƢƠNG 3: BIỂU HIỆN CỦA CÁI TÔI TÁC GIẢ TRONG NHẬT KÝ ĐẶNG
THÙY TRÂM VÀ MÃI MÃI TUỔI HAI MƢƠI CỦA NGUYỄN VĂN THẠC 59
3.1. Nhân vật 59
3.1.1. Một nữ trí thức tiêu biểu trong tƣ duy và hành động 60
3.1.2. Một thanh niên khao khát lý tƣởng và có hoài bão văn chƣơng 63
3.2. Giọng điệu 66
3.2.1. Giọng thƣơng cảm 67
3.2.2. Giọng thức tỉnh 69
3.2.3. Giọng triết lý 72
3.2.4. Giọng trữ tình 78
3.2.5. Giọng trăng trối 81
KẾT LUẬN 84

THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87



1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Năm 2015 là một năm đặc biệt, kỷ niệm 40 năm đại thắng mùa
xuân 1975. Chúng ta vẫn luôn tự hào khi nhắc đến ngày độc lập,nhắc đến
chiến thắng kẻ thù hung hãn đế quốc Mỹ. Chiến tranh đã lùi vào quá vãng
mấy chục năm nay nhƣng sức hủy diệt, tàn phá cũng nhƣ ấn tƣợng khủng
khiếp mà nó gây ra vẫn còn đọng mãi. Nhắc đến mùa xuân năm 1975 là nhắc
đến thắng lợi vẻ vang của dân tộc nhƣng đằng sau những vinh quang, thắng
lợi ấy chúng ta đã phải trả một giá rất đắt đó là sự hi sinh của một thế hệ
những ngƣời con ƣu tú của dân tộc. Họ đã ra đi “không tiếc đời mình” để
chiến đấubảo vệ Tổ quốc.
Đƣợc sống trong hòa bình, độc lập, đƣợc kế thừa thành quả mà các thế
hệ trƣớc để lại, chúng ta hãy nhớđến sự hi sinh lớn lao đó của những ngƣời anh
hùng dân tộc đã ngã xuống cho chúng ta có cuộc sống nhƣ ngày hôm nay. Nhƣ
một sự biết ơn sâu sắc góp phần vào việc tƣởng nhớ đến những ngƣời anh hùng
ấy nhân dịp kỷ niệm 40 năm đại thắng mùa xuân năm 1975 chúng tôi chọn tiếp
cận những trang nhật ký viết trong chiến tranh của những ngƣời lính đã từng
tham gia trên chiến trƣờng những ngày ác liệt đó làNhật ký Đặng Thùy Trâm và
Mãi mãi tuổi hai mƣơi của Nguyễn Văn Thạc.
1.2. Hai cuốn nhật ký đều ghi lại tƣơng đối rõ nét cuộc sống, con ngƣời
trong một giai đoạn lịch sử, giúp chúng ta hiểu thêm về cuộc chiến đấu từ góc
nhìn của những ngƣời trẻ tuổi trong năm tháng chiến tranh đang diễn ra hết sức

ác liệt. Những giá trị tinh thần, vẻ đẹp tâm hồn tƣởng chừng nhƣ đã bị nhạt
nhòa trong nhịp sống hối hả của con ngƣời hiện đại ngày nay, nhƣng dƣờng
nhƣ nó vẫn luôn tồn tại, và đƣợc xã hội tôn vinh nhiều đến nhƣ thế. Mãi mãi
tuổi 20 và Nhật ký Đặng Thùy Trâm không chỉ cuốn hút những thế hệ từng mặc
áo lính, cấm súng ra mặt trận để chiến đấu và bảo vệ tổ quốc mà nó còn thu hút

2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

rất nhiều những ngƣời trẻ sinh ra và lớn lên sau chiến tranh, chƣa từng nếm trải
trận mạc, máu và lửa, mất mát và hi sinh. Lý giải cho sức lan truyền kỳ diệu và
mạnh mẽ của những cuốn sách không gì khác đó là sự chân thật tự nhiên nhƣ
cuộc sống vốn có, sự chân thật vốn có đó đã đƣợc thể hiện thành công trong
những trang viết đầy chất lý tƣởng và tình ngƣời.
1.3.Thêm vào đó, có thể thấy rằng, từ đầu thế kỷ XX đến nay văn học Việt
Nam phát triển một cách nhanh chóng theo hƣớng đa dạng hóa. Thể ký nhờ đó mà
cũng dần không còn xa lạ với bạn đọc. Trong dòng chảy văn học ấy, với thể loại
ký, đặc biệt là nhật ký trong và sau chiến tranh, chúng tôi đặc biệt chú ý đến hai
cuốn nhật ký, đó là Nhật ký Đặng Thùy Trâm của bác sĩ, liệt sĩ Đặng Thùy Trâm
và Mãi mãi tuổi hai mƣơi của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc.
Hai cuốn nhật ký đều đƣợc viết bởi những ngƣời lính tham gia trong
chiến tranh những năm chống Mỹ ác liệt. Mặc dù đƣợc viết trong chiến tranh,
phản ánh chân thực về chiến tranh chống Mỹ nhƣng nó không xuất hiện ngay
trong thời điểm đó mà lại trải qua hành trình hơn 30 năm sau khi chiến tranh
kết thúc mới xuất hiện và trở thành một hiện tƣợng đặc biệt.
Nhật ký Đặng Thùy Trâm (NXB Hội nhà văn, 2005) là cuốn nhật ký của
nữ bác sĩ, liệt sĩ Đặng Thùy Trâm đƣợc chị viết trong 3 năm (từ 8/4/1968 đến
20/6/1970). Cuốn nhật ký đã theo chị khắp những năm tháng mƣa bom lửa đạn
ấy, ngay cả trong phút giây cuối cùng của cuộc đời mình trên chiến trƣờng Đức
Phổ - Quảng Ngãi năm 1970. Cuốn nhật ký này đã đƣợc một sĩ quan quân báo

của Mỹ tên là Frederic Whitehurst (thƣờng gọi là Fred) trân trọng lƣu giữ suốt
35 năm tại gia đình trƣớc khi công bố tại hội thảo thƣờng niên về chiến tranh
Việt Nam đƣợc tổ chức tại trung tâm Việt Nam của trƣờng đại học Texas vào
trung tuần tháng 3 năm 2005. Thực chất Fred và anh trai của mình Robert
Whitehurst mong muốn thông qua cuộc hội thảo này để tìm đƣợc gia đình bác
sĩ Đặng Thùy Trâm để trao lại cuốn nhật ký cho gia đình chị. Vì nghĩ không
còn hi vọng tìm đƣợc gia đình bác sĩ Đặng Thùy Trâm nên hai anh em Fred đã

3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

trao lại cuốn nhật ký cho viện lƣu trữ Việt Nam Lubbock của trƣờng đại học
Texas để giữ gìn. Nhƣng những nỗ lực tìm kiếm của hai anh em đã đƣợc đền
đáp. Sau cuộc hội thảo đó, cuốn nhật ký đã tìm đƣợc đƣờng về với quê hƣơng
xứ sở, với nơi nó đƣợc phôi thai và cần phải tồn tại.
Trong bức thƣ gửi cô em gái của Đặng Thùy Trâm ngày 29/4/2005 Fred
đã viết: “Sau bao năm tìm kiếm, điều này giống nhƣ một giấc mơ về việc tìm ra
gia đình cô khiến tôi bật khóc. Một ngƣời mẹ phải đƣợc biết về những ngày
tháng của con gái mình. Một đất nƣớc phải đƣợc biết về một ngƣời anh hùng
nhƣ bác sĩ Đặng”[45,tr. 20].
“Tất cả những ai đã từng đƣợc chúng tôi cho đọc cuốn nhật ký đều xúc
động trƣớc những điều chị cô viết. Chúng tôi nghĩ chị không chỉ là một anh
hùng của riêng ai – nghĩa là mặc dù những ký ức của chị rất quí giá với cô cũng
nhƣ đối với chúng tôi, nhƣng sự nghiệp của chị ấy còn rất ý nghĩa vớimọi
ngƣời. Những dòng chữ của chị có một sức kêu gọi tuyệt vời. Mặc dù chị ở bên
kia chiến tuyến trong cuộc chiến tranh giữa chúng ta, nhƣng ngay từ đầu những
năm 1970, Fred và tôi đã cảm thấy chị cô vô cùng đáng ngƣỡng mộ, đáng tôn
kính và là một ngƣời tốt theo một nghĩa nào đó chị là của riêng gia đình cô,
nhƣng theo một nghĩa rất quan trọng, chị là của tất cả chúng ta”[26,tr. 24].
Trong thƣ Robert, anh trai Fred, gửi mẹ của Đặng thùy Trâm ngày

2/5/2005 có đoạn: “Và có thật chị ấy đã tốt nghiệp về chính trị cũng nhƣ đã tốt
nghiệp về y khoa? Chị ấy lấy đâu ra khả năng để cảm thụ cái đẹp? Chúng tôi
muốn biết vì sao Thùy có thể kiên định đến thế, vì sao chị lại trở thành dũng
cảm đến thế, bao nhiêu năm rồi chúng tôi chứ đƣợc hỏi bà những câu hỏi ấy, đó
là những bài học cho tất cả chúng tôi”.
Còn cuốn nhật ký Mãi mãi tuổi hai mƣơi cũng là một cuốn nhật ký đƣợc
viết trong những năm tháng chiến tranh chống Mỹ ở Việt Nam do Nguyễn Văn
Thạc, sinh viên xuất sắc của khoa Toán-Cơ trƣờng Đại học Tổng hợp Hà

4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

Nội,viết. Anh đã từng đạt giải nhất cuộc thi học sinh giỏi văn lớp 10 toàn miền
Bắc năm học 1969-1970.
Theo chủ trƣơng chung, ngƣời thanh niên Hà thành đã từ giã trƣờng Đại
học với tƣơng lai đầy hứa hẹn để lên đƣờng làm nhiệm vụ của một ngƣời con
đối với Tổ quốc. Anh nhập ngũ cuối năm 1971 và chỉ với chƣa đầy 20 tuổi đời,
10 tháng tuổi quân, Nguyễn Văn Thạc đã anh dũng hi sinh trên chiến trƣờng
Thành Cổ - Quảng Trị. Trong những tháng ngày hành quân ra chiến trƣờng,
mặc dù gian khổ vất vả nhƣng anh đã ghi chép đƣợc những điều tai nghe mắt
thấy, những cảm nhận về con ngƣời, cuộc sống, chiến tranh và đặc biệt là
những dự cảm về ngày 30/4/1975 trong cuốn sổ tay nhỏ của mình mang tên
Chuyện đời mà sau này xuất bản có tên Mãi mãi tuổi hai mƣơi.
Tƣởng rằng cuốn nhật ký sẽ mãi là những kỷ niệm trên đƣờng hành quân
của Thạc mà chỉ có riêng anh biết. Nhƣng chiến tranh lùi xa 30 năm, gia đình
liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc đọc lại những dòng nhật ký ấy và thấy rằng nó có thể
góp phần phản ánh chân thực cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân ta, đồng
thời thấy đƣợc chân dung tinh thần của một thế hệ thanh niên giác ngộ lí tƣởng
Cách mạng, sẵn sàng hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc cho nên đã gửi
bản thảo cuốn nhật ký cho Nhà xuất bản Thanh Niên để in nhân dịp kỷ niệm 30

năm giải phóng miền Nam.
Khi hai cuốn nhật ký đƣợc xuất bản, đến tay công chúng, nó đã trở thành
một hiện tƣợng văn học đặc biệt năm 2005. Không chỉ độc giả Việt Nam mà rất
nhiều độc giả trên thế giới biết đến, trân trọng và ngợi ca.
Điều gì trong cuốn nhật ký của nữ bác sĩ, liệt sĩ Đặng Thùy Trâm khiến
cho những ngƣời bên kia chiến tuyến nâng niu, gìn giữ suốt 35 năm? Điều gì đã
khiến hai anh em Fred đau đáu muốn tìm cho bằng đƣợc gia đình bác sĩ Đặng
Thùy Trâm để trao lại cuốn nhật ký nhƣ một hành động chuộc lỗi?
Và điều gì khiến Mãi mãi tuổi hai mƣơithu hút, hấp dẫn độc giả trở thành
một cuốn sách làm trăn trở thế hệ trẻ Việt Nam?

5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu hai cuốn
nhật ký này dƣới danh nghĩa những tác phẩm văn học thuộc thể ký, loại nhật
ký. Thông qua đó, chúng tôi sẽ phân tích những giá trị còn mãi của chúng để
trả lời cho những câu hỏi chúng tôi đã nêu ra ở trên.
Nghiên cứu Nhật ký Đặng Thùy Trâm và Mãi mãi tuổi hai mƣơi không
chỉ là nghiên cứu hai hiện tƣợng riêng biệt của văn học mà thực chất, chúng tôi
hi vọng có thể tái hiện lại đƣợc không khí sống, chiến đấu, lao động của thời kỳ
một đi không trở lại ấy; đồng thời hiểu về lối viết của thể ký, mà cụ thể ở đây là
nhật ký trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975. Từ đó, chúng tôi hi vọng
sẽ đặt nền móng cho con đƣờng nghiên cứu văn học kháng chiến chống Mỹ sau
này của chính mình.
2. Lịch sử vấn đề
Nhƣ đã đề cập trong phần lý do chọn đề tài, khoảng hơn 30 năm sau thời
gian tạo tác, hai cuốn nhật ký này mới đƣợc giới thiệu ra công chúng. Năm
2005 khi xuất hiện lần đầu tiên, nó đã trở thành tâm điểm chú ý của tất cả
những ai yêu thích văn học. Có rất nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này. Cuốn

Nhật ký Đặng Thùy Trâmlần đầu tiên đƣợc xuất hiện trƣớc công chúng là trong
bài nói ởhội thảo thƣờng niên về chiến tranh Việt Nam đƣợc tổ chức tại Trung
tâm Việt Nam của trƣờng đại học Texas – Mỹdo hai anh em Fred và Rob cung
cấp. Họ đã lƣu giữ cuốn nhật ký suốt hơn 30 năm để rồi những gì viết trong
cuốn nhật ký thôi thúc họ, cảm hóa họ và làm cho hai anh em Fred trân trọng
lƣu giữ và mong muốn trả nó trở về với ngƣời chủ của cuốn nhật ký. Còn Mãi
mãi tuổi hai mƣơi của Nguyễn Văn Thạc, là nhờ vào ngƣời anh trai của liệt sỹ
lần ngƣời anh trai của liệt sĩ- ông Nguyễn Văn Thục-thấy rằng cuốn nhật ký có
thể góp phần phản ánh thực tế chiến tranh thời kỳ chống Mỹ đồng thời góp
phần làm cho thế hệ trẻ hôm nay có một cái nhìn chân thực về chiến tranh để từ
đó trân trọng,nên rất cần đƣợc in ra

6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

Chúng tôi cũng thấy một số bài phê bình nghiên cứu viết về hai cuốn
nhật ký trên các bài báo và một số cuốn sách.
Trong bài Sống mãi những trang nhật ký sau khoảng lặng 30 năm in
trong cuốn Cảm thức tân xuân – Giáo sƣ Phong Lê viết: “Đây là hai cuốn nhật
ký ngƣời viết chỉ viết cho riêng mình, và giá có một mong mỏi xa xôi nếu mình
còn sống hoặc nếu cuốn nhật ký còn lƣu giữ đƣợc thì cũng chỉ là cho ngƣời
thân của mình. Nhƣ vậy là nó đƣợc viết với sự trung thực tuyệt đối với bản
thân, và tuyệt không bị chi phối bởi bất cứ áp lực nào khác – áp lực của sự in
ra, sự phổ biến ”[18,tr.179].Giáo sƣ Phong Lê cũng đã nhắc tới việc cuốn nhật
ký đƣợc viết ra chân thực, không bị sự gò bó nào trong cách viết.
Trong lời cuối cuốn 35 năm và 7 ngàynhà văn Lê Minh Khuê nhận xét
cuốn nhật ký Đặng Thùy Trâm xuất hiện đã gây nên một hiện tƣợng xã hội đặc
biệt: “ Sau hơn 30 năm chiến tranh kết thúc, việc công bố nhật ký của các liệt
sĩ lại gây nên một cơn sốt đọc sách, gây nên trong tâm hồn mỗi ngƣời, nhất là
thế hệ trẻ sự xáo trộn theo chiều hƣớng tốt đẹp”[27,tr. 183].

Đặng Kim Trâm, em gái nữ liệt sĩ Đặng Thùy Trâm trong Bí mật cuộc
đời ngƣời Mỹ làm “sống lại” Đặng Thùy Trâmcũng nhắc đến sự xuất hiện của
cuốn nhật ký:“Trung tuần tháng 3 năm 2005, một cuộc hội thảo thƣờng niên về
chiến tranh Việt Nam đƣợc tổ chức tại Trung tâm Việt Nam – Đại học Texas –
Mỹ. Rất nhiều ngƣời đến dự. Tại hội thảo, ngƣời ta thảo luận về chiến tranh
Việt Nam ở nhiều khía cạnh khác nhau. Frederic Whiterhurst và Robert
Whiterhurst đã đến với bài nói về nhật ký của một nữ bác sĩ Việt Cộng mà
Frederic nhận đƣợc khi tham gia chiến tranh Việt Nam”[46,tr. 105-106].
Khi viết lời tựa cho cuốn Mãi mãi tuổi 20 nhà thơ Đặng Vƣơng Hƣng đã
nhận xét về cuốn sách này: “Âm hƣởng chung của tập nhật ký là tinh thần lạc
quan, sẵn sàng ra trận, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc của một thanh niên trí thức.
Nhƣng không thể không nhắc đến điều này: Nếu ta đặt cƣơng vị mình vào
Nguyễn Văn Thạc – một thủkhoa của cuộc thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc

7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

mới thấy sức ép tâm lí luôn đè nặng và ghê gớm tới mức nào! Không chỉ một
lần anh lo lắng tự hỏi “Liệu mình có thể làm đƣợc gì cho văn học chống Mỹ
hay không? Biết bắt đầu từ đâu và đi theo con đƣờng nào? Làm sao có đƣợc
một bàn tay dẫn dắt của ngƣời trí thức?”[41, tr. 17].
Nhà thơ Phạm Tiến Duật trong lời cuối cuốn sách cũng có những
dòng tâm sự về Thạc:“Trái tim Nguyễn Văn Thạc là trái tim của một nhà
thơ, trƣớc ngƣời yêu có thể rất mềm yếu đến ủy mị nhƣng trƣớc cái việc to
lớn của đất nƣớc, của nhân dân lại là ngƣời cả quyết, nồng nàn. Tôi muốn
các bạn trẻ bây giờ đọc và nhớ đến anh. Tôi muốn các cây bút trẻ bây giờ
đọc và nhớ đến anh. Có đƣợc điều đó, trái tim và ngòi bút của tuổi trẻ bây
giờ sẽ dằm thắm hơn, tha thiết hơn và cƣơng nghị hơn trƣớc cuộc sống mà
Nguyễn Văn Thạc và đồng đội đánh đổi tính mạng để giành lấy cho đời nay
và mai sau”[41, tr. 316 – 317].

Báo chí những năm 2005 lấy hiện tƣợng này làm đề tài, có rất nhiều tờ
báo, bài báo nói về sự xuất hiện của hai cuốn sách. Trên báo Tuổi trẻ thành phố
Hồ Chí Minh ra ngày 21/5/2005:“Bạn sẽ đọc vào trang sách và bạn thấy mình
đang đọc một trái tim, đọc một tâm hồn Một tình yêu lí tƣởng tiêu biểu của
thanh niên thời chiến tranh ấy. Chàng trai ra trận, cô gái đi học xa, tình yêu
vƣợt không gian và thời gian chín lên trong tình cảm nhớ thƣơng mong ngóng
đợi chờ hi vọng của hai ngƣời ”
Sự xuất hiện của hai cuốn nhật ký đã gây chú ý cho rất nhiều độc giả
trong và ngoài nƣớc, ở Việt Nam nó đã gây ra một cơn sốt đọc sách. Nhƣ đã
nói, có rất nhiều bài báo, bài phê bình viết về hiện tƣợng văn học này. Và có lẽ
công chúng văn học không rời mắt khỏi hai cuốn nhật ký kể từ năm 2005 đến
nay. Không chỉ là đề tài để các nhà phê bình nghiên cứu văn học tìm hiểu, mà
hai cuốn nhật ký cùng với số phận khá đặc biệt của nó tạo sức hút lớn đối vói
độc giả và khi nó đƣợc chuyển thể thành phim thì sức hấp dẫn còn tăng lên gấp
bội. Hai cuốn nhật ký đã khơi nguồn cảm hứng cho các đạo diễn để rồi hai bộ

8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

phim đƣợc chuyển thể từ nội dung hai cuốn nhật ký ấy đã ra đời. Đạo diễn
Đặng Nhật Minh đã rất thành công khi dàn dựng bộ phim Đừng đốt dựa trên
cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâm, sau khi công chiếu đã thu hút hàng vạn lƣợt
khán giả theo dõi. Còn Mãi mãi tuổi hai mƣơi có nhắc nhiều đến Hoàng Nhuận
Cầm và chính nhà thơ đã dàn dựng thành công bộ phim Mùi cỏ cháy dựa trên
những ghi chép chân thực của Nguyễn Văn Thạc.
Trong phạm vi nghiên cứu của mình, chúng tôi mới tìm đƣợc những
đánh giá, nhận xét, những bài phê bình riêng lẻ về hai cuốn nhật ký này.
Điểm chung của các ý kiến là họ đều đi sâu vào khẳng định chất thực của
chúng; rằng hai cuốn nhật ký dù đƣợc chúng tôi coi là những văn bản tác
phẩm văn học, song đƣợc viết không nhằm mục đích sáng tạo nghệ thuật,

công bố rộng rãi. Chính vì thế, giá trị của nó đƣợc khẳng định chủ yếu về nội
dung hơn là nghệ thuật; về giá trị tƣ tƣởng hơn là về kỹ thuật viết. Với luận
văn này, chúng tôi đồng thuận với quan điểm đó song còn muốn đi sâu phân
tích để trầm tích văn hóa, nghệ thuật bên dƣới lớp ngôn từ ấy để thấy đƣợc
tính chất nghệ thuật của chúng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài này cứu là “cái tôi tác giả” trong hai cuốn
nhật ký: Nhật ký Đặng Thùy Trâm và Mãi mãi tuổi 20của Nguyễn Văn Thạc.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Với đối tƣợng là cái tôi tác giả, luận văn sẽ sử dụng cuốn Nhật ký Đặng
Thùy Trâm Nhà xuất bản Hội nhà văn năm 2005,khổ 13*20,5cm; Mãi mãi tuổi
hai mƣơi, Nhà xuất bản Thanh niên, năm 2005, khổ 13*19cm.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1.Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cái tôi tác giả trong hai cuốn nhật ký, chúng tôi hƣớng tới
việc hiểu về tâm hồn của một thế hệ những chiến sĩ tham gia cuộc chiến tranh

9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

chống Mỹ ác liệt của thế kỷ XX, đồng thời cũng khám phá những giá trị nghệ
thuật ẩn chứa trong hai cuốn nhật ký.
Hai cuốn nhật ký viết chân thực về chiến tranh Việt Nam những năm
tháng chống Mỹ. Nó lại xuất hiện rất đặc biệt, 30 năm sau khi chiến tranh kết
thúc. Cho nên nghiên cứu hai cuốn nhật ký cũng hƣớng tới việc nhìn nhận,
kiểm chứng văn học trong chiến tranh của Việt Nam.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn sẽ đi sâu vào nghiên cứu những biểu hiện cụ thể của cái tôi tác
giả trong hai cuốn nhật ký ở những phƣơng diện nhƣ: Cái nhìn yêu đời, lạc

quan; Niềm khao khát lý tƣởng, ƣớc mơ thực hiện lý tƣởng, sự suy tƣ về đất
nƣớc và con ngƣời; Những suy tƣ trăn trở đời thƣờng.
Dựa trên cơ sở lý luận về cái tôi tác giả luận văn mong góp phần làm
sáng tỏ hơn những biểu hiện của cái tôi tác giả qua một số những yếu tố, tín
hiệu nghệ thuật của hai cuốn nhật ký nhƣ nhân vật, giọng điệu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi có sử dụng kết hợp các phƣơng pháp nghiên
cứu sau:
Phƣơng pháp lịch sử - xã hội
Phƣơng pháp tiểu sử
Phƣơng pháptiếp cận thi pháp học
Phƣơng pháp hệ thống
Phƣơng pháp thống kê, khảo sát
Phƣơng pháp phân tích tổng hợp
Phƣơng pháp đối chiếu, so sánh
6. Đóng góp của luận văn
Nhật ký chiến tranh là một thể loại khá mới mẻ. Cũng vì lẽ đó mà những
đóng góp của nó với dòng văn học viết về đề tài chiến tranh còn chƣa đƣợc
đánh giá đúng mực. Nghiêncứu hai cuốn nhật ký này, luận văn mong

10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

muốnmang lại sự mới mẻ và những đóng góp của nhật ký trong đời sống văn
học Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và mục lục, luận văn có cấu trúc gồm
3 chƣơng:
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN. KHÁI QUÁT VỀ HAI TÁC GIẢ VÀ
LƢỢC KỂ VỀ HÀNH TRÌNH CỦA HAI CUỐN NHẬT KÝ TRONG HƠN 30 NĂM

CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁI TÔI TÁC GIẢ TRONG NHẬT KÝ
ĐẶNG THÙY TRÂM VÀ MÃI MÃI TUỔI HAI MƢƠI CỦA NGUYỄN VĂN THẠC
CHƢƠNG 3: BIỂU HIỆN CỦA CÁI TÔI TÁC GIẢ TRONG NHẬT KÝ
ĐẶNG THÙY TRÂM VÀ MÃI MÃI TUỔI HAI MƢƠI CỦA NGUYỄN VĂN THẠC











11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN. KHÁI QUÁT VỀ HAI TÁC GIẢ VÀ LƢỢC KỂ VỀ
HÀNH TRÌNH CỦA HAI CUỐN NHẬT KÝ TRONG HƠN 30 NĂM
1.1. Tác giả và cái tôi tác giả trong văn học
1.1.1 Tác giả văn học
Nếu nhà văn là thuật ngữ có chức năng xác định nghề nghiệp thì tác giả
là khái niệm xác định vai trò của chủ thể gắn liền với cá tính sáng tạo, với
phong cách của nhà văn trong mỗi tác phẩm cụ thể. Phạm trù tác giả không chỉ
dùng để xác định danh tính mà còn có ý nghĩa đánh giá chất lƣợng của sự sáng
tạo. Nó gắn liền với ý thức về chủ thể sáng tạo, với phong cách cá nhân và sự
độc đáo của cái thế giới nghệ thuật mà tác phẩm tạo ra trong sự cảm thụ của

ngƣời đọc.
Tác giả là một khái niệm cơ bản đƣợc sử dụng trong nghiên cứu và phê
bình văn học. Tác giả thƣờng đƣợc hiểu là ngƣời sáng tạo ra tác phẩm văn học.
Đó có thể là một cá nhân hoặc một tập thể sáng tạo nhằm thể hiện tâm tƣ, tình
cảm, thái độ của mình trƣớc thực tại.
Trong Từ điển thuật ngữ văn họcđã định nghĩa tác giả:“Nhìn bề ngoài,
tác giả là những ngƣời làm ra văn bản ngôn từ, bài thơ, bài báo, tác phẩm văn
học. Về thực chất, tác giả văn học là ngƣời làm ra cái mới, ngƣời sáng tạo ra
các giá trị văn học mới. Sự bắt chƣớc, mô phỏng, theo đuổi thời thƣợng hoặc
sáng tác không có bản sắc không làm nên tác giả văn học đích thực”[8, tr 190].
Tác giả văn học nhƣ vậy phải là những ngƣời có tƣ cách, có tài năng và
có ý thức đầy đủ, sâu sắc về nghề nghiệp, phải coi sáng tạo nghệ thuật là máu
thịt, là tâm huyết của đời mình. Nhƣ vậy tác giả mới thực sự trở thành tác giả
của các sáng tác bất hủ, có sức sống không chỉ vói một thời mà với muôn đời.
Tác phẩm văn học do quá trình tiếp nhận ở ngƣời đọc, có thể tham gia
vào các môi trƣờng xã hội khác nhau, thuộc các giai đoạn lịch sử khác nhau.

12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

Cũng từ đó tác phẩm nghệ thuật có sinh mệnh và có một đời sống lịch sử riêng.
Hệ quả tất yếu của điều đó là: đời sống lịch sử của tác phẩm văn học là sự vận
động, chảy trôi không ngừng trong cảm quan của mỗi thế hệ bạn đọc cũng nhƣ
trong sự thăng trầm của lịch sử. Tác phẩm nghệ thuật đó khi đến tay ngƣời đọc
cũng có nghĩa là nó đƣợc trả về với đời sống hiện thực, chịu sự kiểm nghiệm
của công luận và thời gian. Một tác phẩm văn học thực sự có sức sống khi nó
đƣợc tiếp nhận ở nhiều bình diện khác nhau.
Một tác phẩm văn học chân chính bao giờ cũng là tấm gƣơng phản ánh
đời sống và nhận thức cuộc sống thông qua lăng kính chủ quan của ngƣời nghệ
sĩ. Việc tìm hiểu những vấn đề liên quan đến tác giả, đến quá trình sáng tạo của

họ là việc cần thiết. Mỗi nhà văn đều có một xuất thân riêng, một hoàn cảnh
riêng, chịu ảnh hƣởng của một nền giáo dục riêng. Thực tế sáng tác của các nhà
văn đã cho thấy điều đó. Tất cả những vấn đề trên không ít thì nhiều cũng đều
ảnh hƣởng, tác động đến quá trình lao động nghệ thuật của tác giả, nó thể hiện
trong tƣ tƣởng của mỗi nhà văn trong tác phẩm của họ. Với những tác phẩm
đƣợc sáng tạo trong những hoàn cảnh lịch sử văn hóa đặc biệt, rất cần thiết phải
tìm hiểu thái độ và phản ứng của tác giả trƣớc những biến cố lớn lao, những
thăng trầm của lịch sử. Mỗi giai đoạn đều có những biến cố về lịch sử, chính
trị, văn hóa, tƣ tƣởng buộc ngƣời viết phải bày tỏ thái độ của mình bằng hành
động cụ thể hoặc thông qua lao động sáng tạo nghệ thuật.
1.1.2. Cái tôi tác giả trong văn học
Cái tôi tác giả hay còn gọi là hình tƣợng tác giả, theo lý thuyết thi
pháp học hiện đại là sự nhập thân của ý thức ngƣời sáng tạo trong tác phẩm
nghệ thuật.
Mọi loại hình nghệ thuật trong đó có văn học là sản phẩm trực tiếp của tƣ
duy, của ý thức, và đƣơng nhiên nó là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan” (Lê nin). Tác phẩm văn học mặt khác, là một đơn vị sáng tác của nhà
văn, là đối tƣợng tiếp nhận của ngƣời đọc, là chỉnh thể trung tâm của hoạt động

13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

văn học. Nó là sự kết tinh quá trình tƣ duy nghệ thuật của tác giả, biến những
hiện thực chủ quan trong tƣ duy và tâm hồn nhà văn thành những biểu hiện
nghệ thuật cụ thể trên trang giấy. Tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của
mỗi ngƣời cầm bút. Chúng đƣợc phôi thai, phát sinh, phát triển nhờ sự lao động
miệt mài của mỗi ngƣời tạo tác. Chính vì thế, vô hình chung, dù vô tình hay cố
ý thì dấu ấn của chủ thể sáng tạo sẽ đƣợc phản ánh dù ít dù nhiều trong thế giới
nghệ thuật của tác phẩm. Sáng tác văn chƣơng là sản phẩm mang tính chủ quan
cao độ. Thực tế đƣợc phản ánh qua cái nhìn chủ quan của tác giả. Tƣ tƣởng,

cảm xúc, cảm quan về thế giới thực tại, trí tƣởng tƣợng, năng lực hƣ cấu, sự lựa
chọn đề tài, chủ đề, sự vận dụng thủ pháp nghệ thuật, cách sử dụng ngôn từ
đều đƣợm màu sắc chủ quan của ngƣời sáng tạo ra thế giới nghệ thuật của tác
phẩm. Dấu ấn của chủ thể sáng tạo để lại trong tác phẩm thể hiện rõ nét trong
cái tôi tác giả.
Tác phẩm văn chƣơng – chỉnh thể nghệ thuật – trong sự vận động của nó
đã biểu lộ sự nhìn nhận đánh giá cuộc sống của ngƣời nghệ sĩ. Sự nhìn nhận,
đánh giá đó đối với hiện thực thể hiện cá tính sáng tạo của tác giả.
Cái tôi tác giả trong tác phẩm văn học tồn tại với tƣ cách là một trong
những yếu tố quyết định của phong cách cá nhân nhà văn, của phong cách tác
phẩm nghệ thuật.
Qua sự tự thể hiện mình trong tác phẩm văn học, các nhà văn đã khẳng
định phong cách nghệ thuật của mình. Dĩ nhiên khi xác định con đƣờng đi theo
nghệ thuật, các nhà văn không bao giờ muốn sáng tạo ra những tác phẩm nghèo
nàn nhạt nhẽo bởi “Cái bình thƣờng là cái chết của nghệ thuật” (Victo Huygo).
Trong nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng, cá tính riêng biệt bao
giờ cũng đƣợc đề cao. Không ai muốn mình giống ngƣời khác và cũng không
ai muốn ngƣời khác giống mình. Nhà văn chân chính thực sự sẽ tìm mọi cách,
bằng tài năng của mình, để tạo cho mình một phong cách cá nhân riêng biệt mà
không thể tìm thấy ở bất kỳ một ngòi bút nào khác.

14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

Nhà văn Nga thế kỷ XIX Lep Tônxtoi trong Toàn tập tác phẩm đã nói:
“ Khi chúng ta đọc hoặc quan sát một tác phẩm nghệ thuật của một tác giả
mới thì câu hỏi chủ yếu nảy ra trong lòng chúng ta bao giờ cũng là nhƣ sau
“Nào anh ta là con ngƣời nhƣ thế nào đây? Anh có gì khác với tất cả những
ngƣời mà tôi biết, và anh có thể nói cho tôi một điều gì mới về việc cần phải
nhìn cuộc sống của chúng ta nhƣ thế nào?”( ) Nếu nhƣ đó là một nhà văn cũ

đã quen thuộc thì câu hỏi không phải là “Anh là ngƣời nhƣ thế nào?” mà sẽ là
“Nào, anh có thể nói cho tôi thêm một điều gì mới? Bây giờ anh sẽ lí giải cuộc
sống cho tôi từ khía cạnh nào?”[15, tr. 201].
Lep Tônxxtoi còn nói: Khi đọc tác phẩm văn học, hứng thú chủ yếu
chính là tính cách của tác giả thể hiện trong đó. Qua tác phẩm văn học của
mình các nhà văn đã góp “tiếng nói của mình”(Turghenev) vào kho tàng văn
học dân tộc. Ý niệm về tiếng nói của mình, theo nhà văn Acmeni Đêrênik
Đêmirchian trong bài Suy nghĩ về văn học đăng trên báo Văn học(số 2/2/1957)
thì: “Cái của riêng mình dù nó là nhỏ bé nhƣng là của riêng mình – đó chính là
cái có giá trị lớn trong văn học và đem lại sự thích thú cho độc giả” [15, tr. 91].
Nếu một nhà văn trong suốt quãng đƣờng lao động nghệ thuật mà không
tạo ra cái riêng, cái mới gây ấn tƣợng với độc giả, với thời đại thì đó không
phải là một tác giả đáng chú ý cho dù anh ta có sáng tác bao nhiêu đi chăng
nữa. Cho nên mỗi tác giả văn học đều để lại dấu ấn riêng thể hiện cái tôi cá
nhân của mình từ đó đọng lại trong tâm trí bạn đọc.
Tác giả L. Ghindơbua nghiên cứu tác giả trong thơ trữ tình đã chú ý đến
cái “Tôi” trữ tình và nhận thấy trong thơ trữ tình, nhà thơ thƣờng xuyên hình
dung về mình, tự giới thiệu về mình. Quan điểm của L. Ghindơbua gặp gỡ với
ý kiến của Hêghen khi cho rằng: Đối tƣợng cơ bản của thơ trữ tình là thế giới
nội tâm của anh ta. Trong các thể loại văn học, thơ là thể loại mà cái tôi tác giả
thể hiện rõ nhất. Còn Bonexkaia thấy tác giả biểu hiện qua nhân vật. Nhà lý
luận văn học Mỹ W. Buxơ nhấn mạnh trong các tác phẩm khác nhau có thể gặp

15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

những “tác giả hàm ẩn”khác nhau. Vấn đề then chốt nghiên cứu “tác giả hàm
ẩn” là xác định khoảng cách giữa nó và ngƣời trần thuật.
Ở các thể loại khác nhƣ kịch, tiểu thuyết, truyện ngắn, ngƣời đọc muốn
biết thái độ tác giả phải xuyên qua hệ thống nhân vật, đặc biệt là nhân vật trung

tâm thì đối với ký, ngƣời đọc nắm bắt một cách trực tiếp. Chủ thể của lời nói
nghệ thuật trong tác phẩm ký chính là bản thân ngƣời viết. Chính vì lẽ đó ngƣời
kể chuyện trong ký thƣờng lộ diện trực tiếp trong hình thức ngƣời kể chuyện
xƣng “tôi”.
Với đặc trƣng riêng của thể loại, ký bộc lộ trực tiếp cái tôi tác giả. Nếu
cái tôi của nhà tiểu thuyết đƣợc ẩn vào trong những hình tƣợng nhân vật, vào
cách đánh giá, cách nhìn đối với cuộc sống, đƣợc toát ra từ sự tƣơng quan giữa
nhiều cái nhìn, nhiều quan niệm, từ sự phức điệu đa thanh đặc trƣng cho tiểu
thuyết, và ở thơ cái tôi tác giả phải bộc lộ qua thao tác chuyển hóa thế giới nội
tâm vào nhân vật trữ tình thì ở ký cái tôi tác giả là cái tôi tự biểu hiện.
Bằng cái tôi đó, tác giả đã trình bày những vấn đề liên quan trực tiếp đến
đời sống thực của họ – những gì mà nhà văn đã sống, đã trải qua, đã thấy, đã
cảm bằng đôi mắt, bằng trái tim, bằng sự suy nghiệm của chính bản thân mình.
Không thể phủ nhận hƣ cấu nghệ thuật trong ký song xét cho cùng, những vấn
đề chứa đựng trong tác phẩm ký phải giống nhƣ một thƣớc phim tƣ liệu tạo ra
khoái cảm đặc biệt đối với ngƣời đọc bằng những thông tin thực sự chính xác.
Cái tôi trong tác phẩm ký văn học chính là cái tôi thẩm mỹ. Cái tôi ấy
gắn liền với thế giới quan thẩm mỹ của tác giả. Ở đó mỗi con số, mỗi sự kiện,
mỗi chi tiết, mỗi nhân vật tự bản thân nó đã bộc lộ cái nhìn, sự đánh giá và luận
giải của tác giả về thế giới thực tại bởi nó đã qua sự chọn lọc, nó đƣợc mài giũa
bằng giác quan nghệ thuật tinh tế của tác giả.
Trong thể ký, cái tôi là hình thức trực tiếp của hình tƣợng tác giả, đồng
thời vừa nhƣ một phƣơng thức trần thuật quan trọng với tƣ cách chức năng
nghệ thuật cái tôi đi – nghe – kể – tả – suy ngẫm – ngợi ca – phê phán – đề

16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

nghị… do vậy, cái tôi tác giả cũng là một yếu tố liên kết tác phẩm. Để có cái tôi
nhập vai đó đòi hỏi ngƣời viết ký phải có tri thức, phải có bản lĩnh văn hóa hay

nói đúng hơn là phải có chiều sâu về văn hóa và sự trải nghiệm cuộc sống. Bằng
cách đó ngƣời viết ký mới có thể trình diễn tƣ duy của mình qua từng con chữ.
1.2. Giá trị văn học của hai cuốn nhật ký
Năm 2005 có thể nói là một năm đáng nhớ của văn học Việt Nam. Sự
xuất hiện của hai cuốn nhật ký: Mãi mãi tuổi hai mƣơi và Nhật ký Đặng Thùy
Trâm đã tạo ra một cơn sốt đọc sách. Với văn hóa đọc, tƣởng chừng nhƣ sách
in đã bị xem nhẹ khi có sự xuất hiện của các phƣơng tiện thông tin đại chúng.
Hai cuốn sách đã đƣợc tái bản nhiều lần và có sự ảnh hƣởng sâu rộng khiến cho
các nhà nghiên cứu văn chƣơng buộc phải có cái nhìn nghiêm túc về thể loại
văn học đặc biệt này.
Đây vốn dĩ là những cuốn nhật ký riêng tƣ đƣợc viết ra chỉ phục vụ mục
đích cá nhân chứ không hề có ý định viết thành sách phục vụ công chúng.
Nhƣng trên thực tế, sự xuất hiện của chúng lại tạo ra sức lan tỏa rộng lớn và
thực sự hấp dẫn độc giả. Những tác phẩm này thực sự có giá trị văn học hay chỉ
là những cuốn sách đƣợc quảng bá tạo nên sự thu hút độc giả?
Theo tiêu chí phân loại của Từ điển thuật ngữ văn học, về mục đích sử
dụng của nhật ký thì những cuốn nhật ký này viết chỉ để dành riêng cho bản
thân mà không hề có ý định phổ biến rộng rãi. Do đó đây đích thực là thể tài
ngoài văn học, là nhật ký riêng tƣ. Nhật ký riêng tƣ là loại nhật ký gần với văn
học hơn cả. Tuy nhiên, cũng theo sự phân chia của cuốn từ điển trên thì “điểm
khác nhau cơ bản là ở chỗ nhật ký văn học thƣờng hƣớng về một chủ đề nhất
định và có sự ƣu tiên chú ý đến nội tâm của tác giả hoặc nhân vật trƣớc những
vấn đề, những sự kiện có ý nghĩa xã hội nhân bản rộng lớn”[8,tr.204]. Hai cuốn
nhật ký kể trên tuy viết về những suy nghĩ cá nhân mình song đều liên quan
đến một sự kiện vô cùng trọng đại của dân tộc. Đó là cuộc kháng chiến chống

17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

Mỹ. Vì sự kiện trung tâm trọng đại và lâu dài đó, nhật ký của hai tác giả là

những dòng suy nghĩ đƣợc ghi vội nơi chiến trƣờng ác liệt.
Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên trong bài viết Trang sách cuộc đời
anh đăng trên báo Tuổi trẻ TP Hồ Chí Minh, 21/5/2005 đã nhận xét: “Anh ghi
cho mình và chỉ cho mình thôi. Cuốn sổ này anh gọi Chuyện đời. Bây giờ bạn
đọc nó sẽ thấy nó vừa là nhật ký, vừa nhƣ một cuốn sổ tự tu dƣỡng, lại vừa nhƣ
những ghi chép sáng tác văn học”. Phong Điệp trong bài viết Sức sống thần kỳ
của một cuốn nhật ký(Báo Văn nghệ trẻ, 15/5/2005) cũng đã coi những trang
viết trên đƣờng hành quân “không đơn thuần là nhật ký riêng tƣ mà nó có giá
trị văn học đích thực”.
Khi tiếp xúc với Nhậtký Đặng Thùy Trâm chắc hẳn ai trong chúng ta
cũng hình dung ra đây là những dòng tâm sự của một tâm hồn lãng mạn bởi
chất trữ tình và bi tráng của nữ bác sĩ – chiến sĩ cảm nhận giữa chiến trƣờng về
những gian khổ trong chiến tranh. Nhà nghiên cứu Vƣơng Trí Nhàn đã nhận
xét: “ Cuốn nhật ký có số phận kỳ lạ nhất; cuốn nhật ký mà ngƣời con gái
cƣơng nghị, thủy chung, trong sáng đến thánh thiện đã viết với bao buồn vui
cay đắng, đớn đau và nƣớc mắt; cuốn nhật ký mà ngƣời con gái 27 tuổi đã trút
vào đó cả nỗi nhớ cháy bỏng khôn nguôi về gia đình, về những ngõ phố của Hà
Nội yên ấm, cả cơn đau xé ruột khi mỗi ngày trôi qua một đồng đội thân
thƣơng lại ngã xuống ”. Quả thực cuốn sổ nhỏ bé có sức hút ghê gớm khiến
cho Fred gìn giữ suốt 35 năm và luôn đau đáu nỗi niềm đi tìm gia đình ngƣời con
gái đó để trả lại. Giả thiết nếu những cuốn sách kia không có giá trị, không thu
hút ngƣời đọc thì chắc hẳn nó sẽ nằm sâu trong đống tro tàn đổ nát của chiến
tranh rồi. Nhƣng không, cuốn sổ nhỏ có sức hút ghê gớm đối với những ngƣời
lính bên kia chiến tuyến, khiến cho họ không thể làm theo mệnh lệnh, trái lại
đƣợc lƣu giữ một cách cẩn thận. Bản thân Fred đã nhận ra rằng những trang viết
“có số phận kỳ lạ” này đã thấm đẫm tình yêu thƣơng và lòng nhiệt thành rực
cháy nhƣ lửa vậy. Cuốn sách là đại diện cho đời sống tinh thần và lý tƣởng của

18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN


cả thế hệ thanh niên thời đó. Trong công trình Lý luận văn học do Gs Trần Đình
Sử chủ biên có nêu rõ: “Một tập nhật ký có phẩm chất văn học khi thể hiện đƣợc
một thế giới tâm hồn, khi qua những sự việc và tâm tình của cá nhân, tác giả gúp
ngƣời đọc nhìn thấy những vấn đề xã hội trọng đại”[33, tr. 349]. Đồng thời tác
giả cũng khẳng định “Hình tƣợng tác giả trong nhật ký văn học là hình tƣợng
mang tầm khái quát tƣ tƣởng, thẩm mỹ lớn lao. Nhật ký ở rừng của Nam Cao,
Nhật ký Đặng Thùy Trâm và Mãi mãi tuổi hai mƣơi của Nguyễn Văn Thạc là
trƣờng hợp tiêu biểu”[33,tr. 349].
Nhƣ vậy có thể nói hai cuốn nhật ký đƣợc lựa chọn trong đề tài này là
những nhật ký có phẩm chất văn chƣơng. Những cuốn nhật ký xuất hiện đã góp
phần không nhỏ trong việc tạo ra một chỗ đứng của thể loại nhật ký trên diễn
đàn văn học nghệ thuật Việt Nam.
1.3.Khái quát về hai tác giả, lƣợc kể hành trình hai cuốn nhật ký trong hơn
30 năm
1.3.1. Khái quát về hai tác giả
Đặng Thùy Trâm sinh ngày 26 tháng 11 năm 1942 trong một gia đình trí
thức ở Hà Nội. Bố là bác sĩ ngoại khoa Đặng Ngọc Khuê, mẹ là dƣợc sĩ Doãn
Ngọc Trâm - nguyên giảng viên trƣờng Đại học Dƣợc Hà Nội. Đặng Thùy Trâm
là chị cả của bốn chị em, cả chị và 3 em gái đều mang tên giống mẹ chỉ khác
nhau tên đệm, cho nên bạn bè và ngƣời thân đều gọi Thùy Trâm là "Thùy".
Chị từng là cựu học sinh của Trƣờng Chu Văn An, Hà Nội. Bên cạnh
việc say mê học tập, luôn giúp đỡ bạn bè gặp khó khăn, Thùy Trâm còn tích
cực tham gia câu lạc bộ thơ văn cùng khóa của trƣờng Chu Văn An, gồm có
các thành viên sau này trở thành các nhà văn, nhà thơ nhƣ Nguyễn Khoa Điềm,
Tô Nhuận Vĩ, Vƣơng Trí Nhàn Chị và các anh bạn cùng lớp Lê Văn Kiếm,
Hoàng Ngọc Kim, Dƣơng Đức Niệm kết thành nhóm phấn đấu vào Đảng. Nối
nghiệp gia đình, Thùy Trâm thi đỗ vào Đại học Y khoa Hà Nội chuyên khoa
Mắt và đƣợc nhà trƣờng cho tốt nghiệp sớm 1 năm để đi chiến trƣờng.


19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

Với kết quả học tập, thi tốt nghiệp loại ƣu, bác sĩ trẻ Thùy Trâm có thể,
hoặc nhận lời ở lại trƣờng làm cán bộ giảng dạy hoặc nhận công tác tại một
bệnh viên hoặc cơ quan nào đó ở ngay Hà Nội vì bố mẹ đều là cán bộ có uy tín,
có nhiều quan hệ trong ngành Y tế. Nhƣng thay vì ở lại miền Bắc, sau khi tốt
nghiệp chị đã xung phong vào Nam ngay. Năm 1966, Thùy Trâm xung phong
vào công tác ở chiến trƣờng B. Sau ba tháng hành quân từ miền Bắc, tháng 3
năm 1967chị vào đến Quảng Ngãi và đƣợc phân công về phụ trách bệnh viện
huyện Đức Phổ, một bệnh xá dân sự nhƣng chủ yếu điều trị cho các thƣơng
bệnh binh. Tại đây, Đặng Thùy Trâm đã không ngại khó khăn gian khổ tận tình
cứu chữa cho rất nhiều đồng chí bị thƣơng. Với lòng nhiệt tình, tận tụy sống hết
lòng vì Tổ quốc, sự nỗ lực cố gắng không ngừng chịđƣợc kết nạp vào Đảng
Cộng Sản Việt Nam ngày 27 tháng 9 năm 1968.
Ngày 22 tháng 6 năm 1970, trong một chuyến công tác từ vùng núi Ba
Tơ về đồng bằng, Đặng Thùy Trâm bị địch phục kích và hy sinh khi chƣa đầy
28 tuổi đời, 2 tuổi Đảng và 3 năm tuổi nghề.
Hài cốt của chị đƣợc nhân dân địa phƣơng mai táng tại nơi hy sinh và
luôn hƣơng khói. Sau chiến tranh, mộ của chị đƣợc đồng đội đƣa về Nghĩa
trang liệt sĩ xã Phổ Cƣờng. Năm 1990, gia đình đã đƣa hài cốt của chị về Nghĩa
trang liệt sĩ xã Xuân Phƣơng, Từ Liêm, Hà Nội.
Chị đồng thời là tác giả hai tập nhật ký đƣợc viết từ ngày 8 tháng 4
năm 1968, khi phụ trách bệnh xá Đức Phổ, cho đến ngày 20 tháng 6 năm 1970,
2 ngày trƣớc khi hy sinh. Hai tập nhật ký này đƣợc Frederic Whitehurst, cựu sĩ
quan quân báo Hoa Kỳ, lƣu giữ cho đến ngày đƣợc trả lại cho gia đình tác giả
vào cuối tháng 4.2005. Nhật ký của chị sau đó đƣợc nhà phê bình văn
học Vƣơng Trí Nhàn biên tập thành quyển sách mang tên Nhật ký Đặng Thùy
Trâm và trở thành một hiện tƣợng văn học với hơn 400.000 bản đƣợc bán trong
lần in đầu tiên. Cuốn sách đã đƣợc dịch ra nhiều thứ tiếng và đƣợc báo chí

nƣớc ngoài bình luận nhƣ một "nhật ký Anne Frank của Việt Nam".

20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

Nguyễn Văn Thạc sinh ngày 14 tháng 10 năm 1952 tại làng Bƣởi, Hà
Nội, là con thứ 10 trong 14 anh em của một gia đình thợ thủ công. Cha mẹ có
xƣởng dệt nhỏ, thuê ngƣời dệt áo len và áo sợi. Khi Mỹ gây chiến tranh phá
hoại miền Bắc, cha mẹ anh phải bán rẻ hết nhà cửa, xƣởng máy, để sơ tán về
quê tại xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm. Hợp tác xã không có việc làm, nhà lại
đông con nên tài sản gia đình nhanh chóng khánh kiệt. Bà mẹ Thạc phải đi cắt
cỏ bán lấy tiền ăn.
Nhà nghèo nên Thạc vừa đi học, vừa phải đi làm thêm giúp đỡ bố mẹ
nuôi sống gia đình. Bù lại, Thạc học rất giỏi. Suốt 10 năm học phổ thông,anh
đều đạt loại A1 (giỏi toàn diện). Năm lớp 7, Thạc đạt giải Nhì (không có giải
Nhất) học sinh giỏi Văn thành phố Hà Nội.
Khi gia đình đã sơ tán về quê ở Cổ Nhuế, Thạc học tại trƣờng cấp III
Yên Hoà B. Hằng ngày, anh phải đi bộ 4 cây số đến trƣờng học; ngày nghỉ, thì
đi bộ hàng chục cây số đến tận Thƣ viện Hà Nội để đọc sách. Tuy vất vả nhƣng
Thạc học giỏi đều tất cả các môn, đặc biệt là môn văn. Trong những năm học
phổ thông, anh đã có nhiều tác phẩm văn, thơ đƣợc đăng trên các báo, đƣợc
tuyển chọn in thành sách cùng với các tác phẩm của các tác giả thanh thiếu nhi
khác nhƣ Trần Đăng Khoa,Hoàng Nhuận Cầm
Năm lớp 10 (năm cuối bậc trung học phổ thông), anh đạt giải Nhất cuộc
thi học sinh giỏi Văn toàn miền Bắc, năm học 1969-1970. Với thành tích đó
anh đƣợc Ban Tuyển sinh Hà Nội xếp vào diện cử đi đào tạo tại Liên Xô. Tuy
nhiên học lực và hạnh kiểm chỉ là hai trong nhiều tiêu chuẩn xét cử đi học nƣớc
ngoài thời đó. Nhƣng theo chủ trƣơng chung, phần lớn những học sinh xuất sắc
năm đó đều phải ở lại để tham gia quân đội. Trong khi chờ gọi nhập ngũ, Thạc
đã xin thi và đỗ vào khoa Toán – Cơ của trƣờng Đại học Tổng hợp Hà Nội.

Vừa học năm thứ nhất, anhvừa tự học thêm để hoàn thành chƣơng trình năm
thứ 2 và đƣợc nhà trƣờng đồng ý cho lên học thẳng năm thứ 3.

×