Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam (90trang).doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (616.13 KB, 87 trang )

Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
1.1. Tài chính kiềm chế.
1.1.1. Tài chính kiềm chế là gì?
Tài chính kiềm chế là một cơ chế tài chính được đặc trưng hóa bởi sự can thiệp quá
mức của nhà nước vào các hoạt động và các quá trình tài chính. Trong đó, nhà nước sẽ ấn
định những mức lãi suất trần, trực tiếp điều tiết quá trình phân phối tín dụng bằng các
quyết định hành chính nhiều hơn là thông qua cơ chế thị trường, ưu tiên cho khu vực kinh
tế nhà nước và đặt ra các tỷ lệ dự trữ bắt buộc quá cao và kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn
trong và ngoài nước.
1.1.2. Hậu quả của tài chính kiềm chế.
Tài chính kiềm chế áp dụng mức lãi suất thấp sẽ khuyến khích đầu tư, từ đó sẽ thúc
đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, nó gây ra không ít những hạn chế về tăng trưởng kinh tế cũng
như sự mất ổn định kinh tế vĩ mô như:
− Tài chính kiềm chế áp dụng mức lãi suất thấp sẽ khuyến khích đầu tư, từ đó sẽ thúc
đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, nó gây ra không ít những hạn chế về tăng trưởng kinh
tế cũng như sự mất ổn định kinh tế, tiềm năng tài chính không được sử dụng và đầu
tư vào sản xuất bởi vì lãi suất thấp thì công chúng sẽ không muốn gởi tiết kiệm mà
sẽ hiện vật hóa dưới dạng vàng, đá quý, ngoại tệ mạnh, hàng hóa tiêu dùng. Vì vậy,
gây ra tình trạng thiếu vốn đầu tư, khan hiếm hàng hóa giả tạo, mất cân đối nghiêm
trọng trên thị trường hàng hóa.
− Cầu về vốn vượt xa khả năng của các nguồn cung cấp nên các danh mục đầu tư có
tỷ suất lợi nhuận cao phải hủy bỏ hoặc sử dụng vốn từ các thị trường ngầm.
− Ngân sách nhà nước luôn phải bao cấp và thiếu hụt vì các doanh nghiệp nhà nước
luôn được ưu tiên vay vốn với lãi suất bao cấp dẫn tới luôn ỷ lại, không sản xuất và
kinh doanh có hiệu quả.
− Hệ thống tài chính không được phát triển và không thể thực hiện được những chức
năng trong việc điều tiết và tạo vốn thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
− Thị trường tài chính có thể không có hoặc manh mún, phân tán và đầy rủi ro, lạm


phát và tỷ giá biến động không thể kiểm soát được.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 1/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
1.2. Tự do hóa tài chính
1.2.1. Tự do hóa tài chính là gì?
Tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là hủy bỏ sự kiểm soát của
Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho hệ thống này hoạt
động tự do hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường.
Tự do hóa tài chính được chia làm hai cấp độ:
− Tự do hóa tài chính nội địa: Bằng cách xóa bỏ sự kiểm soát lãi suất và phân bổ tín
dụng
− Tự do hóa tài chính quốc tế: Loại bỏ kiểm soát vốn và các hạn chế trong quản lý
ngoại hối.
Bản chất của tự do hóa tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội tại vốn có
của thị trường và chuyển vai trò điều tiết tài chính từ chính phủ sang thị trường, mục tiêu
là tìm ra sự phối hợp có hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường trong việc thực hiện các
mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế – xã hội.
1.2.2. Lợi ích của tự do hóa tài chính
Nhìn từ góc độ kinh tế, hoạt động tài chính cũng giống như các hoạt động trao đổi
mua bán các hàng hoá và dịch vụ khác, có thể có những tác động tích cực đến thu nhập và
sự tăng trưởng của tất cả các đối tác tham gia. Lợi ích của việc tự do hoá các hoạt động
thương mại trong lĩnh vực dịch vụ tài chính có thể có được nhìn nhận trên một số khía
cạnh sau:
− Tự do hoá tài chính sẽ tăng thêm áp lực cạnh tranh làm cho khu vực dịch vụ tài
chính hoạt động có hiệu quả và ổn định hơn, đồng thời giúp các tổ chức tài chính
nội địa có điều kiện cải thiện năng lực quản lý.
− Tự do hoá tài chính sẽ làm tăng thêm chất lượng các dịch vụ tài chính được cung
cấp (do sự độc quyền bị loại bỏ). Người tiêu dùng có thể được hưởng những sản

phẩm dịch vụ mới, đa dạng, tiện ích với chi phí và thời gian ít nhất.
− Tự do hoá các dịch vụ tài chính đem đến nhiều cơ hội cho việc chuyển giao công
nghệ và làm giảm thiểu những rủi ro có tính hệ thống.
− Tự do hoá các dịch vụ tài chính tạo điều kiện cho việc thiết lập một chính sách kinh
tế vĩ mô có hiệu quả hơn phù hợp với những điều kiện trong một nền kinh tế mở,
trên cơ sở đó thực hiện phân phối nguồn lực một cách có hiệu quả trên cơ sở khai
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 2/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
thác tối đa lợi thế kinh tế trong nước và thế giới.
1.2.3. Mặt trái của tự do hóa tài chính
Tiềm năng lợi ích của tự do hoá tài chính là rất lớn, tuy nhiên tự do hoá tài chính
cũng cố những mặt trái nhất thiết phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, đặc biệt trong điều kiện
xu thế tự do hoá tài chính cũng mới chỉ dừng lại ở những bước đi ban dầu. Những hạn chế
của tự do hoá tài chính thông thường được nhìn nhận trên hai gốc độ:
− Thứ nhất: Tự do hoá tài chính có thể làm tăng thêm khả năng gây ra khủng hoảng
tài chính nếu tiến trình tự do hoá được thực hiện một cách nôn nóng, sai trình tự
hoặc thiếu đồng bộ trong các biện pháp quản lý vĩ mô ở cả cấp độ quốc gia và quốc
tế.
− Thứ hai: Tài chính thường được coi là công cụ quản lý chiến lược và là lĩnh vực đặc
biệt cần được nắm giữ bởi Nhà nước để tập trung thực hiện những mục đích quan
trọng của một quốc gia. Việc mở cửa thị trường tài chính có thể có nguy cơ làm xao
nhãng hoặc thiếu tập trung trong việc điều hành thực hiện những mục tiêu của nhà
nước vì các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài sẽ không quan tâm đến một mục đích
nào khác hơn là mục đích lợi nhuận. Đặc biệt, trong điều kiện hệ thống tài chính nội
địa có khả năng cạnh tranh kém, nền tài chính có nguy cơ bị thống trị bởi các tổ
chức, doanh nghiệp tài chính nước ngoài thì quyền lực kiểm soát, khống chế và điều
khiển thị trường tài chính của Nhà nước sẽ dần bị thu hẹp lại, và do đó có thể
phương hại đến mục tiêu chiến lược của quốc gia. Hơn nữa, việc mở cửa thị trường

tài chính nếu không được chuẩn bị kỹ lưỡng có thể sẽ dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu
cực, thiếu lành mạnh như lừa đảo, phá sản, đổ vỡ... gây thiệt hại đến lợi ích của
người tiêu dùng.
1.2.4. Lộ trình tự do hóa tài chính
Tự do hóa tài chính được tiến hành sau tự do hóa thương mại. Lộ trình tự do hóa tài
chính trải qua những bước sau:
Bước 1: Cải tiến và hiện đại hóa ngân hàng, đây là điều kiện cần thiết để phát triển
cơ sở hạ tầng trên thị trường tài chính.
Bước 2: Tự do hóa hoàn toàn lãi suất và thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi có sự
quản lý của nhà nước.
− Tự do hóa lãi suất là một phần quan trọng của tự do hóa tài chính, bản chất của tự
do hóa lãi suất chính là cơ chế điều hành lãi suất hoàn toàn để cho cung cầu vốn
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 3/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
trên thị trường xác định lãi suất cân bằng. Ngân hàng trung ương chỉ can thiệp bằng
các công cụ để điều hành theo định hướng.
− Tự do hóa lãi suất gắn liền với cải cách cơ cấu, bao gồm: Cơ cấu lại các khoản nợ
khó đòi, tiến hành tư nhân hóa một số ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, áp dụng
các chính sách kích thích cạnh tranh lành mạnh trong khu vực ngân hàng.
− Chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý là xây dựng một hành lang tỷ giá cho phép tỷ
giá giao động trong một khoảng giới hạn nhất định xung quanh tỷ giá chính thức
của ngân hàng trung ương.
Bước 3: Tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vãng lai, xóa bỏ hoàn toàn cơ chế
phân bổ quota và những rào cản khác trong giao dịch vãng lai.
Bước 4: Từng bước tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vốn.
− Tự do hóa giao dịch vốn là quá trình dỡ bỏ dần những hạn chế đối với các giao dịch
này như xóa bỏ hoàn toàn những quy định hạn chế tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của các
nhà đầu tư nước ngoài. Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn về nước

với các khoản đầu tư dài hạn-ngắn hạn thông qua hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Cho các doanh nghiệp trong nước tự do tiếp cận với các nguồn vốn quốc tế thông
qua phát hành cổ phiếu – trái phiếu.
− Đối với người dân tự do hóa nguồn vốn cho phép họ thực hiện các hoạt động ở
nước ngoài như mở tài khoản ngân hàng, tham gia các hoạt động đầu tư nhằm đạt
lợi nhuận cao.
− Các doanh nghiệp được phép đầu tư và sở hưu các công ty khác nhau, các dòng vốn
được tự do di chuyển từ nơi có tỷ suất sinh lợi thấp sang những nơi có tỷ suất sinh
lợi cao.
1.2.5. Điều kiện để cho tự do hóa tài chính thành công
Cải cách tài chính ở Việt Nam, hội nhập tài chính bằng cách mở cửa dần từng bước
các giao dịch thương mại trên lĩnh vực tài chính là một xu hướng tất yếu. Việt Nam muốn
hội nhập tài chính thì chính sách tài chính và chính sách tiền tệ phải linh hoạt - ổn định
đáng tin cậy. Những điều kiện cho việc tự do hóa tài chính thành công là:
− Quản lý kinh tế vĩ mô vững chắc và tiết kiệm quốc gia cao.
− Thực hiện đúng lộ trình tự do hóa kinh tế.
− Hệ thống tài chính hoạt động hiệu quả.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 4/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
− Hệ thống giám sát ngân hàng hợp lý và việc thi hành có hiệu quả.
− Không có khoản cho vay mang tính chất chính trị và lạm dụng hệ thống tài chính.
− Một Chính Phủ triệt để chống tham nhũng và lãng phí.
− Tính minh bạch trong công bố thông tin.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 5/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
CHƯƠNG 2

CẢI CÁCH TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
THEO HƯỚNG TỰ DO HÓA
2.1. Chính sách tái cấu trúc nền kinh tế
2.1.1. Tự do hóa tài khoản vãng lai
Trong hoạt động ngân hàng, một tài khoản vãng lai là một tài khoản tiền gửi mở tại
ngân hàng hoặc tổ chức tài chính nào đó, với mục đích cung ứng một cách nhanh chóng và
an toàn phương tiện tiếp cận thường xuyên tới các món tiền gửi theo nhu cầu, thông qua
một loạt các kênh khác nhau. Vì thế, tài khoản này có tên khác là Tài khoản thanh toán.
Như vậy, nội dung rất quan trọng để đạt được tự do hóa (tài khỏan) giao dịch vãng
lai là đồng tiền Việt Nam phải được thừa nhận trong các giao dịch quốc tế, có nghĩa là
VND phải được chấp nhận ở trong nước và trên phạm vi quốc tế. Theo đó, đồng tiền tự do
chuyển đổi gắn chặt với sức mạnh của nền kinh tế, đó phải là nền kinh tế có sức cạnh tranh
cao và tính ổn định kinh tế vĩ mô bền vững.
Theo cách hiểu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), đồng tiền tự do chuyển đổi là đồng
tiền của một nước hội viên mà IMF nhận thấy đồng tiền đó được sử dụng rộng rãi để thanh
toán các giao dịch quốc tế và được mua bán rộng rãi trên thị trường ngoại hối chủ chốt.
Mặt khác, để tự do chuyển đổi, trước hết đồng tiền đó phải có tính chuyển đổi, có
nghĩa là đồng tiền đó có thể được chuyển đổi sang ngoại tệ mà không có bất kỳ hạn chế
nào.
Thông thường, người ta nói đến mức độ chuyển đổi của đồng tiền theo giao dịch
phải gắn với ba nội dung: một là, giao dịch đó phải được phép; hai là, không có hạn chế
nào trong việc chuyển đổi (mua bán ngoại tệ) để phục vụ mục đích thanh toán; ba là, ngoại
tệ phải được đáp ứng theo yêu cầu của người mua, phục vụ thanh toán cho giao dịch đó.
Trên thực tế, có thể xảy ra trường hợp giao dịch đó là giao dịch được phép, nhưng việc
mua ngoại tệ để thanh toán cho giao dịch đó bị hạn chế. Trường hợp này, khả năng chuyển
đổi của đồng tiền đã bị hạn chế.
Thực tế, hoạt động ngoại hối được điều chỉnh bởi Pháp lệnh Ngoại hối và được quy
định chi tiết thi hành theo Nghị định 160 của Chính phủ, ban hành ngày 28/12/2006 với
Điều 5 quy định tự do hoá với giao dịch ngoại hối vãng lai: Các giao dịch thanh toán và
chuyển tiền đối với giao dịch vãng lai của người dân được tự do theo các nguyên tắc sau:

Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 6/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Được mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài phục vụ các nhu cầu thanh toán và
chuyển tiền. Có trách nhiệm xuất trình các chứng từ theo quy định của tổ chức tín dụng
khi mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài. Khi mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước
ngoài phục vụ các giao dịch vãng lai, người dân không phải xuất trình các chứng từ liên
quan đến việc xác nhận hoàn thành nghĩa vụ thuế với Nhà nước Việt Nam.
Chính vì vậy, có thể nói rằng việc tự do hóa giao dịch vãng lai có ảnh hưởng lớn tới
hoạt động doanh nghiệp và đại bộ phận dân cư. Cụ thể là việc mua ngoại tệ phục vụ nhu
cầu cá nhân như: du lịch, khám chữa bệnh, du học hay của các doanh nghiệp khi thanh toán
xuất nhập khẩu, vay tín dụng thương mại nước ngoài ngắn hạn sẽ không nhiều thủ tục về
giấy phép như hiện nay. Cũng theo quy định trong Pháp lệnh Ngoại hối, người dân và các
tổ chức kinh tế còn được trực tiếp vay trả nợ nước ngoài theo nguyên tắc tự vay tự chịu
trách nhiệm.
Các giao dịch vãng lai bao gồm các khoản thanh toán và chuyển tiền liên quan đến
xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; các khoản vay tín dụng thương mại và ngân hàng
ngắn hạn; các khoản chuyển tiền một chiều cho mục đích tiêu dùng...
Khi xuất nhập cảnh, các cá nhân sẽ không phải khai báo nếu mang ngoại tệ hay
đồng VN bằng tiền mặt dưới hạn mức qui định (hạn mức đang áp dụng hiện nay là 7.000
USD)... Trong trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài muốn mua bán chứng khoán, các
giấy tờ có giá khác và góp vốn, mua cổ phần tại VN, phải mở tài khoản vốn đầu tư gián
tiếp bằng đồng VN tại ngân hàng...
Hiện trạng tự do giao dịch vãng lai tại Việt Nam:
− Thực tế trong những năm qua, người dân có nhu cầu mua hoặc bán ngoại tệ mạnh
như USD hoặc Euro vẫn tìm điểm đến là các tiệm vàng. Theo quy định, người dân
muốn mua USD tại các ngân hàng hay các quầy thu đổi ngoại tệ chính thức phải
xuất trình đủ các loại giấy tờ chứng thực việc cần mua USD cho việc chuyển ra
nước ngoài nộp học phí hay đi du lịch... Do đó, trong trường hợp người dân muốn

mua USD để tích trữ thì họ không thể nào tìm đến các điểm giao dịch ngoại hối
chính thức. Khi đó họ sẽ tìm đến các điểm mua bán ngoại tệ không hợp pháp. Ở đây
họ có thể dễ dàng mua bán, trao đổi bất kỳ loại ngoại tệ thông dụng nào mà không
cần xuất trình bất kỳ loại giấy tờ nào.
− Hạn chế khi kết chuyển ngoại hối: Khi xuất nhập cảnh, các cá nhân sẽ không phải
khai báo nếu mang ngoại tệ hay đồng VN bằng tiền mặt dưới hạn mức qui định (hạn
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 7/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
mức đang áp dụng hiện nay là 7.000 USD)... Trong trường hợp các nhà đầu tư
nước ngoài muốn mua bán chứng khoán, các giấy tờ có giá khác và góp vốn, mua
cổ phần tại VN, phải mở tài khoản vốn đầu tư gián tiếp bằng đồng VN tại ngân
hàng...
2.1.2. Tự do hóa tài khoản vốn
Tự do hóa tài khoản vốn là việc cho tự do tiến hành chuyển đổi các tài sản tài chính
trong nước thành tài sản tài chính ở nước ngoài và ngược lại theo tỷ giá hối đoái do thị
trường quy định.
Ở nhiều nước đang phát triển, những chuyển đổi như vậy thường bị hạn chế nghiêm
ngặt bởi hàng loạt quy chế. Mục đích của sự hạn chế này là để giữ tiết kiệm ở lại trong
nước và phục vụ cho đầu tư trong nước, tránh để nền kinh tế của đất nước bị ảnh hưởng
bởi những cú sốc từ bên ngoài. Tuy nhiên, từ thập niên 1970 và thập niên 1980, ngày càng
nhiều quốc gia nhận ra rằng chỉ tiết kiệm trong nước không đủ để đáp ứng nhu cầu tài
chính cho đầu tư trong nước. Vì thế, họ đã huy động cả tiết kiệm ngoài nước dưới hình
thức cho phép đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp. Khi chiều chuyển đổi tài sản
tài chính ở nước ngoài thành tài sản tài chính ở trong nước được chấp nhận, tự nhiên các
nước này bị đòi hỏi phải chấp nhận cả chiều ngược lại với lý do là để bảo vệ lợi ích của
các nhà đầu tư nước ngoài. Đây chính là tự do hóa tài khoản vốn.
Tự do hóa tài khoản vốn làm cho vốn tự do luân chuyển qua biên giới quốc gia. Nó
giúp cho nền kinh tế quốc gia trở nên linh hoạt hơn, hội nhập sâu hơn vào kinh tế khu vực

và thế giới. Song, nó cũng làm cho nền kinh tế quốc gia trở nên dễ bị tổn thương hơn.
Tại Việt Nam, tự do hóa tài khoản vốn đang từng bước thực hiện là một trong bốn
nội dung của Lộ trình Hội nhập Tiền tệ và Tài chính khu vực ASEAN được thông qua tại
Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN lần thứ 7 vào tháng 8/2003 với mục tiêu là tự do
hóa hơn các luồng chu chuyển vốn vào năm 2020. Trên cơ sở đó, Nhóm Công tác về tự do
hoá tài khoản vốn (cấp kỹ thuật) đã được thành lập để triển khai các kế hoạch đã được đề
ra trong Lộ trình Tự do hoá tài khoản vốn.
Tự do hóa tài khoản vốn nhằm tạo thuận lợi và tự do hóa hơn nữa các luồng luân
chuyển vốn được đề ra trong Kế hoạch Tổng thể Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC
Blueprint), theo đó, tự do hóa các luồng chu chuyển vốn được thực hiện theo các nguyên
tắc: (i) tự do hóa tài khoản vốn phù hợp với điều kiện thực tế và mức độ sẵn sàng của các
nước thành viên; (ii) cho phép phòng vệ chính đáng trước các nguy cơ mất ổn định kinh tế
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 8/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
vĩ mô và rủi ro hệ thống; và (iii) đảm bảo chia sẻ lợi ích giữa tất cả các nước ASEAN.
Trên cơ sở các nguyên tắc định hướng nêu trên, các nước thành viên sẽ tiến hành tự
do hoá theo bốn bước sau: (i) nới lỏng hoặc loại bỏ các qui định liên quan đến giao dịch
vãng lai (2008-2015); áp dụng Điều VIII của IMF về loại bỏ hạn chế đối với các thanh
toán và chuyển tiền để thực hiện các giao dịch vãng lai quốc tế vào năm 2011; (ii) đánh giá
và dần dần nới lỏng các qui định về chuyển tiền quốc tế liên quan đến FDI (2008-2015);
(iii) đánh giá và dần dần nới lỏng các qui định về các luồng vốn đầu tư gián tiếp; đặc biệt
các qui định về nợ và cổ phần (2009-2015); và (iv) đánh giá và dần dần nới lỏng các qui
định về các luồng vốn khác, đặc biệt cả qui định về vay nợ nước ngoài dài hạn của người
cư trú (2011-2015).
Tiến trình thực hiện và định hướng trong thời gian tới
Theo lộ trình hội nhập tài chính tiền tệ, nguyên tắc tự do hoá tài khoản vốn phải
đảm bảo quá trình tự do hoá có trật tự, phù hợp với kế hoạch của từng quốc gia, từng nước
thành viên sẽ thực hiện quá trình tự do hoá tài khoản vốn theo phương thức là tổng hợp

quy chế hiện hành về tài khoản vốn và tự đưa ra một chương trình tự do hoá các khoản
mục trong tài khoản vốn.
Trên cơ sở đó, hàng năm các nước sẽ báo cáo, trao đổi về các biện pháp, chính sách
tự do hoá các khoản mục của nước mình. Điều đó sẽ giúp Việt nam cũng như các nước cập
nhật được các biện pháp, chính sách về việc loại bỏ dần các rào cản đối với các luồng luân
chuyển vốn của từng nước trong khu vực.
− Chu chuyển các luồng vốn giữa các quốc gia tăng mạnh cả về qui mô và tốc độ
− Mỗi quốc gia cần có chính sách và biện pháp thích hợp nhằm đảm bảo ổn định kinh
tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững. Trong đó, cần xác định được động cơ và nguyên
nhân của luồng vốn vào, cơ cấu luồng vốn, tác động của nó đến nền kinh tế và hệ
thống tài chính.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã và đang thực hiện tự do hóa tài khoản vốn một
cách có trật tự:
− Thu hút FDI và mở cửa ngoại thương, nới lỏng kiểm soát lợi nhuận chuyển ra
− Nhà đầu tư được phép mua trái phiếu chính phủ với khối lượng và giá trị không hạn
chế, mua 49% cổ phiếu doanh nghiệp và 30% cổ phiếu ngân hàng.
Tuy nhiên, do độ mở của nền kinh tế lớn, Việt Nam cũng chịu những tác động bất
lợi của dòng vốn đầu tư gián tiếp chảy vào trong như áp lực lạm phát, thâm hụt cán cân
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 9/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
vãng lai... Do đó, trước những biến động của môi trường kinh tế trong nước và toàn cầu,
trong thời gian tới, Việt Nam cần có những đánh giá thận trọng đối với việc thực hiện lộ
trình tự do hóa tài khoản vốn nhằm đảm bảo việc thực hiện các cam kết của khu vực và
quốc tế, đồng thời đảm bảo duy trì được các mục tiêu của các chính sách tài khóa, tiền tệ
và tỷ giá.
Theo lộ trình đã được đề ra trong AEC, trong thời gian tới Việt Nam loại bỏ dần các
rào cản đối với các luồng luân chuyển vốn trong khu vực theo lịch trình sau: (i): Rà soát,
đánh giá về các rào cản đối với các luồng vốn gián tiếp (2009-2010); (ii) Dỡ bỏ dần các rào

cản đã được xác định đối với các luồng luân chuyển vốn: Luồng vốn FDI, bắt đầu dỡ bỏ từ
năm 2010; Luồng vốn đầu tư gián tiếp, bắt đầu dỡ bỏ từ năm 2011; Luồng vốn khác, bắt
đầu dỡ bỏ từ năm 2012. Tuy nhiên, để tự do hóa an toàn và có tác dụng tích cực đến tăng
trưởng kinh tế, cần phải hiểu và thi hành những chính sách cần thiết để tạo tiền đề cho tự
do hóa xảy ra một cách trôi chảy.
Kinh nghiệm tự do hóa tài khoản vốn ở các nước trên thế giới và quá trình tự do hóa
đang diễn ra ở Trung Quốc, nước láng giềng với nhiều điểm tương đồng về thể chế chính
trị và kinh tế với Việt Nam:
− Cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 : xem xét lại những vấn đề liên
quan đến tự do hóa tài khoản vốn với vai trò trọng yếu của hệ thống tài chính được
chế tài tốt, quản lý tốt, và tư bản hóa tốt càng được coi trọng hơn. Các nhà làm
chính sách đã nhìn nhận đúng đắn hơn rằng tự do hóa tài khoản vốn phụ thuộc vào
một loạt các chính sách hữu hiệu.
− Tự do hóa tài khoản vốn thường xuyên gây ra các cuộc khủng hoảng ở cả các nền
kinh tế phát triển và đang phát triển (ở khu vực Scandinavia, Mỹ Latinh, và Đông
á), tự do hóa tài khoản vốn đã hấp thu một lượng vốn chảy vào nền kinh tế quá lớn
so với khả năng hấp thụ của chúng một cách an toàn. Thời gian trôi qua, vốn chảy
vào biến thành vốn chảy ra, để lộ ra một hệ thống tài chính què quặt.
− Nhờ có tăng trưởng nhanh hơn và/hoặc lạm phát cao hơn, lãi suất có xu hướng cao
hơn ở nước có tài khoản được tự do hóa so với mức quốc tế. Lãi suất cao hơn này,
kết hợp với sự hiện diện của nhiều cơ hội mới nảy sinh từ việc tự do hóa, dẫn đến
dòng vốn chảy vào tăng lên mạnh
− Tăng trưởng tiền tệ nhanh, và thậm chí tăng trưởng tín dụng nhanh hơn, giá các loại
tài sản tăng kiểu bong bóng, và cơn sốt đầu tư và tiêu dùng.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 10/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
− Khi tính cạnh tranh bị giảm sút, tài khoản vãng lai thâm hụt, và nợ xấu tăng lên, làm
xói mòn lòng tin của các nhà đầu tư. Sự tăng giá của bản tệ, hoặc là do sự lên giá về

danh nghĩa, hoặc là do lạm phát cao hơn, làm giảm tính cạnh tranh của hàng xuất
khẩu, và do đó làm tăng thêm thâm hụt tài khoản vãng lai.
− Sau giai đoạn giá các loại tài sản đạt đỉnh điểm, lượng tín dụng cho vay đầu tư bất
động sản và chứng khoán trở nên khó thu hồi, trong khi đó các khoản đầu tư kinh
doanh không còn mang lại mấy lợi nhuận. Mất cân đối trong cán cân vãng lai và sự
mong manh dễ vỡ của hệ thống tài chính là dấu hiệu của rủi ro và thúc đẩy vốn
chảy ngược ra ngoài. Sự đổ ngược vốn ra ngoài như vậy gây áp lực lên tỷ giá và thị
trường tài sản nội địa và đặt các cơ quan quản lý vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan
giữa một bên là nâng lãi suất, và một bên là để cho bản tệ bị mất giá.
− Bản tệ mất giá sẽ làm tăng gánh nặng nghĩa vụ tài chính cho những doanh nghiệp
vay vốn bằng ngoại tệ, đặc biệt khi sự phá giá diễn ra sau giai đoạn tỷ giá được ấn
định. Trong trường hợp xấu nhất thì sự chảy ngược vốn ra bất thình lình sẽ châm
ngòi cho các cuộc khủng hoảng ngân hàng và tiền tệ nghiêm trọng ở Scandinavia,
Mỹ La tinh và Đông á, mặc dầu giữa chúng có những khác biệt đáng kể.
Tổng kết và liên hệ có thể rút ra từ những kinh nghiệm quốc tế này:
− Thứ nhất, phải theo đuổi các chính sách thương mại và vĩ mô lành mạnh để giảm
thiểu rủi ro của việc tự do hóa tài khoản vốn.
− Thứ hai, các nền kinh tế phải củng cố hệ thống tài chính và hạ tầng cơ sở giám sát
của mình trước khi mở cửa tài khoản vốn.
− Thứ ba, một khu vực doanh nghiệp với công tác tài chính yếu ớt và sự quản trị kém
có thể lạm dụng một cách có hệ thống những cơ hội đem lại bởi tự do hóa tài khoản
vốn.
− Thứ tư, nhiều người ủng hộ quan điểm rằng cơ chế tỷ giá linh hoạt là một điều kiện
quan trọng để hạn chế sự tích đọng những rủi ro trên bảng cân đối tài sản liên quan
đến sự lệch khớp về tiền tệ (currency mismatches) và để ngăn chặn áp lực trên thị
trường ngoại hối căng thẳng quá mức biến thành khủng hoảng tài chính trên diện
rộng.
− Cuối cùng, một số thiên về kết luận rằng vốn chảy vào cần được quản lý hay đổi
hướng bằng những phương pháp như dự trữ bắt buộc đối với các khoản vốn ngắn
hạn theo kiểu ở Chile.

Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 11/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Mặc dù còn nhiều bất đồng nhưng người ta thống nhất với nhau rằng tự do hóa tài
khoản vốn chỉ thành công ở những nền kinh tế có môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh, và
tự do hóa tài khoản vốn là một phần khăng khít của chương trình cải cách. Thiếu sót ở các
lĩnh vực khác cũng có thể dẫn đến những kết quả đáng tiếc từ việc tự do hóa tài khoản vốn.
Một số đặc điểm chính của nền kinh tế Trung Quốc. Tình trạng kinh tế của Trung
Quốc có khác biệt lớn so với của các nước ở Mỹ Latinh và Châu Á:
− Trước tiên, dù Trung Quốc đang thực thi việc kiểm soát ngoại hối chặt chẽ, Trung
Quốc đã mở rộng cửa cho các dòng vốn nước ngoài. Thậm chí người ta có thể nói
rằng Trung Quốc đã mở cửa cho FDI còn rộng hơn cả nhiều nước OECD. Đặc biệt,
Trung Quốc gần đây đã khuyến khích FDI ra nước ngoài, vào các dự án về năng
lượng và kỹ thuật.
− Ngoài ra, đồng CNY được sử dụng khá phổ biến ở những nước láng giềng, đôi khi
có thể coi như một ngoại tệ mạnh. Có lẽ bằng chứng về độ mở rộng rãi về tài chính
của Trung Quốc có thể thấy qua tốc độ phát triển của tiền gửi ngoại tệ trong hệ
thống ngân hàng Trung Quốc, một phần vì chính phủ cho phép duy trì lãi suất tiền
gửi ngoại tệ ở Trung Quốc khá gần với mức trên thị trường quốc tế. Sự biến động
tiền gửi ngoại tệ hàng tháng theo sát những biến động về biên độ lãi suất và dự đoán
về tỷ giá. Những yếu tố về mở cửa tài chính này sẽ tạo thuận lợi cho việc tự do hóa
tài khoản vốn vì nhiều điều chỉnh lớn cần thực hiện khi tự do hóa đã được thực
hiện.
− Nhưng do tiền gửi bằng ngoại tệ tăng nhanh, kết hợp với xu hướng giảm cho vay
bằng ngoại tệ của các ngân hàng Trung Quốc, hệ thống ngân hàng Trung Quốc đã
dư thừa vốn thanh khoản bằng ngoại tệ. Nguồn vốn này, tăng nhanh hơn cả tốc độ
tăng dự trữ ngoại hối, đã góp thêm vào luồng vốn ngoại tệ đổ ra khỏi Trung Quốc
lên đến 140 tỷ USD trong thời kỳ 1999 - 2001. Bởi vậy, câu hỏi liên quan đến việc
tự do hóa tài khoản vốn của Trung Quốc không còn là câu hỏi liệu có cho phép vốn

ngoại tệ chảy ra nước ngoài hay không, mà là câu hỏi liệu có phải tạo ra thêm các
kênh dẫn để vốn ngoại tệ đổ ra nước ngoài nhiều hơn, và làm thế nào để quá trình
này được dễ dàng hơn.
− Thứ hai, và có lẽ là yếu tố tích cực và quan trọng nhất cho việc tự do hóa tài khoản
vốn, nền kinh tế Trung Quốc đang tăng trưởng với tốc độ rất nhanh trong thập kỷ
qua, lên tới trên 9%/năm. Là một nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới với tỷ
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 12/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
lệ tiết kiệm trong dân cư lên tới 40% GDP, Trung Quốc dễ dàng đa dạng hóa các
hạng mục tài sản trong nước và tạo ra một môi trường thuận lợi cho các thể chế nội
địa.
− Thứ ba, lãi suất nội địa Trung Quốc không vượt xa mức trên thị trường tiền tệ quốc
tế. Vào đầu năm 1990, Trung Quốc có mức lạm phát tương đối cao, nhưng sau đó
giảm được xuống mức thấp nhờ thắt chặt chính sách tiền tệ. Trong những năm gần
đây, giá cả ở Trung Quốc lại giảm xuống ở mức nhẹ. Lãi suất nội địa, về cơ bản vẫn
do nhà nước thiết lập, giảm xuống thấp theo lạm phát, bằng hoặc thậm chí thấp hơn
mức quốc tế.
− Thứ tư, đồng CNY đã được tự do chuyển đổi trên tài khoản vãng lai năm 1996, và
được neo với USD từ năm 1994. Trong nhiều năm, Trung Quốc có thặng dư tài
khoản vãng lai vừa phải và có lượng vốn ngoại tệ đổ vào trung bình lớn hơn luồng
vốn đổ ra. Luồng vốn FDI khá ổn định chiếm một khoản lớn trong tài khoản vốn,
bên cạnh dự trữ ngoại hối khổng lồ lên đến nhiều trăm tỷ USD. Kết quả là Trung
Quốc là chủ nợ ròng của thế giới. Và trong mọi trường hợp, qũy dự trữ ngoại tệ
khổng lồ này đủ sức khắc phục mọi biến động gây ra từ các tài sản nợ ngắn hạn.
Sau gia nhập WTO, luồng FDI chảy vào càng lớn hơn nữa. Vì vậy, có thể nói là sự
phụ thuộc của Trung Quốc vào nguồn FDI ổn định và cán cân đối ngoại của họ tạo
thuận lợi cho tự do hóa tài khoản vốn.
− Thứ năm, ngược lại, chính sách tài chính của Trung Quốc lại là một điểm bất lợi

cho tự do hóa tài khoản vốn. Đầu tư của chính phủ vào cơ sở hạ tầng từ nguồn vốn
đi vay đã diễn ra từ nhiều năm nay, nhưng tỷ trọng nợ trên GDP mà chính phủ công
bố thì vẫn ở trong mức kiểm soát được. Tuy nhiên, hệ thống hưu trí đói vốn và hệ
thống ngân hàng có tỷ trọng vốn an toàn ở mức thấp là một điều đáng lo ngại.
Những khoản vốn cần thiết này cho thấy gánh nặng về nợ thực tế lớn hơn nhiều
mức công bố.
− Thứ sáu, và là hiểm họa lớn nhất khi tự do hóa tài khoản vốn, hệ thống tài chính của
Trung Quốc bị chi phối chủ yếu bởi hệ thống ngân hàng tuy lớn và có lượng thanh
khoản lớn nhưng lại không mạnh. Tỷ trọng tiền M2/GDP đã đạt đến 165% GDP
gần đây, là mức rất cao so với bất kỳ một tiêu chuẩn nào. Các ngân hàng Trung
Quốc cũng có khả năng thanh khoản lớn: tỷ lệ dư nợ cho vay/tiền gửi, khoảng trên
80%. Nhưng hệ thống ngân hàng này bị coi là yếu về mặt năng lực chi trả, vì tỷ lệ
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 13/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
nợ xấu vẫn còn cao, trên 10%, mặc dù chính phủ đã có những nỗ lực lớn để giảm nợ
xấu từ mức trên 30%.
Điều khác biệt về tình trạng kinh tế giữa Trung Quốc và các nước khác có liên
quan
Trung Quốc có 2 điểm khác biệt cơ bản về điều kiện ban đầu khi tự do hóa tài
khoản vốn so với các nước nói ở phần trên. Một là, Trung Quốc đang trải qua thời kỳ giá
ổn định, thậm chí hơi giảm, lãi suất danh nghĩa thấp, và giá trị các tài sản (cổ phiếu, trái
phiếu...) cao. Trong khi đó, ở các nước tự do hóa tài khoản vốn và bị khủng hoảng, thường
có lạm phát tương đối cao, lãi suất bản tệ cao, và giá trị các tài sản thấp. Hai là, Trung
Quốc hấp thu được một luồng vốn FDI lớn, dự trữ ngoại tệ lớn, và là một chủ nợ của thế
giới, thay vì phải phụ thuộc vào vốn ngắn hạn mang tính đầu cơ, dự trữ ngoại tệ hạn hẹp và
nợ nước ngoài lớn như ở các nước khác nói ở đây.
Nói chung, những điều kiện ban đầu của một nền kinh tế quyết định mức rủi ro
trong việc tự do hóa tài khoản vốn. Có thể dự đoán rằng sau khi mở tài khoản vốn ở Trung

Quốc, chỉ có FDI sẽ tăng lên mạnh mẽ, và rủi ro đi kèm với nó không phải là đáng lo ngại.
Thách thức chính cho Trung Quốc có lẽ nằm ở việc quản lý thành công tự do hóa tài
khoản vốn thông qua nhiều kênh khác nhau, ngoài các kênh truyền thống như gửi tiền bằng
ngoại tệ vào ngân hàng, trả trước các khoản nợ bằng USD, và đầu tư vào thị trường chứng
khoán Hong Kong.
Tình trạng kinh tế hiện tại của Trung Quốc, với vốn bắt đầu chảy ra khỏi lãnh thổ,
đặt ra những câu hỏi thú vị về chính sách. Về sự tồn tại lẫn lộn cả tiền gửi ngoại tệ và bản
tệ, kinh nghiệm thế giới cho thấy tỷ giá linh động hơn nữa và quá trình tự do hóa lãi suất
đang diễn ra tại Trung Quốc sẽ làm thay đổi đáng kể cơ cấu tiền gửi và cho vay bằng ngoại
tệ và bản tệ, có lẽ đôi lúc sẽ thúc đẩy mạnh dòng vốn chảy ra. Trong khi có thể nâng lãi
suất để ngăn chặn dòng vốn chảy ra này, nhưng lãi suất tăng xảy ra trùng hợp với giá tài
sản giảm sẽ đặt ra một tình thoái lưỡng nan về chính sách tiền tệ. Để giải quyết vấn đề này,
liệu có nên áp dụng một mức dự trữ bắt buộc trên tài khỏan tiền gửi bằng ngoại tệ (ở trong
nước) khác với mức áp dụng trên tài khoản tiền gửi bản tệ không (để hạn chế việc chuyển
đổi từ bản tệ sang ngoại tệ), như đã được thực hiện ở những nước khác? Tất nhiên, câu trả
lời phải tính đến thực tế rằng tiền gửi ở nước ngoài thì không bị áp dụng dự trữ bắt buộc.
Do đó, biện pháp áp dụng dự trữ bắt buộc này sẽ trở nên vô hiệu trừ khi áp dụng trở lại các
biện pháp kiểm soát lưu chuyển ngoại hối để hạn chế việc chuyển đổi CNY thành ngoại tệ
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 14/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
của dân chúng sống ở Trung Quốc.
Về tự do hóa dần dần dòng lưu chuyển 2 chiều của vốn đầu tư vào các hạng mục tài
sản, Trung Quốc nên làm thế nào để thiết lập thăng bằng giữa kiểm soát và khuyến khích
vốn đầu tư gián tiếp vào nước này? Ví dụ, một mặt, Trung Quốc có nên xem xét thiết lập
một chương trình chỉ cho phép các nhà đầu tư là tổ chức nước ngoài đủ tư cách được đầu
tư vào các loại tài sản nội địa, và, mặt khác, chỉ cho phép các nhà đầu tư là tổ chức nội địa
đủ tư cách được đầu tư vốn gián tiếp ra nước ngoài? Nếu dòng vốn đầu tư gián tiếp chảy ra
lớn quá mức thì có nên áp dụng phí ở dưới dạng nào đó, có thể liên quan đến độ dài thời

gian nắm giữ nguồn vốn này, và được điều chỉnh thích hợp để tác động đến dòng chảy này,
theo cùng cách thức mà các quỹ đầu tư sử dụng để điều chỉnh hành vi của cổ đông? Hiển
nhiên, câu trả lời cho những câu hỏi này không chỉ phụ thuộc vào những điều kiện ban đầu
mà còn dựa vào tầm quan trọng tương đối của nhiều mục tiêu chính sách và mức độ tự do
hóa tài khoản vốn cần phải đạt được.
Và triển vọng tự do hóa tài khoản vốn ở Việt Nam
So sánh với Trung Quốc và các nước khác nêu ở trên thì rõ ràng Việt Nam nằm đâu
đó giữa hai thái cực. Một mặt, Việt Nam chia xẻ một số điểm tương đồng với Trung Quốc
như có một nguồn vốn FDI đổ vào khá dồi dào (tính theo tỷ trọng GDP thì thậm chí còn
lớn hơn của Trung Quốc); giá trị các tài sản tài chính (cổ phiếu, trái phiếu) đang lên cao,
theo sát diễn biến lạc quan của tăng trưởng kinh tế cao (khoảng 8%/năm); sự phụ thuộc
vào và tỷ trọng vốn đầu tư gián tiếp trong tổng các nguồn tài trợ từ nước ngoài còn thấp;
vai trò can thiệp và tham gia vào nền kinh tế của chính phủ rất lớn, thông qua đầu tư nhà
nước và khối doanh nghiệp nhà nước, làm cho thâm hụt ngân sách luôn ở mức khá cao và
luôn cần bổ sung thêm vốn.
Mặt khác, Việt Nam cũng có nhiều điểm giống các nước bị khủng hoảng tài chính
khi tự do hóa tài khoản vốn, như có lạm phát tương đối cao (gần 8% trong mấy năm gần
đây), lãi suất danh nghĩa VND cao, dự trữ ngoại hối còn hạn hẹp, thâm hụt tài khoản vãng
lai kinh niên, và nợ nước ngoài tương đối lớn. Ngoài ra, Việt Nam giống tất cả các nước có
liên quan ở điểm là hệ thống tài chính còn rất yếu kém, với tỷ lệ nợ xấu cao, rủi ro hệ
thống lớn, thông lệ cho vay bất cẩn, chế độ quản trị ngân hàng còn yếu kém, và cơ chế tỷ
giá còn cứng nhắc...
Với những đặc điểm này, có thể thấy rằng các điều kiện tiền đề cho tự do hóa tài
khoản vốn ở Việt Nam một cách an toàn là chưa tồn tại hoặc chưa đầy đủ, nhất là những
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 15/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
điều kiện tiền đề về nền kinh tế vĩ mô lành mạnh, cũng như một hệ thống tài chính và hạ
tầng cơ sở giám sát vững chắc. Cũng không kém phần quan trọng là chính phủ và người

dân Việt Nam có quá ít kinh nghiệm bước đầu với việc tự do hóa tài khoản vốn (như cho
phép đầu tư trực tiếp/gián tiếp ra nước ngoài - một hiện tượng mới được đề cập đến gần
đây).
Về giải pháp thúc đẩy hình thành các điều kiện tiền đề này, có lẽ không gì thích hợp
hơn việc nghiên cứu mô hình tự do hóa của các nước trên thế giới, đặc biệt Trung Quốc,
như nêu ở trên, tập trung vào những lợi thế, thách thức, và những khó xử trong chính sách
liên quan đến quá trình tự do hóa của họ để làm bài học cho Việt Nam. Có thể thấy trước
rằng việc tự do hóa tài khoản vốn ở Việt Nam cũng đồng nghĩa với một cuộc cải cách sâu
rộng và đồng bộ trên nhiều mặt của nền kinh tế vĩ mô mà một trục trặc trong quá trình này
cũng sẽ làm cái giá phải trả cho việc tự do hóa trở nên đắt hơn nhiều.
2.1.3. Chính sách tiền lương và giá cả
Hiện VN đang duy trì 3 mức lương tối thiểu giữa 3 loại hình DN (DN có vốn đầu tư
nước ngoài, DNNN, DN tư nhân). Mặt khác, trên thực tế, mức tiền lương mà NLĐ VN
hiện đang được nhận chưa đủ đáp ứng cho đời sống, mức tiền lương hầu như không dựa
trên sự thỏa thuận giữa chủ sử dụng LĐ và NLĐ, mà thường là sự áp đặt của người sử
dụng LĐ dao động quanh mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Điều đó đòi hỏi phải
có lộ trình cải cách cụ thể, tích cực, phù hợp trong thời gian tới.
“Hội nghị đối thoại của các cơ quan/viện nghiên cứu và đào tạo Á – Âu” lần thứ
nhất với nội dung “So sánh chính sách tiền lương tối thiểu” đã tổ chức rất thành công ở
Dusseldorf, Đức năm 2009. Năm nay, khi diễn ra tại VN, các đại biểu đều mong muốn trao
đổi kinh nghiệm, quan điểm trên cơ sở những mối quan tâm chung về các vấn đề chính
sách liên quan đến LĐ, thông qua việc nhấn mạnh đối thoại, thương lượng về vấn đề tiền
lương tối thiểu; tiền lương tối thiểu khu vực phi chính thức; tiền lương với phát triển kinh
tế, nhằm đưa ra những cơ sở khoa học để chính sách tiền lương phù hợp và thúc đẩy phát
triển kinh tế; cũng như sự lớn mạnh của phong trào CN, CĐ hai châu lục.
Các khái niệm và các nhân tố ảnh hưởng tới tiền lương:
− Theo quan niệm của Mác: Tiền lương là biểu hiện sống bằng tiền của giá trị sức lao
động.
− Theo quan niệm của các nhà kinh tế học hiện đại: Tiền lương là giá cả của lao động,
được xác định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường lao động.

Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 16/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
− Theo Điều 55 - Bộ Luật Lao Động Việt Nam quy định tiền lương của người lao
động là do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất
lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Hiện nghị định 28/2010/NĐ-CP (ban
hành ngày 25/3/2010), từ 1/5 mức lương tối thiểu chung sẽ lên 730.000đ/tháng.
Mức lương này được áp dụng đối với: Cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, đơn vị sự
nghiệp của tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập; công ty được
thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN)
và công ty TNHH 1 thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ được tổ chức
quản lý và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
Vì vậy, tiền lương là một bộ phận của sản phẩm xã hội biểu hiện bằng tiền được trả
cho người lao động dựa trên số lượng và chất lượng lao động của mọi người dùng để bù
đắp lại hao phí lao động của mọi người và nó là một vấn đề thiết thực đối với cán bộ công
nhân viên.Tiền lương được quy định một cách đúng đắn, là yếu tố kích thích sản xuất
mạnh mẽ, nó kích thích người lao động ra sức sản xuất và làm việc, nâng cao trình độ tay
nghề, cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất lao động.
Người lao động sau khi sử dụng sức lao động tạo ra sản phẩm thì được trả một số
tiền công nhất định. Xét về hiện tượng ta thấy sức lao động được đem trao đổi để lấy tiền
công. Vậy có thể coi sức lao động là hàng hoá, một loại hàng hoá đặc biệt. Và tiền lương
chính là giá cả của hàng hoá đặc biệt đó, hàng hoá sức lao động. Vì hàng hoá sức lao động
cần được đem ra trao đổi trên thị trường lao động trên cơ sở thoả thuận giữa người mua
với người bán, chịu sự tác động của quy luật giá trị, quy luật cung cầu. Do đó giá cả sức
lao động sẽ biến đổi theo giá cả của các yếu tố cấu thành cũng như quan hệ cung cầu về lao
động. Như vậy khi coi tiền công là giá trị của lao động thì giá cả này sẽ hình thành trên cơ
sở thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động. Giá cả sức lao động hay tiền
công có thể tăng hoặc giảm phụ thuộc vào cung cầu hàng hoá sức lao động. Như vậy giá cả

tiền công thường xuyên biến động nhưng nó phải xoay quanh giá trị sức lao động cung như
các loại hàng hoá thông thường khác, nó đòi hỏi một cách khách quan yêu cầu tính đúng,
tính đủ giá trị của nó. Mặt khác giá tiền công có biến động như thế nào thì cũng phải đảm
bảo mức sống tối thiểu để người lao động có thể tồn tại và tiếp tục lao động.
Vai trò của tiền lương:
− Vai trò tái sản suất sức lao động
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 17/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
− Vai trò kích thích sản xuất
− Vai trò tái sản suất sức lao động
− Vai trò tích luỹ
Các nhân tố ảnh hưởng tiền lương:
− Nhóm nhân tố thuộc thị trường lao động: Cung – cầu lao động ảnh hưởng trực tiếp
đến tiền lương.
− Nhóm nhân tố thuộc môi trường doanh nghiệp: Các chính sách, Khả năng tài chính,
Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp ảnh hưởng mạnh tới tiền lương.
− Nhóm nhân tố thuộc bản thân người lao động: Trình độ lao động, Thâm niên công
tác, mức độ hoàn thành công việc nhanh hay chậm, đảm bảo chất lượng hay không
đều ảnh hưởng ngay đến tiền lương của người lao động.
− Nhóm nhân tố thuộc giá trị công việc: Mức hấp dẫn của công việc, mức độ phức tạp
của công việc, điều kiện thực hiện công việc, yêu cầu của công việc đối với người
thực hiện.
− Các nhân tố khác: ở đâu có sự phân biệt đối xử về màu da, giới tính, độ tuổi, thành
thị và nông thôn, ở đó có sự chênh lệch về tiền lương rất lớn, không phản ánh được
mức lao động thực tế của người lao động đã bỏ ra, không đảm bảo nguyên tắc trả
lương nào cả nhưng trên thực tế vẫn tồn tại.
Ngoài ra, sự khác nhau về mức độ cạnh tranh trên thị trường cũng ảnh hưởng tới
tiền lương của lao động

Khái niệm giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, nghĩa là số lượng tiền
phải trả cho hàng hoá đó. Về nghĩa rộng đó là số tiền phải trả cho một hàng hoá, một dịch
vụ, hay một tài sản nào đó. Giá cả của hàng hoá nói chung là đại lượng thay đổi xoay
quanh giá trị. Khi cung và cầu của một hay một loại hàng hóa về cơ bản ăn khớp với nhau
thì giá cả phản ánh và phù hợp với giá trị của hàng hoá đó, trường hợp này ít khi xảy ra.
Giá cả của hàng hoá sẽ cao hơn giá trị của hàng hoá nếu số lượng cung thấp hơn cầu.
Ngược lại, nếu cung vượt cầu thì giá cả sẽ thấp hơn giá trị của hàng hoá đó.
Giá cả của một mặt hàng phụ thuộc vào:
− Giá trị của bản thân hàng hoá đó
− Giá trị của đồng tiền
− Quan hệ cung và cầu cầu về hàng hoá
Tương quan giữa chính sách lương và giá tại Việt Nam: được xem là cuộc rượt đuổi
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 18/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
khó có hồi kết bởi nhũng yếu tố tác động như sau:
− Tiền lương tối thiểu được hiểu là mức lương đủ đảm bảo cho cuộc sống tối thiểu
của người lao động mới điều chỉnh khoảng giữa năm 2010 nhưng. Thế nhưng, trên
thực tế, lương tối thiểu và thực tiễn cuộc sống vẫn còn khoảng cách . Vấn đề hiện
nay là phải làm sao xây dựng mức lương tối thiểu phù hợp với nhu cầu thực tế ở
thời điểm công bố như quy định tại điều 56 Bộ luật Lao động: “Mức lương tối thiểu
được ấn định theo giá sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động làm công việc giản
đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và một
phần tích lũy tái sản xuất sức lao động mở rộng...”.
− Quan trọng nhất vẫn là, tiền lương không thể áp đặt mà phải theo hướng thị trường -
hình thành trên cơ sở mức sống, quan hệ cung cầu lao động và thỏa ước lao động
tập thể.
− Để thoát ra khỏi giới hạn ngân sách khi quỹ lương hiện đã chiếm trên 30% tổng chi
ngân sách và bằng 60% của chi thường xuyên là điều rất khó khăn (dù nhu cầu tăng

lương cho cán bộ công chức là hết sức cấp bách) nhưng vẫn có thể thực hiện được.
− Cần phải thu nhỏ bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế những người ăn bám vào
ngân sách đồng thời gia tăng năng lực quản lý các nguồn thu, chi ngân sách. Nếu
làm được điều này, không chỉ sẽ thực hiện được việc tăng mức lương tối thiểu mà
còn có thể giảm thiểu được sự nhũng nhiễu trong hàng ngũ cán bộ công chức.
− Các doanh nghiệp cũng mong muốn lương tối thiểu sát với thực tế. Ngoài ra, lương
tối thiểu thấp hơn lương thực tế cũng là một bất lợi cho các doanh nghiệp trong
nước khi thương lượng bán hàng cho nước ngoài vì các đối tác thường dựa vào mức
lương quy định chung của Nhà nước để tính ra đơn giá. Vì vậy, phần lớn các doanh
nghiệp đều mong muốn mức lương tối thiểu tiệm cận với mức lương thực tế mà
doanh nghiệp đang trả.
− Từ đầu năm 2011 đến nay, việc nhà nước điều cbhỉnh tỷ giá, tăng giá xăng, giá điện
đã làm gia tăng hầu hết chi phí đầu vào các mặt hàng thiết yếu như xi măng, thép,…
cùng lạm phát tăng cao đã hỗ trợ tâm lý giá cả các nhóm mặt hàng lương thực
phẩm, nhà ở, dịch vụ tăng cao.
− Giá cả tăng không chỉ khiến cho người mua lo lắng mà người bán cũng lo ngại.
Người tiêu dùng thắt chặt hầu bao, lượng tiêu thụ ít đi ảnh hưởng rất lớn đến đời
sống của người lao động. Chính phủ đang vận động người dân đồng cam cộng khổ
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 19/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
với những khó khăn của nền kinh tế trong thời buổi lạm phát. Thế nhưng để người
dân thực sự đồng lòng thì Chính phủ, trong phạm vi có thể kiểm soát được, cũng
cần đảm bảo rằng gánh nặng khó khăn được phân bổ một cách công bằng. Đồng
thời, Chính phủ cũng cần cải thiện hiệu quả của nền kinh tế để từ đó có cơ sở cải
thiện phúc lợi của nhân dân.
2.2. Chính sách tài khóa
2.2.1. Giai đoạn 1991 - 2007
Từ năm 1991 – 2007, tăng trưởng kinh tế Việt Nam có thể được chia thành 3 giai

đoạn: tăng trưởng cao (1991 - 1996), suy thoái (1997 - 2001), phục hồi (2002 - 2007). Như
vậy, từ năm 1991 đến năm 2007, nền kinh tế đã trải qua giai đoạn suy thoái và Chính phủ
đã sử dụng biện pháp kích thích bằng chính sách tài khóa.
Kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, Chính phủ đã thực hiện nhiều
chính sách năng động khác nhau để kích thích kinh tế, như cải cách thể chế kinh tế vận
hành theo cơ chế thị trường, mở cửa thu hút vốn đầu tư và thúc đẩy thương mại quốc tế,
đẩy mạnh tự do hóa hệ thống tài chính và phát triển thị trường tài chính năng động... Như
vậy, vấn đề tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ năm 1997 đến nay không thể chỉ giải thích ở
biến số chính sách tài khóa duy nhất. Có điều cần lưu ý, sự thay đổi tỷ lệ tăng trưởng từ
năm “đáy” của suy thoái đến năm sau đó là lớn hơn khi có những thay đổi cơ bản của
chính sách tài khóa như: giảm mức huy động nguồn thu thuế thông qua chương trình cải
cách thuế bước 2 và 3, đặc biệt gia tăng chi đầu tư công thông qua các chương trình kích
cầu từ nguồn vốn ngân sách và phát hành trái phiếu chính phủ... Tuy vậy, điều này cũng
chưa đủ cơ sở khoa học để khẳng định, chính sách tài khóa có hiệu ứng tốt đến ổn định chu
kỳ và khắc phục suy thoái kinh tế, mà cần có sự đo lường bằng phương pháp định lượng.
2.2.2. Giai đoạn 2007 – 2008
Từ cuối năm 2007 đến tháng 3-2008, chính sách kinh tế được chi phối bởi mục tiêu
tăng trưởng GDP 9%, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kế hoạch năm năm sớm (chỉ trong
ba năm), vượt ngưỡng nước có thu nhập trung bình ngay trong năm 2008...
Mặc dù đã có những cảnh báo sớm từ cuối năm 2007 về chất lượng tăng trưởng
thấp, chất lượng cuộc sống của người dân bị giảm sút, song quyết tâm của Chính phủ rõ
ràng là phải đạt được những thành tựu ấn tượng, vượt lên trên tất cả các thời kỳ trước đây.
Ý chí và mục tiêu đó được sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế và các nhà ngoại giao
qua những lời ca tụng không ngớt về những thành tựu nổi bật của Việt Nam, về vị thế mới
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 20/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
của Việt Nam trên trường quốc tế (thành viên WTO, lần đầu tiên được bầu là thành viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc...) và về dòng vốn nước ngoài đầu tư

trực tiếp và gián tiếp ào ạt đổ vào trong nước.
Trước những thay đổi mạnh mẽ về luồng vốn, tác động từ bên ngoài như vậy, lẽ ra
phải thực hiện ngay những cải cách cơ cấu và thể chế cần thiết để nâng cao năng lực giám
sát, quản lý các lĩnh vực trọng yếu như ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường bất
động sản, cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách hành chính theo hướng mở rộng công
khai minh bạch, mở rộng sự tham gia giám sát của các nhà khoa học, hiệp hội chuyên môn
trong quá trình chuẩn bị quyết định, soạn thảo chính sách.
Song, trên thực tế Chính phủ đã dồn dập triển khai các biện pháp và các công trình
để đạt các mục tiêu đề ra: việc phân cấp (về nguyên tắc là đúng đắn và cần thiết) quá mức
cho chính quyền địa phương cấp tỉnh về đầu tư (trong nước và ngoài nước), việc cấp đất,
mở khu công nghiệp... đã tạo ra những chồng chéo và dư thừa đáng lo ngại về quá nhiều
công trình đầu tư vào sân golf, bất động sản, nhà máy thép, nhà máy lọc dầu lớn nhỏ.
Hệ quả là bên cạnh sự năng động và tăng nhanh về số lượng, các quyết định hàng tỉ
đô la Mỹ ở các địa phương, tập đoàn kinh tế, liên quan đến năng lượng, kết cấu hạ tầng,
nguồn nhân lực ở tầm kinh tế quốc dân, rất hệ trọng cho quốc kế dân sinh đã được quyết
định một cách nhanh chóng, thiếu sự thẩm định cần thiết của các chuyên gia, hội đồng
thẩm định có chuyên môn ở các bộ, ngành và thiếu sự tham gia của các tổ chức quần
chúng.
Bắt đầu từ quý 3-2008 một sự cộng hưởng ngoài ý muốn giữa hiệu lực của các biện
pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ với tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, suy
thoái kinh tế toàn cầu đã xuất hiện. Giá hàng loạt nguyên vật liệu trên thế giới giảm mạnh
khiến tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm dần và chỉ số giá của hai tháng 10 và 11 lần lượt giảm
thấp hơn tháng trước.
Trong tháng 8-2008 đã có hai lần điều chỉnh giảm giá bán xăng và dầu hỏa, bảo
đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người sử dụng, tăng cường công tác
thu ngân sách để bảo đảm nhiệm vụ được giao, kết hợp với việc rà soát nợ đọng thuế,
chống thất thu, tiếp tục rà soát lại chi ngân sách, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương cắt
giảm, đình hoãn các dự án đầu tư chưa thực sự cấp bách và dự án đầu tư không có hiệu
quả, không tăng chi ngoài dự toán, dành nguồn kinh phí cho bảo đảm an sinh xã hội, xem
xét điều chỉnh giảm mức thuế xuất khẩu, nhập khẩu nhằm bình ổn thị trường, hạn chế nhập

Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 21/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
siêu...
Theo bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong năm 2008 Nhà nước đã cam kết cắt giảm 2.700
tỉ đồng chi thường xuyên (bao gồm quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, đảng…), và
5.992 tỉ đồng (tương ứng 8% kế hoạch năm) chi cho đầu tư phát triển (bao gồm các công
trình cơ sở hạ tầng…). Hai khoản cắt giảm trong chi tiêu công nêu trên được các bộ,
ngành, uỷ ban nhân dân các tỉnh cam kết thực hiện vào tháng 7 vừa qua nhằm kiềm chế
lạm phát.
Tuy nhiên, theo báo cáo mới công bố của tổng cục Thống kê, tổng chi ngân sách
nhà nước năm 2008 tăng tới 22,3% so với năm 2007 và bằng 118,9% dự toán năm. Trong
số đó, chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên vượt dự toán tương ứng ở mức 118,3% và
113,3%.Như vậy, rõ ràng là chính sách tài khoá đã không được thực hiện nghiêm túc như
cam kết ban đầu, nhất là trong nhóm tám giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát.
2.2.3. Giai đoạn từ năm 2009 đến nay
Chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới , kinh tế trong nước đang đối
mặt với nhiều khó khăn. Thị trường xuất khẩu và đầu tư thế giới giảm sút đột ngột, nền
kinh tế Việt Nam đã lập tức rơi vào suy giảm, từ mức tăng trưởng trên 7% (năm 2008)
xuống còn 3,1% vào quý I-2009. Giá một số mặt hàng xuất khẩu chính giảm mạnh, như giá
gạo trong tháng 10-2009 giảm tới 20%, cà phê giảm tới 34,5%, cao su giảm gần 50%...
Trước tình hình đó, Chính phủ đã thực hiện các biện pháp điều hành quyết liệt
nhằm chặn đà suy giảm kinh tế, ổn định vĩ mô và hướng tới tăng trưởng bền vững. Một
trong những giải pháp chủ yếu là Chính sách tài khóa mở rộng, gồm các gói kích cầu. Gói
kích cầu thứ nhất đã được triển khai nhằm hỗ trợ lãi suất khoảng 17.000 tỉ đồng, gói kích
cầu thứ hai, với tổng nguồn vốn khoảng 8 tỉ USD, hỗ trợ lãi suất trong trung và dài hạn
nhằm kích cầu đầu tư, phát triển sản xuất.
Từ cuối năm 2008, Nhiều chính sách thuế mới nhằm thực hiện chủ trương kích cầu,
giảm khó khăn cho doanh nghiệp (DN) theo Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày

11/12/2008 của Chính phủ về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế,
duy trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội đã được triển khai thực hiện.
Những chính sách thuế trên là đòn bẩy thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng. Nếu như trước
đây DN phải thực hiện nghĩa vụ thuế ngay khi phát sinh thu nhập, thì giờ đây, chủ trương
của Chính phủ giảm 30% thuế thu nhập DN trong quý 4/2008 và cả năm 2009, giãn nộp
thuế thu nhập DN trong thời gian 9 tháng đối với các DN nhỏ và vừa và các DN trong một
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 22/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
số ngành nghề đã góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn cho nhiều DN. Mặc dù chính sách
này không trực tiếp giải quyết được vấn đề cơ bản của DN là thiếu đầu ra cho sản phẩm
nhưng đây vẫn là một chính sách được cộng đồng doanh nghiệp hoan nghênh vì nhờ nó
DN giảm được chi phí. Việc giảm 50% thuế giá trị gia tăng đối với 19 nhóm mặt hàng
thuộc các ngành hàng mà trước đây có thuế suất là 10% đã tác động trực tiếp đối với DN
để phục vụ cho việc giảm giá hàng bán, giúp kích cầu tiêu dùng trong bối cảnh suy giảm
kinh tế hiện nay.
Cùng với đó, đối tượng được tạm hoàn thuế giá trị gia tăng là các tổ chức sản xuất,
kinh doanh hàng hóa xuất khẩu có hàng hóa đang trong thời gian chưa được phía nước
ngoài thanh toán qua ngân hàng theo hợp đồng. Ngoài ra, các đối tượng DN khác, nếu cơ
quan thuế xác định đủ điều kiện được hoàn thuế thì vẫn được giải quyết, không cần chờ
kiểm tra, xác minh rồi mới hoàn thuế như thông lệ.
Ngoài ra, chính sách giãn và miễn nộp thuế thu nhập cá nhân đối với một số loại thu
nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công, từ bản quyền, chuyển nhượng thương mại, đầu
tư vốn, thừa kế và quà tặng, được các nhà chính sách đánh giá sẽ giúp tăng thu nhập khả
dụng, nhờ đó tăng chi tiêu của người tiêu dùng.
Việc thực hiện một cách linh hoạt và đồng bộ các chính sách tài khóa và các chính
sách vĩ mô khác đã giúp nền kinh tế Việt Nam vượt qua khủng hoảng và tốc độ tăng
trưởng kinh tế năm 2009 đạt 5,3%, tỷ lệ lạm phát đã giảm còn 6,88% (từ 23% năm 2008),
thị trường chứng khoán và các hoạt động dịch vụ tài chính, ngân hàng được phục hồi từng

bước.
Năm 2010, kinh tế nước ta đã khắc phục được đà suy thoái nhưng vẫn tiềm ẩn
nhiều yếu tố gây bất ổn vĩ mô. Yếu tố bất ổn dễ nhận thấy nhất là nguy cơ lạm phát cao
quay trở lại do độ trễ của lượng cung tiền khá lớn được Nhà nước bơm vào thị trường
trong các năm 2008 - 2009 để thực hiện các giải pháp phục hồi tăng trưởng kinh tế. Tiếp
đến là nguy cơ thâm hụt cán cân thanh toán, mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là
do tình trạng nhập siêu. Trong năm 2008, quy mô nhập siêu của nước ta lên tới 17,5 tỉ
USD, và năm 2009 nhập siêu khoảng 12 tỉ USD. Cùng với nguy cơ tái lạm phát cao, nếu tỷ
lệ nhập siêu tiếp tục tăng cao trong năm nay sẽ dẫn đến tình trạng lạm phát kép, tức là vừa
lạm phát trong nước, vừa nhập khẩu lạm phát. Một rủi ro tiềm ẩn khác trong chính sách
tiền tệ là tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại tại thời điểm này đang được cho
là có vấn đề, do các ngân hàng thương mại có thể chạy đua nâng cao lãi suất để huy động
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 23/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
vốn.
Vì vậy, trong thời gian tới, Chính phủ thực hiện 6 nhóm giải pháp đồng bộ cùng với
gói kích cầu thứ hai để nâng cao hiệu quả đầu tư, trong đó, tập trung vốn đầu tư cho phát
triển các dự án, công trình có hiệu quả, có khả năng hoàn thành đưa vào sử dụng sớm trong
năm 2010 - 2011, thay vì mở rộng đầu tư trong bối cảnh khan hiếm vốn, tỷ lệ vốn đầu tư
trên GDP cao và hệ số ICOR cao. Để thực hiện tốt các mục tiêu này, cần chọn lọc hơn khi
triển khai gói kích thích kinh tế bổ sung, chỉ ưu tiên hỗ trợ những ngành, lĩnh vực trực tiếp
sản xuất tiêu thụ trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Ngoài ra, gói kích thích kinh tế bổ
sung đặt trọng tâm vào chính sách tài khóa (chính sách thuế, tài chính, ngân sách...) và cải
cách hành chính nhằm làm cho chính sách dễ đi vào hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
2.3. Chính sách tiền tệ
2.3.1. Tính chuyển đổi của đồng tiền
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế ( IMF), đồng tiền tự do chuyển đổi là đồng tiền của một

nước hội viên mà IMF nhận thấy đồng tiền đó được sử dụng rộng rãi để thanh toán các
giao dịch quốc tế và được mua bán rộng rãi trên thị trường ngoại hối chủ chốt.
Có nghĩa là đồng tiền đó phải được chấp nhận ở trong nước và trên phạm vi quốc
tế. Theo đó, đồng tiền tự do chuyển đổi gắn chặt với sức mạnh nền kinh tế, đó phải là nền
kinh tế có sức cạnh tranh cao và có tính ổn định kinh tế vĩ mô bền vững.
Mặt khác, để tự do chuyển đổi, trước hết đồng tiền đó phải có tính chuyển đổi, có
nghĩa là đồng tiền đó có thể được chuyển đổi sang ngoại tệ mà không có bất kỳ hạn chế
nào.
Biểu đồ 1: Diễn biến tỷ giá USD/VND giai đoạn 1/2009 – 6/2010
Đối với Việt Nam, nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam (VND) là mục tiêu
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 24/89
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam –
GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
đã được khẳng định trong Pháp lệnh ngoại hối và hướng tới đồng tiền tự do chuyển đổi
hoàn toàn là một mục tiêu mong muốn
Pháp lệnh ngoại hối ban hành năm 2005 là cơ sở pháp lý rất thông thoáng cho tính
chuyển đổi của VND. Tháng 11/2005, IMF chính thức công nhận Việt Nam đã thực hiện
tự do hóa giao dịch vãng lai, có nghĩa là VND đã được chuyển đổi tự do trong các giao
dịch vãng lai, còn giao dịch vốn chưa được tự do hoàn toàn, nhưng những hạn chế là
không nhiều. Hiện nay, trong giao dịch vốn chỉ còn hạn chế về dòng vốn đầu tư gián tiếp,
bên cạnh đó là một số hạn chế về đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, xét trên nhiều khía cạnh
thì tính chuyển đổi của VND còn thấp, bởi các lý do cơ bản sau:
− Thứ nhất, nền kinh tế còn một số bất cập. Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam hiện
nay cho thấy, trong thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi
nhận trong phát triển kinh tế, đặc biệt là nhanh chóng vượt qua thời kỳ bất lợi của
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Cụ thể, tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm
2010 tương đối khả quan, đạt mức trên 6% (Quý I, GDP tăng trưởng 5,82%, quý II
tăng gần 6,4%); lạm phát được kiểm soát ở mức mong muốn và tương đối ổn định
trong 3 tháng gần đây (tháng 3, CPI tăng 0,75%, tháng 4 tăng 0,14%, tháng 5 tăng

0,27%, tháng 6 tăng 0,22%); đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh, tháng 6, FDI
tăng 900 triệu USD, nâng mức vốn FDI 6 tháng lên 5,4 tỷ USD, tăng 6% so với
cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, theo đánh giá của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế
Trung ương, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chủ yếu vẫn theo chiều rộng, chất
lượng tăng trưởng chưa cao, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp so với thế
giới. Báo cáo đánh giá năng lực cạnh tranh tại Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2010
cho thấy, xếp năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm 2009 – 2010 đứng thứ 75/133
( năm 2008 – 2009 đứng thứ 70/132). Có sự mất cân đối kinh tế vĩ mô như thâm hụt
lớn giữa tiết kiệm và đầu tư, vấn đề nợ công ngày càng tăng, tiềm ẩn nguy cơ lạm
phát.
− Thứ hai, thị trường tài chính tiềm ẩn một số nhân tố bất ổn. Khủng hoảng tài chính
toàn cầu và những bất cập của nền kinh tế Việt Nam được biểu hiện rõ nét trong
năm 2008 – 2009 vừa qua (lạm phát cao, thâm hụt thương mại lớn, đầu tư nước
ngoài giảm…), cùng với hệ lụy của các giải pháp, chính sách chống suy giảm kinh
tế đã gây nên những hạn chế nhất định đến mức độ chuyển đổi của VND, đó là gây
sự ép giảm giá VND, gây khan hiếm ngoại tệ, nhu cầu thanh toán ngoại tệ của
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9
Trang 25/89

×