Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Tìm hiều vấn đề Tự do hoá tài chính ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.98 KB, 65 trang )

Các thuật ngữ và các từ viết tắt
Dcs
Các nớc phát triển
DNNN
Doanh nghiệp nhà nớc
Dntn
Doanh nghiệp t nhân
Fdi
đầu t trực tiếp nớc ngoài
Htx
Hợp tác xã
Khhtt
Kế hoạch hóa tập trung
LDCs
Các nớc đang phát triển
Nhnn
Ngân hàng nhà nớc
NHTM
Ngân hàng thơng mại
Nhtmqd
Ngân hàng thơng mại quốc doanh
NHTW
Ngân hàng trung ơng
Nsnn
Ngân sách Nhà nớc
Oda
Viện trợ phát triển chính thức
Pfi
Đầu t gián tiếp nớc ngoài
Sxkd
Sản xuất kinh doanh


Tctc
Tổ chức tài chính
Tctd
Tổ chức tín dụng
Tdhtc
Tự do hoá tài chính
Tnhh
Trách nhiệm hữu hạn
Tttc
Trung tâm tâm tài chính
Ubcknn
Uỷ ban chứng khoán nhà nớc
Ubnd
Uỷ ban nhân dân
Usd
Đô la Mĩ
Xhcn
Xã hội chủ nghĩa
Lời mở đầu
1
Trong gần ba thập kỷ qua, xu hớng tự do hoá tài chính với mục tiêu chính là
phát triển một hệ thống tài chính dựa trên cơ sở thị trờng, hội nhập vào thế giới
nhằm huy động tiết kiệm, phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả và thúc
đẩy tăng trởng ( World bank - 1989), đã hình thành và ngày càng chi phối sâu sắc
nhiều nền kinh tế trên thế giới. Trong khi đó ở Việt Nam, tự do hoá tài chính vẫn
còn là một thuật ngữ mới mẻ và vì Việt Nam không chịu ảnh hởng trực tiếp của
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua trong khu vực, nhiều ngời cho rằng xu
hớng trên vẫn cha đợc hình thành ở đây.
Thực tế là ngay từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, Việt Nam đã thực hiện rất
nhiều những cải cách về thể chế, chính sáchvà cơ chế quản lý có liên quan đến nền

kinh tế tài chính mà về bản chất là đang thực hiện tự do hoá tài chính. Quá trình
đó bớc đầu đã đạt đợc những thành tựu nhất định, góp phần vào sự tăng trởng và
phát triển kinh tế của nớc ta trong những năm qua, song bên cạnh đó vẫn còn
nhiều tồn tại, vớng mắc cần đợc nghiên cứu sâu hơn về lý luận và đánh giá chính
xác thực trạng để từ đó đề ra một lộ trình thực hiện tự do hoá tài chính hợp lí, có
thể khai thác đợc những lợi ích đồng thời tránh đợc những rủi ro mà tự do hoá tài
chính có thể mang lại. Với ý nghĩa ấy, em quyết định chọn nghiên cứu đề tài "Tìm
hiều vấn đề Tự do hoá tài chính ở Việt Nam" cho khoá luận tốt nghiệp của
mình.
Dựa trên hệ thống lý thuyết về tự do hoá tài chính, đặc biệt là lý thuyết của
trờng phái tân cổ điển, và những thực tế về quá trình thực hiện tự do hoá tài chính
ở Việt Nam từ năm 1989 đến nay, đề tài cố gắng tìm hiểu bản chất và vai trò của
tự do hoá tài chính để thấy đợc sự cần thiết của nó đối với quá trình phát triển kinh
tế của nớc ta đồng thời đánh giá thực trạng đổi mới tài chính và nêu lên một số
nhận xét gợi mở về định hớng tự do hoá tài chính ở Việt Nam.
Phù hợp với trình tự lôgic đó, kết cấu của đề tài gồm ba chơng:
Chơng 1. Khái luận về tự do hoá tài chính: đợc bắt đầu bằng việc nghiên
cứu khái niệm tự do hoá tài chính và nội dung các khía cạnh cơ bản của tự do hoá
2
tài chính. Sau đó, các vấn đề về trình tự tự do hoá tài chính, những lợi ích và mặt
trái của tự do hoá tài chính tiếp tục đợc trình bày và cuối cùng là tóm tắt quá trình
tự do hoá trên thế giới.
Chơng 2. Tự do hoá tài chính ở Việt Nam: dựa trên những luận điểm phân
tích ở chơng 1, khẳng định sự cần thiết phải tiến hành tự do hoá tài chính tại Việt
Nam, sau đó đi sâu vào nghiên cứu và đánh giá quá trình tự do hoá tài chính ở Việt
Nam từ sau đổi mới, đặc biệt là từ năm 1989 đến nay.
Chơng 3. Một số quan điểm cơ bản và định hớng giải pháp thực hiện tự do
hoá tài chính ở Việt Nam trong thời gian tới: phân tích và dự báo bối cảnh trong
nớc và quốc tế tác động đến quá trình tự do hoá tài chính ở Việt Nam đồng thời
nêu lên những quan điểm cần quán triệt trong quá trình thực hiện tự do hoá tài

chính. Kết thúc chơng 3 là một số kiến nghị về định hớng thực hiện và các điều
kiện cần thiết đảm bảo cho tự do hoá tài chính đợc thực hiện thành công ở Việt
Nam.
3
Chơng 1. Khái luận về tự do hoá tài chính
1.1. Khái niệm
Trong các hoạt động kinh tế, vốn là một nguồn lực đóng vai trò hết sức
quan trọng. Trong khi đó, trong nền kinh tế, có những ngời thừa vốn, lại có những
ngời thiếu vốn, vì thế hệ thống tài chính nhằm mục đích thực hiện việc luân
chuyển nguồn lực khan hiếm này từ nơi thừa đến nơi thiếu. Thông qua hệ thống tài
chính, vốn đợc luân chuyển theo nhiều cách khác nhau. Về tổng thể, hệ thống tài
chính quốc gia có cấu trúc nh sau (xem hình 1.1)
Hình 1.1. cấu trúc hệ thống tài chính quốc gia.
Trong đó:
- Ngời thừa vốn: Hộ gia đình, doanh nghiệp, chính phủ, ngời nớc ngoài.
- Ngời thiếu vốn: Doanh, nghiệp, Chính phủ , Hộ gia đình, Ngời nớc ngoài
-Trung gian tài chính bao gồm các Ngân hàng thơng mại, các quỹ tín dụng, quỹ
bảo hiểm, quỹ đầu t, quỹ hu trí, công ty bảo hiểm, công ty tài chính...
-Thị trờng tài chính gồm các thị trờng tiền tệ, thị trờng chứng khoán hay thị tr-
ờng vốn, thị trờng ngoại hối.
Dới những điều kiện nhất định, hệ thống tài chính quốc gia sẽ hoà vào các
hệ thống khác tạo ra hệ thống tài chính quốc tế có câú trúc nh sơ đồ này.
4
Tài chính gián tiếp
Trung gian tài chính
Người thiếu vốn
Thị trường tài chính
Người thừa vốn
VốnVốn
Vốn Vốn

Tài chính trực tiếp
Vậy tự do hoá tài chính là gì? Tự do hoá tài chính là giảm thiểu sự can
thiệp của nhà nớc vào các quan hệ và giao dịch tài chính. Các hoạt động trong
hệ thống tài chính nói trên đợc tự do thực hiện theo tín hiệu thị trờng.
Bản chất của tự do hoá tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội tại
vốn có của thị trờng, là chuyển vai trò điều tiết tài chính từ "bàn tay can thiệp"
hay "bàn tay hữu hình" của chính phủ sang "bàn tay vô hình" của thị trờng,
chuyển từ quản lý bằng hành chính sang qui luật thị trờng và vì vậy tự do hoá tài
chính nằm ở trung tâm vấn đề muôn thuở của nền kinh tế là giải quyết mâu thuẫn
giữa vai trò của nhà nớc và vai trò của thị trờng, đặc biệt là khi vị trí của tài chính
đang ngày một quan trọng hơn không chỉ đối với từng quốc gia mà còn đối với
từng khu vực và toàn cầu. Tài chính là một phạm trù rất rộng lớn và phức tạp
xuyên suốt từ huy động tới phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính - tiền tệ có
hạn sao cho có hiệu quả nhất đến toàn bộ nền kinh tế xã hội.
Theo Ngân hàng thế giới (1989), mục tiêu chính của TDHTC là phát triển
một hệ thống tài chính dựa trên cơ sở thị trờng, hội nhập vào thế giới để nhằm huy
động tiết kiệm, phân bổ các nguồn lực có thể đầu t trong nớc và bên ngoài một
cách có hiệu quả và thúc đẩy tăng trởng. Kết quả của tự do hoá tài chính thờng đợc
thể hiện bằng tỷ số giữa tiền mở rộng (tiền mặt và tiền gửi trong hệ thống NHTM)
trên thu nhập quốc dân (tỷ lệ này của các nớc châu á trung bình là 60%GDP, của
châu Phi chỉ có 20%GDP trong thập kỷ 90 của thế kỷ XX).
Tự do hoá tài chính bao gồm các khía cạnh cơ bản sau:
-Tự do hoá lãi suất: đây đợc coi là hạt nhân của tự do hoá tài chính trong n-
ớc, trong đó, lãi suất phải do thị trờng quyết định tuỳ thuộc vào cung cầu về đầu t,
vào mức tiết kiệm và thu nhập trong nền kinh tế.
- Tự do hoá hoạt động phân bổ tín dụng: nguồn tín dụng đợc phân bổ dựa
trên lãi suất thị trờng và mức độ tin cậy của ngời đi vay chứ không phải bằng các
quyết định hành chính.
- Tự do hoá tài khoản vốn: Tài khoản vốn trong cán cân thanh toán của một
quốc gia bao gồm các giao dịch đầu t vào trong nớc và ra nớc ngoài, vay và cho

vay quốc tế ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Tự do hoá cho phép một nớc tự do
5
xuất khẩu hoặc nhập khẩu vốn với nớc ngoài thông qua các hình thức FDI, đầu t
gián tiếp (vốn cổ phần), vay và cho vay nợ.
-Tự do hoá các dịch vụ tài chính: cho phép các ngân hàng, các tổ chức tài
chính trong và ngoài nớc đợc tự do tham gia cung cấp các dịch vụ tài chính trên thị
trờng và không phân biệt đối xử giữa các nhà cung cấp dịch vụ tài chính này.
Trong quá trình thực hiện tự do hoá tài chính, các khía cạnh cơ bản trên có
thể đợc thực hiện đồng thời cùng một lúc, cũng có thể đợc thực hiện theo từng bớc
khác nhau sao cho phù hợp với bối cảnh quốc tế và đặc diểm của từng quốc gia.
Cách thức tiến hành nh vậy đợc gọi là trình tự tự do hoá tài chính .
1.2. Trình tự tự do hoá tài chính .
Thực tế quá trình tự do hoá tài chính trên thế giới cho thấy không có một
trình tự tự do hoá tài chính chung nào cho tất cả các nớc. Các quốc gia khác nhau
thực hiện tự do hoá tài chính theo các trình tự hoàn toàn khác nhau. Bảng 1.2 cho
ví dụ về trình tự tự do hoá tài chính của hai nớc rất gần với Việt Nam trong khu
vực là Indonesia và Malaysia, trong đó cho thấy Indonesia có xu hớng thực hiện
các biện pháp tự do hoá tài chính đối nội trớc khi tự do hoá tài khoản vãng lai trong
khi Malaysia lại thực hiện tự do hoá tài khoản vãng lai trớc.
Bảng 1.2. Tình hình TDHTC ở một số nớc Đông Nam á trớc khủng hoảng 1997
Indonesia Malaysia
Tự do lãi suất Từ 1983 Từ 1991 (trừ khu vựckinh tế u tiên)
Phân bổ tín
dụng
Tự do hoá năm 1983, kiểm soát
lại năm 1995
Tỉ lệ dự trữ
ngân hàng
3% từ năm 1996, ( không tính
tiền mặt vào dự trữ)

Tăng từ 5.5% (1989) lên 9.5%
(1994)
FDI
Từ đầu 1990, doanh nghiệp
100% vốn (trừ một số lĩnh vực)
Từ 1987, doanh nghiệp 100% vốn
nớc ngoài nếu xuất khẩu 80%.
Cuối 1980 cho phép công ty chứng
khoán nớc ngoài hoạt động.
PFI
Sở hữu cổ phần nớc ngoài tối đa
là 49%
Ngời nớc ngoài nắm tối đa 30% cổ
phần của một công ty đợc niêm yết
Vay nợ nớc
ngoài.
Từ cuối năm 1980, vay nợ nớc
ngoài đợc tự do hoá
Thành lập trung tâm tài chính hải
ngoại năm 1990
Nguồn: Tổng hợp dựa trên tài liệu tham khảo (5) và (7)
6
Trình tự tự do hoá tài chính mà các nớc lựa chọn phụ thuộc vào đặc điểm
riêng có và định hớng chiến lợc của các nhà lập chính sách. Tuy nhiên, theo Mc
Kinnon, với một nớc có những đặc điểm thông thờng thì trình tự tối u hoá các
chính sách tài chính trong quá trình chuyển từ sự kiểm soát tập trung sang nền
kinh tế thị trờng đầy đủ, hội nhập vào thế giới cần đợc tiến hành theo các bớc nh
sau:
Trớc khi lạm phát giá cả có khả năng giảm dần và thị trờng vốn đợc mở ra
theo hớng cho vay tự do, thì yêu cầu đầu tiên là phải đạt đợc sự cân đối tài chính

của chính phủ trung ơng. Kiểm soát tài khoá nên đi trớc tự do hoá tài chính. Tại
sao vậy? Sự thâm hụt ngân sách quá lớn của chính phủ trong điều kiện thị trờng tài
chính cha phát triển (để có thể phát hành trái phiếu chính phủ) thờng dẫn đến việc
Ngân hàng trung ơng phát hành nội tệ quá mức để tài trợ thâm hụt ngân sách gây
ra lạm phát cho nền kinh tế. Phân tích bớc thứ hai trong quá trình tự do hoá tài
chính sẽ cho thấy điều này ảnh hởng xấu đến quá trình tự do hoá tài chính nh thế
nào.
Bớc thứ hai trong trình tự tự do hoá tài chính là việc mở cửa thị trờng vốn
trong nớc sao cho ngời gửi tiền nhận đợc lãi suất thực dơng (tự do hoá lãi suất).
Việc vay và cho vay không hạn chế giữa các doanh nghiệp và hộ gia đình chỉ có
thể diễn ra thuận lợi khi mức giá cả đợc ổn định và các thâm hụt tài khoá đợc loại
trừ. Thật vậy, trong điều kiện lạm phát quá cao, ngời cho vay sẽ bị thiệt do lãi suất
thực có xu hớng âm , điều này sẽ cản trở hành vi cho vay của ngời có vốn.
Song song với tự do hoá lãi suất là tự do hoá hoạt động của các ngân hàng
và việc phân bổ các nguồn tín dụng. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng chỉ đợc giải
phóng khỏi các đòi hỏi dự trữ phiền hà và các chỉ dẫn chính thức trong việc định
lãi suất tiêu chuẩn đối với tiền gửi vào và tiền cho vay sau khi việc kiểm soát tài
khoá chặt chẽ đợc bảo đảm, sao cho chính phủ không còn cần phải đánh thuế lạm
phát hoặc đánh thuế vào khoản tiền tích trữ quá mức của ngời gửi tiền để có thu
nhập. Nh vậy, một lần nữa, kiểm soát tài khoá lại phát huy vai trò là một bớc đệm
quan trọng trong trình tự tự do hoá tài chính.
7
Sau khi các ngân hàng đã quen với cách thức hoạt động độc lập theo cơ chế
thị trờng, bớc tiếp theo là mở rộng sự tham gia của các trung gian tài chính mới,
cho phép cả các tổ chức tài chính nớc ngoài hoạt động. Tuy nhiên quy chế này
cũng cần đợc nới lỏng dần dần bởi nếu nh hệ thống tài chính đợc nới lỏng hoàn
toàn và bất ngờ thì các tổ chức mới tham gia sẽ mời chào lãi suất cao hơn các lãi
suất mà các tổ chức tài chính hiện có đang trả nhằm cạnh tranh giành tiền gửi và
do vậy buộc các ngân hàng đang hoạt động phải trả lãi suất thị trờng đối với tất cả
các khoản tiền gửi (cũ lẫn mới) mặc dù lẽ ra lãi suất đó chỉ đáng trả đối với các

khoản vay mới. Kết quả là các ngân hàng này phải chịu lỗ về vốn đáng kể. Và khi
các khoản vay này quá lớn so với giá trị tài sản của ngân hàng thì điều này có thể
sẽ dẫn đến phá sản.
Cuối cùng, khi thị trờng vốn trong nớc đợc tự do hoá hoàn toàn tức là việc
vay và cho vay trong nớc diễn ra tự do theo lãi suất cân bằng ( không bị hạn chế)
và tỉ lệ lạm phát trong nớc đợc kiềm chế đến mức việc phá giá đồng tiền theo tỉ giá
hối đoái hiện hành không còn cần thiết thì mới tiến hành tự do hoá tài khoản vốn:
cho phép các doanh nghiệp, hộ gia đình vay hoặc gửi tiền tự do trên các thị trờng
vốn quốc tế, cho phép mua bán chứng khoán để huy động vốn tự do, và cuối cùng
là chuyển đổi ngoại tệ tự do trên tài khoản vốn.
1.3. Vai trò của tự do hoá tài chính đối với nền kinh tế.
1.3.1. Những lợi ích của tự do hoá tài chính .
a) Góp phần huy động đợc nguồn vốn lớn hơn và phân bổ vốn có hiệu quả
hơn.
Trớc hết, xét về nguồn vốn trong nớc, tự do hoá tài chính có thể nâng cao tỷ
lệ tiết kiệm của t nhân so với thu nhập và mở ra cách thức phân bổ vốn tốt hơn
thông qua việc mở rộng và đa dạng hoá thị trờng tài chính mà ở đó các cơ hội đầu
t cạnh tranh nhau để thu hút các dòng tiết kiệm và thị trờng và thậm chí có khuynh
hớng làm bình đẳng phân phối thu nhập.
8
Theo Mc Kinnon và Shaw (1973) việc quản lý lãi suất chính thức trong một
môi tròng lạm phát cao sẽ làm cho lãi suất thực có xu hớng âm. Đến lợt nó lãi suất
thực âm lại giới hạn sự phát triển của các tài sản nợ và có trong hệ thống tài chính.
Hơn nữa lãi suất thực âm buộc ngời tiết kiệm phải chuyển các khoản tiết kiệm của
mình từ các tổ chức tài chính đến đầu t vào bất động sản, vàng, ngoại tệ nhằm
chống lại sự mất giá từ lạm phát. Và hậu quả của việc thay đổi danh mục đầu t này
sẽ làm cho các ngân hàng và các tổ chức trung gian tài chính phi ngân hàng thiếu
các nguồn vốn vay cho các khu vực còn lại của nền kinh tế.
Khuyến nghị chính sách cho vấn đề này là quá trình tự do hoá tài chính
bằng bãi bỏ lãi suất trần cần phải đợc thực hiện tại những nớc nơi mà hệ thống tài

chính đang bị kiềm chế. Quá trình này không chỉ làm tăng tiết kiệm và những
nguồn vốn có thể cho vay mà còn làm cho việc phân bổ những nguồn vốn đó có
hiệu quả hơn và do đó góp phần dẫn đến một mức tăng trởng kinh tế cao hơn.
Về phía nớc ngoài, tự do hoá tài khoản vốn tạo cơ hội cho các nhà đầu t nớc
ngoài đầu t vào trong nớc qua các kênh FDI, PFI đóng góp một nguồn vốn vô cùng
quan trọng cho nền kinh tế. Mặt khác, các nhà đầu t vì động cơ lợi nhuận nên luôn
tính toán xem sẽ đầu t vốn vào đâu cho có hiệu quả nhất. Chính vì vậy mà nguồn
vốn càng đợc phân bổ có hiệu quả.
Những ngời ủng hộ sự lu chuyển tự do của vốn còn chỉ ra các lợi ích vợt ra
ngoài lợi ích tĩnh do quá trình phân bổ lại nguồn vốn vay giữa các nớc nh sau: Bởi
vì, vốn cổ phần trong nớc bây giờ có thể đợc kết hợp trong một danh mục đầu t
rộng lớn hơn nhiều nên chúng ít rủi ro hơn. Điều này làm tăng giá của chúng và
giảm chi phí vốn cho các công ty trong nớc. Đến lợt mình, điều này lại làm cho
các cơ hội đầu t trớc đây đợc coi là quá mạo hiểm trở nên khả thi và tổng hợp lại,
những cơ hội này có thể đóng góp đáng kể cho tăng trởng.
b) Nâng cao tính cạnh tranh của hệ thống tài chính trong nớc.
9
Ngành dịch vụ tài chính tại bất cứ quốc gia nào cũng sẽ phải chịu tổn thất
do việc xoá bỏ các biện pháp bảo hộ vốn đã nuôi dỡng những nhà cung ứng hoạt
động với chi phí và lợi nhuận cao trong nhiều năm. Việc thông tin dễ dàng hơn và
việc dỡ bỏ các hạn chế đối với hoạt động vay và gửi tiền ở nớc ngoài đã buộc các
ngân hàng trong nớc phải cắt giảm chi phí , ít nhất là cho các khách hàng lớn,
đồng thời ép chúng phải nâng cao chất lợng phục vụ nếu không muốn mất chỗ
đứng. Trong sự cạnh tranh khốc liệt này, tất yếu sẽ có các tổ chức bị loại ra khỏi
cuộc chiến do không đủ sức mạnh hoặc không chịu đổi mới để thích nghi với hoàn
cảnh mới. Tuy nhiên, những tổ chức còn tồn tại đợc sẽ có một sức mạnh mới lớn
hơn trớc kia rất nhiều, không những đủ sức cạnh tranh trong nớc mà còn có thể v-
ơn ra thị trờng quốc tế. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của các ngân hàng nớc ngoài nổi
tiếng thờng kéo theo sự cải thiện về tính minh bạch, nhất là khi các ngân hàng này
mang theo mình các thông lệ kế toán hoàn thiện hơn. Và nếu các ngân hàng trong

nớc muốn tạo lập sự hiện diện của mình tại các trung tâm tài chính tiên tiến để có
thể cạnh tranh đợc với các dịch vụ tài chính quốc tế mà các ngân hàng nớc ngoài
đang cung cấp cho khách hàng trong nớc thì các ngân hàng này sẽ phải tìm cách
xin giấy phép hoạt động tại các trung tâm nói trên. Để làm đợc điều đó, thay vì
thoả mãn với các quy định trong nớc tơng đối lỏng lẻo, các ngân hàng này sẽ gây
áp lực với các nhà điều tiết trong nớc phải nâng cấp các quy định đó, nh trờng hợp
của Mêhicô trong bối cảnh Hiệp định tự do Bắc Mĩ.
Kết quả là, hệ thống tài chính đã đợc nâng cao tính cạnh tranh cả ở quy chế
điều tiết lẫn các thành phần tham gia trong hệ thống.
c) Xã hội đợc tiếp cận với những dịch vụ tốt hơn và giá cả rẻ hơn.
Lợi ích này là hệ quả trực tiếp của việc mở cửa tạo ra sự cạnh tranh trên thị
trờng dịch vụ tài chính. Một nghiên cứu của các nhà kinh tế học thuộc Ban th ký
của WTO (năm 1997) đã kết luận rằng việc mở cửa thị trờng dịch vụ tài chính ở
các nớc theo đuổi chính sách mở cửa đã có tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy
cạnh tranh và nâng cao hiệu quả. Do đó, chi phí dịch vụ giảm đi đáng kể, chất l-
ợng dịch vụ đợc nâng cao, các loại hình dịch vụ đợc đa dạng hóa và khách hàng đ-
10
ợc tiếp cận với các loại hình dịch vụ một cách nhanh nhất. Điều này không chỉ có
lợi đối với ngời tiêu dùng mà còn góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế.
Năm 1997, nguyên Bộ trởng ngân khố Mỹ - Robert E. Rubin đa ra kế hoạch nhằm
hiện đại hóa hệ thống dịch vụ tài chính ở Mỹ và phác thảo những lợi ích của kế
hoạch dựa trên những tính toán thực tế nh sau:
"Thời gian trớc đây, khi chúng ta cho phép cạnh tranh mạnh hơn trong lĩnh
vực dịch vụ tài chính, ngời tiêu dùng đã đợc hởng những lợi ích đáng kể... Năm
1995 giới tiêu dùng Mỹ chi phí vào khoảng 300 tỷ đôla vào các hoạt động bảo
hiểm, dịch vụ ngân hàng và môi giới chứng khoán. Giả sử rằng, do kết quả cạnh
tranh của kế hoạch hiện đại hóa hoạt động dịch vụ tài chính mà chi phí dịch vụ đối
với ngời tiêu dùng có thể giảm đi 1% thì cũng đã tiết kiệm đợc khoảng 3 tỷ đôla
một năm. Tuy nhiên dựa trên những cơ sở thực tế, tỷ lệ tiết kiệm chi phí hoàn toàn
có thể đạt đến mức 5% - tức là vào khoảng 15 tỷ đôla mỗi năm - một con số hoàn

toàn không nhỏ đối với nền kinh tế. (Robin, 1997).
Tơng tự nh vậy, một loạt các nghiên cứu thực hiện ở châu Âu và Mỹ cũng
chỉ ra rằng: ngành ngân hàng có thể giảm bớt chi phí, nâng cao lợi nhuận khoảng
từ 20 đến 50% thông qua việc nâng cao hiệu quả của các loại dịch vụ đợc cung
cấp. Các cơ quan quản lý và kiểm soát ngân hàng quốc gia cũng có thể nâng cao
hiệu quả với mức độ tơng tự do phát huy lợi thế của kinh tế quy mô trong hoạt
động chi trả và thanh toán (Berger, Hunter và Timme 1993).
Cho đến nay những nghiên cứu về hiệu quả của các tổ chức tài chính ở
những thị trờng mới nổi cha có nhiều. Song, một số kết quả điều tra đã cho thấy,
tiềm năng nâng cao hiệu quả và giảm thiểu chi phí thông qua mở rộng cạnh tranh
là rất lớn. Khả năng lợi ích mang lại càng cao nếu hệ thống tài chính có khả năng
cạnh tranh càng lớn.
d) Thúc đẩy thơng mại quốc tế.
11
Thơng mại quốc tế, vào thời điểm nhất định, giúp một quốc gia có khả năng
tiêu dùng lớn hơn khả năng sản xuất. Về lâu dài, thơng mại quốc tế giúp các nớc
trao đổi hàng hoá, nguồn lực, phục vụ cho phát triển kinh tế.
Thơng mại giữa các quốc gia thực chất là trao đổi ngang giá. Do vậy, một
giao dịch thơng mại luôn có hai mặt: chuyển giao hàng hoá dịch vụ và thanh toán.
Tự do hoá tài chính thúc đẩy thơng mại quốc tế bằng cách tạo điều kiện thuận lợi
cho mặt hàng thứ hai thông qua tự do chuyển tiền, tự do mua các tài sản ngoại tệ
từ các nguồn thu xuất khẩu, chủ động bảo hiểm tỷ giá...
e) Phân tán rủi ro.
Rủi ro là hiện tợng phổ biến trong mọi hoạt động kinh tế. Do vậy, phân tán
rủi ro là một nhu cầu khách quan. Việc phân tán đầu t ở nhiều nơi khác nhau dới
nhiều hình thức sẽ cho phép bảo toàn đợc vốn trong mọi trờng hợp. Dới tự do hoá
tài chính, việc tự do hoá tài khoản vốn không chỉ có nghĩa là ngời nớc ngoài có
khả năng tiếp cận nguồn vốn trong nớc mà cũng có nghĩa là các công ty và các hộ
gia đình trong nớc có khả năng tiếp cận thị trờng thế giới. Các nhà đầu t trong nớc
có thể tận dụng hết các cơ hội đa dạng hoá rủi ro do thị trờng tài chính thế giới

mang lại bằng cách nắm giữ các tài sản nớc ngoài trong danh mục đầu t của họ.
Đặc biệt, phân tán rủi ro bằng cách đầu t vào tài sản tài chính ở nhiều trung tâm
khác nhau sẽ rất có hiệu quả vì nếu vốn rút ra ồ ạt từ một trung tâm làm giá tài sản
ở đây giảm xuống thì vốn lại đổ vào nơi khác làm giá ở đó tăng lên.
1.3.2. Những mặt trái của tự do hoá tài chính.
Tiềm năng lợi ích của tự do hóa tài chính là rất lớn, tuy nhiên tự do hóa tài
chính cũng có những mặt trái nhất thiết phải đợc nghiên cứu kỹ lỡng, đặc biệt
trong điều kiện xu thế tự do hóa tài chính mới chỉ dừng lại ở những bớc đi ban
đầu. Những hạn chế của tự do hóa tài chính thông thờng đợc nhìn nhận trên hai
giác độ:
Thứ nhất: Tự do hóa tài chính có thể làm tăng thêm khả năng gây ra khủng
hoảng tài chính nếu tiến trình tự do hóa đợc thực hiện một cách nôn nóng, sai trình
12
tự hoặc thiếu đồng bộ trong các biện pháp quản lý vĩ mô ở cả cấp độ quốc gia và
quốc tế.
Mở cửa thị trờng tài chính và khủng hoảng tài chính ngân hàng đã từng là
nỗi ám ảnh tởng nh có mối quan hệ nhân quả đối với các nớc thi hành chính sách
này trong khoảng thời gian trớc đây. Một nghiên cứu phân tích về các cuộc khủng
hoảng ngân hàng trên thế giới đã cho thấy 18 trong 25 trờng hợp đợc nghiên cứu,
khủng hoảng tài chính đã diễn ra theo sau việc tự do hóa tài chính khoảng 5 năm.
Do vậy, nhiều ngời cho rằng khủng hoảng ngân hàng là sự kiện kéo theo của cải
cách hệ thống tài chính theo hớng mở cửa. Thậm chí, nhiều chính phủ cho rằng đó
là cái giá phải trả của tự do hóa tài chính. Trớ trêu thay, nhận định này dờng nh đ-
ợc minh chứng bởi các cuộc khủng hoảng ngân hàng diễn ra ở Argentina, Brazil,
Chile trong những năm 70, khủng hoảng tiền tệ ở Mexico năm 1994-1995 và
Thailand năm 1997. Những cuộc khủng hoảng nh vậy đã làm cho chính phủ của
các nớc Đông Nam á tỏ ra thận trọng khi cân nhắc vấn đề cải cách, mở cửa và tự
do hóa tài khoản vốn.
Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu, việc mở cửa thị trờng tài chính, bản
thân nó thực chất không phải là nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng hoảng tài

chính - ngân hàng. Việc cải cách hệ thống tài chính và tự do hóa có chăng chỉ lật
tẩy và làm trầm trọng thêm những yếu kém trong thể chế và các chính sách tài
chính vĩ mô vốn dĩ đã tiềm ẩn, và do đó làm tăng thêm rủi ro của việc dẫn đến
khủng hoảng tài chính. Những cải cách tài chính theo hớng mở cửa đã diễn ra ở
những nớc này thực chất không gây cản trở hoặc làm phơng hại đến lợi ích thực
thụ, mà chỉ góp phần phơi bày những điểm yếu của hệ thống tài chính nội địa trớc
những điều kiện của hệ thống tài chính quốc tế mà thôi.
Năm 1995, hai nhà nghiên cứu Kamisky và Reinhart và một số nhà nghiên
cứu khác đã xác định một loạt các nhân tố đằng sau những vụ đổ vỡ ngân hàng
trên thế giới. Những nhân tố này gồm: sự không ổn định có tính vĩ mô nh sự thất
thờng của hoạt động thơng mại; tính áp đặt trong chính sách tỷ giá và lãi suất; sự
bùng nổ của hoạt động cho vay; sự sụt giá tài sản, sự du nhập vốn một cách ồ ạt;
13
sự chuẩn bị cha kỹ lỡng để sẵn sàng tiến hành mở cửa, và sự không tuân thủ tính
logic và trình tự của những cải cách tài chính.
Nói cách khác, nguyên nhân chính của các cuộc khủng hoảng tài chính lại
chính là những yếu kém tiềm ẩn của hệ thống ngân hàng, sự thiếu lành mạnh của
hệ thống chính sách quản lý vĩ mô, sự thiếu vắng của một chế độ giám sát kiểm tra
có hiệu quả và sự sai lệch trong đờng lối cải cách, chứ không phải xuất phát từ bản
thân quá trình tự do hóa tài chính.
Thứ hai: Tài chính thờng đợc coi là công cụ quản lý chiến lợc và là lĩnh vực
đặc biệt cần đợc nắm giữ bởi nhà nớc để tập trung thực hiện những mục đích quan
trọng của một quốc gia. Việc mở cửa thị trờng tài chính có thể có nguy cơ làm xao
nhãng hoặc thiếu tập trung trong việc điều hành để thực hiện những mục tiêu đó vì
các tổ chức, doanh nghiệp nớc ngoài sẽ không quan tâm đến một mục đích nào
khác hơn là mục đích lợi nhuận. Đặc biệt, trong điều kiện hệ thống tài chính nội
địa có khả năng cạnh tranh kém, nền tài chính có nguy cơ bị thống trị bởi các tổ
chức, doanh nghiệp tài chính nớc ngoài thì quyền lực kiểm soát, khống chế và điều
khiển thị trờng tài chính của nhà nớc sẽ dần bị thu hẹp lại, và do đó có thể phơng
hại đến mục tiêu chiến lợc của quốc gia. Hơn nữa, việc mở cửa thị trờng tài chính

nếu không đợc chuẩn bị kỹ lỡng có thể sẽ dẫn đến nhiều hiện tợng tiêu cực, thiếu
lành mạnh nh lừa đảo, phá sản, đổ vỡ... gây thiệt hại đến lợi ích của ngời tiêu
dùng.
Tuy nhiên, theo lập luận của nhiều nhà nghiên cứu, sự thâm nhập của các tổ
chức tài chính nớc ngoài có thể đa đến những lợi ích đáng kể (nh đã đề cập ở trên).
Hơn nữa, những mặt trái của việc mở cửa thị trờng tài chính có thể đợc khống chế
hoặc hạn chế ở mức thấp nhất nếu năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính nội
địa đợc cải thiện đáng kể trớc khi tiến hành mở cửa. Khả năng đó là hiện thực nếu
nó đợc trợ giúp bởi một chế độ giám sát kiểm tra thận trọng có hiệu quả và một
trình tự mở cửa hợp lý. Nói cách khác, việc có tận dụng đợc những lợi ích tiềm
năng đó với một chi phí thấp nhất hay không, hoàn toàn phụ thuộc vào đờng lối
cải tổ của chính các nớc theo đuổi chính sách mở cửa đó.
14
Trên thực tế, có rất ít những bằng chứng chứng minh rằng sự có mặt của các
tổ chức tài chính nớc ngoài làm phơng hại và phá huỷ sự an toàn của hệ thống tài
chính của một nớc. "Sự có mặt của các tổ chức tài chính nớc ngoài thực chất lại
làm tăng thêm sự đa năng của hệ thống tài chính, và do đó làm tăng thêm tính ổn
định cần có. Hơn nữa, sự hiệu quả của chính sách tài chính tiền tệ phụ thuộc phần
lớn vào chính sách tỷ giá và chính sách di chuyển vốn của nớc chủ nhà chứ không
phụ thuộc vào sự có mặt hay không của các tổ chức tài chính nớc ngoài" (Dobson
& Jaquet, 1998).
1.4. Quá trình tự do hoá tài chính trên thế giới.
Cuối chiến tranh thế giới lần thứ hai, năm 1944, hệ thống tiền tệ Bretton
Wooods ra đời. Với mục tiêu tự do hoá thơng mại, qui chế Bretton Woods đòi hỏi
các đồng tiền phải đợc chuyển đổi tự do trong giao dịch tài khoản vãng lai. Bên
cạnh đó, trong giao dịch vốn, đồng USD và đô la Canada đợc chuyển đổi từ năm
1945, đồng Bảng Anh từ năm 1947, đồng tiền các nớc châu Âu khác (trong đó có
Mác Đức) từ năm 1958 và đồng Yên Nhật từ năm 1964 (6, 438). Ngoài việc
chuyển đổi tự do đồng tiền đối với các giao dịch của tài khoản vãng lai, các nớc
thành viên của hệ thống Bretton Wooods vẫn kiểm soát giao dịch tài khoản vốn

một cách chặt chẽ. Quan niệm kinh tế chính thống lúc đó cho rằng: lu chuyển vốn
là không cần thiết. Tuy nhiên, trong hệ thống đã xuất hiện sự di chuyển vốn trá
hình. Rõ nhất là hoạt động tín dụng giữa các nhà xuất nhập khẩu.
Đầu thập kỷ 60, hoạt động giao dịch khoản tiền gửi các đồng tiền châu Âu,
tức là các khoản tiền gửi định danh bằng ngoại tệ đối với nơi phát hành ra tài sản
này, đã xuất hiện. Hiện tợng này có 3 nguyên nhân. Thứ nhất là sự tăng trởng của
thơng mại quốc tế. Thứ hai là nhân tố chính trị với mong muốn nắm giữ các đồng
tiền nằm ngoài quyền tài phán của những nớc phát hành ra chúng. Thứ ba chính là
sự né tránh các qui chế điều tiết hoạt động tài chính đối nội của chính phủ bằng
cách chuyển một số hoạt động ngân hàng ra nớc ngoài và vào ngoại tệ. Trong thời
gian này, qui mô giao dịch các đồng tiền Châu Âu còn nhỏ bé, khoảng 7 tỷ USD
(số liệu 1963). Tuy nhiên, đây là những dấu hiệu đầu tiên của thị trờng vốn quốc
tế hiện đại.
15
Sau khi hệ thống Bretton Wooods sụp đổ (1973), kiểm soát vốn ở các nớc
phát triển (DCs) đã dần đợc bãi bỏ và tiến trình này kéo dài đến thập kỷ 90. Đức,
Anh và Singapore thực hiện TDHTC từ cuối những năm 70; Australia và New
Zealand vào cuối những năm 80; Pháp, Italia vào đầu thập kỷ 90. Tiến trình
TDHTC ở những nớc đang phát triển (LDCs) bắt đầu muộn hơn, vào giữa thập kỷ
80. Năm 1989, một phần ba trong 130 nớc đang phát triển đã thực hiện TDHTC ở
những mức độ nhất định (20,1). Nh vậy, quá trình TDHTC trên thế giới đã bắt đầu
chủ yếu từ năm 1973.
Quá trình TDHTC ở các quốc gia làm cho vốn có khả năng di chuyển trên địa
bàn toàn cầu. Đồng thời trên địa bàn này, một hệ thống tài chính toàn cầu đã hình
thành và phát triển.
Địa bàn hoạt động của vốn có các trung tâm quan trọng là: Bắc Mỹ (Mỹ,
Canada, Mêhicô); Mỹ la tinh (điển hình là Brazil, Argentina và Chi Lê; Liên minh
Châu Âu; các nớc Đông Âu; Đông Bắc á ( Nhật Bản, Hàn Quốc); Trung Quốc và
Hồng Kông; Đông Nam á, Nam á; Trung Đông và australia. Nh vậy, địa bàn
toàn cầu của vốn bao gồm hai nhóm nớc: nhóm nớc phát triển và nhóm nớc đang

phát triển. Trong cả hai nhóm này đều có hiện tợng đầu t sang nhau. Nhng giữa
hai nhóm, các nớc phát triển thờng đóng vai trò ngời cho vay hay ngời đầu t.
Có thể nói, vào đầu thập kỷ 90, hệ thống tài chính toàn cầu đã đợc hình thành
và phát triển khá rõ nét.
Về qui mô địa lý, tuy còn nhiều nớc cha gắn trực tiếp vào hệ thống tài chính
toàn cầu, song hệ thống đã phát triển ra khắp Châu lục, bao gồm những nền kinh
tế quan trọng nhất thế giới.
Về cấu trúc, hệ thống tài chính toàn cầu cũng bao gồm các trung gian tài
chính và thị trờng tài chính. Trung gian tài chính bao gồm các ngân hàng thơng
mại (commercial bank), quĩ bảo hiểm (hedge fund), quĩ hu trí (pension fund), quỹ
đầu t (mutual fund). Bên cạnh đó thị trờng tài chính phát triển 3 bộ phận: thị trờng
chứng khoán, thị trờng tiền tệ và thị trờng ngoại hối. Nói chung, trong hệ thống tài
chính toàn cầu, chủng loại công cụ tài chính phát triển rất đa dạng. Ngoài ra, hệ
16
thống này hoạt động suốt ngày đem do chênh lệch về múi giờ, dới sự hỗ trợ đắc
lực của công nghệ thông tin hiện đại.
Cùng với sự phát triển kinh tế nói chung và kết quả của quá trình TDHTC nói
riêng (nếu trên), sự vận động của vốn có thay đổi lớn cả về chất và lợng. Về mặt
chất, luồng vốn đợc di chuyển qua rất nhiều kênh: FDI, FPI, ODA, tín dụng thơng
mại quốc tế... Trong đó, FDI và đặc biệt FPI chiếm tỷ trọng rất lớn. Hiện nay, các
công ty đa quốc gia, chủ yếu xuất phát từ DCs, là chủ thể chính của hoạt động
FDI. Hoạt động FDI không chỉ mang lại vốn, mà cả công nghệ, kinh nghiệm quản
lý cho các nớc nhận đầu t. Điều này đã góp phần vào những thành tựu phát triển
kinh tế ở nhiều nớc đang phát triển. Tuy nhiên, TNCs thờng chuyển những công
nghệ lạc hậu ra ngoài và giữ lại những công nghệ cao, giữ lại những khâu sản xuất
chủ yếu. Do vậy, hiện nay vẫn tiếp tục diễn ra sự phân bố lại công nghệ trên phạm
vi toàn cầu. Sự phân bố này có xu hớng chuyển công nghệ sử dụng nhiều lao động
sang LDCs và khiến cho các nớc này phụ thuộc hơn nữa vào DCs. Nh vậy, vốn t
nhân ngày càng chiếm u thế trong luân chuyển vốn quốc tế. Về mặt lợng, quy mô
luân chuyển vốn lớn hơn hàng hoá nhiều lần. Từ năm 1990 đến 1993, lu chuyển

vốn quốc tế tăng gần gấp đôi, từ 439,9 lên 811 tỷ USD [17, 68]. Trong giai đoạn
1985 - 1989, FDI trên toàn thế giới tăng 15% [72, 69]. Năm 1996, các khoản nợ
thông qua tín dụng và trái khoán đạt 350 tỷ USD. Năm 1997, doanh số giao dịch
ngoại hối bình quân hàng ngày trên thị trờng ngoại hối toàn cầu vợt quá con số
1,5 nghìn tỷ USD [19,9]. Tháng 3/1998, qui mô thị trờng đồng tiền Châu Âu đạt
4,5 nghìn tỷ USD (trong đó có 3 nghìn tỷ đô la Châu Âu) so với 7 tỷ USD vào
năm 1963 (5 tỷ đô la Châu Âu). Sự phát triển này của hệ thống tài chính chứng
minh cho tính khách quan của quá trình TDHTC.
Trong thập niên 90, quá trình nhất thể hoá tài chính diễn ra rất mạnh mẽ mà
đỉnh cao là sự ra đời của đồng euro- đồng tiền chung châu Âu. Từ ngày 1/1/2002,
hơn 300 triệu dân của 12 nớc thuộc khu vực đồng tiền chung châu đã chính thức
sử dụng thống nhất một đồng tiền chung-đồng euro- bằng tiền mặt. Sự kiện này đã
đánh dấu sự liên kết kinh tế quốc tế ở mức độ cao nhất trong khu vực Liên minh
châu Âu đó là liên kết về tài chính và nhất thể hoá đồng tiền trong khu vực.
17
Tuy vậy, hệ thống tài chính toàn cầu cha đạt sự thống nhất. Điều này thể hiện
rõ nét qua sự khác biệt về lãi suất của các trái phiếu có cùng kỳ hạn. Ví dụ nh trái
phiếu bằng đô la Mĩ do Cục dự trữ Liên bang Mỹ phát hành thờng có lãi suất thấp
hơn trái phiếu chính phủ bằng đô la Mĩ của các nớc khác vì có độ rủi ro thấp hơn.
Vấn đề đó trực tiếp bắt nguồn từ khả năng thay thế tài sản không hoàn hảo, đặc
biệt là sự khác nhau về độ rủi ro. Đến lợt nó, khả năng thay thế tài sản không hoàn
hảo lại bắt nguồn từ nhiều yếu tố kinh tế, chính trị phức tạp, không thể lờng trớc.
Do vậy tiến trình nhất thể hoá tài chính sẽ là một con đờng rất dài.
18
Chơng 2. Tự do hoá tài chính ở Việt Nam
2.1. Sự cần thiết phải tiến hành tự do hoá tài chính tại Việt Nam.
Tất cả các quốc gia trên thế giới đều hớng tới việc nâng cao chất lợng cuộc
sống vật chất, tinh thần của con ngời thông qua các hoạt động kinh tế, chính trị, t
tởng, văn hoá...,trong đó, hoạt động kinh tế đóng vai trò quyết định. Chính vì vậy,
mục tiêu chính của các nớc đang phát triển hiện nay là phát triển kinh tế. Tuy

nhiên, cũng giống nh các nớc đang phát triển khác, để làm đợc điều đó, Việt Nam
không thể chỉ sử dụng nguồn lực trong nớc mà cần phải huy động tối đa các nguồn
lực bên ngoài bằng cách mở cửa nền kinh tế, thực hiện tự do hoá kinh tế nói chung
và tự do hoá tài chính nói riêng. Nh đã phân tích ở chơng 1, tuy còn có những
tranh luận về lợi ích và tác hại của tự do hoá tài chính nhng chắc chắn rằng, những
lợi ích mà tự do hoá tài chính mang lại sẽ lớn hơn nhiều so với những nguy cơ mà
nó có thể gây ra, đồng thời, những nguy cơ ấy là hoàn toàn có thể phòng tránh đợc
nếu chúng ta có một lộ trình thực hiện đúng đắn, một cơ chế giám sát chặt chẽ có
hiệu quả và sự chuẩn bị tốt cho năng lực của các tổ chức trung gian trong nớc.
2.2. Quá trình tự do hoá tài chính ở Việt Nam.
ý thức đợc tầm quan trọng của khu vực tài chính trong nền kinh tế, ngay từ
khi bắt đầu công cuộc đổi mới, Việt Nam đã có rất nhiều những cải cách liên quan
đến khu vực này theo hớng nới lỏng dần cơ chế quản lý đối với hệ thống tài chính,
từng bớc nâng cao vai trò của thị trờng trong sự vận hành của đồng vốn. Phần viết
dới đây tập trung phân tích những kết quả cũng nh tồn tại của quá trình tự do hoá
tài chính ở Việt Nam theo các khía cạnh: lãi suất, thị trờng tín dụng, các định chế
tài chính, dịch vụ tài chính và bớc đầu đánh giá một số tác động của quá trình đó
tới nền kinh tế Việt Nam
19
2.2.1. Tự do hoá lãi suất
Chính sách lãi suất luôn có tác động rất lớn tới tất cả các lĩnh vực của nền
kinh tế. Cơ cấu và các mức lãi suất trong một nền kinh tế thị trờng nhằm để hỗ trợ
cho ba mục tiêu sau đây:
- Khuyến khích tiết kiệm và trung gian tài chính.
- Hớng các nguồn lực tài chính vào các hoạt động có tỷ suất lợi
nhuận cao nhất, cũng nh điều chỉnh co cấu kỳ hạn của các luồng vốn tài chính, tức
là ngắn hạn với dài hạn.
- Mang lại mức chênh lệch đủ để các tổ chức tài chính trang trải chi
phí hoạt dộng, chi phí vốn, chi phí chấp nhận rủi ro và lợi nhuận trên vốn tự có.
Để đạt đợc những mục tiêu trên, lãi suất thực phải dơng và thống nhất với

những giao dịch tài chính. Chính sách lãi suất của Việt Nam cũng không đi chệch
những mục tiêu này.
a) Kết quả đạt đợc
Từ khi bắt đầu chơng trình đổi mới, NHNN đã chuyển từ cách điều hành
can thiệp sâu trớc đó sang tạo mức chủ động cao hơn cho các ngân hàng trong việc
ấn định từng loại lãi suất cụ thể và giảm bớt những lệch lạc. Các mốc cụ thể là:
- Tháng 3/1989, NHNN quán triệt một mức lãi suất dơng, tuy nhiên
do không kiềm chế đợc lạm phát ( năm 1990 đến năm 1992 ) nên lãi suất âm vẫn
xuất hiện.
- Tháng 10/1993, NHNN đã hạn chế đợc tính bao cấp hành chính và
phức tạp trong chính sách lãi suất bằng việc loại bỏ các lãi suất cho vay cụ thể
theo ngành, thay bằng lãi suất phân biệt theo cơ cấu kỳ hạn khoản vay ( cơ chế lãi
suất trần tín dụng ) và đồng thời thi hành cơ chế lãi suất thoả thuận đối với những
trờng hợp cho vay từ nguồn phát hành kỳ phiếu. Thêm vào đó, NHNN đã ấn định
lãi suất danh nghĩa ở mức làm cho lãi suất thực chủ yếu là dơng, điều này cho thấy
sự kiềm chế về tài chính đã đợc giảm thiểu.
20
- Tháng 1/1996, NHNN áp dụng cơ chế một trần lãi suất tín dụng,
khống chế chênh lệch lãi suất đầu vào - đầu ra, tự do hoá lãi suất đầu vào , trần lãi
suất tín dụng trung - dài hạn đợc qui định cao hơn trần lãi suất tín dụng ngắn hạn.
Tới thời điểm này, các ngân hàng mới thực sự có tính tự chủ trong các hoạt động
của mình. Việc áp dụng mức chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay ở mức 0,35%/
tháng không đem lại hiệu quả kinh tế và gây khó khăn phức tạp trong việc tính
toán và kiểm soát của NHNN.
- Tháng 1/1998, NHNN chỉ tập trung vào điều hành trần lãi suất tín dụng
( bỏ mức chênh lệch khống chế), tiếp tục nâng cao một bớc tính tự chủ của các
ngân hàng.
- Tháng 8/2000, NHNN đã tiến một bớc quan trọng trong việc chuyển đổi
lãi suất sang cơ chế thị trờng qua việc thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản. Theo đó,
NHNN tham khảo lãi suất của các NHTM chủ chốt để đa ra lãi suất cơ bản và cho

phép các NHTM đợc tự quyết định lái suất cho vay trên cơ sở không vợt quá biên
độ mà NHNN khống chế. Tuy nhiên, thực chất cơ chế này vấn còn là một hình
thức lãi suất trần.
- Ngày 30/5/2002, Thống đốc NHNN Việt Nam đã ban hành quyết định số
546/2002/QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động
tín dụng thơng mại bằng đồng Việt Nam của TCTD đối với khách hàng. Cơ chế lãi
suất thoả thuận là cơ chế lãi suất thị trờng theo đó, lãi suất đợc hình thành và biến
động chủ yếu do quan hệ cung - cầu vốn thị trờng, sự kiểm soát lãi suất của
NHNN đợc thực hiện thông qua việc điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ
tác động lên cung - cầu vốn để hớng lãi suất thị trờng biến động phù hợp với mục
tiêu của chính sách tiền tệ. Rõ ràng đây là một bớc chuyển đổi quan trọng, mạnh
mẽ và cần thiết trong chính sách tín dụng, phù hợp với nguyên tắc thị trờng, nhằm
đảm bảo nguồn lực tài chính đợc phân bổ một cách hiệu quả hơn.
b) Tác động tích cực của việc thay đổi cơ chế lãi suất theo hớng thị trờng.
Đối với các nớc, việc thực hiện cơ chế lãi suất thị trờng là yếu tố có tính "hạt
nhân" để thúc đẩy thị trờng tài chính phát triển theo chiều sâu, làm tăng tính cạnh
tranh, thúc đẩy các dịch vụ tài chính phát triển, góp phần ổn định và phát triển
kinh tế vĩ mô, hội nhập kinh tế quốc tế (thể hiện ở chỉ tiêu M
2
/GDP- phản ánh mức
độ huy động vốn trong nớc của khu vực tài chính chính thức tăng lên, nh Thái Lan
tăng từ 52% lên 80% năm 1994, Singapore tăng từ 58% lên 84,4% so sánh giữa tr-
ớc và sau thời điểm tự do hoá lãi suất...).
21
0
10
20
30
40
50

60
70
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001
Ngoại tệ/M2
M2/GDP
M0/M2
Tổng dư nợ tín
dụng/GDP
Đối với Việt Nam, quá trình thay đổi cơ chế lãi suất theo thị trờng có những
tác động tích cực đối với kinh tế vĩ mô và thị trờng tài chính - tiền tệ, biểu hiện nh
sau:
Một là: việc "nới lỏng" cơ chế điều hành lãi suất theo hớng thị trờng đã tạo
khả năng cho thị trờng tài chính phát triển theo chiều sâu, thể hiện trong biểu đồ
biến động tăng chỉ tiêu M
2
/GDP ( xem biểu đồ 1)
Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 7 năm 2002
Hai là: sự thay đổi của chính sách lãi suất là phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ
mô, nhng cũng chính yêu cầu phát triển nền kinh tế, tiền tệ hoá các mối quan hệ
kinh tế và sự hình thành các nhân tố kinh tế thị trờng đã buộc chính sách lãi suất
phải có sự "nới lỏng" để chuyển dần sang cơ chế lãi suất thoả thuận nhằm tạo điều
kiện cho việc huy động tối đa nguồn lực trong nớc phục vụ cho đầu t phát triển và
đồng bộ với tổng thể chính sách kinh tế - tài chính -đối ngoại (vốn huy động và tín
dụng đối với nền kinh tế tăng trởng trên 20%/năm; vốn tín dụng cung ứng cho
22
nền kinh tế tuy tăng trởng mức cao, năm 1991 tơng đơng 21% GDP, năm 2001 là
40%) (xem biểu đồ 2)
Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 7 năm 2002
Ba là: việc "nới lỏng" cơ chế lãi suất làm cho lãi suất tự điều chỉnh linh hoạt
và phù hợp hơn với quan hệ cung - cầu vốn thị trờng, các luồng vốn đợc lu chuyển

đến nơi có lợi nhuận cao với mức rủi ro thấp, nâng cao hiệu quả đầu t thúc đẩy
việc các NHTM phát triển nhanh chóng mạng lới chi nhánh ở thành thị, nông
thôn, đa ra các mức lãi suất, sản phẩm dịch vụ thích hợp cho các khách hàng. Thực
tế những năm 1991 - 1995 cho thấy khi NHNN khống chế chặt chẽ mức trần lãi
suất cho vay ở mức thấp đã khuyến khích sự vay mợn lòng vòng trên thị trờng
không chính thức, trốn tránh sự kiểm soát, lãi suất tiền gửi tăng, nhng lãi suất cho
vay lại không tăng đợc và chênh lệch lãi suất chỉ đủ bù đắp chi phí kinh doanh, lợi
nhuận rất thấp, khả năng tài chính của các NHTM bị yếu đi, dễ gây xáo trộn, tổn
thơng cho thị trờng tài chính.
Bốn là: quá trình chuyển dần sang cơ chế lãi suất thoả thuận đi liền với quá
trình "nới lỏng" kiểm soát ngoại hối và thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt làm cho
lãi suất trong nớc bám sát hơn lãi suất quốc tế, việc huy động vốn ở trong nớc và
từ nớc ngoài tăng lên để tài trợ cho nhu cầu tín dụng trong nóc.
Năm là: quá trình chuyển dần sang cơ chế lãi suất thoả thuận làm cho mức
biến động ngày càng tăng của các luồng vốn đầu t, NHNN phải sử dụng và phát
23
-40
-20
0
20
40
60
80
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001
Lạm phát
Lãi xuất tiền gửi
Lãi xuất cho vay ngắn hạn
GDP
Tăng dân số
Bội chi ngân sách so với GDP

Cán cân vãng lai so với GDP
Chênh lệch lãi suất tiền gửi và lạm
phát
huy nhiều hơn các công cụ gián tiếp để điều hành chính sách tiền tệ, tăng cờng
kiểm soát rủi ro tín dụng và phát triển đồng đều các bộ phận của thị trờng tiền tệ.
Sáu là: sau mỗi giai đoạn "nới lỏng" cơ chế điều hành lãi suất, việc huy động
vốn và mở rộng cho vay của TCTD đợc thuận lợi hơn, ngời sản xuất và tổ chức
kinh tế ở nông thôn đợc vay vốn nhiều hơn do khối lợng vốn chuyển về khu vực
nông thôn tăng lên (tín dụng đối với khu vực nông thôn 5 năm gần đây tăng bình
quân 23 - 25%/năm, lớn hơn mức bình quân chung).
Bảy là: ngân sách Nhà nớc có điều kiện huy động đợc tối đa nguồn lực trong
nớc để bù đắp thâm hụt, thay vì đi vay nớc ngoài quá lớn hoặc sử dụng tiền phát
hành.
Nh vậy, với điều kiện kinh tế - xã hội và thị trờng tài chính - tiền tệ trong
những năm qua, việc áp dụng cơ chế điều hành lãi suất theo hớng thị trờng là bớc
đi thích hợp. Tuy nhiên, nhìn lại cơ chế điều hành lãi suất cơ bản thời gian qua có
một số tồn tại.
c) Các tồn tại.
- Về thực chất, cơ chế lãi suất cơ bản vẫn còn sự can thiệp hành chính của
Nhà nớc, thể hiện ở việc khống chế biên độ. Trên thực tế, lãi suất cho vay và huy
động của TCTD của địa bàn thành thị về cơ bản đã thực hiện theo cơ chế lãi suất
thoả thuận; đối với địa bàn nông thôn lãi suất cho vay đã sát biên độ, làm cho lãi
suất nhiều khi không phản ánh đúng cung - cầu vốn thị trờng, các TCTD gặp trở
ngại trong việc huy động và cho vay vốn.
- Do việc khống chế biên độ làm cho các TCTD không thể phản ứng kịp thời
để phòng tránh rủi ro về lãi suấtvà thanh khoản khi lãi suất thị trờng tiền tệ trong
và ngoài nớc biến động theo hớng tăng, chênh lệch lãi suất cho vay và huy động bị
thu hẹp do lãi suất huy động tăng nhng lãi suất cho vay không tăng.
- Cơ chế lãi suất có sự kiểm soát bằng công cụ hành chính không phù hợp với
yêu cầu của việc phát huy và khai thác nguồn vốn nội lực đáp ứng yêu cầu công

nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nớc, vì với t cách là "hàng hoá", nó vận hành theo
quan hệ cung - cầu, nếu lãi suất thấp việc huy động vốn sẽ khó khăn.
24
Những tác động tích cực của cơ chế điều hành lãi suất theo hớng thị trờng và
hạn chế của cơ chế lãi suất cơ bản thời gian qua cho thấy rằng việc chuyển sang
thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận là điều cần thiết.
2.2.2. Tự do hoá hoạt động tín dụng
a) Kết quả.
Chính sách tín dụng của NHNN Việt Nam theo đuổi các mục tiêu : đẩy
mạnh huy động vốn để cho vay; đổi mới cơ cấu tín dụng theo hớng giảm bớt tín
dụng ngắn hạn, nâng dần tỷ lệ cho vay trung và dài hạn; mở rộng tín dụng cho mọi
thành phần kinh tế; tín dụng không chỉ dành riêng cho khu vực quốc doanh và dân
c ; nâng cao tính hiệu quả của tín dụng và hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong
tín dụng.
Kết quả các năm vừa qua đã cho thấy công tác tín dụng đã đạt đợc một số
kết quả tích cực nhất định. Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn so tổng d nợ cũng nh tỷ
trọng tín dụng cấp cho các doanh nghiệp quốc doanh đã giảm
Bảng 2.1. Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn so với tổng d nợ của các ngân hàng
Chỉ tiêu 1991 1997 1998
Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn so với tổng d nợ tín dụng (%) 85.0 60.5 54.5
Tỷ trọng cho vay doanh nghiệp quốc doanh (%) 90.0 51.0 75.0
Nguồn: Báo cáo của IMF 1- 2000
Quy chế tín dụng ngày càng phù hợp với nền kinh tế thị trờng, "thông thoáng
hơn". Gần đây nhất, Quyết định số 1627/2001/QG-NHNN ban hành về Quy chế
cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, với nhiều điểm mới:
- Đối tợng áp dụng đợc cụ thể hơn trớc: các tổ chức tín dụng đợc thành lập và
thực hiện nghiệp vụ cho vay theo qui định của Luật các tổ chức tín dụng. Khách
hàng vay tại tổ chức tín dụng, bao gồm: các pháp nhân là: doanh nghiệp Nhà nớc,
hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn
đầu t nớc ngoài, các pháp nhân, cá nhân là ngời nớc ngoài và các tổ chức khác có

đủ các điều kiện qui định tại Điều 94 của Bộ Luật dân sự, cá nhân, hộ gia đình, tổ
hợp tác xã, doanh nghiệp t nhân.
25

×